BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƢ PHÁP
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
NGUYỄN THỊ MỸ TRANG
PHÁP LUẬT VỀ PHÂN CHIA QUYỀN LỰC GIỮA
CỔ ĐÔNG VÀ NGƢỜI QUẢN LÝ CÔNG TY
TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ
(Định hƣớng nghiên cứu)
HÀ NỘI - 2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƢ PHÁP
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
NGUYỄN THỊ MỸ TRANG
PHÁP LUẬT VỀ PHÂN CHIA QUYỀN LỰC GIỮA
CỔ ĐÔNG VÀ NGƢỜI QUẢN LÝ CÔNG TY
TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8380107
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ
(Định hƣớng nghiên cứu)
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS VŨ THỊ LAN ANH
HÀ NỘI - 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi và
được sự hướng dẫn khoa học của Cô PGS.TS Vũ Thị Lan Anh. Các kết quả nghiên
cứu trong luận văn chưa được công bố dưới bất kỳ hình thức nào khác. Các số liệu
trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, được trích dẫn đúng qui định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của luận văn này.
Tác giả
Nguyễn Thị Mỹ Trang
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn thạc sỹ của mình, ngoài sự nỗ lực cố gắng của bản
thân, tôi đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của nhiều cá nhân và tập thể.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới sự giúp đỡ nhiệt tình của các thầy, cô
giáo trong khoa Sau đại học – Trường Đại học Luật Hà Nội; đặc biệt là sự quan tâm
chỉ dẫn tận tình của PGS.TS Vũ Thị Lan Anh, người đã trực tiếp hướng dẫn tôi
trong suốt quá trình thực hiện luận văn.
Qua đây, tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn đối với gia đình và bạn bè đã giúp
đỡ, động viên tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Mặc dù đã rất cố gắng trong quá trình thực hiện nhưng luận văn không thể
tránh khỏi sai sót, mong quý thầy cô cùng các bạn đóng góp ý kiến để luận văn
được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 8 năm 2018
Học viên thực hiện
Nguyễn Thị Mỹ Trang
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT
Chữ cái viết tắt/Ký hiệu
Cụm từ đầy đủ
1.
XHCN
Xã hội chủ nghĩa
2.
LDN
Luật Doanh nghiệp
3.
DN
Doanh nghiệp
4.
CTCP
Công ty cổ phần
5.
TNHH
Trách nhiệm hữu hạn
6.
ĐKKD
Đăng ký kinh doanh
7.
QTCT
Quản trị công ty
8.
ĐHĐCĐ
Đại hội đồng cổ đông
9.
HĐQT
Hội đồng quản trị
10.
GĐ
Giám đốc
11.
TGĐ
Tổng giám đốc
12.
BKS
Ban kiểm soát
13.
ĐHCĐ
Đại hội cổ đông
14.
CPPT
Cổ phần phổ thông
DANH MỤC CÁC HÌNH ẢNH
Hình 1.1
Mô hình phân chia quyền lực trong CTCP ở Mỹ
Hình 1.2
Mô hình phân chia quyền lực trong CTCP ở Nhật
Hình 1.3
Mô hình phân chia quyền lực trong CTCP ở Đức
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 1
Chương 1.NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÂN CHIA QUYỀN LỰC GIỮA
CỔ ĐÔNG VÀ NGƢỜI QUẢN LÝ CÔNG TY TRONG CÔNG TY
CỔ PHẦN VÀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH ......................................... 5
1.1.
Khái quát về cổ đông và ngƣời quản lý công ty cổ phần ........................... 5
1.1.1. Khái quát chung về cổ đông .......................................................................... 5
1.1.2. Khái quát chung về ngƣời quản lý công ty cổ phần ................................... 10
1.1.3. Mối quan hệ và sự phân chia quyền lực giữa cổ đông và ngƣời quản lý
công ty cổ phần............................................................................................. 14
1.1.4. Ý nghĩa của việc phân chia quyền lực giữa cổ đông và ngƣời quản lý công
ty cổ phần ...................................................................................................... 16
1.2.
Pháp luật về phân chia quyền lực giữa cổ đông và ngƣời quản lý công ty
cổ phần ......................................................................................................... 18
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của pháp luật về phân chia quyền lực giữa cổ đông
và ngƣời quản lý công ty cổ phần ............................................................... 18
1.2.2. Cấu trúc pháp luật về phân chia quyền lực giữa cổ đông và ngƣời quản lý
trong công ty cổ phần ................................................................................... 19
1.3.
Kinh nghiệm pháp luật một số nƣớc trên thế giới về phân chia quyền lực
giữa cổ đông và ngƣời quản lý công ty cổ phần ....................................... 24
1.3.1. Các mô hình về phân chia quyền lực giữa cổ đông và ngƣời quản lý trong
công ty cổ phần điển hình ở trên thế giới ................................................... 24
1.3.2. Cách thức giải quyết mâu thuẫn về vấn đề ngƣời đại diện của các nƣớc
trên thế giới................................................................................................... 33
Chương 2.THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ PHÂN
CHIA QUYỀN LỰC GIỮA CỔ ĐÔNG VÀ NGƢỜI QUẢN LÝ TRONG
CÔNG TY CỔ PHẦN .............................................................................. 36
2.1.
Thực trạng các quy định pháp luật về phân chia quyền lực giữa cổ đông
và ngƣời quản lý trong công ty cổ phần .................................................... 36
2.1.1. Quyền của cổ đông trong việc quyết định các vấn đề nội bộ của doanh
nghiệp ........................................................................................................... 36
2.1.2. Quyền của ngƣời quản lý trong việc quyết định các vấn đề nội bộ của
doanh nghiệp ................................................................................................ 40
2.1.3. Phân chia quyền lực trong việc tổ chức doanh nghiệp .............................. 45
2.1.4. Kiểm soát quyền lực giữa cổ đông và ngƣời quản lý công ty cổ phần ...... 47
2.2.
Thực tiễn thi hành pháp luật về phân chia quyền lực giữa cổ đông và
ngƣời quản lý trong công ty cổ phần ......................................................... 53
2.2.1. Tình hình thực hiện quyền của cổ đông, ngƣời quản lý trong công ty cổ
phần .............................................................................................................. 53
2.2.2. Một số hạn chế, vƣớng mắc và nguyên nhân hạn chế quyền của cổ đông,
ngƣời quản lý công ty trong công ty cổ phần ............................................. 55
Chương 3.PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
PHÂN CHIA QUYỀN LỰC GIỮA CỔ ĐÔNG VÀ NGƢỜI QUẢN LÝ
CÔNG TY TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN ............................................. 71
3.1.
Phƣơng hƣớng hoàn thiện pháp luật về phân chia quyền lực giữa cổ
đông và ngƣời quản lý trong công ty cổ phần .......................................... 71
3.1.1. Đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trƣờng .............................................. 72
3.1.2. Đảm bảo tính thống nhất của pháp luật ..................................................... 72
3.1.3. Đảm bảo đƣợc yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế ....................................... 72
3.1.4. Cần đƣợc đặt trong giải pháp tổng thể hoàn thiện pháp luật kinh tế. ...... 73
3.2.
Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về phân chia quyền lực giữa cổ đông
và ngƣời quản lý công ty cổ phần .............................................................. 73
3.2.1. Quy định về Đại hội đồng cổ đông .............................................................. 73
3.2.2. Quy đinh về Hội đồng quản trị và Giám đốc/Tổng giám đốc .................... 75
3.2.3. Quy định về Ban kiểm soát .......................................................................... 76
3.2.4. Quy định về quyền của cổ đông ................................................................... 77
3.2.5. Quy định về công khai hoá các giao dịch có khả năng tƣ lợi .................... 79
3.2.6. Cần mở rộng kiểm soát với những ngƣời quản lý khác............................. 79
3.2.7. Quy định về cơ chế xử lý các giao dịch của Đại hội đồng cổ đông và Hội
đồng quản trị ............................................................................................... 80
KẾT LUẬN ............................................................................................................. 81
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sự phân chia quyền lực trong công ty cổ phần là vấn đề thiết yếu để đảm bảo
cho sự tồn tại và phát triển của công ty. Sự thành bại của một công ty luôn lệ thuộc
vào cách thức tổ chức và quản lý nội bộ của công ty. Một bộ máy công ty đơn giản,
gọn nhẹ, linh hoạt với sự phân công rành mạch chức năng nhiệm vụ, quyền hạn đồng
thời phối hợp ăn khớp, đồng bộ hoạt động của các bộ phận khác, thiết lập được cơ
chế giám sát và giảm thiểu mâu thuẫn trong nội bộ là một trong những đảm bảo quan
trọng cho hiệu quả kinh doanh của công ty.
Tuy nhiên, ở Việt Nam, về việc phân chia quyền lực trong công ty cổ phần
còn là một vấn đề khá mới mẻ nếu so với hàng trăm năm phát triển của nó ở các
nước Châu Âu, Châu Mỹ. Là nước đi sau, mặc dù có lợi thế lớn trong việc học tập
kinh nghiệm của các nước đi trước nhưng việc quản lý công ty cổ phần ở nước ta vẫn
còn nhiều khó khăn, bất cập và thiếu kinh nghiệm quản lý. Chính vì vậy, sự hiểu biết
về vấn đề phân chia quyền lực trong công ty cổ phần còn rất nhiều hạn chế về mặt lý
luận và thực tiễn. Với sự ra đời của Luật Doanh nghiệp (LDN) năm 1999, kế đến là
LDN 2005 và sau đó là LDN 2014 các vấn đề có liên quan đến phân chia quyền lực
trong công ty cổ phần đã được hoàn thiện từng bước. Tuy nhiên việc hiểu và vận
dụng đúng các quy định của pháp luật về công ty cổ phần ở Việt Nam là một vấn đề
không đơn giản. Trong pháp luật về công ty cổ phần, các quy định của pháp luật có
liên quan đến xung đột quyền lợi và giải quyết mâu thuẫn giữa cổ đông và người
quản lý công ty là một trong những chế định quan trọng, nó chi phối quá trình hình
thành, phát triển hay chấm dứt sự hoạt động của công ty. Việc nghiên cứu Đề tài
“Pháp luật về phân chia quyền lực giữa cổ đông và người quản lý công ty trong
công ty cổ phần” sẽ đem lại ý nghĩa sau:
- Tạo điều kiện thúc đẩy và nâng cao hiệu quả chung của toàn công ty thông
qua việc tạo ra và duy trì các đòn bẩy khuyến khích người trong nội bộ công ty tối đa
hoá lợi tức, tài sản và tăng trưởng năng suất lao động.
- Hạn chế người trong nội bộ công ty lạm dụng quyền lực đối với các nguồn
lực của công ty dưới các hình thức như tham ô, bòn rút nguồn lực của công ty nhằm
sử dụng riêng cho các lợi ích cá nhân hoặc làm thất thoát đáng kể những nguồn lực
do công ty kiểm soát.
- Cung cấp các công cụ giám sát các hành vi của người quản lý đảm bảo trách
nhiệm của họ và tạo sự bảo hộ với chi phí hợp lý đối với lợi ích của các nhà đầu tư
2
và của xã hội trước những người quản lý công ty.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Từ trước tới nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về công ty cổ phần ở
những giác độ khác nhau. Ở Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu, báo cáo
khoa học về công ty cổ phần. Cụ thể như sau:
- “Tổ chức quản lý nội bộ công ty cổ phần theo Luật doanh nghiệp năm
2014” - Luận văn thạc sĩ của Lưu Thị Dung (Trường Đại học Luật Hà Nội, 2015).
- “Hoàn thiện pháp luật về quản trị công ty cổ phần” – Luận văn thạc sĩ của
Nguyễn Thùy Linh, (Trường Đại học Luật Hà Nội, 2015).
- “Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về tổ chức quản lý công ty cổ phần” – góc
nhìn từ kinh nghiệm của Nhật Bản” - Luận văn thạc sĩ của Đào Thúy Anh
(Trường Đại học Luật Hà Nội, 2014).
- “Mô hình quản trị công ty cổ phần tại Việt Nam hiện nay – Thực trạng và
phƣơng hƣớng hoàn thiện” – Luận văn thạc sĩ luật học của Phan Thị Bảo Yến
(Trường Đại học Luật Hà Nội, 2014).
- “Những đổi mới trong cách thức tổ chức, quản lý, điều hành công ty cổ
phần theo Luật Doanh nghiệp năm 2014” – Luận văn thạc sĩ luật học của Mai Thị
Hương Chanh, (Trường Đại học Luật Hà Nội, 2017).
- “Pháp luật về nghĩa vụ của ngƣời quản lý công ty cổ phần ở Việt Nam” –
Luận văn tiến sĩ luật học của Đỗ Minh Tuấn, (Trường Đại học luật Hà Nội, 2017).
Ngoài ra, ở cấp độ báo chí, tạp chí cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu về
vấn đề này, có thể kể đến các bài viết như: “Một số so sánh về công ty cổ phần theo
Luật công ty Nhật Bản và Luật doanh nghiệp Việt Nam” của tác giả Nguyễn Lan
Hương (Tạp chí khoa học ĐHQGHN, Luật học, số 25/2009); “Tiếp cận quản trị nội
bộ công ty cổ phần trên phương diện kết hợp hài hòa lợi ích các bên”.
Những công trình này đã có những đóng góp to lớn về mặt khoa học, tuy
nhiên đề tài đó chỉ tập trung vào phân tích các vấn đề có tính nguyên tắc về công ty
cổ phần như thủ tục thành lập, cơ cấu tổ chức quản lý, quyền và nghĩa vụ của cổ
đông. Theo đó vấn đề sự phân chia quyền lực giữa cổ đông và người quản lý đã được
đề cập ở mức độ ít nhiều nhưng chỉ dừng lại ở mức độ khái quát. Chính vì vậy luận
văn sẽ đi sâu nghiên cứu phân tích các vấn đề có liên quan đến việc phân chia quyền
lực giữa cổ đông và người quản lý trong công ty cổ phần theo quy định của LDN
hiện nay, làm rõ mối quan hệ và sự tác động ảnh hưởng lẫn nhau giữa hai nhóm đối
tượng này trong công ty.
3
Sau một thời gian tìm hiểu và nghiên cứu các tài liệu khoa học, em cho rằng
chưa có công trình nghiên cứu khoa học nào được tiến hành với nội dung như đề tài
mà em đã chọn. Vì vậy, việc thực hiện đề tài này có thể được xem là một cách tiếp
cận mới về vấn đề này trong mối quan hệ tiếp cận với hệ thống pháp luật của các
nước.
3. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước về xây dựng và phát
triển nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, kết hợp với thực tiễn xây dựng
và áp dụng pháp luật về công ty cổ phần ở Viêt Nam, mục đích nghiên cứu của đề tài
nhằm phân tích và luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn về sự phân chia quyền lực giữa
cổ đông và người quản lý trong công ty cổ phần ở nước ta. Đồng thời trên cơ sở so
sánh, tham khảo các học thuyết và quan điểm pháp luật của các nước trên thế giới để
đánh giá, đưa ra những vấn đề đã làm được và những tồn tại, cần thay đổi trong cách
phân chia quyền lực giữa cổ đông và người quản lý trong công ty cổ phần ở nước ta
nhằm đề xuất hoàn thiện pháp luật Việt Nam.
