Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Xác định những người tham gia tố tụng trong vụ án dân sự và thực tiễn tại các tòa án nhân dân trên địa bàn tỉnh lạng sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.35 MB, 92 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
----------------------

HOÀNG THỊ LAN

XÁC ĐỊNH NHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG
VỤ ÁN DÂN SỰ VÀ THỰC TIỄN TẠI CÁC TÒA ÁN NHÂN
DÂN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LẠNG SƠN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
----------------------

HOÀNG THỊ LAN

XÁC ĐỊNH NHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG
VỤ ÁN DÂN SỰ VÀ THỰC TIỄN TẠI CÁC TÒA ÁN NHÂN
DÂN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LẠNG SƠN


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành : Luật dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số

: 8380103

Người hướng dẫn khoa khọc: TS. Nguyễn Quang Thái

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng,
được trích dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung thực của Luận văn này.

Tác giả luận văn

Hoàng Thị Lan


DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT

TT

Tên viết tắt


Tên viết đầy đủ

1

BLDS

Bộ luật Dân sự

2

BLTTDS

Bộ luật Tố tụng dân sự

3

NLHVDS

Năng lực hành vi dân sự

4

UBND

Ủy ban nhân dân


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU .................................................................................................. 1
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ XÁC ĐỊNH NHỮNG

NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG VỤ ÁN DÂN SỰ ...................... 9
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của những ngƣời tham gia tố tụng trong
vụ án dân sự ..................................................................................................... 9
1.1.1. Khái niệm những người tham gia tố tụng trong vụ án dân sự ................ 9
1.1.2. Đặc điểm của những người tham gia tố tụng trong vụ án dân sự .......... 11
1.1.3. Vai trò của những người tham gia tố tụng trong vụ án dân sự ............ 12
1.2. Khái niệm, cơ sở xác định ngƣời tham gia tố tụng trong vụ án dân sự
......................................................................................................................... 14
1.2.1. Khái niệm xác định người tham gia tố tụng trong vụ án dân sự .............. 14
1.2.2. Cơ sở xác định tư cách tham gia tố tụng của những người tham gia tố
tụng trong vụ án dân sự .................................................................................. 15
1.3. Ý nghĩa của việc xác định tƣ cách tham gia tố tụng của những ngƣời
tham gia tố tụng ............................................................................................. 21
1.4. Nội dung quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành trong xác
định những ngƣời tham gia tố tụng trong vụ án dân sự ........................... 22
1.4.1. Quy định về xác định đương sự trong vụ án dân sự ............................. 22
1.4.2. Người đại diện hợp pháp của đương sự trong vụ án dân sự ................ 31
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 .............................................................................. 39
CHƢƠNG 2: THỰC TIỄN XÁC ĐỊNH NHỮNG NGƢỜI THAM GIA
TỐ TỤNG TRONG VỤ ÁN DÂN SỰ TẠI CÁC TÒA ÁN NHÂN DÂN
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LẠNG SƠN VÀ KIẾN NGHỊ ............................. 40
2.1. Thực tiễn xác định những ngƣời tham gia tố tụng trong vụ án dân sự
tại các Tòa án nhân dân trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn ................................ 40


2.1.1. Khái quát tình hình kinh tế - xã hội của Lạng Sơn có liên quan trực tiếp
đến việc xác định những người tham gia tố tụng trong vụ án dân sự tại Tòa án
nhân dân tỉnh Lạng Sơn .................................................................................. 40
2.1.2. Kết quả đạt được, những hạn chế trong việc xác định người tham gia
tố tụng trong vụ án dân sự của Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn .................. 41

2.1.3. Nguyên nhân dẫn đến việc xác định sai, thiếu tư cách người tham gia tố
tụng trong vụ án dân sự .................................................................................. 57
2.2. Kiến nghị ................................................................................................. 59
2.2.1. Giải pháp chung .................................................................................... 59
2.2.2. Giải pháp liên quan đến việc xác định những người tham gia tố tụng
trong vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn ................................. 66
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 .............................................................................. 69
KẾT LUẬN .................................................................................................... 70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của việc nghiên cứu đề tài
Cơ quan tiến hành tố tụng dân sự, người tiến hành tố tụng dân sự và
người tham gia tố tụng dân sự là các chủ thể của pháp luật tố tụng dân sự hay
là các cá nhân, tổ chức tham gia vào quan hệ pháp luật tố tụng dân sự. Việc
tham gia của những người này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc giải quyết
vụ án tranh chấp dân sự bởi suy cho cùng việc pháp luật quy định tham gia tố
tụng của người tham gia tố tụng, bản chất là để bảo vệ quyền con người,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân trong vụ án dân sự.
BLTTDS 2015, chứa đựng nhiều điểm mới, tiến bộ như bổ sung một số
nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng;
hoàn thiện hơn quy trình tố tụng, quyền đưa ra chứng cứ chứng minh cho yêu
cầu, bảo đảm quyền tranh luận tại phiên toà của đương sự được quy định rõ
ràng, đảm bảo tính thực tế, qua đó các quyền con người, quyền công dân
trong pháp luật tố tụng dân sự tuân thủ đúng với tinh thần của Hiến pháp năm
2013, thể chế chiến lược cải cách tư pháp theo hướng công khai, minh bạch,
dân chủ, tháo gỡ những bất cập vướng mắc trong thực tiễn áp dụng BLTTDS

2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011).
Quá trình triển khai thi hành BLTTDS 2015 thời gian qua, nhìn chung
khá thuận lợi. Tuy nhiên, trên thực tế khi áp dụng một số điều luật của Bộ luật
này (trong đó có quy định về người tham gia tố tụng dân sự) chưa có quy định
rõ ràng nên đã phát sinh bất cập, từ đó, việc hiểu và áp dụng không thống
nhất, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Hơn nữa, thực
tiễn trong quá trình xét xử vụ án dân sự, vẫn còn nhiều vụ án phải hủy một
phần hoặc toàn bộ do liên quan đến việc xác định những người tham gia tố
tụng dẫn đến vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.


