1
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi.
Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng,
được trích dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của luận văn
này.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
2
MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU
1
CHƯƠNG I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUYỀN BẦU
CỬ
7
1.1 Những vấn đề lý luận chung về quyền bầu cử
7
1.1.1 Khái niệm, bản chất quyền bầu cử
7
1.1.2 Nội dung quyền bầu cử
10
1.2 Sơ lược về sự phát triển các quy định của pháp luật quốc tế, pháp luật
của một số quốc gia và Việt Nam về quyền bầu cử
16
1.2.1 Pháp luật quốc tế về quyền bầu cử
16
1.2.2 Pháp luật một số quốc gia về quyền bầu cử
20
1.2.3 Lịch sử hình thành và phát triển của quyền bầu cử ở nước ta qua
các bản Hiến pháp
25
KẾT LUẬN CHƯƠNG I
35
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN
BẦU CỬ CỦA CÔNG DÂN THEO HIẾN PHÁP 2013
37
2.1 Thực trạng quy định của pháp luật về quyền bầu cử của công dân 37
2.1.1 Quy định về quyền bầu cử của công dân trong Hiến pháp 2013 37
2.1.2 Quy định về quyền bầu cử của công dân trong Luật Bầu cử đại
biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2015
42
2.1.3 Quy định về quyền bầu cử của công dân trong các văn bản quy
phạm pháp luật khác
45
3
2.2 Tồn tại, hạn chế trong những quy định của pháp luật về quyền bầu
cử của công dân
50
2.2.1. Quyền bầu cử của công dân vào Quốc hội, HĐND
51
2.2.2. Quyền ứng cử của công dân vào Quốc hội, HĐND
52
2.2.3. Hiệp thương giới thiệu người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu
HĐND
55
2.2.4. Hội đồng bầu cử quốc gia
58
2.2.5. Tội phạm xâm phạm quyền bầu cử
60
2.2.6. Những vấn đề bất cập khác
61
KẾT LUẬN CHƯƠNG II
64
CHƯƠNG III. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA
PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN BẦU CỬ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
65
3.1 Yêu cầu đặt ra đối với việc hoàn thiện quy định của pháp luật về
quyền bầu cử
65
3.2 Một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về quyền
bầu cử
67
3.2.1 Hoàn thiện quy định về quyền bầu cử của công dân vào Quốc hội,
HĐND
67
3.2.2 Hoàn thiện quy định về quyền ứng cử của công dân vào Quốc hội,
HĐND
68
3.2.3 Hoàn thiện các quy định pháp luật khác
70
KẾT LUẬN CHƯƠNG III
77
KẾT LUẬN
78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
4
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa (CHXHCN) Việt
Nam đang ra sức thực hiện công cuộc đổi mới, hội nhập với quốc tế nhằm xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Quốc hội Việt Nam đã và đang
nỗ lực, cố gắng hết mình để xây dựng một hệ thống pháp luật đồng bộ, thống
nhất, khả thi, công khai, minh bạch, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; đổi mới căn
bản cơ chế xây dựng và thực hiện pháp luật; phát huy vai trò và hiệu lực của
pháp luật để góp phần quản lý xã hội, giữ vững ổn định chính trị, phát triển
kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, thực
hiện quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân, góp phần đưa nước
ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Thành tựu
đầu tiên có thể kể đến là sự ra đời của bản Hiến pháp mới – Hiến pháp năm
2013. Ngày 28 tháng 11 năm 2013, sau nhiều ngày thảo luận, thống nhất ý
kiến, trong không khí trang nghiêm và thể hiện sự đồng thuận cao, với đa số
tuyệt đối 486/498, chiếm 97,59% Quốc hội Khóa XIII, Kỳ họp thứ VI đã
thông qua Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Đây là sự kiện chính trị - pháp lý đặc biệt quan trọng đánh dấu một cột mốc
mới trong lịch sử lập hiến Việt Nam. Dựa trên tinh thần của Hiến pháp năm
2013, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại
biểu Hội đồng nhân dân, có hiệu lực từ ngày 01/9/2015. Những điểm mới của
Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2015 đã
phát huy hiệu quả, tạo cơ sở pháp lý cho việc tổ chức thực hiện bầu cử, khắc
phục được những hạn chế, bất cập liên quan đến quy trình, thủ tục trong bầu
cử. Cuộc bầu cử ĐBQH khoá XIV và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016
- 2021 bảo đảm tính dân chủ, bình đẳng, đúng pháp luật, an toàn, tiết kiệm và
thực sự là ngày hội lớn của toàn dân. Thành công của cuộc bầu cử thể hiện ở
số lượng cử tri đi bầu đạt tỷ lệ rất cao, khẳng định ý thức chính trị, trách
1
nhiệm công dân và lòng yêu nước của Nhân dân ta, thể hiện niềm tin của
Nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, sự điều hành quản lý của Nhà nước.
Bên cạnh những thành tựu to lớn đã đạt được, cũng cần phải thẳng thắn
nhìn nhận rằng, pháp luật về quyền bầu cử của công dân còn tồn tại nhiều hạn
chế cần kịp thời khắc phục. Các cuộc bầu cử hiện nay vẫn mang nặng tính
hình thức, công dân không được thực hiện một cách thực sự quyền bầu cử,
quyền ứng cử của mình mà chủ yếu theo cơ chế “Đảng cử, dân bầu”. Điều
này đã và đang khiến cho việc thực hiện quyền bầu cử, quyền ứng cử của
công dân còn hời hợt, làm cho có, thờ ơ với kết quả bầu cử.
Thực tế hiện nay cho thấy, hiệu quả hoạt động của Quốc hội và Hội
đồng nhân dân các cấp không cao, chất lượng chuyên môn và đạo đức của
người đại biểu còn thấp, vẫn còn tình trạng hoạt động một cách hình thức,
thiếu trách nhiệm. Nhà nước ta vẫn còn biểu hiện của quan liêu, tham nhũng,
tha hóa quyền lực, bộ máy nhà nước hoạt động kém hiệu quả, chưa thực sự
đáp ứng được nguyện vọng của nhân dân. Trước thực trạng đó, đặt ra yêu cầu
cấp thiết phải làm sao phát huy được tối đa sức mạnh của nhân dân trong xây
dựng đất nước nói chung và thực hiện quyền bầu cử, quyền ứng cử nói riêng.