4. Phạm vi nghiên cứu
Với mục đích nêu trên đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề có liên quan đến
quản trị công ty cổ phần (CTCP) theo quy định của LDN năm 2014, về phân chia
quyền lực trong công ty giữa Đại hội đồng cổ đông (ĐHĐCĐ), Hội đồng quản trị
(HĐQT),Tổng giám đốc/Giám đốc (GĐ/TGĐ), Ban kiểm soát (BKS), cơ chế xác lập
và đảm bảo thực hiện quyền của cổ đông. Đồng thời đề tài cũng đi sâu vào phân tính
mối quan hệ qua lại giữa các cơ quan trong việc thực thi quyền hạn của mình, cơ chế
giám sát giữa các cơ quan này trong việc quản lý và điều hành công ty.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để tiếp cận nghiên cứu đề tài này một cách hệ thống và hiệu quả, đề tài này
vận dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu, trong đó chủ yếu là phương pháp
hệ thống, phân tích, tổng hợp, lịch sử - logic, đối chiếu so sánh các quy phạm thực
định về sự phân chia quyền lực trong công ty cố phần giữa người quản lý và cổ đông
với pháp luật liên quan của các nước để lý giải cho các vấn đề nêu trong đề tài và đề
xuất các giải pháp hoàn thiện.
6. Những đóng góp khoa học của đề tài
Kể từ khi có hiệu lực, LDN 2014 được đánh giá là bước đột phá trong cải
cách kinh tế nói chung và cải thiện môi trường kinh doanh nói chung ở Việt Nam để
phù hợp với bối cảnh chung của nền kinh tế thế giới thời kỳ hội nhập. Tuy nhiên sau
4
một thời gian thực hiện, các chế định có liên quan đến cơ chế quản trị công ty cổ
phần đã bộc lộ nhiều bất cập. Quyền hạn và nghĩa vụ của các cơ quan trong công ty
chưa được quy định một cách cụ thể, thiếu cơ chế kiểm tra giám sát trong quá trình
quản lý điều hành doanh nghiệp, chưa bảo vệ quyền lợi của cổ đông, chưa giải quyết
một cách thấu đáo triệt để mối quan hệ qua lại giữa các bộ phận của công ty trong
quản trị nội bộ, cũng chưa giải quyết triệt để xung đột lợi ích, quyền hạn giữa những
cơ quan này. Chính vì vậy nội dung của luận văn sẽ đưa ra những vấn đề mới sau:
- Nghiên cứu một cách có hệ thống và luận giải trên cơ sở lý luận và thực tiễn
các quy định của LDN về việc phân chia quyền lực trong công ty cổ phần, các vấn
đề có liên quan đến quản trị công ty cổ phần.
-
Chỉ ra những tồn tại, những bất cập các quy định về việc phân chia quyền lực
trong công ty cổ phần theo LDN 2014.
- Đưa ra một số kiến nghị về phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp
luật Việt Nam về sự phân chia quyền lực giữa cổ đông và người quản lý trong công
ty cổ phần ở nước ta.
- Góp phần làm rõ những điểm tương đồng và khác biệt, làm cơ sở cho việc
nghiên cứu, học tập về pháp luật về quản trị công ty cổ phần của Việt Nam và một
số nước trên thế giới, góp phần làm cơ sở để xây dựng và hoàn thiện pháp luật quản
trị công ty cổ phần của Việt Nam.
7. Kết cấu của đề tài
Luận văn gồm có ba phần: Mở đầu, phần nội dung và kết luận. Phần nội
dung chính chia làm ba chương.
Chương 1: Những vấn đề lý luận về phân chia quyền lực giữa cổ đông và
người quản lý công ty trong công ty cổ phần và pháp luật điều chỉnh.
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thi hành pháp luật về phân chia quyền
lực giữa cổ đông và người quản lý trong công ty cổ phần.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về phân chia
quyền lực giữa cổ đông và người quản lý công ty trong công ty cổ phần.
5
Chƣơng 1.
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÂN CHIA QUYỀN LỰC GIỮA CỔ
ĐÔNG VÀ NGƢỜI QUẢN LÝ CÔNG TY TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN VÀ
PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH
1.1.
Khái quát về cổ đông và ngƣời quản lý công ty cổ phần
1.1.1. Khái quát chung về cổ đông
1.1.1.1. Khái niệm cổ đông
Cổ đông (tiếng Anh là Shareholder) là cá nhân hay tổ chức nắm giữ quyền
sở hữu hợp pháp một phần hay toàn bộ phần vốn góp (cổ phần) của một công ty cổ
phần. Chứng chỉ xác nhận quyền sở hữu này gọi là cổ phiếu. Về bản chất, cổ đông
là thực thể đồng sở hữu công ty cổ phần chứ không phải là chủ nợ của công ty đó.
Do vậy, quyền lợi và nghĩa vụ của cổ đông gắn liền với kết quả hoạt động của
doanh nghiệp và loại cổ phần mà cổ đông sở hữu1.
Theo Khoản 2 Điều 4 LDN 2014, cổ đông được hiểu là “cá nhân, tổ chức sở
hữu ít nhất một cổ phần của công ty cổ phần”.
Như vậy, có thể thấy rằng một cá nhân hay tổ chức muốn trở thành cổ đông
của một công ty cổ phần phải thỏa mãn 2 điều kiện:
Thứ nhất là yếu tố sở hữu, tức là cá nhân, tổ chức đó phải nắm giữ ít nhất 01
cổ phần trong công ty cổ phần đó. Đây cũng là cơ sở để xác định địa vị pháp lý của
cổ đông trong công ty cổ phần.
Thứ hai là đối tượng của sở hữu, phải là cổ phần do công ty đó phát hành.
Như vậy, khái niệm cổ đông ra đời và gắn liền với công ty cổ phần. Hay nói
cách khác, tư cách cổ đông phụ thuộc vào sự ra đời của công ty cổ phần, chỉ khi
công ty cổ phần được thành lập thì nhà đầu tư vào công ty đó mới có tư cách cổ
đông.
1.1.1.2.
Đặc điểm cổ đông
Ngoài đặc điểm chung giống với các nhà đầu tư khi đầu tư vốn vào quá trình
kinh doanh là tìm kiếm lợi nhuận thì cổ đông trong CTCP còn có những đặc điểm
sau:
Về chế độ trách nhiệm: Khi một tổ chức hay cá nhân bỏ vốn đầu tư vào
CTCP tức là họ đã chuyển dịch vốn của mình theo những phương thức nhất định
vào CTCP và tài sản góp vốn trở thành tài sản thuộc sở hữu của CTCP, nhưng cổ
1
/>
6
đông vẫn được hưởng các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ việc góp vốn. Với tư cách
là một pháp nhân, công ty có năng lực pháp luật độc lập, có đầy đủ các quyền và
nghĩa vụ pháp lý của mình theo quy định của pháp luật nên các quyền và nghĩa vụ
của công ty hoàn toàn tách biệt khỏi các quyền và nghĩa vụ của cổ đông vì công ty
là chủ thể của quyền sở hữu công ty. Vốn thuộc sở hữu công ty chính là giới hạn sự
rủi ro tài chính của các cổ đông trên toàn bộ số vốn đã đầu tư hoặc đã cam kết góp
vào công ty, nên trách nhiệm của những cổ đông đối với nghĩa vụ của công ty được
hạn chế trong phạm vi mà họ đã đầu tư hoặc cam kết đầu tư. Xét về phương diện sự
tách bạch về tài sản thì các cổ đông không có quyền đối với tài sản của CTCP nên
họ không chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ của CTCP; CTCP chịu trách nhiệm bằng
chính tài sản của mình. Cả CTCP lẫn chủ nợ của công ty đều không có quyền kiện
đòi tài sản của cổ đông trừ trường hợp cổ đông nợ công ty do chưa đóng đủ tiền góp
vốn hoặc chưa thanh toán đủ cho CTCP số tiền mua cổ phiếu phát hành. Đây là
điểm khác nhau cơ bản về trách nhiệm của các chủ thể kinh doanh, đối với công ty
hợp danh hay doanh nghiệp tư nhân (theo pháp luật Việt Nam) và đối với công ty
hợp danh hay doanh nghiệp một chủ của hầu hết các nước thì các thành viên hợp
danh (hay thành viên nhận vốn) và chủ doanh nghiệp sẽ chịu trách nhiệm cá nhân
vô hạn về các nghĩa vụ của công ty hay của cả doanh nghiệp bằng tài sản của mình,
bất kể tài sản đó có liên quan đến hoạt động kinh doanh hay không.
