Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Thực tiễn hòa giải các vụ án dân sự tại tòa án nhân dân thành phố lạng sơn, tỉnh lạng sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (966.55 KB, 80 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN MINH HUYỀN

Thùc tiÔn hßa gi¶i c¸c vô ¸n d©n sù
t¹i Tßa ¸n nh©n d©n thµnh phè L¹ng S¬n,
tØnh L¹ng S¬n

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN MINH HUYỀN

Thùc tiÔn hßa gi¶i c¸c vô ¸n d©n sù
t¹i Tßa ¸n nh©n d©n thµnh phè L¹ng S¬n,
tØnh L¹ng S¬n

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


Chuyên ngành : Luật dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số

: 8 38 01 03

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Thị Thu Hà

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi.
Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng,
được trích dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của luận văn này.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Minh Huyền


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1

Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HÒA GIẢI VỤ ÁN DÂN SỰ
TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN


1.1.

Khái niệm và đặc điểm hòa giải vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân

1.2.

Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả hòa giải vụ án dân sự tại
Tòa án nhân dân

1.3.

5
5

13

Quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về
hòa giải vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân

15

Chƣơng 2: THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ
VỀ HÒA GIẢI VỤ ÁN DÂN SỰ TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ LẠNG SƠN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ

2.1.

Thực tiễn thực hiện pháp luật tố tụng dân sự về hòa giải vụ án
dân sự tại Tòa án nhân dân Thành phố Lạng Sơn


2.2.

35

35

Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về hòa giải vụ án dân sự
và nâng cao hiệu quả về hòa giải vụ án dân sự tại Tòa án nhân
dân Thành phố Lạng Sơn

51

KẾT LUẬN

65

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLDS

: Bộ luật Dân sự

BLTTDS

: Bộ luật Tố tụng dân sự


HĐXX

: Hội đồng xét xử

TAND

: Tòa án nhân dân

TANDTC

: Tòa án nhân dân tối cao

TTDS

: Tố tụng dân sự

UBND

: Ủy ban nhân dân

VADS

: Vụ án dân sự


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong những năm gần đây, nền kinh tế nước ta đã có những bước phát
triển nhanh chóng ở hầu hết tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong quá

trình phát triển đó, các quan hệ dân sự cũng phát triển ngày càng phức tạp và
xẩy ra nhiều tranh chấp hơn. Khi xảy ra tranh chấp, điều tất yếu là các bên
phải tìm ra các biện pháp giải quyết tranh chấp nhằm duy trì trật tự xã hội,
đảm bảo cho các quan hệ dân sự phát triển. Trong các phương thức giải quyết
tranh chấp như thương lượng, hòa giải, trọng tài thương mại, Tòa án thì giải
quyết tranh chấp bằng con đường hòa giải luôn được ưu tiên hàng đầu.
Trên thực tế, hòa giải là phương thức được áp dụng khá phổ biến
trong giải quyết tranh chấp nói chung và tranh chấp dân sự nói riêng bởi tính
ưu việt của biện pháp này như chi phí thấp, các bên trong quan hệ tranh chấp
không bị ràng buộc bởi các thủ tục pháp lý phức tạp… Hòa giải thành tức là
đã giải quyết xong vụ án mà không phải mở phiên tòa, qua đó tiết kiệm thời
gian, tiền của, công sức cho Nhà nước và công dân, đồng thời nâng cao hơn nữa
vai trò, vị thế, uy tín của Tòa án trong giải quyết tranh chấp nói chung và của cá
nhân Thẩm phán nói riêng. Vì vậy, việc luôn luôn kiên trì hòa giải, thuyết phục
được coi là một phương châm, biện pháp quan trọng hàng đầu khi giải quyết các
vụ án dân sự (VADS), chỉ khi nào không còn khả năng và không thể hòa giải
thành thì mới phải xét xử. Việc hòa giải thật sự có hiệu quả khi Thẩm phán
nắm vững các quy định của pháp luật, có kỹ năng phương pháp và kinh nghiệm.
Thực tế không phải Thẩm phán nào cũng có đầy đủ các kỹ năng đó dẫn đến
chất lượng hiệu quả của việc giải quyết các VADS chưa đạt yêu cầu của mục
đích hòa giải khi giải quyết VADS và mong muốn của chính Thẩm phán.
Nội dung của nghiên cứu này nhằm hệ thống lại các quy định cơ bản
về hòa giải trong Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) và các văn bản hướng
dẫn thi hành. Đặc biệt là thực tiễn thực hiện công tác hòa giải, kỹ năng lập kế
hoạch, kỹ năng giao tiếp và vai trò của Thẩm phán, Thư ký trong quá trình