2

Trong xu hướng hội nhập hiện nay, vấn đề về việc xác định những
người tham gia tố tụng trong vụ án dân sự ngày càng được chú trọng. Từ
trước đến nay, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật nhằm quy định,
xác định rõ các chủ thể tham gia và đảm bảo quyền và lợi ích của họ. Tuy
nhiên, với sự phát triển của nền kinh tế, những thay đổi về xã hội có thể nhận
thấy quy định về việc xác định những người tham gia tố tụng dân sự tại các
văn bản pháp luật vẫn còn bộc lộ một số bất cập, chưa kp thời đáp ứng với
yêu cầu của xã hội trong thời kỳ phát triển và hội nhập như hiện nay.
Bên cạnh đó, trong quá trình thực tiễn áp dụng các quy định về những
người tham gia tố tụng dân sự các văn bản pháp luật còn gặp nhiều khó khăn
và lúng túng thậm chí Tòa án xác định thiếu chính xác thành phần và tư cách
tham gia tố tụng đã ảnh hưởng đến việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố
tụng của những người tham gia tố tụng dân sự trong vụ án dân sự.
Trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn có tổng số 12 Tòa án nhân dân, trong đó có
01 Tòa án nhân dân tỉnh, 01 Tòa án nhân dân thành phố và 10 Tòa án nhân
dân huyện. Trong những năm gần đây, các vụ án về dân sự ngày càng tăng cả
về số lượng và tính phức tạp của vụ việc, trong khi số lượng cán bộ tòa án

thực hiện các hoạt động liên quan đến công tác xét xử vụ án thì không tăng,
thậm chí còn giảm do yêu cầu về tinh giản biên chế theo yêu cầu chung của
ngành. Theo báo cáo sơ kết công tác 6 tháng đầu năm 2018 của các đơn vị
Tòa án nhân dân trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn, tỉ lệ giải quyết án của mỗi Thẩm
phán đạt 3,9 vụ, việc tháng, cao nhất có Thẩm phán đạt 10 vụ/tháng. Tuy
nhiên, số lượng án dân sự bị hủy do liên quan đến việc xác định những người
tham gia tố tụng trong những năm gần đây ngày càng tăng. Bên cạnh số lượng
và tính phức tạp của các vụ án ngày càng gia tăng, thì chất lượng cán bộ làm
công tác tại Tòa án cũng là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến việc


3

xác định không đúng những người tham gia tố tụng trong vụ án dân sự ở Tòa
án nhân dân thuộc tỉnh Lạng Sơn trong thời gian vừa qua.
Trước thực trạng nêu trên, việc xác định những người tham gia tố tụng
dân sự trong vụ án dân sự là vấn đề cần thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn
quan trọng, giúp chúng ta nhìn nhận bao quát, trọn vẹn và chính xác hơn về
những người tham gia tố tụng dân sự, tạo cơ sở trong việc xác định đúng
thành phần, tư cách, quyền và nghĩa vụ của họ trong vụ án dân sự, đảm bảo
quyền và lợi ích hợp pháp của họ trong quá trình giải quyết vụ án dân sự.
Với những lý do trên, tác giả lựa chọn đề tài “Xác định những người
tham gia tố tụng trong vụ án dân sự và thực tiễn tại các Tòa án nhân dân
trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn” làm đề tài Luận thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Có nhiều công trình nghiên cứu đã được công bố liên quan vấn đề xác
định những người tham gia tố tụng trong vụ án dân sự. Cụ thể:
- “Đương sự trong vụ án dân sự”, Luận văn thạc sĩ luật học của Đào
Thu Hải Yến, Trường Đại học Luật Hà Nội (2015);
- "Đương sự trong tố tụng dân sự - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn",

Luận văn Tiến sỹ Luật học của Nguyễn Triều Dương, Trường Đại học Luật
Hà Nội (2010);
- "Xác định tư cách của đương sự trong tố tụng dân sự Việt Nam",
Luận văn thạc sỹ luật học của Vương Thanh Tân, Trường Đại học Luật Hà
Nội (2015);
- “Người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự”, Luận văn thạc sĩ
luật học của Nguyễn Thị Ngọc Hà, Trường Đại học Luật Hà Nội (2012);
- “Đại diện theo pháp luật của đương sự trong tố tụng dân sự Việt
Nam”, Luận văn thạc sĩ luật học, Phạm Thị Thu Hoài, Trường Đại học Luật
Hà Nội (2017);