Như vậy, xuất phát từ sự tồn tại độc lập của CTCP so với các cổ đông nên
CTCP có các quyền và nghĩa vụ về tài sản riêng, do đó các rủi ro của cổ đông khi
đầu tư vào CTCP chỉ giới hạn trong số lượng giá trị cổ phần mà cổ đông đó đầu tư.
Ngược lại, khi đầu tư vào công ty hợp danh hay DNTN thì mức độ rủi ro là vô hạn.
Tính chất chịu trách nhiệm hữu hạn trên đã thu hút mạnh mẽ các nhà đầu tư đầu tư
vào CTCP nhiều hơn so với đầu tư các loại hình doanh nghiệp khác mà ở đó họ phải
chịu trách nhiệm vô hạn. Chính vì lợi thế này mà các CTCP có khả năng huy động
vốn rất lớn từ các nguồn vốn đầu tư của xã hội vào hoạt động sản xuất – kinh doanh
của mình.
Về việc chuyển nhƣợng phần vốn góp: Hầu hết pháp luật về công ty của các
nước trên thế giới đều quy định và cho phép chuyển nhượng một cách dễ dàng và tự
do các loại cổ phần do CTCP phát hành từ cổ đông sang chủ sở hữu mới. Vì khác
với các loại công ty khác, vốn điều lệ của CTCP được chia thành nhiều phần bằng
nhau gọi là cổ phần. Giá trị của mỗi cổ phần gọi là mệnh giá cổ phần. Việc góp vốn
vào CTCP được thực hiện bằng cách mua cổ phiếu nên cổ phiếu được xem là hình
7
thức thể hiện phần vốn góp của cổ đông. Các cổ phiếu do CTCP phát hành là hàng
hóa nên các cổ đông khi sở hữu cổ phiếu có thể tự do chuyển nhượng, hơn thế nữa
trách nhiệm của các cổ đông chỉ giới hạn trong phạm vi giá trị các cổ phiếu mà họ
sở hữu nên khi họ muốn rút lui khỏi công việc kinh doanh hay muốn bán cổ phiếu
của mình cho người khác thì họ thực hiện rất dễ dàng. Trong khi đó, đối với công ty
TNHH theo qui định của pháp luật Việt Nam thì khi chuyển nhượng các phần vốn
góp của mình, thành viên đó phải chuyển nhượng trước hết cho các thành viên còn
lại trong công ty hoặc chỉ được chuyển nhượng cho người khác không phải là thành
viên công ty trong trường hợp các thành viên còn lại không mua hoặc không mua
hết. Đó là lý do giải thích vì sao có rất nhiều người muốn đầu tư vào CTCP chứ
không muốn đầu tư vào các loại hình doanh nghiệp khác. Đây cũng là một trong
những yếu tố cần thiết cho việc hình thành và phát triển thị trường chứng khoán.
1.1.1.3. Phân loại cổ đông
Tùy thuộc vào mục đích việc phân loại cổ đông sẽ dựa trên những tiêu chí
khác nhau như số lượng cổ đông, thời điểm tham gia vào CTCP, tư cách chủ thể
hoặc số lượng cổ phiếu nắm giữ...
Ví dụ nếu căn cứ vào thời điểm tham gia vào công ty thì có “cổ đông sáng
lập” và “cổ đông thường”. Cổ đông sáng lập là cổ đông sở hữu ít nhất một cổ phần
phổ thông và ký tên trong danh sách cổ đông sáng lập công ty cổ phần2. Trừ các cổ
đông sáng lập thì tất cả các cổ đông còn lại là cổ đông thường, hình thành bằng cách
tham gia góp vốn, mua cổ phần và trở thành cổ đông của công ty.
Căn cứ vào số lượng cổ phần mà cổ đông nắm giữ thì phân loại thành “cổ
đông lớn” và “cổ đông thiểu số”.
Căn cứ vào tư cách chủ thể có thể chia thành “cổ đông là tổ chức” và “cổ
đông là cá nhân”; hoặc “cổ đông là nhà đầu tư trong nước” và “cổ đông là nhà đầu
tư nước ngoài”.
Tuy nhiên cách phân loại phổ biến nhất và được quy định trong văn bản quy
phạm pháp luật là căn cứ vào loại cổ phần nắm giữ thì cổ đông được chia ra thành
“cổ đông phổ thông” và “cổ đông ưu đãi”.
Cổ phần phố thông: là cổ đông sở hữu cổ phần phổ thông trong công
ty cổ phần. Cổ đông phổ thông có đầy đủ các quyền năng cơ bản của chủ sở công
2
Luật Doanh nghiệp 2014, Khoản 2, Điều 4.
8
ty, trừ một số quyền năng đặc biệt so với cổ đông nắm giữ cổ phần ưu đãi. Cổ đông
phổ thông chiếm số lượng lớn trong công ty cổ phần.
Cổ đông ưu đãi: là cổ đông nắm giữ các loại cổ phần ưu đãi trong
công ty cổ phần, ngoài những quyền lợi chung thì cổ đông ưu đãi có những quyền
lợi lớn hơn so với cổ đông phổ thông song cũng bị hạn chế một số quyền nhất định.
Pháp luật Việt Nam hiện nay chia cổ đông ưu đãi ra thành cổ đông ưu đãi biểu
quyết, cổ đông ưu đãi cổ tức và cổ đông ưu đãi hoàn lại.
- Cổ đông ưu đãi biểu quyết: Là cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi biểu
quyết, có số phiếu biểu quyết nhiều hơn so với cổ đông phổ thông theo điều lệ công
ty. Cổ đông ưu đãi biểu quyết thường là các cổ đông sáng lập công ty và được gắn
với một cá nhân, tổ chức nhất định.
- Cổ đông ưu đãi cổ tức: Là cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi cổ tức, được
trả cổ tức cao hơn so với mức cổ tức mà cổ đông phổ thông được hưởng hoặc được
hưởng mức cổ tức ổn định hằng năm. Tuy nhiên sẽ bị hạn chế một số quyền như
không có quyền biểu quyết, không có quyền dự họp ĐHĐCĐ và không được đề cử
người vào HĐQT và BKS... Mức cổ tức cụ thể mà cổ đông được hưởng sẽ được ghi
nhận cụ thể trong điều lệ công ty và trên cổ phiếu của cổ phần ưu đãi cổ tức.
- Cổ đông ưu đãi hoàn lại: Là cổ cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi hoàn
lại. Họ sẽ được công ty cổ phần hoàn lại phần vốn góp bất cứ khi nào theo yêu cầu
của người sở hữu hoặc theo những điều kiện nhất định quy định trong điều lệ công
ty hoặc ghi nhận trực tiếp tại cổ phiếu của cổ phần ưu đãi hoàn lại. Cổ đông ưu đãi
hoàn lại sẽ không có quyền dự họp ĐHĐCĐ, không có quyền biểu quyết, không có
quyền đề cử người vào HĐQT, BKS,...