2
thực hiện phiên hòa giải tại đơn vị công tác của cá nhân. Vì lý do trên, học
viên lựa chọn đề tài "Thực tiễn hòa giải các vụ án dân sự tại Tòa án nhân

dân thành phố Lạng Sơn" làm luận văn Thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Hòa giải VADS không phải là đề tài mới. Đã có nhiều công trình khoa
học, nhiều bài viết dưới góc độ nghiên cứu pháp lý về hòa giải VADS. Tiêu
biểu là Luận án tiến sĩ Luật học: "Chế định hòa giải trong pháp luật tố tụng
dân sự Việt Nam - Cơ sở lý luận và thực tiễn" của Trần Văn Quảng, Trường
Đại học Luật Hà Nội, 2004. Luận văn thạc sĩ Luật học "Hòa giải vụ việc dân
sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam" của Lê Bích Ngọc, năm 2013.
Luận văn thạc sĩ Luật học: "Hòa giải vụ án dân sự và thực tiễn thực hiện tại
tỉnh Điện Biên", của Hà Thị Thanh Thủy, năm 2016; Luận văn thạc sĩ Luật
học: "Hòa giải vụ án dân sự theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2015 và thực tiễn thực hiện tại Tòa án nhân dân huyện Gia Bình, Bắc Ninh",
của Nguyễn Văn Tuyến, năm 2017; Luận văn thạc sĩ Luật học: "Hòa giải vụ
án dân sự và thực tiễn thực hiện tại Tòa án nhân dân trên địa bàn thành phố
Hà Nội" của tác giả Phạm Kim Ngân, năm 2016…
Ngoài ra, còn có nhiều công trình ở các cấp độ nghiên cứu khác nhau
được đăng tải trên các báo, tạp chí chuyên ngành như bài "Một số kinh
nghiệm hòa giải thành đối với đồng bào dân tộc trong công tác giải quyết các
vụ án dân sự", đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân (TAND), số 1/2015;
"Những nguyên tắc thiện chí trong hòa giải vụ án dân sự", của Hà Hữu Dụng,
đăng trên Tạp chí Nghề luật, số 4/2015; "Điểm mới của Bộ luật Tố tụng dân
sự năm 2015 về hòa giải vụ án dân sự và những nội dung cần hướng dẫn",
của PGS.TS Bùi Thị Huyền, đăng trên Tạp chí TAND số 8/2016; "Bàn về
phiên họp kiểm tra giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải vụ án
dân sự", của Đặng Thị Thanh Hoa, đăng trên Tạp chí TAND, số 10/2017;
"Bình luận các sai sót từ việc hòa giải thành một vụ án dân sự", của Nguyễn
Thị Hạnh, Vũ Thị Hương, đăng trên Tạp chí Nghề luật, số 3/2017; "Thỏa
thuận án phí hòa giải thành vụ án về dân sự", của Trương Minh Tuấn, đăng