4

- Chế định người đại diện của đương sự trong pháp luật tố tụng dân sự
Việt Nam”, Khóa luận tốt nghiệp của Hồ Nguyên Bình (2012);
- Các bài viết: “Việc đưa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vào
tham gia tố tụng trong vụ án dân sự”, của Ma Thị Tuyết Mai, Tạp chí Tòa án
nhân dân tối cao, Số 10/2014, tr.19-21; “Vấn đề xác định những người tham
gia tố tụng và tư cách của họ trong vụ án dân sự”, của Thanh Sơn, Tạp chí
Tòa án nhân dân tối cao, Số 2/2000, tr.17-18; “Cần có văn bản hướng dẫn rõ
quyền, nghĩa vụ của người tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền,
nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự”, của Nguyễn Ngọc Kiện, Tạp chí Viện
Kiểm sát nhân dân tối cao, Số 21/2009, tr.35-37...
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên đây chỉ nghiên cứu, đề cập
đến một số khía cạnh liên quan đến người tham gia tố tụng dân sự trong vụ án
dân sự mà chưa có công trình nào nghiên cứu về việc xác định những người
tham gia tố tụng dân sự trong vụ án dân sự và thực tiễn áp dụng tại các Tòa án
nhân dân trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn, do đó mục tiêu, đối tượng và phạm vi
nghiên cứu của đề tài Luận văn không trùng lặp với các công trình đã công bố

nêu trên.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Về đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu chủ yếu về
một số vấn đề chung về cách xác định người tham gia tố tụng trong vụ án
dân sự mà trọng tâm là đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự.
Thực tiễn về xác định tư cách những người tham gia tố tụng trong vụ án dân
sự tại các Tòa án nhân dân trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn. Từ đó đưa ra các kiến
nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định về việc xác định những người
tham gia tố tụng dân sự, đồng thời bảo đảm thực hiện các quy định của pháp
luật tố tụng dân sự về xác định những người tham gia tố tụng trong vụ án
dân sự.


5

- Về phạm vi nghiên cứu của đề tài: Tác giả tập trung nghiên cứu các
quy định liên quan đến việc xác định những người tham gia tố tụng trong vụ
án dân sự theo pháp luật tố tụng dân sự hiện hành, trong đó chủ yếu nghiên
cứu về xác định tư cách đương sự, tư cách người đại diện của đương sự, Luận
văn không nghiên cứu về năng lực pháp luật và năng lực hành vi tố tụng dân
sự của đương sự, quyền và nghĩa vụ tố tụng của đương sự, người đại diện của
đương sự, Luận văn nghiên cứu thực hiện áp dụng các quy định tại các Tòa án
nhân dân trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn trong thời gian năm 2011 đến nay để
phân tích, làm rõ và đạt được mục đích nghiên cứu.
Nghiên cứu thực trạng áp dụng pháp luật, thực tiễn trong việc xác định
những người tham gia tố tụng trong vụ án dân sự để đưa ra một số kiến nghị.
4. Cơ sở phƣơng pháp luận và các phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn đã dựa trên cơ sở phương pháp luật của chủ nghĩa Mác –
Lênin với phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử trong mối tương quan
với tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước. Trong quá trình nghiên

cứu, tìm hiểu, luận văn còn dựa trên cơ sở của tư tưởng Hồ Chí Minh; quan
điểm, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước.
Bên cạnh đó, tác giả còn sử dụng các phương pháp khác để phục vụ
việc nghiên cứu của mình như:
Phương pháp phân tích, tổng hợp: Tác giả sử dụng phương pháp phân
tích để phân tích các quy định về việc xác định những người tham gia tố tụng
dân sự trong vụ án dân sự để chỉ rõ, giải thích về nội dung của các quy định
đó. Đồng thời, tác giả sử dụng phương pháp tổng hợp nhằm tổng hợp, kế thừa
lại những kết quả của các công trình nghiên cứu liên quan từ trước đến nay
trên cơ sở sự kế thừa có chọn lọc. Trên cơ sở các phân tích, bình luận để thể
hiện góc nhìn mới, trực diện vấn đề về nội dung nghiên cứu theo pháp luật
hiện hành.


6

Phương pháp so sánh: Đề tài thực hiện việc so sánh các quy định pháp
luật hiện hành với các quy định từ thời trước đây, đồng thời so sánh các với
quan điểm của một số nhà nghiên cứu nội dung có liên quan để phân tích, đưa
ra quan điểm riêng của tác giả về vấn đề nghiên cứu.
Ngoài các phương pháp trên Luận văn còn sử dụng các phương pháp
nghiên cứu khác nhằm đạt được mục tiêu nghiên cứu.
5. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
- Mục đích:
+ Làm rõ các vấn đề lý luận liên quan đến việc xác định những người
tham gia tố tụng dân sự trong vụ án dân sự và thực trạng các quy định pháp
luật có liên quan;
+ Xác định những tồn tại, hạn chế và giải pháp để khắc phục những tồn
tại, hạn chế từ thực tiễn xác định tư cách người tham gia tố tụng trong vụ án
dân sự.

- Nhiệm vụ:
+ Phân tích, đánh giá các quy định hiện hành của pháp luật tố tụng dân
sự về xác định người tham gia tố tụng trong vụ án dân sự;
+ Nghiên cứu thực tiễn thực hiện quy định trong việc xác định những
người tham gia tố tụng dân sự trong vụ án dân sự tại các Tòa án nhân dân trên
địa bàn tỉnh Lạng Sơn để minh chứng cho những phân tích, đánh giá của tác
giả có cơ sở và thuyết phục.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của Luận văn
Về ý nghĩa lý luận: Luận văn có ý nghĩa quan trọng trong việc sửa đổi,
bổ sung và hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật tố tụng dân sự nói
chung và chế định về xác định những người tham gia tố tụng dân sự trong vụ
án dân sự nói riêng trên cơ sở những đề xuất, kiến nghị của luận văn.