Ngoài những cổ đông ưu đãi trên, mỗi công ty cổ phần có thể quy định thêm
những cổ đông ưu đãi khác.
1.1.1.4. Quyền của cổ đông
Quyền cổ đông có được trong CTCP xuất phát từ việc sở hữu vốn trong
CTCP. Thông qua việc chuyển quyền sở hữu tài sản của mình sang CTCP nhằm
góp vốn vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của công ty, chủ sở hữu phần vốn góp
đó đã trở thành cổ đông của công ty và được hưởng những quyền lợi nhất định gắn
với tỷ lệ tài sản góp vốn của mình. Gắn liền với lợi ích thiết thực liên quan đến tài
sản, thì khi trở thành thành viên trong CTCP, các cổ đông cũng sẽ được thực hiện
các quyền chính đáng khác góp phần bảo vệ khối tài sản góp vốn của họ như quyền
được tham gia ĐHĐCĐ, quyền biểu quyết, quyền khởi kiện... Chính vì vậy, với
9
mục đích tìm kiếm lợi nhuận thông qua sự góp vốn vào CTCP, các cổ đông ngoài
việc quan tâm đến phần lợi nhuận họ sẽ được hưởng thì vấn đề làm sao để bảo vệ
khối tài sản mà mình đã đầu tư vào công ty. Họ cần quan tâm đến các thiết chế, các
cơ chế nhằm bảo vệ những quyền lợi của họ khi mà đa số cổ đông không tham gia
trực tiếp vào việc điều hành, quản lý và sử dụng nguồn vốn góp của mình thông qua
các quy định pháp luật và điều lệ công ty…
Căn cứ Luật Doanh nghiệp 2014, xét một cách tổng quan các quyền của cổ
đông có thể chia thành các nhóm chủ yếu chia thành các nhóm chủ yếu sau đây: 1)
Nhóm quyền về tài sản; 2) Nhóm quyền về quản trị/quản lí công ti (về dự họp, biểu
quyết, đề cử, ứng cử..); 3) Quyền được thông tin; 4) Quyền về phục hồi quyền lợi
hay nhóm quyền mang tính khắc phục3. Cụ thể như sau:
Nhóm quyền về tài sản bao gồm:
+ Quyền được hưởng cổ tức: Mọi cổ đông tham gia góp vốn vào công ty cổ
phần đều có quyền hưởng cổ tức, và đây cũng là quyền lợi trực tiếp, chính đáng
nhất của cổ đông trong công ty cổ phần. Trên cơ sở phần vốn góp của mình vào
công ty, các cổ đông luôn có quyền được hưởng khoản lợi nhuận phát sinh từ hoạt
động sản xuất, kinh doanh của công ty tương ứng với tỷ lệ vốn đã góp.
+ Quyền được chuyển nhượng cổ phần: Trong quá trình tham gia góp vốn
vào CTCP, để phục vụ lợi ích của mình cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng
phần vốn góp thông qua mua bán, tặng cho... Tùy từng điều kiện, hoàn cảnh cụ thể
khi xét thấy công ty làm ăn có lợi nhuận và lợi tức được hưởng tăng thì cổ đông có
thể mua thêm cổ phiếu khi công ty phát hành, hoặc nếu công ty làm ăn thua lỗ có
nguy cơ lợi nhuận không đạt được, lợi ích không được đảm bảo thì quyền chuyển
nhượng cổ phần cho các nhà đầu tư khác... Tuy nhiên hoạt động này cũng dễ để xảy
ra nguy cơ CTCP dễ bị thâu tóm bới một nhóm cổ đông lớn.
+ Quyền được nhận lại tài sản khi công ty phá sản, giải thể: Khi công ty cổ
phần không còn hoạt động nữa do phá sản hoặc giải thể, cổ đông có quyền nhận lại
phần tài sản của mình đã góp sau khi công ty đã thanh toán xong tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo thứ tự theo quy định pháp luật.
Nhóm quyền về quản trị/quản lý công ty của cổ đông (dự họp, biểu
quyết, đề cử, ứng cử...):
3
Bùi Xuân Hải (2011), Biện pháp bảo vệ cổ đông, thành viên công ty: Lý luận và thực tiễn, Tạp chí luật học
số 3/2011, tr. 11.
10
+ Quyền tham dự ĐHĐCĐ: ĐHĐCĐ là cơ quan quyền lực cao nhất trong
CTCP, là cơ quan hoạt động theo chế độ tập thể và không thường xuyên của CTCP.
Đây là một trong những quyền quan trọng hàng đầu của cổ đông trong công ty cổ
phần do thông qua cuộc họp ĐHĐCĐ, các cổ đông sẽ thực hiện các quyền khác của
mình như quyền bầu cử, quyền biểu quyết, quyền tiếp cận thông tin... Tuy nhiên,
theo pháp luật Việt Nam việc tham gia ĐHĐCĐ cũng bị giới hạn theo quy định của
pháp luật đối với một số loại cổ đông như cổ đông ưu đãi hoàn lại, cổ đông ưu đãi
cổ tức.
+ Quyền đề cử thành viên vào HĐQT, BKS:
Đa số các cổ đông công ty cổ phần không trực tiếp tham gia quản lý, điều
hành công ty nên để đảm bảo quyền lợi cho họ pháp luật cho phép cổ đông có
quyền đề cử người mình tin tưởng vào HĐQT để trực tiếp tham gia điều hành, quản
lý công ty và đề cử người vào BKS để giám sát hoạt động của công ty. Tuy nhiên
pháp luật nhiều nước trên thế giới đã quy định cổ đông phải nắm giữ một tỷ lệ cổ
phần nhất định trong một thời gian nhất định mới có quyền đề cử người vào HĐQT,
BKS.
+ Quyền biểu quyết: Cổ đông có quyền đưa ra ý kiến của mình bằng cách bỏ
phiếu tán thành hoặc không tán thành những vấn đề thuộc thẩm quyền quyết định
của ĐHĐCĐ.
Nhóm quyền mang tính khắc phục: Quyền khởi kiện và yêu cầu bồi thường
thiệt hại khi quyền lợi của cổ đông bị xâm phạm...
Nhóm quyền được thông tin: các cổ đông có quyền được tiếp cận các thông
tin liên quan đến công ty cổ phần ở từng mức độ khác nhau, tùy thuộc vào tỷ lệ cổ
phần nắm giữ theo quy định của pháp luật. Các cổ đông có thể được thông tin thông
qua các báo cáo tài chính, các cuộc họp ĐHĐCĐ...
1.1.2. Khái quát chung về ngƣời quản lý công ty cổ phần
1.1.2.1. Khái niệm người quản lý công ty cổ phần
Người quản lý trong doanh nghiệp nói chung và CTCP nói riêng là những
người chỉ đạo, điều hành, quyết định các vấn đề đối nội (quan hệ với các cổ đông, tổ
chức quản lý, nhân sự,..) và các vấn đề đối ngoại (tổ chức hoạt động kinh doanh, ký
kết hợp đồng, đại diện công ty trước bên thứ ba,…). Luật Doanh nghiệp 2014 quy
định: “Người quản lý doanh nghiệp là người quản lý công ty và người quản lý
doanh nghiệp tư nhân, bao gồm chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh,
Chủ tịch Hội đồng thành viên, thành viên Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty,
11
Chủ tịch Hội đồng quản trị, thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng
giám đốc và cá nhân giữ chức danh quản lý khác có thẩm quyền nhân danh công ty
ký kết giao dịch của công ty theo quy định tại Điều lệ công ty”. (Khoản 18 Điều 4).