3
trên Tạp chí TAND, số 16/2017; "Những vụ án dân sự không tiến hành hòa
giải được: Thực tiễn áp dụng và kiến nghị hoàn thiện pháp luật", của Lý Văn
Toán, đăng trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 3/2018…
Các bài viết này đề cập đến các vấn đề khác nhau của hòa giải VADS
tại TAND cũng như phân tích các vấn đề này dưới các góc độ khác nhau. Tuy
nhiên, đề tài mà tác giả nghiên cứu là về thực tiễn hòa giải VADS tại TAND
trên một địa bàn cụ thể. Do đó, có thể thấy luận văn là công trình khoa học
đầu tiên nghiên cứu chuyên sâu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm sáng tỏ một số vấn đề lý
luận cơ bản về hòa giải VADS tại TAND, đánh giá thực trạng pháp luật tố
tụng dân sự (TTDS) Việt Nam và thực tiễn hòa giải VADS tại TAND thành
phố Lạng Sơn, trên cơ sở đó đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả hòa giải
VADS tại TAND thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn.
Với mục đích đó, nhiệm vụ chủ yếu của luận văn là:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận cơ bản về hòa giải VADS tại TAND như:
khái niệm, đặc điểm, các yếu tố ảnh hưởng đến việc hòa giải VADS tại TAND.
- Phân tích đánh giá các quy định của pháp luật TTDS Việt Nam hiện
hành về hòa giải VADS và thực trạng áp dụng các quy định đó trong thực tế.
- Trên cơ sở thực trạng, đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện
pháp luật TTDS về hòa giải VADS cũng như nâng cao hiệu quả hòa giải
VADS tại TAND.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là một số vấn đề lý luận cơ bản về
hòa giải VADS tại TAND; các quy định của pháp luật TTDS Việt Nam về
hòa giải VADS và thực tiễn thực hiện các quy định về hòa giải VADS tại
TAND thành phố Lạng Sơn từ năm 2012 đến nay.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Do đã có nhiều công trình khoa học
nghiên cứu về hòa giải nên trong phạm vi luận văn này, học viên có đề cập

đến thủ tục rút gọn để đảm bảo tính toàn diện nhưng không nghiên cứu sâu


4
thủ tục rút gọn mà chỉ nghiên cứu thủ tục giải quyết VADS thông thường và
nghiên cứu hòa giải VADS dưới góc độ là hoạt động do Tòa án tiến hành
nhằm giúp đỡ các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết VADS.
Ngoài ra, luận văn rõ hơn, sâu hơn về thực tiễn thực hiện công tác hòa giải
VADS tại đơn vị đang công tác. Trên cơ sở đó nhằm tăng cường nhận thức
của bản thân học viên để vận dụng vào quá trình học tập và công tác.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ
Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước về xây
dựng cải cách tư pháp trong thời kỳ đổi mới , đặc biệt là Chỉ thị số 04/CT-CA
ngày 03/10/2017 của Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) về việc tăng cường
công tác hòa giải tại TAND đảm bảo giải quyết triệt để hiệu quả các tranh
chấp, tăng cao tỉ lệ hòa giải thành các vụ án dân sự . Luận văn kết hợp giữa
phương pháp so sánh với phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, kết hợp
giữa lý luận và thực tiễn… để giải quyết vấn đề.
6. Tính mới và những đóng góp của luận văn
Những đóng góp của luận văn thể hiện ở các nội dung cơ bản sau đây:
+ Làm rõ hơn khái niệm, đặc điểm và các yếu tố ảnh hưởng đến việc
hòa giải VADS tại TAND;
+ Phân tích, đánh giá đúng thực trạng thực hiện các quy định của pháp
luật TTDS Việt Nam hiện hành về hòa giải VADS;
+ Đưa ra được những kiến nghị cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả hòa
giải VADS tại TAND thành phố Lạng Sơn.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 2 chương:

Chương 1: Những vấn đề chung về hòa giải vụ án dân sự tại Tòa án
nhân dân.
Chương 2: Thực tiễn thực hiện pháp luật tố tụng dân sự về hòa giải vụ
án dân sự tại Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn và một số kiến nghị.