7

Về ý nghĩa thực tiễn: Luận văn góp phần giúp cho các TAND ở tỉnh
Lạng Sơn nhận thức và xác định đúng tư cách tố tụng của đương sự, người đại
diện của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự. Luận văn có dẫn chứng một
số vụ việc từ thực tiễn tại Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn. Từ đó, người đọc
có thể có cách nhìn rõ hơn, cụ thể hơn về một số vấn đề, tồn tại trong việc xác
định những người tham gia tố tụng dân sự trên thực tế và những khó khăn,
vướng mắc.
7. Những đóng góp mới của Luận văn
Hiện nay chưa có công trình nghiên cứu cụ thể, đầy đủ quy định về việc
xác định những người tham gia tố tụng dân sự. Các công trình chỉ dừng lại ở
một mức độ một phần của đề tài như đương sự tham gia tố tụng dân sự hay
người đại diện theo pháp luật của đương sự tham gia tố tụng dân sự.
Luận văn phân tích toàn diện, chuyên sâu về khái niệm, đặc điểm, vai
trò việc xác định những người tham gia tố tụng dân sự trong vụ án dân sự.

Luận văn đã phân tích các quy định của pháp luật hiện hành về việc xác
định những người tham gia tố tụng dân sự cũng như thực tiễn thực hiện các
quy định của pháp luật tại các Tòa án nhân dân trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn, từ
đó rút ra những hạn chế và đề xuất một số giải pháp nhằm kiến nghị và hoàn
thiện pháp luật về xác định những người tham gia tố tụng dân sự.
Luận văn còn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho hoạt động
giảng dạy và nghiên cứu trong các cơ sở đào tạo ngành luật, các cán bộ
TAND ở tỉnh Lạng Sơn.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Nội dung của Luận văn gồm hai
chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về xác định những người tham gia tố
tụng trong vụ án dân sự.


8

Chương 2: Thực tiễn xác định những người tham gia tố tụng trong vụ
án dân sự tại các Tòa án nhân dân trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn và kiến nghị.


9

CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ XÁC ĐỊNH NHỮNG
NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG VỤ ÁN DÂN SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của những ngƣời tham gia tố tụng
trong vụ án dân sự
1.1.1. Khái niệm những người tham gia tố tụng trong vụ án dân sự
Trước hết, để tìm hiểu về khái niệm những người tham gia tố tụng
trong vụ án dân sự, chúng ta cần hiểu vụ án dân sự là gì?

Theo BLTTDS hiện hành quy định vụ án dân sự là các vụ án về tranh
chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động. Có thể
hiểu đơn giản vụ án dân sự là các tranh chấp xảy ra giữa các đương sự mà
theo quy định của BLTTDS thì cá nhân, tổ chức tự mình hoặc thông qua
người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Nếu như BLDS quy định địa vị pháp lý, chuẩn mực pháp lý về cách
ứng xử của cá nhân, pháp nhân; quyền, nghĩa vụ về nhân thân và tài sản của
cá nhân, pháp nhân trong các quan hệ được hình thành trên cơ sở bình đẳng,
tự do ý chí, độc lập về tài sản và tự chịu trách nhiệm thì BLTTDS quy định
những nguyên tắc cơ bản trong tố tụng dân sự; trình tự, thủ tục khởi kiện để
Tòa án nhân dân giải quyết các vụ án dân sự, việc dân sự và vụ việc dân sự;
nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến
hành tố tụng; quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng, của cá nhân, tổ
chức có liên quan nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự được
nhanh chóng, chính xác, công minh và đúng pháp luật, góp phần bảo vệ công
lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa,
bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức,
cá nhân; giáo dục mọi người nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật.


10

Như vậy, có thể thấy trong tố tụng dân sự luôn phản ảnh, chứa đựng
những mối quan hệ đa chiều dựa trên những nguyên tắc cơ bản nhằm chỉ rõ
những nội dung liên quan trong quá trình giải quyết dân sự.
Về khái niệm “tố tụng dân sự”: Có nhiều cách tiếp cận khác nhau về tố
tụng dân sự, nhưng cơ bản có chung một điểm đó là Tố tụng dân sự được hiểu
là cách thức, thủ tục tiến hành các hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng,
người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, của cá nhân, tổ chức có liên