Trên cơ sở đó, vấn đề hoàn thiện pháp luật về quyền bầu cử, quyền ứng
cử của công dân ở Việt Nam hiện nay là vấn đề rất quan trọng, cả về mặt lý
luận lẫn thực tiễn. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề, là một công
dân Việt Nam, tôi đã lựa chọn đề tài “Quy định của pháp luật về quyền bầu
cử của công dân theo Hiến pháp năm 2013” làm luận văn thạc sỹ luật học,
chuyên ngành luật Hiến pháp và luật Hành chính
2. Tình hình nghiên cứu
Ở Việt Nam hiện nay, nghiên cứu về pháp luật quyền bầu cử của công
dân theo Hiến pháp 2013 là vấn đề chỉ đặt ra khi Hiến pháp 2013 được ban
hành và đặc biệt là sau khi Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội
đồng nhân dân được ra đời. Bởi vậy, số lượng các công trình nghiên cứu về
2
lĩnh vực này là không nhiều. Có thể kể đến một vài công trình nghiên cứu như
sau:
- Sách chuyên khảo: Viện chính sách công và pháp luật, Bình luận khoa
học Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013; Nhà
xuất bản Lao động – xã hội, năm 2014.
- Luận văn thạc sỹ luật học: Nguyễn Thị Ngọc Nga, Chế định Hội đồng
Bầu cử quốc gia theo Hiến pháp Việt Nam năm 2013; Đại học Luật Hà Nội,
năm 2016.
Một số công trình nghiên cứu trước khi Hiến pháp 2013 ra đời nhưng
vẫn có giá trị lý luận hết sức to lớn có thể kể tới như:
- Kỷ yếu Hội thảo khoa học: Khoa hành chính – nhà nước, Đại học
Luật Hà Nội, Chế độ bầu cử và vấn đề dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
hiện nay; Hà Nội, ngày 29 tháng 04 năm 2011.
- Luận văn thạc sỹ luật học: Phạm Hồng Diên, Hoàn thiện pháp luật về
quyền bầu cử của công dân ở Việt Nam hiện nay; Đại học Luật Hà Nội, năm
2011.
Các công trình nghiên cứu trên nhìn chung đã cung cấp một khối lượng
kiến thức phong phú về các vấn đề lý luận về quy định của pháp luật về quyền
bầu cử, đưa ra những nhận định về thực tiễn thi hành cũng như những điểm
hạn chế của pháp luật trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, chưa có một công trình
nào nghiên cứu riêng biệt và chuyên sâu về pháp luật về quyền bầu cử của
công dân theo Hiến pháp năm 2013. Luận văn sẽ kế thừa các kết quả nghiên
cứu của các công trình trên đây như một thành tựu của nghiên cứu khoa học
và sử dụng để giải quyết các vấn đề trong luận văn. Vấn đề nghiên cứu mà
luận văn hướng tới là vấn đề mới, cần thiết, không trùng lặp với các công
trình khoa học đã được công bố.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
3
Đối tượng nghiên cứu: Để làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu, đối tượng
nghiên cứu của luận văn là các nội dung về lý luận và thực tiễn pháp luật về
quyền bầu cử của công dân ở Việt Nam theo Hiến pháp 2013, và từ đó đưa ra
quan điểm, giải pháp xây dựng và hoàn thiện pháp luật bầu cử ở nước ta.
Phạm vi nghiên cứu:
Về không gian, trong khuôn khổ của một Luận văn, xin phép được tập
trung nghiên cứu nội dung của pháp luật Việt Nam về quyền bầu cử của công
dân. Bên cạnh đó, luận văn cũng nghiên cứu một số quy định về pháp luật bầu
cử của quốc tế và các quốc gia tiên tiến trên thế giới để rút ra bài học kinh
nghiệm và những sáng kiến hay cho việc hoàn thiện pháp luật về quyền bầu
cử của công dân ở Việt Nam.
Về thời gian, luận văn nghiên cứu các văn bản pháp luật quy định về
quyền bầu cử của công dân trước và sau khi Hiến pháp 2013 ra đời và các quy
định này trong Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân
2015 cũng như các đạo luật có liên quan.
4. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn
Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ các quy định của pháp
luật về quyền bầu cử của công dân dựa trên Hiến pháp 2013, từ đó rút ra được
những bước đi tiến bộ của pháp luật hiện hành so với trước đây về quyền bầu
cử của công dân, đồng thời đánh giá mức độ, hiệu quả các nội dung quy định
của pháp luật bầu cử theo Hiến pháp 2013 và đưa ra các giải pháp bổ sung,
hoàn thiện pháp luật về quyền bầu cử.
5. Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, luận văn sẽ tìm hiểu các nội dung
liên quan thông qua trả lời các câu hỏi sau:
- Cơ sở lý luận, bao gồm khái niệm, vai trò, ý nghĩa của quyền bẩu cử
và quyền ứng cử là gì?
4
- Sự phát triển của pháp luật về quyền bầu cử của công dân, thực tiễn
áp dụng trong thời gian qua?
- Thực trạng pháp luật về quyền bầu cử của công dân ở nước CHXHCN
Việt Nam trong thời gian qua?
- Quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền bầu cử của
công dân theo Hiến pháp 2013?
6. Các phương pháp nghiên cứu áp dụng để thực hiện luận văn
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận khoa học là chủ
nghĩa Mác – Leenin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng
sản Việt Nam về nhà nước và pháp luận. Ngoài ra tác giả cũng sử dụng các
phương pháp nghiên cứu khác để thực hiện Luận văn như phương pháp phân
tích – tổng hợp, so sánh, thống kê, diễn giải, quy nạp,... nhằm làm sáng tỏ vấn
đề nghiên cứu.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Luận văn nghiên cứu về quy định của pháp luật về quyền bầu cử của
công dân theo Hiến pháp năm 2013, tác giả luận văn mong muốn có thể đóng
góp một số vấn đề khoa học và thực tiễn cụ thể như sau:
Thứ nhất, luận văn chứa đựng các nghiên cứu, tìm hiểu, đúc kết các vấn
đề lý luận của khoa học luật hiến pháp trên thế giới về quyền bầu cử của công
dân trong thời đại ngày nay.
Thứ hai, luận văn thể hiện các nghiên cứu, nhận xét, đánh giá của tác
giả về thiết chế bầu cử ở Việt Nam cũng như pháp luật về quyền bầu cử của
công dân ở nước ta theo Hiến pháp 2013.
Thứ ba, trên cơ sở các định hướng được đề ra khi xây dựng pháp luật
về quyền bầu cử của công dân và lý luận về quyền này trong thời đại ngày
nay, luận văn đưa ra các đánh giá về pháp luật về quyền bầu cử của công dân
theo Hiến pháp 2013 và đưa ra các giải pháp để hoàn thiện pháp luật trong
lĩnh vực này.
5
8. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn được cấu trúc làm ba chương gồm:
Chương I: Một số vấn đề lý luận cơ bản về quyền bầu cử
Chương II: Thực trạng quy định của pháp luật về quyền bầu cử của
công dân theo Hiến pháp 2013
Chương III: Một số kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật về
quyền bầu cử ở nước ta hiện nay
6
NỘI DUNG
CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUYỀN BẦU CỬ
1.1.