Theo cách tiếp cận của LDN 2014 thì người quản lý trong CTCP gồm có:
Chủ tịch HĐQT, thành viên HĐQT, GĐ hoặc TGĐ và cá nhân giữ chức danh quản
lý khác có thẩm quyền nhân danh công ty giao kết giao dịch của công ty theo quy
định tại Điều lệ công ty. Theo như cơ cấu phân bổ quyền lực trong công ty cổ phần
thì các thành viên HĐQT là cơ quan được ĐHĐCĐ chọn ra và ủy quyền để thay
mặt mình quản lý công ty (Điểm c Khoản 2 Điều 135). Vì vậy, các thành viên
HĐQT là người quản lý công ty. HĐQT chọn Ban điều hành công ty để điều hành
hoạt động kinh doanh hàng ngày (Điểm i,k Khoản 2 Điều 149). Ban điều hành này
bao gồm TGĐ và các phó TGĐ, GĐ chi nhánh, quản đốc,… Những người giữ chức
danh quản lý trên được coi là người quản lý công ty.
Từ cách tiếp cận này, có thể nói rằng, pháp luật Việt Nam xác định ai là
người quản lý công ty theo chức danh. Điều này khác so với khái niệm về người
quản lý công ty ở một số nước khác. Tham khảo pháp luật về tổ chức các loại hình
doanh nghiệp của các quốc gia theo hệ thống pháp luật Common Law như
Singapore, Canada, Australia, việc xác định ai là người quản lý công ty dựa trên
nguyên tắc: (1) là thành viên Ban giám đốc; (2) giữ vị trí hoặc thực hiện vai trò
trong vị trí của GĐ; (3) người đưa ra các chỉ đạo để giám đốc làm theo4. Với cách
tiếp cận này thì người quản lý công ty không nhất thiết phải giữ một chức danh
quản lý công ty. Trong hoạt động xét xử, các Tòa án xác định ai là người quản lý
công ty theo chức năng, công việc mà người đó làm chứ không phải chỉ theo chức
danh. Vì thế, một người không được bổ nhiệm làm GĐ vẫn có thể bị Tòa án coi là
giám đốc và phải chịu trách nhiệm như giám đốc. Ngoài ra, mỗi công ty không chỉ
có một GĐ/TGĐ mà có giám đốc điều hành và giám đốc không điều hành. Để quyết
định một vấn đề liên quan đến hoạt động của công ty thì đòi hỏi sự tham gia của cả
Hội đồng giám đốc. Các giám đốc đều có nghĩa vụ như nhau mà không có sự phân
biệt giữa giám đốc điều hành hoặc không điều hành.
Như vậy, khái niệm “người quản lý công ty” theo LDN 2014 không giống
với cách định nghĩa trong luật một số nước theo hệ thống pháp luật Common Law.
Tuy vậy, ở một góc độ nhất định, người quản lý công ty theo LDN 2014 cũng có
4
Nguyễn Thị Vân Anh (2012), Một số nghĩa vụ của người quản lý công ty trong công ty cổ phần theo Luật
Doanh nghiệp 2005, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Hà Nội, Số 2 tháng 4/2012, tr.24.
12
những chức năng tương tự như là họp, biểu quyết, quyết định về quản lý công ty…
Pháp luật doanh nghiệp quy định chặt chẽ về trách nhiệm của người quản lý công ty
nhằm bảo đảm quyền lợi của các cổ đông trong công ty, bảo vệ quyền lợi của chính
công ty đó với tư cách là chủ thể độc lập. Đây là một trong những nền tảng cho sự
phát triển lâu dài của công ty. Không chỉ các quy định pháp luật ràng buộc trách
nhiệm của người quản lý doanh nghiệp mà còn bảo vệ quyền lợi của người lao
động, của khách hàng.
1.1.2.2. Nghĩa vụ của người quản lý công ty cổ phần
Về mặt lý luận, mối quan hệ giữa người quản lý CTCP và các cổ đông có thể
được xem như là quan hệ ủy quyền. Người quản lý có địa vị của “người được ủy
quyền” để thực hiện việc quản lý điều hành công ty. Vì vậy, người quản lý công ty
có nghĩa vụ thực hiện quản lý, điều hành công ty trên nguyên tắc vì lợi ích của công
ty và cổ đông. Như vậy, nghĩa vụ được đặt ra cho người quản lý công ty trước hết là
nghĩa vụ đối với công ty và cổ đông. Tuy nhiên lợi ích của công ty và cổ đông luôn
được đặt trong mối quan hệ với lợi ích của các chủ thể khác như chủ nợ, người lao
động, cơ quan nhà nước…Về nguyên tắc, lợi ích của công ty và cổ đông sẽ không
được chấp nhận nếu lợi ích đó đặt được bằng cách gây thiệt hại đến lợi ích của các
chủ thể trên. Vì vậy, người quản lý công ty có nghĩa vụ vì lợi ích tối đa đối với công
ty và cổ đông nhưng không xâm phạm đến lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác.
Nghĩa vụ của người quản lý CTCP là những xử sự mang tính bắt buộc của
người quản lý CTCP có chứa đựng những yếu tố sau đây (1) vì lợi ích tốt nhất của
công ty; (2) giải quyết xung đột lợi ích; và (3) thiện chí và trung thực trong khi thực
hiện nhiệm vụ được giao5.
(i)
Vì lợi ích tốt nhất của công ty và của cổ đông
Theo nguyên lý thông thường, không thể có một người nào lại ủy quyền cho
một người khác đại diện cho mình để làm bất lợi cho mình. Vì lẽ đó, với tư cách là
người đại diện, người quản lý CTCP luôn đặt lợi ích của công ty và của cổ đông ở
vị trí ưu tiên so với các lợi ích khác. Mặt khác, ngày nay, hoạt động kinh doanh của
công ty có ảnh hưởng đến nhiều nhóm lợi ích trong xã hội như người lao động,
khách hàng, nhà cung cấp, cơ quan nhà nước, cộng đồng dân cư… Thực tế đã
chứng minh, nhiều doanh nghiệp vì chạy theo lợi nhuận tối đa trước mắt, đã gây
5
Đỗ Minh Tuấn (2017), Pháp luật về nghĩa vụ của người quản lý công ty cổ phần ở Việt Nam, Luận án Tiến
sĩ Luật học, Đại học luật Hà Nội, Hà Nội, tr. 53.
13
thiệt hại lớn mà cộng đồng phải gánh chịu. Vì vậy, “lợi ích tốt nhất” của công ty và
cổ đông được hiểu là người quản lý công ty cổ phần phải thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn vì lợi ích cao nhất của công ty và của cổ đông trong phạm vi không xâm phạm
lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác.
(ii)
Giải quyết xung đột lợi ích
Người quản lý CTCP phải giải quyết xung đột lợi ích giữa các nhóm lợi ích
liên quan đến công ty như các chủ nợ, người lao động, người quản lý CTCP, công
ty và cổ đông.
Khi xảy ra xung đột lợi ích giữa công ty với người quản lý CTCP thì lợi ích
của công ty được ưu tiên. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là người quản lý
CTCP phải hy sinh những lợi ích chính đáng của mình. Người quản lý CTCP chỉ bị
cấm hưởng các lợi ích không chính đáng bằng cách xâm phạm lợi ích của công ty,
như xác lập các giao dịch có nguy cơ tư lợi để chiếm đoạt tài sản của công ty.