quan, góp phần vào việc giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật về tố
tụng dân sự.
Có thể thấy, chủ thể tham gia tố tụng dân sự rất đa dạng và đầy đủ
nhằm đảm bảo các nguyên tắc cở bản trong tố tụng dân sự, trong đó một trong
những nguyên tắc cơ bản nhất trong tố tụng dân sự là tuân thủ pháp luật trong
tố tụng dân sự. Theo đó, mọi chủ thể tham gia tố tụng dân sự phải tuân theo
các quy định, quy trình của pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết
vụ án dân sự. Các chủ thể tham gia tố tụng dân sự trước hết phải là chủ thể
các các quan hệ pháp luật nội dung (hôn nhân và gia đình, dân sự, kinh doanh,
thương mại, lao động). Do vậy, chủ thể trong quan hệ pháp luật nội dung rất
phong phú và đa dạng; tuy nhiên, không phải tất cả các chủ thể trong quan hệ
pháp luật nội dung đều là chủ thể tham gia tố tụng dân sự, mà chỉ khi các chủ
thể trong quan hệ pháp luật nội dung không tôn trọng quyền, lợi ích của nhau,
không thực hiện đầy đủ các quyền, nghĩa vụ pháp lý với nhau dẫn đến việc
khởi kiện, tham gia hoạt động tố tụng dân sự sẽ trở thành chủ thể tham gia tố
tụng dân sự.
Người tham gia tố tụng trong vụ án dân sự được hiểu “là người tham
gia vào việc giải quyết vụ án dân sự và thi hành án dân sự để bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp của mình hay của người khác hoặc hỗ trợ Tòa án trong việc
giải quyết vụ án dân sự và thi hành án dân sự”. Theo đó, người tham gia vụ


11

án dân sự gồm đương sự, người đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của đương sự, người làm chứng, người giám định, người
phiên dịch và các tổ chức, cá nhận khác có liên quan nhằm hỗ trợ, giúp Tòa
án trong việc giải quyết vụ án dân sự, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
1.1.2. Đặc điểm của những người tham gia tố tụng trong vụ án dân sự

Từ khái niệm nêu trên, có thể nhận thấy người tham gia tố tụng trong
vụ án dân sự có các đặc điểm chính sau đây:
Thứ nhất, người tham gia tố tụng trong vụ án dân sự có thể là chủ thể
hoặc không phải là chủ thể quan hệ của pháp luật nội dung có quyền và lợi ích
bị xâm phạm hoặc cần được xác định trong vụ án dân sự. Quan hệ pháp luật
nội dung ở đây có thể là quan hệ dân sự, quan hệ hôn nhân và gia đình, quan
hệ kinh doanh thương mại, quan hệ lao động. Lợi ích bị xâm phạm hoặc cần
xác định trong vụ án dân sự có thể là lợi ích vật chất phát sinh từ tài sản hoặc
các lợi ích tinh thần phát sinh tư các giá trị nhân thân danh dự, uy tín, nhân
phẩm ... Họ tham gia tố tụng trong vụ án dân sự nên họ có thể tham gia trực
tiếp với tư cách là đương sự hoặc người thay mặt đương sự để bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của đương sự. Do đó, họ có thể là đương sự, người đại
diện hợp pháp của đương sự hoặc những người tham gia tố tụng khác như:
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự, người làm chứng,
người phiên dịch ... Họ đều là những người có thể trực tiếp hoặc bị triệu tập
tham gia vào hoạt động giải quyết vụ án dân sự.
Thứ hai, người tham gia tố tụng trong vụ án dân sự là những người
tham gia vào hoạt động giải quyết vụ án dân sự nhằm bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của mình hoặc để hỗ trợ Tòa án trong việc giải quyết vụ việc dân
sự. Khi có tranh chấp phát sinh từ các quan hệ nội dung, những người tham
gia tố tụng trong vụ án dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình


12

hoặc của đương sự đã đưa ra các yêu cầu thông qua việc khởi kiện yêu cầu
Tòa án giải quyết. Mỗi người tham gia tố tụng trong vụ án dân sự có vai trò,
quyền và nghĩa vụ không giống nhau. Chẳng hạn như: Người làm chứng tham
gia tố tụng để làm rõ các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự do biết được các
tình tiết, sự kiện đó. Lời khai của người làm chứng là một trong những nguồn

chứng cứ quan trọng để Tòa án giải quyết vụ án dân sự; Người giám định
tham gia tố tụng sử dụng kiến thức, kinh nghiệm chuyên môn để làm rõ các
tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự; Người phiên dịch là người tham gia tố
tụng để dịch ngôn ngữ khác ra tiếng Việt và ngược lại trong trường hợp có
người tham gia tố tụng không sử dụng tiếng Việt. Tuy nhiên, mục đích chung
của các người này là đều đảm bảo cho vụ án dân sự được giải quyết đúng quy
định pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho tổ chức, cá nhân có liên
quan và bảo vệ quyền con người.
Thứ ba, quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng dân sự
được quy định cụ thể trong pháp luật tố tụng dân sự. Để bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của đương sự, tổ chức, cá nhân, những người tham gia tố tụng
trong vụ án dân sự cần được pháp luật trao quyền và quy định nghĩa vụ cho
họ. Điều đó, đồng nghĩa việc những người tham gia tố tụng được sử dụng các
quyền hạn của mình mà pháp luật quy định trong quá trình giải quyết vụ án
dân sự. Bên cạnh đó, họ cũng cần phải tuân theo những nguyên tắc, có nghĩa
vụ thực hiện các quy định trong khuôn khổ pháp luật tố tụng dân sự trong quá
trình tham gia tố tụng nhằm, góp phần tạo sự công bằng, minh bạch, dân chủ
trong giải quyết vụ án dân sự.
1.1.3. Vai trò của những người tham gia tố tụng trong vụ án dân sự
Theo Từ điển tiếng Việt của Nhà xuất bản Đà Nẵng năm 2003 thì khái
niệm “vai trò” được hiểu là “tác dụng, chức năng của một vật, một cá thể,
một sự kiện một cái gì đó”1.
1

Từ điển tiếng Việt của Nhà xuất bản Đà Năng năm 2003, tr. 1095.