Những vấn đề lý luận chung về quyền bầu cử
1.1.1 Khái niệm, bản chất quyền bầu cử
* Khái niệm
Khi các giai cấp xuất hiện, nhà nước hình thành với tư cách là một thiết
chế tựa hồ đứng trên xã hội có chức năng điều hòa những mâu thuẫn, duy trì
sự tồn tại và phát triển của xã hội. Xã hội ngày càng phát triển, nhân dân ngày
càng nhận thức rõ hơn về vị trí của mình trong xã hội và đòi hỏi phải được
tham gia giải quyết các công việc của nhà nước. Sự tham gia của người dân
được thể hiện dưới hai hình thức: dân chủ trực tiếp và dân chủ gián tiếp.
Đối với hình thức dân chủ trực tiếp là việc nhân dân trực tiếp tham gia
vào các quyết định của nhà nước, thông qua các hình thức cụ thể như: tham
gia quản lý nhà nước và xã hội, biểu quyết khi nhà nước trưng cầu ý dân, bầu
ra cơ quan đại diện của nhân dân... Còn với hình thức dân chủ gián tiếp, mà
biểu hiện là dân chủ đại diện được áp dụng rộng rãi, theo lý thuyết đại diện
của Locke hay Montesquieu, quyền lực nhà nước theo nguyên tắc, thuộc về
nhân dân nhưng nhân dân không thể tự mình thực thi hết quyền lực của mình
nên phải ủy thác cho những người đại diện để thay mặt nhân dân thực hiện
quyền lực của mình. Trong chế độ dân chủ đại diện, nhân dân thực hiện quyền
lực của mình qua khâu trung gian của những đại diện được lựa chọn bằng
phương pháp bầu cử. Với tầm quan trọng như vậy, bầu cử trở thành một yếu
tố không thể thiếu được trong chế độ xã hội dân chủ đương đại, góp phần
không nhỏ cho việc xây dựng chế độ xã hội. Các hoạt động bầu cử được hình
thành dần thành chế độ bầu cử, một phần của chế độ xã hội.
Lịch sử đã ghi nhận rằng ngay từ thời chiếm hữu nô lệ, các cuộc bầu cử
các cơ quan nhà nước đã được diễn ra, điển hình là Viện nguyên lão bao gồm
7
những người được bầu ra đại diện cho giai cấp chủ nô quý tộc và Đại hội
nhân dân bao gồm đại diện của những người cầm vũ khí. Đến thời kỳ phong
kiến, mặc dù quyền bầu cử bị hạn chế với những điều kiện về giai cấp, giới
tính... nhưng vẫn được áp dụng ở những nước theo chính thể cộng hòa.
Khi giai cấp tư sản lên nắm chính quyền, quyền bầu cử của công dân có
một bước phát triển quan trọng. So với chế độ chiếm hữu nô lệ và chế độ
phong kiến trước đây, việc áp dụng phương pháp bầu cử để thành lập ra các
cơ quan nhà nước của chế độ tư sản là một phương pháp dân chủ. Phương
pháp này khác biệt hoàn toàn với hình thức truyền ngôi, thế tập của giai cấp
phong kiến. Nhân loại đã phải trải qua cuộc đấu tranh bền bỉ qua các thế hệ để
giành được quyền bầu cử. Lúc ban đầu bầu cử chỉ là công việc của những
người thuộc tầng lớp thượng lưu của giai cấp thống trị. Sau đó, bầu cử là của
những người có của, những người đàn ông. Quyền bầu cử phổ thông cho
người nghèo, cho phụ nữ cũng như của toàn thể nhân dân là kết quả của các
thế kỷ đấu tranh chính trị toàn dân(1).
Bầu cử là một hoạt động xã hội của con người mà theo đó một nhóm
người xác định bầu ra một hay nhiều người để đại diện cho nhóm người xác
định đó để thực hiện chức năng xã hội cụ thể.
Chế độ bầu cử là chế độ của sự hình thành bằng tổng thể các mối quan
hệ xảy ra qua các cuộc bầu cử từ lúc lập danh sách cử tri, giới thiệu ứng cử
viên cho đến giai đoạn cuối cùng là xác định và tuyên bố kết quả bầu cử. Hay
nói một cách cụ thể hơn, chế độ bầu cử là tổng thể các quy định của pháp luật
của một nước bao gồm các nguyên tắc bầu cử, các quy định về quyền bầu cử,
quyền ứng cử, vận động tranh cử, đơn vị bầu cử, các tổ chức phụ trách bầu
cử, việc quản lý bầu cử, cách thức, trình tự tiến hành bầu cử, các biện pháp
đảm bảo trật tự bầu cử, điều chỉnh các quan hệ xã hội trong quá trình bầu cử.
Khái niệm bầu cử trong pháp luật được dùng chủ yếu cho quyền bầu
cử. Quyền bầu cử là quyền năng chính trị cơ bản của công dân được trực tiếp
1
Văn phòng Quốc hội (2002), Tổ chức và hoạt động của Quốc hội một số nước, tr.241
8
tham gia bỏ phiếu bầu ra những người có uy tín, xứng đáng đại diện cho nhân
dân, thay nhân dân quản lý và điều hành công việc của đất nước. Quyền bầu
cử là quy định của pháp luật về khả năng của công dân thực hiện quyền lựa
chọn người đại biểu của mình, được Nhà nước đảm bảo. Quyền bầu cử chỉ
thực sự có ý nghĩa nếu được tiến hành dân chủ, không áp đặt, không hình
thức, không giả dối. Quyền bầu cử bao gồm quyền bầu cử chủ động và quyền
bầu cử bị động (quyền ứng cử). Đôi khi quyền bầu cử có thể được hiểu theo
nghĩa mở rộng, bao gồm cả quyền bầu cử thụ động (quyền có thể được bầu).
Quyền bầu cử chủ động là quyền được sử dụng trong các cuộc bầu cử
các cơ quan dân cử ở trung ương hay địa phương, các chức danh nhà nước,
trong các cuộc trưng cầu ý dân hay thủ tục bãi miễn đại biểu.
Quyền ứng cử là quy định của pháp luật về việc công dân có đủ điều
kiện thể hiện nguyện vọng của mình được ứng cử vào các cơ quan quyền lực
ở trung ương hay địa phương.