Người quản lý CTCP vừa phải bảo đảm đảm tối đa hóa lợi ích của công ty
vừa phải bảo đảm không xâm phạm lợi ích hợp pháp của chủ thể khác. Như lợi ích
tối đa của công ty không được vượt quá mức giới hạn mà sẽ dẫn đến gây phương
hại đến lợi ích của chủ thể khác. Thông thường, pháp luật sẽ bảo vệ những lợi ích
quan trọng như quyền thu thuế của nhà nước, bảo vệ môi trường, bảo vệ lợi ích tối
thiểu của người lao động,... Hành vi xâm phạm các lợi ích này là hành vi trái pháp
luật. Do đó, lợi ích hợp pháp tối đa của công ty là lợi ích cao nhất mà công ty đạt
được mà không trái với quy định của pháp luật.
Tựu chung, nội dung các nghĩa vụ của người quản lý CTCP được xây dựng
dựa trên cơ sở người quản lý CTCP thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn vì lợi ích tối đa
của công ty nhưng không xâm phạm đến lợi ích hợp pháp của chủ thể khác.
(iii) Sự thiện chí, trung thực khi thực hiện quyền, nhiệm vụ được giao.
Khi thực hiện nhiệm vụ được giao, người quản lý CTCP phải thực hiện công
việc một cách thiện chí, trung thực vì lợi ích tốt nhất của công ty. Như các phần
phân tích ở trên, quan hệ giữa công ty và người quản lý CTCP là quan hệ ủy quyền.
Nguyên tắc thiện chí, trung thực là một trong những nguyên tắc nền tảng của các
quan hệ dân sự. Vì vậy, người quản lý CTCP cũng phải “thiện chí, trung thực” với
công ty trong mối quan hệ giữa công ty với người quản lý công ty. Theo đó, “thiện
14
chí, trung thực” đòi hỏi người quản lý CTCP phải thực hiện hành vi mà người này
tin tưởng một cách hợp lý rằng hành vi vì lợi ích tốt nhất của công ty.6
1.1.3. Mối quan hệ và sự phân chia quyền lực giữa cổ đông và ngƣời
quản lý công ty cổ phần
Luật công ty hiện đại của các dòng họ luật trên thế giới đều phân chia quyền
lực trong CTCP, tức là thẩm quyền quyết định các vấn đề liên quan đến công ty,
giữa các cổ đông và người quản lý. Những lý thuyết quan trọng về sự phân chia
quyền lực trong công ty hiện đại đã xuất hiện từ những năm 30 của thế kỷ trước.
Các học giả về Luật công ty hiện đại quan tâm đến sự phân tách sở hữu và quản lý,
đặc biệt trong các CTCP, có nhiều cổ đông, nơi mà các cổ đông chỉ quan tâm tới giá
trị cổ phiếu trên thị trường, cùng với một quyền rất quan trọng là lựa chọn các nhà
quản lý mang lại giá trị cao nhất có thể cho cổ phần của họ. Cũng từ đó, các lý
thuyết về đại diện đã xuất hiện để lý giải mối quan hệ giữa cổ đông và các nhà quản
lý, người ta bàn nhiều về bản chất mối quan hệ giữa cổ đông và người quản lý công
ty, việc làm thế nào để hạn chế hành vi tư lợi của người quản lý và bảo vệ lợi ích
cho nhà đầu tư.7
Bản chất mối quan hệ giữa cổ đông và người quản lý CTCP phát sinh từ việc
giữa họ không có sự đồng nhất về mục tiêu, ý chí, quan điểm. Chủ sở hữu luôn đặt
ra những mục tiêu làm sao cho đồng vốn mình bỏ ra thu lợi nhuận nhiều nhất. Chủ
sở hữu, nhà đầu tư lo ngại về việc thất thoát và sử dụng kém hiệu quả nguồn tài
chính đã cung cấp cho doanh nghiệp. Do vậy, chủ sở hữu có xu hướng giành quyền
kiểm soát mọi hoạt động. GĐ/TGĐ, các vị trí điều hành chủ chốt bị hạn chế và khó
linh hoạt với các quyết định điều hành khi chịu quá nhiều kiểm soát từ các nhà cung
cấp tài chính. Thêm vào đó, xung đột cũng nằm trong việc phân chia phần lợi nhuận
mà doanh nghiệp tạo ra. Chủ sở hữu và nhà đầu tư, một cách hợp lý, hưởng phần
lớn lợi nhuận. Đội ngũ điều hành, hưởng một mức lương nhất định, phụ cấp, tiền
thưởng và họ có thể không hài lòng với điều này khi lý luận rằng ngoài lượng tư
bản ban đầu bỏ ra, nhóm cung cấp tài chính không còn đóng góp gì thêm cho doanh
nghiệp. Trong khi đó, chính họ, những người quản lý với năng lực và danh tiếng
của mình, đang ngày đêm gắn bó với hoạt động vận hành và làm nên thành công
6
Đỗ Minh Tuấn (2017), Pháp luật về nghĩa vụ của người quản lý công ty cổ phần ở Việt Nam, Luận án Tiến
sĩ Luật học, Đại học luật Hà Nội, Hà Nội, tr.56.
7
Bùi Xuân Hải (2008), So sánh cấu trúc quản trị nội bộ của công ty cổ phần Việt Nam với các mô hình điển
hình trên thế giới, ngày 20/02/2008.
15
cho doanh nghiệp. Ngược lại, các nhà đầu tư tin rằng họ đã chấp nhận rủi ro lớn khi
bỏ vốn vào doanh nghiệp. Những mâu thuẫn gay gắt về quyền lợi đó đã tạo ra
những tổn thất lớn trong doanh nghiệp mà chúng ta thường gọi là chi phí đại diện.
Trong hoạt động của doanh nghiệp, tồn tại hai nhóm liên quan mật thiết:
nhóm cung cấp nguồn lực tài chính và nhóm điều hành doanh nghiệp. Bảo đảm và
phân chia quyền lợi giữa hai nhóm này là nguyên nhân phát sinh xung đột lợi ích
trong doanh nghiệp.
Các cơ chế giải quyết mối xung đột lợi ích giữa các nhóm trong doanh
nghiệp đã được phát triển và sử dụng hiệu quả tại: Mỹ, Đức, Nhật, và Anh. Với các
nền kinh tế kém phát triển, và đang trong giai đoạn chuyển đổi, gần như chưa hề
xuất hiện cơ chế giải quyết này. Giải quyết bất hợp lý xung đột lợi ích giữa nhóm sở
hữu và nhóm điều hành là nguyên nhân dẫn tới: tình trạng thất thoát tài sản doanh
nghiệp trong quá trình tư nhân hóa tại Nga; một số tập đoàn Hàn Quốc bán lại các
nhà máy thành viên cho người thân của lãnh đạo điều hành với giá rẻ; cán bộ quản
lý cung cấp sản phẩm của doanh nghiệp đang điều hành cho doanh nghiệp của riêng
mình hoặc thân cận với mình với nhiều điều kiện ưu đãi8... Cạnh tranh trên thị
trường sẽ buộc doanh nghiệp tìm mọi cách giảm thiểu chi phí sản xuất. Một trong
các giải pháp là tìm tới các nguồn tài chính có giá rẻ hơn. Qua đó, xung đột lợi ích
giữa hai nhóm sẽ được giải quyết. Tuy nhiên, trông chờ vào sự tự điều chỉnh nhờ cơ
chế thị trường là không khả quan. Giải pháp phải là của chính doanh nghiệp.