5
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HÒA GIẢI VỤ ÁN DÂN SỰ
TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN
1.1. Khái niệm và đặc điểm hòa giải vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân
1.1.1. Khái niệm hòa giải vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân
Theo Từ điển tiếng Việt: "Hòa giải là việc thuyết phục các bên đồng ý
chấm dứt xung đột, xích mích một cách ổn thỏa"1. Khái niệm này đề cập đến
hành động và mục đích của hòa giải, nhưng chưa nêu được đầy đủ các yếu tố
như bản chất, nội dung và chủ thể của hòa giải. Trong khoa học pháp lý cũng
có nhiều quan điểm khác nhau về hòa giải. Có quan điểm cho rằng: "Hòa giải
là quá trình giải quyết những tranh chấp, bất đồng giữa các bên. Trong quá
trình hòa giải cần đến bên thứ ba với vai trò trung lập, làm trung gian giúp
các bên tranh chấp giải quyết được những bất đồng và đạt được một thỏa
thuận phù hợp với quy định của pháp luật, đạo đức xã hội và tự nguyện thực
hiện những thỏa thuận đó"2. Theo quan điểm này, hòa giải có mục đích giải
quyết thành công tranh chấp. Tuy nhiên, không phải tất cả các trường hợp hòa
giải đều thành công. Khi đó, dù mâu thuẫn chưa được giải quyết hoàn toàn
nhưng các bên tranh chấp cũng có cơ hội hiểu rõ hơn nội dung tranh chấp,
bày tỏ ý chí của mình với đối phương và cũng được nghe ý kiến của đối
phương về vụ tranh chấp. Từ đó, hai bên có thể phần nào tìm được tiếng nói
chung và làm giảm mức độ mâu thuẫn. Cũng có ý kiến cho rằng: "Hòa giải là
một chế định quan trọng của luật tố tụng dân sự, là phương pháp giải quyết
vụ án bằng chính sự thỏa thuận, thương lượng của các đương sự"3. Quan

điểm này đã nêu được vai trò, ý nghĩa của chế định hòa giải trong TTDS,
nhưng chưa phản ánh được bản chất của hòa giải các VADS. Việc giải quyết
1. Từ điển tiếng việt (1998), Nhà xuất bản Đà Nẵng, trang 430.
2. Trần Huy Liệu (1999), Thực trạng tổ chức và hoạt động hòa giải cơ sở, Thông tin khoa học pháp lý, Viện
nghiên cứu khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp, Hà Nội.
3. ThS. Đặng Thanh Hoa - Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh - Một số ý kiến về hoạt động hòa
giải VADS ở thủ tục sơ thẩm.


6
vụ án bằng chính sự thỏa thuận của các đương sự có thể được chia thành hai
trường hợp: Trường hợp do các đương sự tự hòa giải và trường hợp do các
đương sự hòa giải với sự giúp đỡ của Tòa án. Hai trường hợp giải quyết vụ án
bằng chính sự thỏa thuận, thương lượng của các đương sự nêu trên có bản
chất khác nhau; bởi lẽ, hai trường hợp này dẫn đến hai kết quả giải quyết khác
nhau về VADS. Nếu các đương sự tự hòa giải thì Tòa án ra quyết định đình
chỉ vụ án, còn trường hợp do Tòa án tiến hành hòa giải giúp đỡ các đương sự
thỏa thuận với nhau về giải quyết vụ án thì Tòa án ra quyết định công nhận sự
thỏa thuận đó. Hòa giải VADS là hoạt động do Tòa án tiến hành giúp đỡ các
đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết VADS. Tuy nhiên, chủ thể
của hòa giải lại chính là các đương sự, các đương sự mới là chủ thể có quyền
quyết định và thỏa thuận về giải quyết VADS. Mặc dù không phải là chủ thể
của hòa giải, song Tòa án có vai trò quan trọng trong việc xác định thời gian,
thành phần, địa điểm, nội dung hòa giải, giải thích pháp luật và nội dung tranh
chấp để các đương sự đi đến thống nhất về phương án giải quyết vụ án. Để
cho hoạt động hòa giải của Tòa án được khách quan, bảo đảm quyền và lợi
ích hợp pháp của đương sự và sự thỏa thuận của các đương sự phù hợp với
pháp luật thì việc hòa giải phải tuân theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy
định. Hoạt động hòa giải được Tòa án tiến hành trước khi xét xử, giải quyết
VADS. Việc hòa giải vào thời điểm nào trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm

VADS và tiến hành bao nhiêu lần phụ thuộc vào kinh nghiệm giải quyết VADS
của Thẩm phán. Song thông thường, Thẩm phán sẽ tiến hành hòa giải khi chứng
cứ, tài liệu của hồ sơ vụ việc đã tương đối đầy đủ, Thẩm phán đã nắm rõ nội
dung vụ án, nguyên nhân phát sinh tranh chấp, yêu cầu, tâm tư nguyện vọng của
các bên đương sự. Việc hòa giải trước khi xét xử, giải quyết sơ thẩm VADS là
bắt buộc, trừ những việc không hòa giải được hoặc pháp luật quy định không
được hòa giải hoặc những VADS được giải quyết theo thủ tục rút gọn.
Từ những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm về hòa giải như sau:
Hòa giải VADS là hoạt động tố tụng do Tòa án tiến hành nhằm giúp đỡ các


7
đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự thỏa thuận với nhau để giải
quyết VADS theo trình tự, thủ tục mà pháp luật TTDS quy định.
1.1.2. Đặc điểm hòa giải vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân
- Hòa giải VADS là sự tự nguyện thỏa thuận của các đương sự
Mặc dù hòa giải là một hoạt động do Tòa án tiến hành nhưng về bản
chất hòa giải vẫn là sự tự nguyện thỏa thuận của các đương sự. Chỉ có các
đương sự mới có quyền hòa giải với nhau về tất cả những vấn đề đang cần
giải quyết trong vụ án, bởi đương sự là những người có quyền lợi đang bị xâm
hại hoặc tranh chấp. Họ là người hiểu rõ hơn ai hết mâu thuẫn của chính họ.
Khi tham gia vào quá trình hòa giải, các đương sự có quyền thương lượng,
thỏa thuận với nhau để giải quyết những bất đồng về quyền lợi của mình trên
cơ sở tự do, tự nguyện ý chí, thỏa thuận. Mọi sự tác động từ bên ngoài trái với
ý muốn của các đương sự đều bị coi là trái pháp luật và không được công
nhận. Không ai, bằng bất kỳ hình thức nào có thể cưỡng ép, bắt buộc đương
sự thỏa thuận với nhau giải quyết những mâu thuẫn, tranh chấp giữa họ. Khi
người đại diện của đương sự tham gia tố tụng thì họ có quyền thỏa thuận với
đương sự phía bên kia về giải quyết VADS trong phạm vi đại diện. Trong
trường hợp người đại diện theo pháp luật của đương sự tham gia tố tụng thì

người đại diện của đương sự có toàn bộ các quyền và nghĩa vụ của đương sự
nên người đại diện theo pháp luật của đương sự có quyền tham gia hòa giải.
Song đối với vụ án ly hôn mà một trong hai bên vợ chồng là người không có
khả năng nhận thức và điều khiển được hành vi của mình thì người đại diện
theo pháp luật không có quyền hòa giải, bởi quan hệ nhân thân phải do các
đương sự tự quyết định. Trong trường hợp người đại diện theo ủy quyền của
đương sự tham gia tố tụng thì người đại diện của đương sự có các quyền và
nghĩa vụ của đương sự trong phạm vi ủy quyền nên người đại diện theo ủy
quyền của đương sự có quyền tham gia hòa giải nếu được đương sự ủy quyền.
Đối với những vụ án do cơ quan, tổ chức khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích


8
hợp pháp của người khác, cơ quan, tổ chức không phải là chủ thể của quan hệ
pháp luật tranh chấp nên không có quyền hòa giải với bị đơn.
- Tòa án là chủ thể tiến hành hòa giải, giúp đỡ các đương sự thỏa
thuận với nhau về việc giải quyết VADS
Hòa giải về bản chất là sự tự nguyện thỏa thuận của các đương sự
nhưng Tòa án là chủ thể trung gian, chủ thể thứ ba không thể thiếu trong quá
trình hòa giải đó. Tòa án tham gia vào quá trình hòa giải với vai trò là người
tổ chức, giải thích pháp luật và điều hành việc hòa giải giữa các đương sự
nhưng không can thiệp vào nội dung thỏa thuận của các bên, kết quả sự thỏa
thuận của các đương sự được Nhà nước công nhận, đảm bảo bằng pháp luật.
Đặc điểm này giúp phân biệt việc hòa giải VADS do Tòa án tiến hành
với tự thỏa thuận của các đương sự sau khi khởi kiện VADS. Đó là, hòa giải
do Tòa án tiến hành thì Tòa án sẽ giúp đỡ các đương sự đạt được thỏa thuận,
hay nói cách khác sự thỏa thuận của các đương sự là đối tượng mà Tòa án cần
giải quyết. Còn việc tự thỏa thuận của các đương sự sau khi khởi kiện VADS
sẽ không có sự tham gia giúp đỡ của Tòa án mà các bên hoàn toàn tự thỏa
thuận để đi đến thống nhất ý chí giải quyết VADS và yêu cầu Tòa án công