* Bản chất
Trong cuốn Chính trị, Aristotle viết rằng, sự tham gia của toàn thể công
dân vào quá trình hình thành quyết định của đất nước sẽ ưu việt hơn nhiều so
với những quyết định chỉ do các chuyên gia đưa ra. Như vậy, làm thế nào để
có những quyết định thể hiện ý chí của toàn thể nhân dân? Phương thức phổ
biến nhất là bầu ra những người đại diện cho toàn thể nhân dân và trao quyền
cho họ. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Nhân dân rất thông minh. Họ biết
dùng lá phiếu của họ, tổng tuyển cử sẽ thành công”. Bản chất của quyền bầu
cử chính là phương thức lựa chọn người làm đại biểu, thay mặt thực hiện
quyền lực nhà nước trong các xã hội dân chủ theo nguyên tắc tất cả quyền lực
nhà nước thuộc về nhân dân(2), bởi, nhân dân không thể tự mình đứng ra để
thực thi hết quyền lực của mình nên cần phải có những người đại diện thay
mặt nhân dân thực hiện quyền lực của nhân dân dựa trên ý chí của nhân dân.
Cụ thể, ở Việt Nam, công dân thực hiện quyền bầu cử để thành lập ra các cơ
Viện Khoa học Pháp lý, Bộ Tư pháp (2006), Từ điển Luật học, , Nxb. Tư pháp – Nxb. Từ điển bách khoa,
tr.52
2
9
quan đại diện quyền lực nhà nước gồm Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp
và các chức danh cao nhất của bộ máy nhà nước ở trung ương. Bằng những lá
phiếu bầu thể hiện ý chí của mình, nhân dân đã chuyển giao quyền lực của
mình sang cho người đại diện, đây là cách thức cơ bản nhất để nhân dân tham
gia vào việc xây dựng chính quyền, là cơ chế chuyển giao quyền lực hợp pháp
của nhân dân cho hệ thống cơ quan đại diện theo quy định của pháp luật.
1.1.2. Nội dung quyền bầu cử
* Nội dung
Quyền bầu cử là quyền năng chính trị cơ bản của công dân được trực
tiếp tham gia bỏ phiếu bầu ra những người có uy tín, xứng đáng đại diện cho
nhân dân, thay nhân dân quản lý và điều hành công việc đất nước. Quyền bầu
cử là quy định của pháp luật về khả năng của công dân thực hiện quyền lựa
chọn và quyền bỏ phiếu cho ứng cử viên để tìm ra người đại biểu của mình,
được Nhà nước đảm bảo. Quyền bầu cử chỉ thực sự có ý nghĩa nếu được tiến
hành dân chủ, không áp đặt, không hình thức, giả dối.
Quyền bầu cử là thiêng liêng đối với mọi công dân. Với tính chất quan
trọng, quyền bầu cử chỉ được quy định cho những người phát triển bình
thường về mặt thần kinh, đạt đến độ chín chắn của sự phát triển tâm sinh lý
nhằm bảo đảm cho họ có sự lựa chọn chính xác và độc lập.
Việc bảo đảm quyền bầu cử là biểu hiện cụ thể của nguyên tắc bầu cử
phổ thông và nó phải được thể hiện: Thứ nhất, pháp luật bầu cử cần mở rộng
đến mọi đối tượng, việc hạn chế quyền bầu cử phải được qui định chặt chẽ, rõ
ràng trong pháp luật, tốt nhất là qui định trong các đạo luật về bầu cử. Thứ
hai, nhà nước phải có các biện pháp cần thiết, có hiệu quả để thực hiện quyền
bầu cử. Đây là một nội dung quan trọng bởi nếu không như vậy, rất có thể
quyền bầu cử của công dân, vì nhiều lý do không được thực hiện, hoặc không
có khả năng thực hiện trong các kỳ bầu cử.
Quyền ứng cử là là một trong những quyền chính trị cơ bản của công
dân được quy định trong pháp luật của nhà nước, tạo cơ sở pháp lý cho công
10
dân trực tiếp tham gia xây dựng chính quyền, xây dựng nhà nước của nhân
dân. Quyền ứng cử của công dân là mong muốn được làm đại biểu và khả
năng có thể được bầu làm đại biểu của công dân. Quyền ứng cử gồm quyền
được đề cử, quyền tự ứng cử và quyền vận động tranh cử. Ứng cử là việc tự
mình đăng ký, hoặc được người khác (bao gồm cá nhân người khác, cơ quan,
tổ chức…) giới thiệu để ghi tên và danh sách bầu, chọn một vị trí, một danh
hiệu nào đó, ví dụ ứng cử vào danh sách để bầu, chọn giám đốc; ứng cử vào
danh sách bầu, chọn chiến sĩ thi đua…; ứng cử vào danh sách bầu đại biểu
Quốc hội… Như vậy, có hai trường hợp ứng cử, đó là tự ứng cử và được giới
thiệu ứng cử.
Việc trả lời câu hỏi “Nhân dân bầu ai?” là một nội dung quan trọng của
chế độ bầu cử. Hãy liên hệ tới một kỳ thi: bản thân cuộc thi không tạo ra học
sinh giỏi, mà nó chỉ lựa chọn người giói trong số những người thi. Do đó, dù
kỳ thi được tổ chức bài bản, chấm thi chặt chẽ, chuẩn xác, cũng không thể
tuyển được học sinh giỏi nếu không có hoặc rất ít người giỏi trong số thí sinh
dự thi. Do vậy, việc tạo ra cơ chế, biện pháp đúng đắn, hợp lý để “lôi kéo”
học sinh giỏi dự thi là rất quan trọng, là tiền đề cho việc tuyển chọn học sinh
giỏi trong kỳ thi. Ý thức được tầm quan trọng của việc ứng cử, trong cuộc
Tổng tuyển cử đầu tiên ở nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh giải thích trên báo
Cứu quốc: “... hễ là người muốn lo cho việc nước thì đều có quyền ra ứng cử,
hễ là công dân thì đều có quyền đi bầu cử. Không chia trai gái, giầu nghèo,
tôn giáo, nòi giống, giai cấp, đảng phái, hễ là công dân Việt Nam thì đều có
hai quyền đó”. Bầu cử chẳng qua là một cuộc thi, trong đó các ứng cử viên là
thí sinh và cử tri là “Ban giám khảo”. Bầu cử không thể chọn được người hiền
tài nếu không có những người tài đức trong số các ứng cử viên. Do đó, nếu
giai đoạn đề cử và lựa chọn các ứng cử viên trong một kỳ bầu cử không đảm
bảo một cơ chế để “sơ tuyển” được những ứng cử viên tốt nhất thì không thể
nói cuộc bầu cử đó đã lựa chọn được những người xứng đáng nhất, bởi cử tri
chỉ lựa chọn những người trong danh sách ứng cử. Như vậy việc lựa chọn ứng
11
cử viên là tiền đề rất quan trọng trong việc đảm bảo chất lượng tuyển chọn
của cuộc bầu cử(3).