13

Như vậy, nói đến vai trò của người tham gia tố tụng trong vụ án dân sự

là nói đến những tác động, ảnh hưởng của những người tham gia tố tụng đối
với các cá nhân, tổ chức trong tố tụng dân sự, nói đến sự ảnh hưởng của người
tham gia tố tụng trong vụ án dân sự, là nói đến những tác động, ảnh hưởng
của họ đối với quá trình giải quyết vụ án dân sự, góp phần đảm bảo công bằng
xã hội. Vai trò của những người tham gia tố tụng trong vụ án dân sự thể hiện
ở những đặc điểm sau:
Một là, việc những người tham gia tố tụng trong vụ án dân sự là để bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc người khác hoặc để hỗ trợ cho
hoạt động tố tụng trong vụ án dân sự. Theo đó, mục đích của đương sự tham
gia vụ án dân sự là để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, trong khí
đó những đối tượng khác tham gia vụ án dân sự là để bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của người khác hoặc để hỗ trợ cho hoạt động tố tụng.
Hai là, việc tham gia tố tụng của họ còn có tác dụng nhất định trong
việc là rõ sự thật của vụ việc dân sự. Bên cạnh đó hoạt động của họ còn thúc
đẩy sự dân chủ tiến bộ của xã hội, góp phần hoàn thiện, bảo vệ nên pháp chế
xã hội chủ nghĩa. Việc xác định đúng đắn vai trò của người tham gia tố tụng
trong vụ án dân sự là một việc làm cần thiết và có ý nghĩa quan trọng. Các
hoạt động của họ có tác động đến cả hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng.
Ba là, những người tham gia tố tụng góp phần đảm bảo quyền tranh
tụng, bình đẳng trong quá trình xét xử. Khi xét xử, Tòa án phải đảm bảo mọi
công dân đều bình đẳng trước pháp luật, thực sự dân chủ, khách quan. Việc
phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên
tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát
viên… nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp pháp, người
đại diện để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và
trong thời hạn pháp luật quy định.


14


Bên cạnh đó, trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án dân sự, những
người tham gia tố tụng có quyền đưa ra yêu cầu; có quyền và nghĩa vụ cung
cấp chứng cứ, chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; có
quyền yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức đang lưu trữ, quản lý tài liệu, chứng
cứ cung cấp tài liệu, chứng cứ đó cho mình để giao nộp cho Tòa án; có quyền
yêu cầu Tòa án áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc các biện pháp
cần thiết để bảo đảm chứng cứ trong trường hợp chứng cứ đang bị tiêu hủy,
có nguy cơ bị tiêu hủy hoặc sau này khó có thể thu thập được; có quyền đề
nghị Tòa án xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ của vụ án mà tự mình không
thể thực hiện được hoặc đề nghị Tòa án triệu tập người làm chứng, trưng cầu
giám định, định giá, thẩm định giá… Các quyền và nghĩa vụ này được pháp
luật tố tụng dân sự quy định nhằm đảm bảo quyền bình đẳng khi tham gia xét
xử của người tham gia tố tụng.
1.2. Khái niệm, cơ sở xác định ngƣời tham gia tố tụng trong vụ án
dân sự
1.2.1. Khái niệm xác định ngƣời tham gia tố tụng trong vụ án dân sự
Trong quá trình giải quyết vụ án dân sự, đối với Tòa án và các bên liên
quan, việc xác định những người tham gia tố tụng trong vụ án dân sự là một
trong những việc quan trọng nhất, liên quan xuyên suốt quá trình giải quyết
tranh chấp dân sự của các bên liên quan. Để hiểu rõ hơn về vai trò của việc
xác định người tham gia tố tụng trong vụ án dân sự, trước hết chúng ta cần
hiểu rõ khái niệm xác định người tham gia tố tung trong vụ án dân sự là gì
Theo tác giả, xác định người tham gia tố tụng trong vụ án dân sự là việc
Tòa án đưa một chủ thể vào tham gia tố tụng giải quyết vụ án dân sự khi đáp
ứng đủ các điều kiện do pháp luật quy định. Chủ thể được Tòa án đưa vào
tham gia tố tụng trong vụ án dân sự ở đây có thể là cá nhân hoặc tổ chức có
liên quan đến tranh chấp đang được giải quyết. Tuy nhiên, không phải cá