nhận sự thỏa thuận đó.
- Hòa giải là hoạt động bắt buộc của Tòa án được tiến hành đối với
hầu hết các VADS
Thông thường lợi ích của các bên được xem như là động lực để các
bên tham gia quan hệ pháp luật dân sự và cũng chính là tiền đề dẫn đến tranh
chấp dân sự. Khi quyền dân sự của một chủ thể bị xâm phạm thì chủ thể đó có
quyền tự bảo vệ hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền, Tòa án công
nhận quyền dân sự của mình; buộc chấm dứt hành vi vi phạm; buộc xin lỗi, cải
chính công khai; buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự; buộc bồi thường thiệt hại. Mục
đích của việc giải quyết tranh chấp, yêu cầu về dân sự là giải quyết các mâu
thuẫn về quyền và lợi ích của các bên, các vướng mắc trong tâm tư, tình cảm của
các bên. Việc các đương sự tự thương lượng giải quyết hay cơ quan nhà nước


9
có thẩm quyền, Tòa án ra quyết định, bản án về giải quyết tranh chấp của
đương sự cũng chỉ là các hình thức pháp lý để giải quyết VADS. Xét cả về
kinh tế và xã hội thì phương thức giải quyết mà đạt được sự đồng thuận của
các bên là phương thức hiệu quả nhất. Do đó, ngay cả khi các đương sự đã
khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết VADS thì việc hòa giải của Tòa án là cần
thiết. Để giải quyết tranh chấp dân sự có nhiều phương thức khác nhau như tự
thương lượng, yêu cầu cơ quan chủ quản giải quyết, trung gian hòa giải, Trọng
tài, Tòa án... Song, cho dù giải quyết bằng phương thức nào các đương sự đều
có quyền thỏa thuận với nhau để giải quyết quan hệ pháp luật tranh chấp, bởi
họ chính là chủ thể của các quan hệ pháp luật nội dung. Mặt khác, việc hòa
giải mang lại nhiều ý nghĩa cả về kinh tế, xã hội và pháp lý. Vì thế, pháp luật
của nước ta quy định Tòa án có trách nhiệm hòa giải để giúp đỡ các đương sự
thỏa thuận với nhau giải quyết tranh chấp, trừ các trường hợp không hòa giải
được hoặc không được hòa giải hoặc vụ án giải quyết theo thủ tục rút gọn.
- Thời điểm Tòa án tiến hành hòa giải VADS là trước khi có quyết

định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm và tại phiên tòa sơ thẩm.
Quyền tự định đoạt của đương sự có thể được thực hiện ở bất kỳ thời
điểm nào của quá trình tố tụng. Tuy nhiên, việc thỏa thuận của các đương sự
ở đây đạt được do Tòa án tiến hành hoạt động hòa giải nên được thực hiện ở
thời điểm trước khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm. Bởi vì, xét xử
sơ thẩm là xét xử lần đầu đối với VADS nên pháp luật quy định Tòa án có
trách nhiệm hòa giải, giúp các bên hiểu rõ hơn quan hệ pháp luật đang tranh
chấp và các quy định pháp luật để thống nhất với nhau về việc giải quyết vụ
án, qua đó tránh được tình trạng khiếu kiện kéo dài, giảm thiểu chi phí cho
các bên tham gia tố tụng. Còn các giai đoạn sau của quá trình tố tụng thì do
các đương sự đã được Tòa án tổ chức hòa giải trước khi mở phiên tòa sơ thẩm
nhưng không thành nên sau đó Tòa án không tiến hành hòa giải nữa.
Đặc điểm này giúp phân biệt việc hòa giải VADS do Tòa án tiến hành
với tự thỏa thuận của các đương sự sau khi khởi kiện VADS. Đó là, hòa giải