* Vai trò, ý nghĩa
Bằng quyền bầu cử của mình, nhân dân lựa chọn, thành lập ra cơ
quan đại diện và ủy thác, chuyển giao quyền lực của mình cho họ
Những người đại diện sẽ nhận quyền lực từ nhân dân và thay mặt nhân
dân để thực hiện quyền lực trong hoạt động của bộ máy nhà nước. Điều 38
Hiến pháp Cộng hòa liên bang Đức ghi nhận: “Các Nghị sĩ Quốc hội Liên
bang Đức đại diện cho toàn thể nhân dân, không bị ràng buộc bởi bất cứ mệnh
lệnh và chỉ thị nào, chỉ làm theo lương tâm của mình”. Điều 43 Hiến pháp
Nhật Bản ghi nhận rằng Nghị viện gồm những người được bầu ra để đại diện
cho dân tộc.
Ngay từ thế kỷ thứ XIX, Montesquieu đã khẳng định bầu cử là tiền đề
của một xã hội dân chủ. Theo ông, các luật quy định quyền phổ thông đầu
phiếu là luật cơ bản của chế độ dân chủ, luật đó cần phải quy định rõ ai đi
bầu, bầu ai và bầu trên cơ sở nào. Ông cũng khẳng định những người không
do dân bầu ra thì không phải là của dân, không hành động vì quyền lợi của
dân. Bầu cử là hành vi đơn giản, dễ thực hiện đối với công dân. Trong bầu cử,
nhà nước, các thiết chế chính trị, tổ chức dân sự không có các biện pháp để
động viên, tổ chức cho nhân dân thực hiện quyền chính trị quan trọng bậc
nhất, thì khó có thể nói rằng, trong các hoạt động chính trị khác, nhà nước có
thể dễ dàng “lôi kéo” và vận động nhân dân tham gia. Như vậy đó chưa phải
là nền dân chủ của nhân dân, nhà nước đó chưa thực sự là nhà nước “của dân,
do dân và vì dân”.
Quyền bầu cử phổ thông là quyền năng chính trị cơ bản của công dân
do Hiến pháp quy định và bảo đảm thực hiện. Thông qua bầu cử, nhân dân
trực tiếp thể hiện ý chí của mình trong việc chọn lựa người đại diện cho nhân
TS. Vũ Văn Nhiêm, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2011), Giáo trình Bầu cử trong nhà nước
pháp quyền, Nxb. Đại học Quốc gia TP HCM, tr.34 - 35
3
12
dân. Việc ban hành các chế định pháp luật nhằm hoàn thiện chế độ bầu cử và
bảo đảm việc thực hiện quyền bầu cử của công dân là một trong những chính
sách hàng đầu của bất kỳ nhà nước dân chủ nào.
Thông qua việc công dân thực hiện quyền bầu cử, cán cân quyền lực
của các chính đảng trong hệ thống chính trị được thiết lập và điều chỉnh lại
Chế độ bầu cử là một bộ phận cấu thành của chế độ chính trị của mỗi
quốc gia. Bầu cử quan trọng cả về thực tiễn và lý luận. Về lý luận, bầu cử hợp
pháp hóa hệ thống chính trị của quốc gia. Đây là cách thức tiến bộ nhất để
thành lập hoặc đổi mới chính quyền. Thực tiễn đời sống chính trị của nhiều
quốc gia hiện nay đã khẳng định trong một hệ thống chính trị dân chủ, không
gì thay thế được những cuộc bầu cử đại chúng để thành lập các cơ quan chính
quyền ở trung ương và địa phương. Về thực tiễn, bầu cử hình thành Nghị viện
thông qua việc quyết định bỏ lá phiếu cho các ứng cử viên của đảng phái nào,
các lá phiếu của cử tri sẽ quyết định đến số ghế của các đảng phái trong nghị
viện. Quyền uy của các đảng phái chính trị nâng lên hay hạ xuống thông qua
sự tín nhiệm của các cử tri trong các cuộc bầu cử. Bầu cử trở thành mục tiêu
quan trọng trong hoạt động của hầu hết các đảng phải chính trị, chỉ khi chiếm
được ghế đại biểu Nghị viện, các đảng chính trị mới có được địa vị pháp lý
được nhân dân thừa nhận.
Bầu cử Nghị viện là vũ đài đấu tranh chính trị, thể hiện quan điểm,
cương lĩnh và chương trình hành động của các đảng phái và các ứng cử viên.
Thông qua vận động tranh cử, các đảng phái chính trị đều đưa ra các chương
trình mục tiêu cho việc phát triển quốc gia. Kết quả bầu cử thể hiện khách
quan sự đánh giá của xã hội đối với đảng phái và từng ứng cử viên, thông qua
số phiếu bầu mà các đảng phái và ứng cử viên giành được. Kết quả bầu cử
cũng làm nổi bật lên xu thế chính trị của xã hội và tâm trạng của cử tri.
Thông qua quyền bầu cử của công dân đã xác lập nên mối quan hệ rõ
ràng và có trách nhiệm giữa người dân với người được ủy quyền
13
Trong mối quan hệ này, người dân là chủ thể có quyền yêu cầu người
đại diện của mình phải đứng về phía họ và bảo vệ quyền lợi của họ. Bầu cử
tạo ra những thiết chế đại diện. Tính đại diện nhân dân tạo nên vị trí đặc thù
của cơ quan đại diện. Chức năng đại diện cần được coi là trung tâm, quyết
định sự tồn tại và phát triển của các thiết chế đại diện, đúng như tên gọi của
nó. Đại diện là sứ mệnh của nghị viện hay quốc hội. Nếu chức năng đại diện
không được chú trọng thì các chức năng khác như chức năng lập pháp sẽ bị
ảnh hưởng thậm chí biến dạng, vì khi đó luật pháp có thể phản ánh không
đúng đắn ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Thực chất những thiết chế này tập
hợp, phản ánh ý chí, nguyện vọng của nhân dân, thông qau hoạt động của bộ
máy nhà nước để giải quyết những nhu cầu của họ. Suy cho cùng, cơ quan
dân cử với tính đại diện đa dạng cho những bộ phận trong xã hội, là những cơ
quan nhà nước có sứ mệnh hòa giải thông qua bàn luận, đối thoại, thậm chí
thỏa hiệp. Bởi vậy, bầu cử có ý nghĩa quyết định đối với việc hình thành trách
nhiệm và quyền hạn của người đại biểu. Về lý thuyết, các đại biểu do dân trực
tiếp bầu ra phải luôn ý thức về vai trò đại diện của mình và hoạt động nhằm
phục vụ quyền lợi của toàn thể nhân dân.