15


nhân, tổ chức nào cũng được Tòa án đưa vào tham gia tố tụng mà chỉ những
cá nhân, tổ chức đủ điều kiện theo quy định của pháp luật sẽ được Tòa án đưa
vào tham gia tố tụng để giải quyết tranh chấp trong vụ án dân sự.
Như vậy, từ khái niệm nêu trên, có thể nhận thấy thẩm quyền đưa một
chủ thể là cá nhân hoặc tổ chức tham gia tố tụng trong vụ án dân sự là Tòa án.
Do vậy, vai trò của Tòa án là rất quan trọng, có thể ảnh hưởng thậm chí dẫn
đến hủy bản án do việc xác định sai tư cách người tham gia tố tụng, dẫn đến
có thể xâm hại quyền và lợi ích hợp pháp của người bị xác định sai tư cách,
người tham gia tố tụng khác. Ngoài trường hợp xác định sai tư cách thì việc
xác định không đúng tư cách còn bao gồm việc xác định một người không
phài là người tham gia tố tụng nhưng lại xác định họ là người tham gia tố tụng
và ngược lại.
1.2.2. Cơ sở xác định tƣ cách tham gia tố tụng của những ngƣời
tham gia tố tụng trong vụ án dân sự
1.2.2.1. Cơ sở xác định tư cách tố tụng của đương sự trong vụ án dân
sự
Đương sự là chủ thể có vai trò đặc biệt quan trọng trong vụ án dân sự
bởi lợi ích của họ là nguyên nhân và mục đích của quá trình tố tụng trong vụ
án dân sự. Nói cách khác, trong quá trình giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án,
nếu không có đương sự thì không thể có chủ thể của quan hệ pháp luật nội
dung và quan hệ pháp luật tố tụng dân sự.
Dưới góc độ ngôn ngữ học, theo từ điển tiếng Việt của Viện ngôn ngữ,
“đương sự là người, là đối tượng trong một sự việc nào đó được đưa ra giải
quyết’’2. Dưới góc độ Luật học, tại Từ điển Luật học của Viện nghiên cứu
khoa học pháp lý, khái niệm đương sự được định nghĩa như sau: "Cá nhân,
pháp nhân tham gia tố tụng dân sự với tư cách là nguyên đơn hoặc bị đơn,
2

Từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học, tr. 346.



16

hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Đương sự là một trong các nhóm
người tham gia tố tụng dân sự tại Tòa án nhân dân trong các vụ kiện về dân
sự, kinh doanh thương mại, hôn nhân, gia đình và lao động"3. Dưới góc độ
nghiên cứu khoa học, Tiến sĩ Nguyễn Triều Dương định nghĩa: “Đương sự
trọng tố tụng dân sự là cá nhân, pháp nhân hoặc các chủ thể khác có quyền,
lợi ích tranh chấp hoặc cần phải xác định tham gia vào quá trình Tòa án giải
quyết vụ việc dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình’’4 .
Căn cứ vào các khái niệm trên, ta có thể định nghĩa như sau: Đương sự
trong vụ án dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức tham gia tố tụng để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình, bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà
nước. Đương sự trong vụ án bao gồm nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan.
- Quyền khởi kiện, quyền yêu cầu giải quyết vụ án dân sự
Khởi kiện vụ án dân sự là cơ sở pháp lý làm phát sinh quan hệ pháp
luật tố tụng dân sự. Đây là hành vi đầu tiên để bắt đầu một quá trình tố tụng
dân sự. Tòa án chỉ xem xét thụ lý giải quyết hay không giải quyết khi có đơn
yêu cầu khởi kiện của chủ thể. Quyền khởi kiện được xem là tiền đề và quan
trọng nhất để xác định tư cách của đương sự trong vụ án dân sự.
Theo nhà nghiên cứu Trần Thúc Linh thì: “Tố quyền tức là có quyền đi
kiện”5. Theo đó, quyền khởi kiện hay tố quyền được phân thành hai loại như
sau:
Thứ nhất, tố quyền đối nhân nhằm vào một công việc phải làm, liên
quan đến một người hay một trái vụ.

3 Từ điển Luật học của Viện nghiên cứu khoa học pháp lý, tr. 278.
4

Nguyễn Triều Dương (2010), "Đương sự trong tố tụng dân sự - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn", Luận
văn Tiến sỹ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr. 14.
5
Trần Thúc Linh (1964), Danh từ pháp luật giải lược, Nhà sách Khai Trí, Sài Gòn


17

Quyền đối nhân thể hiện mối quan hệ pháp lý giữa hai người, người có
quyền (trái chủ) và người có nghĩa vụ (thụ trái), trong đó người thụ trái phải
thực hiện một số việc nhất định đối với trái chủ như giao tài sản, hoàn thành
một công việc nhất định, trả tiền... hoặc không được làm những việc nhất
định. Trái chủ có quyền yêu cầu người thụ trái phải thực hiện nghĩa vụ của
mình. Mối quan hệ tố tụng phát sinh khi người có nghĩa vụ không thực hiện
nghĩa vụ hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ thì người có
quyền khởi kiện đó được xác định là nguyên đơn và người có nghĩa vụ được
xác định tư cách là bị đơn.
Thứ hai, tố quyền đối vật được hiểu theo đó việc kiện của chủ thể có
quyền nhằm chống lại người đang chiếm giữ bất hợp pháp vật để thực thi
quyền của mình đối với vật, hay còn gọi là kiện vật quyền. Việc kiện có thể
được thực hiện bởi chủ sở hữu hay người có quyền chiếm hữu hợp pháp vật
trong quan hệ sở hữu, chiếm hữu tài sản hoặc chủ thể có quyền sử dụng đất
trong quan hệ sử dụng đất. Khái niệm vật quyền đã tồn tại từ thời kỳ La Mã
(cách đây hơn 1500 năm). Tại Bộ luật Napoléon (1804) - BLDS đầu tiên trên
thế giới thì phần thứ hai đã quy định về vật quyền (quyền trên vật). Một trong
những đặc trưng cơ bản của quan hệ vật quyền là chỉ xác định chủ thể mang
quyền mà không xác định chủ thể mang nghĩa vụ, trong đó việc kiện của chủ
thể mang quyền nhằm chống lại người đang chiếm hữu, sử dụng, được lợi về
tài sản không có căn cứ pháp luật để thực thi quyền của mình đối với vật còn
gọi là phương thức kiện vật quyền. Như vậy, việc xác định đâu là nguyên