10
do Tòa án tiến hành được thực hiện ở thời điểm trước khi có quyết định đưa
vụ án ra xét xử sơ thẩm, còn tự thỏa thuận của các đương sự được thực hiện
trong suốt quá trình tố tụng sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm.
Tòa án tạo điều kiện để các bên thực hiện việc hòa giải tại phiên tòa sơ
thẩm, việc hòa giải ở giai đoạn này là không bắt buộc, tại phần thủ tục bắt đầu
phiên tòa Thẩm phán chủ tọa hỏi các đương sự về việc thỏa thuận với nhau để
giải quyết vụ án, nếu đương sự thỏa thuận được về việc giải quyết toàn bộ vụ án
thì chủ thể ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự là Hội đồng
xét xử (HĐXX). Nếu tại phần tranh tụng các đương sự thỏa thuận được với nhau
về toàn bộ vụ án thì HĐXX ra bản án trong đó ghi nhận sự thỏa thuận của các
đương sự. Tại giai đoạn xét xử sơ thẩm mặc dù có thỏa thuận được toàn bộ vụ
án thì các đương sự vẫn phải chịu 100% án phí như trường hợp xét xử.
- Hòa giải VADS phải được Tòa án tiến hành theo trình tự, thủ tục do

pháp luật TTDS quy định
Việc hòa giải VADS cũng như các thủ tục tố tụng khác đều được Tòa
án tiến hành trên cơ sở các quy định của pháp luật. Việc hòa giải VADS được
tiến hành theo trình tự, thủ tục do pháp luật TTDS nhằm đảm bảo sự khách
quan, công bằng trong hoạt động tố tụng của Tòa án cũng như đảm bảo sự
bình đẳng giữa các đương sự trong quá trình giải quyết VADS. Các quy định
của pháp luật TTDS về trình tự, thủ tục hòa giải là cơ sở để Tòa án tiến hành
hòa giải và ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự đồng thời
bắt buộc Tòa án phải tuân thủ những quy định đó. Như vậy, hòa giải VADS,
ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự, hay ghi nhận sự thỏa
thuận của các đương sự trong bản án cũng chỉ có hiệu lực pháp luật khi được
thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục mà pháp luật TTDS quy định.
- Thẩm phán ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự
nếu việc thỏa thuận của các đương sự xuất phát tự ý chí tự nguyện, nội dung
thỏa thuận không vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã hội.
Đương sự là chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự, do đó chỉ đương sự
mới có quyền tự mình, bằng hành vi tố tụng của mình để tự thương lượng,


11
thỏa thuận với nhau thông qua sự giúp đỡ của Tòa án để thỏa thuận với nhau
trong việc giải quyết vụ án. Việc thỏa thuận giữa các đương sự chỉ đạt được
trên cơ sở thương lượng một cách tự nguyện, trung thực, hợp lý, hợp tình và
không một ai với bất kì một hình thức nào cưỡng ép, can thiệp vào việc thỏa
thuận của các đương sự. Tuy nhiên, không phải bất cứ thỏa thuận nào của các
đương sự cũng đều được Tòa án công nhận mà nội dung của thỏa thuận đó
phải không vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái với đạo đức pháp
luật. Hay nói cách khác, Tòa án chỉ công nhận những thỏa thuận nào của các
đương sự xuất phát từ ý chí tự nguyện, nội dung thỏa thuận không vi phạm
điều cấm pháp luật và không trái đạo đức xã hội.