Thông qua quyền bầu cử, nhân dân tìm kiếm và lựa chọn một đường
lối lãnh đạo phù hợp với mong muốn của mình
Bất kỳ xã hội nào cũng đều tồn tại những mâu thuẫn, sự khác biệt về
địa vị kinh tế, chính kiến, tư tưởng, nhận thức... Mặt khác, trong mỗi xã hội
và mỗi nhà nước, không chỉ trong thời kỳ chiến tranh mà ngay cả thời bình
cũng luôn tồn tại những mâu thuẫn xã hội, những sự khác biệt về nhận thức,
về tư tưởng, về ý thức hệ... Những mâu thuẫn xã hội này về cơ bản không
mang tính đối kháng và có thể giải quyết bằng các phương pháp hòa bình
thông qua nguyên tắc tập trung dân chủ. Bầu cử dân chủ và trung thực là một
trong những các thức giải quyết xung đột bằng biện pháp hòa bình. Bầu cử
tạo điều kiện để cử tri thực hiện ý chí của mình, lựa chọn những người có đủ
năng lực, ủy quyền chọ họ thực hiện chủ quyền của nhân dân hay nói cách
khác là quyết định những vấn đề trong đại của đất nước. Sự lựa chọn của
14
nhân dân thể hiện thông qua việc đánh giá nhân cách, tài năng của các ứng cử
viên và đường lối chính trị mà chính bản thân ứng cử viên hay đảng phái của
họ xây dựng nên. Ứng cử viên và đảng phái nào có đường lối chính trị phù
hợp với xu thế, được lòng dân sẽ chiếm được niềm tin của nhân dân và chiếm
được lá phiếu của họ. Bầu cử chính là một hình thức trưng cầu dân ý đặc biệt
về đường lối, chủ trương, khả năng lãnh đạo của các đảng phái chính trị và
các ứng cử viên. Vì vậy, sự cạnh tranh lành mạnh giữa các đảng phái về
cương lĩnh cũng như chương trình hành động là rất cần thiết để tạo cơ hội cho
nhân dân thể hiện quan điểm và lựa chọn đường lối lãnh đạo phù hợp nhất với
đất nước.
Thông qua lá phiếu cử tri, nhân dân thực hiện quyền giám sát tối cao
của mình đối với sự vận hành của quyền lực trong bộ máy nhà nước
Tất cả quyền lực nhà nước, theo lý thuyết, thuộc về nhân dân, tuy
nhiên không phải lúc nào lý thuyết đấy cũng được thực hiện triệt để trên thực
tế. Dân chủ đại diện là cần thiết và đây là điều không cần bàn cãi. Thực chất,
đó là sự chuyển giao quyền lực nhân dân sang nhà nước. Tuy nhiên, cũng
chính trong việc chuyển giao quyền lực ấy lại phát sinh một hệ lụy mà nhân
dân không mong muốn, rằng tuy hình thành từ xã hội nhưng quyền lực nhà
nước lại có xu hướng tách ra khỏi xã hội và “tựa hồ như đứng trên xã hội”.
Nhân dân khi chuyển giao quyền lực của mình cho nhà nước, nhưng không
phải ở đâu, bao giờ, nhà nước cũng phản ánh ý chí, nguyện vọng của nhân
dân và không phải bao giờ, quyền lực nhà nước cũng được thực hiện trong
phạm vi, mức độ mà nhân dân trao cho. Do vậy, quyền lực nhà nước cần phải
được kiểm soát và giới hạn nhằm loại trừ một nghịch lý là quyền lực nhà
nước của nhân dân nhưng nó lại đe dọa chính nhân dân(4). Thực tế hiện nay,
sự lạm quyền và tha hóa quyền lực vẫn diễn ra ở rất nhiều quốc gia trên thế
giới. Trước tình trạng đó, bầu cử lại trở thành một phương thức hiệu quả để
ngăn chặn lạm quyền, giám sát và chế ngự quyền lực một cách hiệu quả. Bầu
cử không những góp phần xây dựng nền dân chủ đại diện mà còn bao hàm cả
Đỗ Minh Khôi (2006), Các cách thức chế ngự quyền lực nhà nước, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 1
(32)/2006, tr.47
4
15
quyền phế truất, bãi miễn những người đại diện khi họ không thực hiện đúng
sự cam kết với nhân dân cũng như đường lối chính trị đã vạch ra trong quá
trình tranh cử.
Thông qua quyền bầu cử của mình, nhân dân phản ánh sự quan tâm
của mình đối với đời sống chính trị của đất nước
Nhân dân là chủ thể nắm giữ quyền lực nhà nước trong tay, do vậy sự
quan tâm của nhân dân đối với hoạt động bầu cử là điều tất yếu, bởi thông qua
bầu cử, nhân dân lựa chọn cho mình người đại diện phù hợp nhất để thay
mình thực hiện quyền lực tối cao, từ đó xây dựng chính quyền trong sạch,
vững mạnh, có hiệu lực hiệu quả, bảo đảm cuộc sống tốt đẹp cho người dân.
Thông qua bầu cử, có thể nhận thấy được ý thức chính trị, trách nhiệm công
dân đối với việc xây dựng bộ máy nhà nước và cả niềm tin vào tương lai đất
nước. Ở những nước có nền dân chủ rộng rãi, niềm tin xã hội đối với bầu cử
rất cao thể hiện ở sự nô nức đi bỏ phiếu của công dân còn ngược lại ở những
quốc gia có sự tin cậy thấp, người dân tỏ thái độ thờ ơ, bàng quan đối với
quyền chính trị quan trọng nhất của mình.
1.2. Sơ lược về sự phát triển các quy định của pháp luật quốc tế,
pháp luật của một số quốc gia và Việt Nam về quyền bầu cử
1.2.1 Pháp luật quốc tế về quyền bầu cử
Quyền bầu cử của công dân là quyền chính trị cơ bản của công dân, do
đó bầu cử là một công việc hệ trọng của mỗi quốc gia cho nên ở tất cả các
nước việc bầu cử đều được pháp luật, mà trước hết là Hiến pháp quy định cụ
thể. Quy định về quyền bầu cử trong pháp luật của từng quốc gia lại phụ
thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của mỗi nước và chịu sự ảnh
hưởng của các quốc gia láng giềng cũng như tác động của luật pháp quốc tế
mà quốc gia đó là thành viên. Các văn kiện quốc tế đó bao gồm: Tuyên ngôn
quốc tế về quyền con người năm 1948, Công ước quốc tế về quyền con người
về chính trị, dân sự năm 1966 với những quy định về các nguyên tắc bầu cử,
các quyền chính trị, dân sự, quyền phụ nữ, tệ nạn phân biệt chủng tộc chính là
16
những định hướng cơ bản quan trọng giúp cho không chỉ các quốc gia thành
viên mà còn các quốc gia khác lấy đó làm điểm tựa để xây dựng các quy định
pháp luật trong lĩnh vực này.