đơn, đâu là bị đơn trong mối quan hệ vật quyền sẽ căn cứ vào nguyên đơn sẽ
là người có quyền sở hữu hoặc chiếm hữu đối với vật, còn người có hành vi
xâm phạm đến quyền hợp pháp của chủ thể được pháp luật bảo vệ sẽ là bị
đơn, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Đối với chủ thể khởi kiện có
quyền, lợi ích liên quan đến quan hệ tranh chấp nhưng không phải chủ thể của


18

QHPL có tranh chấp thì việc xác định đương sự có sự khác biệt và được pháp
luật dân sự quy định chi tiết.
Tố quyền hỗn hợp vừa có tính cách đối vật, vừa có tính cách đối nhân.
Tố quyền hỗn hợp liên quan đến một quyền lợi đối nhân và một quyền lợi đối
vật được sinh ra từ cùng một hành vi pháp lý. Như vậy, quyền lợi gắn với
quan hệ pháp luật dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại, lao
động chính là đối tượng của quyền khởi kiện và là cơ sở của quyền này.
- Xác định tư cách của đương sự trong vụ án dân sự căn cứ vào sự
liên quan về quyền, nghĩa vụ
Theo lý luận tố tụng dân sự, nguyên đơn luôn là người có quyền hoặc
lợi ích hợp bị xâm phạm, còn bị đơn là người tham gia tố tụng theo yêu cầu
của nguyên đơn. Do đó, việc xem xét mối liên quan về quyền và nghĩa vụ là
cơ sở quan trọng để xác định tư cách đương sự trong vụ án dân sự. Bên cạnh
đó, khi giải quyết mối quan hệ về quyền và nghĩa vụ giữa nguyên đơn và bị
đơn mà việc giải quyết mối quan hệ này có liên quan đến quyền, lợi ích của
chủ thể thứ ba thì cần xác định chủ thể thứ ba là người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan trong vụ án dân sự.
- Xác định tư cách của đương sự trong vụ án dân sự căn cứ vào thời
điểm tham gia tố tụng và ý chí của đương sự đó
Việc xác định thời điểm tham gia tố tụng là rất cần thiết. Trong vụ án
dân sự, nguyên đơn giả thiết là người có quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm

nên khởi kiện bị đơn nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Như
vậy, căn cứ vào sự kiện đứng đơn khởi kiện, thời điểm tham gia tố tụng mới
xác định được tư cách tham gia tố tụng của các đương sự là nguyên đơn, bị
đơn hay người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự.
Ngoài ra việc xác định tư cách đương sự còn phụ thuộc vào ý chí của
người tham gia tố tụng. Cụ thể, trong một số trường hợp giải quyết vụ án dân


19

sự, tư cách tố tụng có thể thay đổi khi mà phạm vi giải quyết của Tòa án có sự
thay đổi do đương sự thực hiện quyền tự định đoạt, còn gọi là thay đổi địa vị
tố tụng. Chẳng hạn như: Sau khi Tòa thụ lý vụ án dân sự, nguyên đơn rút toàn
bộ yêu cầu khởi kiện nhưng bị đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu phản tố thì
nguyên đơn sẽ trở thành bị đơn và bị đơn sẽ trở thành nguyên đơn hoặc
nguyên đơn rút yêu cầu khởi kiện, bị đơn rút yêu cầu phản tố, nhưng người có
quyền lợi nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập giữ nguyên yêu cầu độc lập
của mình. Khi đó, việc xác định thời điểm tham gia tố tụng là cơ sở quan
trọng để Tòa án xác định được tư cách của những người tham gia tố tụng
trong vụ án dân sự tương ứng với vai trò của họ trong quá trình tố tụng.
1.2.2.2. Cơ sở xác định tƣ cách tố tụng của ngƣời đại diện của
đƣơng sự trong vụ án dân sự
- Một là, xác định người đại diện theo pháp luật của cá nhân dựa trên
cơ sở quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng, chỉ định của Tòa án
Đại diện có ý nghĩa rất lớn trong mọi mặt của đời sống xã hội và trong
nhiều mối quan hệ, trong đó người đại diện theo pháp luật của cá nhân dựa
trên cơ sở quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng, chỉ định của Tòa án
tương đối phổ biến trên thực tế. Chẳng hạn như vấn đề đại diện cho nhau giữa
vợ và chồng trong các giao dịch dân sự và kinh doanh theo Luật Hôn nhân và
gia đình. Quan hệ vợ chồng là một quan hệ đặc biệt nhưng lại phổ biến trong

đời sống xã hội mỗi quốc gia. Gia đình chính kết quả của việc vợ và chồng
xây dựng nên với những mục đích riêng, đó là xây dựng mối quan hệ bền
vững trong gia đình, giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con cái. Vợ và chồng
cùng nhau tạo dựng và thực hiện các chức năng: kinh tế, sinh đẻ và giáo dục
con cái và phát sinh những quan hệ đặc biệt cả về mặt tình cảm, luật pháp và
xã hội. Ý chí của vợ chồng trong nhiều trường hợp là điều kiện có hiệu lực
của một số quan hệ pháp luật nhất định, quyết định của người này đòi hỏi phải


×