Theo lý thuyết về quản trị công ty, cổ đông sẽ dùng quyền lực của mình để
chi phối nhân sự và từ đó đến hoạt động của HĐQT, nhằm tìm kiếm người đại diện
cho lợi ích của mình. HĐQT sẽ thay mặt cho cổ đông để giải quyết những vấn đề
quan trọng trong CTCP giữa các phiên họp thường niên như chiến lược phát triển
công ty, nhân sự cao cấp… nhằm đảm bảo hiệu quả hoạt động của CTCP ở mức tối
ưu. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, quyền lợi của người đại diện này lại không
đồng nhất với quyền lợi của cổ đông; nói một cách khác, thành viên HĐQT khi theo
đuổi lợi ích của chính mình lại gây ra mâu thuẫn với lợi ích của cổ đông. Để giải
quyết vấn đề người đại diện, Luật công ty các nước thường khuyến khích cổ đông
các công ty cổ phần lựa chọn thành viên độc lập như là một biện pháp làm giảm
mâu thuẫn về lợi ích giữa HĐQT và cổ đông.
8
Andrei Shleifer, Robert W. Vishny, 1997. A Survey of Corporate Governance. The Journal of Finance, Vol.
52, No. 2, (Jun. , 1997), pp. 737-783.
16
Công ty cổ phần có cấu trúc quản trị tương đối đặc thù: cơ quan quyền lực
cao nhất trong công ty là ĐHĐCĐ, ĐHĐCĐ lại bầu ra cơ quan đại diện thường trực
cho mình là HĐQT, và HĐQT với tư cách là đại diện chủ sở hữu sẽ chỉ định
GĐ/TGĐ để điều hành hoạt động hàng ngày của CTCP hoặc theo Điều lệ công ty
của một số doanh nghiệp thì cho phép ĐHĐCĐ bầu GĐ/TGĐ. Để đảm bảo giám sát
hoạt động của GĐ/TGĐ và HĐQT, ĐHĐCĐ lại bầu ra BKS. Sự tách biệt giữa
quyền sở hữu và quyền quản lý gây ra mâu thuẫn tiềm tàng giữa cổ đông và ban
quản trị. Một phương pháp giảm mâu thuẫn là khuyến khích nhà quản trị sở hữu cổ
phần. Tuy nhiên, phương pháp này gây ra hai hiệu ứng giữa cấu trúc sở hữu và hiệu
quả hoạt động của công ty cổ phần: hiệu ứng hội tụ cho rằng có tương quan dương
giữa vốn hoá công ty và tỷ trọng sở hữu của nhà quản trị, còn hiệu ứng ngăn chặn
cho rằng tương quan âm vì tỷ trọng sở hữu lớn của nhà quản trị ngăn chặn việc
kiểm soát công ty từ thị trường9. Ở Việt Nam hiện nay, cổ đông lớn là những cổ
đông sở hữu trên 5% số cổ phần có quyền biểu quyết trong công ty cổ phần10. Có
thể chia các cổ đông lớn thành 3 nhóm chính: cổ đông nhà nước, cổ đông lớn tư
nhân trong nước và cổ đông nước ngoài.
1.1.4. Ý nghĩa của việc phân chia quyền lực giữa cổ đông và ngƣời quản
lý công ty cổ phần
Số lượng cổ đông trong cổ phần có thể rất đông, do vậy, khó có thể duy trì
hình thức quản lý theo kiểu thành viên góp vốn đứng ra trực tiếp điều hành, quản lý
công ty như Hợp tác xã, doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn; hay
mọi thành viên trong công ty đều có quyền tham gia trong hoạt động quản lý, điều
hành và có thể nhân danh công ty trong mọi giao dịch như các thành viên hợp danh
trong công ty hợp danh. Khó có thể tưởng tượng một CTCP với số lượng hàng trăm,
hàng nghìn cổ đông, mỗi người đều có thể hành động nhân danh công ty và mỗi
người phải chịu trách nhiệm về hành động của hàng triệu thành viên còn lại.
Do vậy, ở loại hình CTCP, thường có sự tách bạch giữa quyền sở hữu công
ty và quyền quản lý, điều hành công ty11. Ông Nguyễn Ngọc Bích đã ví nếu CTCP
9
Trung tâm bồi dưỡng Đại biểu Dân cử - UBTCQH – Ban công tác Đại biểu (2014), Giải pháp giải quyết
xung đột quyền lợi trong công ty cổ phần tại Việt Nam, Hà Nội, tr.3.
10
Khoản 9 Điều 6 Luật Chứng khoán 2006 sửa đổi bổ sung năm 2010.
11
Nguyễn Ngọc Bích (2000), Toàn cảnh thị trường chứng khoán, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, Hồ Chí
Minh, tr267.
17
là một chiếc xe Taxi thì người chủ của CTCP là người chủ của chiếc xe, còn tài xế
chính là người quản lý công ty đó. Người chủ có thể có rất nhiều xe và không nhất
thiết phải biết lái xe12. Còn theo Clarke13, lợi ích kinh tế của sự tách bạch này là góp
phần chuyên môn hóa hoạt động của công ty. Bởi vì, nhà đầu tư không phải và
không nhất thiết phải là người có khả năng trực tiếp quản lý công ty tốt. Sự chuyên
môn hóa làm giảm chi phí quản lý, điều hành công ty. Nếu hàng nghìn cổ đông
cùng trực tiếp tiếp nhận thông tin, cùng đánh giá, phân tích và thảo luận để đưa ra
được một quyết định tác nghiệp kinh doanh tốt nhất là một quy trình cực kỳ phức
tạp và không hiệu quả.
Với mục đích giảm chi phí, các cổ đông sẽ ủy quyền cho các nhà quản lý
chuyên nghiệp quản lý công ty của mình. Và để đảm bảo rằng các nhà quản lý
không đi ngược lại lợi ích của mình, các cổ đông thành lập ra bộ máy, cơ chế để
quản lý, kiểm soát hoạt động của bộ máy điều hành. Đó là HĐQT,GĐ/TGĐ, BKS
và các chế định thủ tục khác. Cổ đông chỉ duy trì một số quyết định quan trọng liên
quan đến định hướng quan trọng đối với công ty như giải thể, tách, nhập, sửa đổi
điều lệ, thông qua quyền bỏ phiếu của mình tại ĐHĐCĐ.
Có nhiều cách để các cổ đông thể hiện sự không nhất trí với cách thức điều
hành công ty. Đối với các cổ đông nắm đa số cổ phần hay có thể tập hợp, liên kết lại
thành nhóm nắm đa số vốn cổ phần, các cổ đông có thể bãi miễn bộ máy quản lý cũ,
bầu ra bộ máy quản lý mới và như vậy khi mà bộ máy quản lý cũ thay đổi thì đương
nhiên người quản lý cũng phải thay đổi theo. Đối với các cổ đông thiểu số, cách đơn
giản là bán cổ phiếu của mình đi. Khi nhiều cổ đông cùng bán ra thì giá cổ phiếu
của công ty trên thị trường sẽ giảm, bộ máy điều hành công ty sẽ chịu sức ép phải
cải tổ, thay đổi. Hoặc các cổ đông có thể liên kết với nhau, để bỏ phiếu thay đổi bộ
máy quản lý, tiến đến bộ máy quản lý mới sẽ phải lựa chọn người quản lý mới đáp
ứng yêu cầu của các cổ đông nếu như không muốn như bộ máy quản lý tiền nhiệm.
Vai trò cùa các cổ đông và người quản lý trong CTCP là khác nhau. Theo
cách nghĩ truyển thống, cổ đông là người chủ sở hữu công ty không phải là người
quản lý công ty; quyền quản lý công ty được trao vào tay người khác gọi là người
12
Nguyễn Ngọc Bích (2004), Luật doanh nghiệp: Vốn và quản lý trong công ty cổ phần, NXB Trẻ, Hồ Chí
Minh, tr.16.
13
Berger, Allen N. & Clarke, George R. G. & Cull, Robert & Klapper, Leora & Udell, Gregory F. (2005),
Corporate governance and bank performance: a joint analysis of the static, selection, and dynamic effects of
domestic, foreign, and state ownership, The World Bank, Policy Research Working Paper Series 3632;