Điều 21, Tuyên ngôn quốc tế về quyền con người của Liên hợp quốc đã
khẳng định: “Nền tảng uy quyền của các quyền lực công cộng là ý chí của
nhân dân; ý chí này phải được thể hiện qua các cuộc bầu cử thường kỳ và
chân thực, được tổ chức theo nguyên tắc bình đẳng, phổ thông đầu phiếu và
bỏ phiếu kín hoặc bằng những tiến trình bầu cử tự do tương đương”.
Điều 25 Công ước về các quyền dân sự và chính trị tuyên bố: “Mọi
công dân, không có bất kỳ sự phân biệt nào... Và không có sự hạn chế bất hợp
lý nào, đều có quyền và cơ hội để:
a) Tham gia vào việc điều hành các công việc nhà nước một cách trực
tiếp hoặc thông qua những người đại diện được họ tự do lựa chọn;
b) Bầu cử và ứng cử trong các cuộc bầu cử định kỳ, chân thực, bằng
phổ thông đầu phiếu, bình đẳng và bỏ phiếu kín nhằm đảm bảo cho cử tri tự
do bày tỏ ý nguyện của mình”.
Ủy ban Nhân quyền Liên hợp quốc khẳng định rằng: “cũng như quyền
ứng cử, quyền bỏ phiếu chỉ có thể bị hạn chế hợp lý” và “mọi nhà nước phải
có các biện pháp cần thiết, có hiệu quả để mọi công dân thực hiện quyền của
họ”.
Công ước về quyền chính trị của phụ nữ năm 1952, Công ước quốc tế
về loại trừ các hình thức phân biệt chủng tộc, Công ước về quyền dân sự
chính trị năm 1966, Tuyên bố châu Mỹ về quyền và bổn phận của con người
năm 1948, Hiệp ước châu Âu về quyền con người cũng như các văn kiện
pháp lý quốc tế quan trọng khác đều ghi nhận một cách trực tiếp hoặc gián
tiếp về các nguyên tắc cơ bản như nguyên tắc tự do, phổ thông, bình đẳng,
trực tiếp và bỏ phiếu kín.
17
Đối với nguyên tắc tự do trong bầu cử, Liên Minh nghị viện thế giới
(IPU) đã thông qua Tuyên bố tiêu chuẩn về bầu cử tự do và công bằng ngày
26/3/1994 và bộ luật hướng dẫn bầu cử của mình năm 1998.
Đối với nguyên tắc bầu cử phổ thông, các văn bản quốc tế đều ghi nhận
rằng mọi công dân đến tuổi trưởng thành không phân biệt về chủng tộc, màu
da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến, nguồn gốc xã hội, tài sản, nơi
sinh ... đều được tham gia bầu cử, trừ những người mất trí hay những người bị
tước quyền bầu cử do vi phạm pháp luật hình sự. Nói chung, quyền bầu cử
càng được mở rộng cho nhiều người tham gia một cách hợp lý, càng thể hiện
mức độ dân chủ của chế độ bầu cử. Phổ thông bầu cử được coi là một trong
những quyền năng cơ bản nhất của công dân. Nguyên tắc này thể hiện ở tính
công khai, dân chủ rộng rãi, đòi hỏi sự bảo đảm để công dân thực hiện quyền
bầu cử của mình. Dân chủ phát triển càng cao, càng hoàn thiện, đòi hỏi sự
tham gia của công dân vào tổ chức, hoạt động của nhà nước, tham gia vào các
vấn đề chính trị ngày càng nhiều. Việc giỡ bỏ các điều kiện ngăn cản quyền
bầu cử của công dân nói riêng cũng như thực hiện bầu cử tiến bộ, công bằng
nói chung là xu thế tất yếu của lịch sử. Nguyên tắc bầu cử phổ thông ngày
càng trở nên thịnh hành hơn trong xu thế dân chủ hóa ở khắp nơi trên thế giới,
nhất là trong thời gian gần đây.
Đối với nguyên tắc bình đẳng, đây là một nguyên tắc cơ bản được ghi
nhận trong rất nhiều các văn kiện pháp lý quốc tế quan trọng. Bình đằng là
nguyên tắc về giá trị, nó phản ánh nội dung dân chủ của bầu cử. Nội dung của
nguyên tắc này là lá phiếu của mỗi công dân đều có giá trị như nhau, không
phân biệt giới tính, chủng tộc, màu da, tôn giáo...; ngoài ra, các ứng cử viên
có quyền bình đẳng ngang nhau trong việc đề cử, ứng cử, trong vận động
tranh cử mà không phụ thuộc vào thành phần xuất thân hay đảng phái mà họ
tham gia. Tuyên bố về quyền của các ứng cử viên do IPU ban hành nêu rõ:
“Mọi công dân đều có quyền bình đẳng về cơ hội để ứng cử trong các cuộc
bầu cử; có quyền gia nhập, hoặc cùng với người khác thành lập đảng phái
chính trị hoặc các tổ chức khác cho mục đích cạnh tranh trong bầu cử; mỗi
18
cá nhân tự mình và cùng với người khác có quyền tự do di chuyển trong nước
để vận động tranh cử. Mọi cá nhân bình đẳng tranh cử với các đảng phái
chính trị, kể cả đảng phái cầm quyền; các ứng cử viên và mọi đảng phái
chính trị bình đẳng về việc sự dụng các phương tiện truyền thông, nhất là các
phương tiện truyền thông đại chúng để đưa ra các quan điểm chính trị của
mình...”.
Đối với nguyên tắc bầu cử trực tiếp, hiện nay nguyên tắc này đang
được áp dụng phổ biến ở nhiều quốc gia trên thế giới. Nguyên tắc này đề cập
đến cách thức thể hiện ý chí của nhân dân. Nguyên tắc này cho phép cử tri
trực tiếp bầu ra người đại diện và chuyển giao quyền lực trực tiếp cho người
đại diện, không qua khâu trung gian nào. Nhân dân có quyền bỏ lá phiếu của
mình một cách trực tiếp tại đơn vị bầu cử hoặc thông qua bưu điện, qua các
phương tiện thông tin đại chúng để bầu nên hệ thống cơ quan dân cử. Nguyên
tắc này bảo đảm nhân dân trực tiếp lựa chọn người đại diện và ngược lại,
người đại diện (trúng cử trong kỳ bầu cử) trực tiếp nhận quyền lực từ nhân
dân. So với bầu cử gián tiếp, bầu cử trực tiếp mang tính dân chủ cao hơn. Một
điểm cần lưu ý rằng, nguyên tắc bầu cử trực tiếp không loại trừ việc bầu cử
thông qua bưu điện, hay bằng internet... vì thực chất, những phương tiện này
chỉ mang tính chất kỹ thuật giúp cử tri thuận lợi hơn trong việc bỏ phiếu; nói
cách khác, việc bỏ phiếu thông qua các công cụ hỗ trợ nhưng vẫn đảm bảo
nhân dân trực tiếp lựa chọn người mà mình tín nhiệm thì dù qua bao nhiêu
tầng nấc công cụ, phương tiện, miễn rằng nó phản ánh đúng ý chí của nhân
dân thì vẫn là bầu cử trực tiếp.
Cuối cùng, đối với nguyên tắc bỏ phiếu kín, đây cũng là một nguyên
tắc quan trọng trong các văn bản pháp lý quốc tế. Nguyên tắc này đề cập về
cách thức bỏ phiếu. Bỏ phiếu kín là biện pháp nhằm đảm bảo cho cử tri được
tự do thể hiện ý chí của mình khi lựa chọn người đại diện mà không bị ảnh
hưởng của bất kỳ mọi sự tác động nào. Nếu không đảm bảo tự do trong việc
lựa chọn thì bầu cử sẽ không đảm bảo ý chí nhân dân khi thể hiện trên các
phiếu bầu, tức là cuộc bầu cử sẽ không đảm bảo dân chủ. Nội dung của
19
nguyên tắc này là lá phiếu của mỗi cử tri được đảm bảo được viết, bỏ phiếu
trong phòng kín mà không phải chịu sự giám sát, theo dõi của bất kỳ một ai,
vì bất kỳ lý do gì. Nhờ vậy, sự tự do thể hiện chính kiến của các cử tri được
đảm bảo, không ai được quyền tác động đến quá trình các cử tri quyết định
bầu ai vào cơ quan đại diện.
Những quy định về quyền bầu cử trong các văn bản pháp lý quốc tế nêu
trên đã phần nào cho chúng ta thấy được sự quyết tâm bảo vệ quyền con
người nói chung và đề cao vai trò cũng như tầm quan trọng của quyền bầu cử
nói riêng của các tổ chức quốc tế. Điều đó chứng tỏ quyền bầu cử của công
dân không chỉ là vấn đề của mỗi quốc gia mà còn là mối quan tâm lớn của
toàn thể cộng đồng quốc tế, bởi nó ảnh hưởng tới sự phát triển chung của toàn
thế giới. Vì thế, mỗi quốc gia đều phải lấy những nguyên tắc tiến bộ cơ bản,
phổ biến của pháp luật quốc tế làm tiền đề để xây dựng nên những quy định
pháp luật cụ thể về quyền bầu cử của công dân, có như thế mới tạo nên thể
thống nhất giữa các quốc gia và của toàn thế giới trong vấn đề này.
1.2.2 Pháp luật một số quốc gia về quyền bầu cử
* Về quyền bầu cử
Về tuổi bầu cử: Pháp luật bầu cử của hầu hết các nước đều quy định
công dân phải đạt tới một độ tuổi nhất định mới có quyền bầu cử. Các học giả
giải thích các hạn chế này như sau: Công việc bầu cử là công việc phức tạp và
chỉ có những người có trình độ hiểu biết và có kinh nghiệm sống nhất định
mới đảm đương được. Vì vậy, tuổi bầu cử ở các nước là khác nhau tùy thuộc
vào quan điểm của nước đó về sự trưởng thành về chính trị. Ngày nay tuổi
bầu cử thường là 18 tuổi. Có thể so sánh chế định này với chế định độ tuổi kết
hôn để thấy tầm quan trọng của việc quy định độ tuổi bầu cử. Trong khi tuổi
bầu cử là 18, tuổi kết hôn ở một số nước, chẳng hạn như Cuba là 14 tuổi và ở
các nước châu Âu tuổi kết hôn thường là 16 tuổi, ví dụ ở Nga và Pháp. Chế
định về độ tuổi bầu cử bởi vậy là cơ sở pháp lý quan trọng để đảm bảo cho cử
tri có sự trưởng thành nhất định về con người, trình độ hiểu biết nhất định về
20
nhà nước, xã hội và khả năng để nhận biết và thực hiện các quyền năng chính
trị của mình(5)
Theo thống kê của Liên minh Quốc hội thế giời năm 1993, có tới 109
trong số 150 quốc gia được khảo sát quy định quyền bầu cử cho công dân đủ
18 tuổi trở lên. Tuổi bầu cử cao nhất là 21 tuổi, như ở Singapore, Bolivia, Cô
oét...; 20 tuổi như ở Nhật Bản và Thái Lan. Tuổi bầu cử thấp nhất là 16 tuổi,
được quy định cho công dân Cuba, Braxin, Iran và Nicaragoa.
Tỷ lệ dân cư trẻ cao trong các nước đang phát triển là tiền đề cho việc
tăng cường năng lực chính trị cho công dân nước đó. Như ở Ấn Độ, năm 1989
đã thực hiện việc giảm tuổi bầu cử từ 21 tuổi xuống 18 tuổi, kết quả làm tăng
số lượng cử tri lên 50 triệu người.
Trong khi quy định về giới hạn tối thiểu của quyền bầu cử, pháp luật
thường không quy định về độ tuổi tối đa thực hiện quyền bầu cử.
Về quốc tịch: Quyền phổ thông bầu cử áp dụng cho công dân mang
quốc tịch của nước sở tại. Các công dân này dù có sống ở nước ngoài, như cư
dân Nga, Đức và Italia, cũng được tạo điều kiện tham gia bầu cử. Tuy vậy,
pháp luật của một số nước hạn chế những công dân mới gia nhập quốc tịch thì
không có quyền bầu cử. Ví dụ, công dân nhập quốc tịch Argentina phải sau 3
năm mới có quyền bầu cử. Trong khi đó, ở một số nước, quyền phổ thông bầu
cử quy định rằng công dân không mang quốc tịch nước sở tại cũng có quyền
bầu cử. Cư dân NewZealand từ 18 tuổi trở lên, không phân biệt quốc tịch, nếu
sống ở NewZealand 12 tháng và cư trú tại khu vực bầu cử 1 tháng thì có
quyền đi bầu(6)
Về điều kiện cư trú: Pháp luật bầu cử của hầu hết các nước đều quy
định điều kiện cư trú của cử tri. Công dân phải sống tại một nơi trong một
thời gian nhất định mới có quyền bầu cử. Công dân Anh sống tại đơn vị bầu
cử vào thời điểm đăng ký danh sách cử tri có quyền bầu cử. Công dân Pháp
Tổ chức và hoạt động của Quốc hội một số nước, Văn phòng Quốc hội, 2002, tr.246
Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội, Quốc hội khóa X (1999), Nghị viện các nước trên thế giới, tr, 222, trích
trong tài liệu: Tổ chức và hoạt động của Quốc hội một số nước, Văn phòng Quốc hội, 2002
5
6
21