Việc hòa giải VADS do Tòa án tiến hành ở thời điểm trước khi có
quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm nên nếu các đương sự thỏa thuận được
với nhau về việc giải quyết vụ án thì thẩm quyền ra quyết định công nhận sự
thỏa thuận của các đương sự thuộc về thẩm phán, bởi lúc này vụ án đang do
thẩm phán phụ trách.
Điều này cũng khác biệt với tự thỏa thuận của các đương sự sau khi
khởi kiện. Đó là, sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm và tại
phiên tòa sơ thẩm mà các đương sự thỏa thuận được với nhau thì do HĐXX
quyết định. Ở thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm thì dù các đương sự
có đạt được sự thỏa thuận ở trước hay tại phiên tòa thì thẩm quyền công nhận
sự thỏa thuận của các đương sự vẫn phải thuộc về HĐXX phúc thẩm hoặc
Hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm. Bởi vì, việc thỏa thuận của các đương sự ở
thời điểm này dẫn đến Tòa án cấp phúc thẩm, Tòa án có thẩm quyền giám đốc
thẩm, tái thẩm phải xem xét về số phận pháp lý của bản án sơ thẩm, phúc
thẩm nên thẩm quyền công nhận phải thuộc về HĐXX4.
- Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự khi hòa giải
thành sẽ có hiệu lực pháp luật ngay, việc công nhận sự thỏa thuận của đương
4. Nguyễn Thùy Linh (2016), Công nhận sự thỏa thuận của đương sự trong tố tụng dân sự Việt Nam, Luận
văn Thạc sĩ Luật học, tr. 17.


12
sự ghi nhận trong bản án thì đương sự có quyền kháng cáo,Viện kiểm sát có
quyền kháng nghị.
Quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự được ban hành dựa
trên sự tự nguyện thỏa thuận của các đương sự và được tiến hành theo thủ tục
chặt chẽ của pháp luật. Do đó, khi các đương sự đã thỏa thuận được với nhau
về việc giải quyết VADS thì thỏa thuận của các đương sự có hiệu lực ngay tại
thời điểm các đương sự thỏa thuận. Bởi vì "bản chất các thỏa thuận của
đương sự về việc giải quyết tranh chấp tại Tòa án là giao dịch dân sự thông

thường thì bản thân thỏa thuận đó có hiệu lực ngay tại thời điểm các bên thỏa
thuận (được ghi nhận bằng biên bản hòa giải thành) và có hiệu lực bắt buộc
thực hiện đối với các bên, việc Tòa án ra quyết định công nhận sự thỏa thuận
đó vừa có tính công chứng, vừa có tính cưỡng chế thi hành, nếu sau đó các
bên không tự nguyện thi hành"5. Tuy nhiên, để phòng tránh các sai lầm và vi
phạm pháp luật có thể xảy ra, quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương
sự vẫn có thể bị xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm nếu có căn
cứ cho rằng sự thỏa thuận trước đó của đương sự là do bị nhầm lẫn, lừa dối,
đe dọa hoặc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội hoặc xuất hiện tình tiết mới.
Còn việc công nhận sự thỏa thuận của đương sự ghi nhận trong bản án thì
đương sự có quyền kháng cáo,Viện kiểm sát có quyền kháng nghị trong hạn
luật định. Hết hạn kháng cáo, kháng nghị mà không ai có ý kiến gì lúc đó sự
thỏa thuận của các đương sự mới có hiệu lực pháp luật thi hành.
Như vậy, qua phân tích các đặc điểm của hòa giải VADS, có thể
thấy việc hòa giải VADS do Tòa tiến hành có điểm khác biệt cơ bản với hòa
giải ngoài Tòa án (hòa giải ở cơ sở, hòa giải tranh chấp lao động, hòa giải
các tranh chấp thương mại, hòa giải tranh chấp quyền sử dụng đất…). Đó là,
(i) chủ thể tiến hành hòa giải VADS tại TAND là các thẩm phán hoặc
HĐXX, còn hòa giải ngoài Tòa án có thể do các hòa giải viên, trọng tài viên,
5 Tòa án nhân dân tối cao (1996), Một số vấn đề về cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng Bộ luật tố
tụng dân sự, Hà Nội, tr. 49.


13
cán bộ pháp lý của Ủy ban nhân dân (UBND) tiến hành; (ii) khi hòa giải
thành tại Tòa án thì quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự trong
TTDS, bản án ghi nhận sự tự nguyện thỏa thuận của đương sự khi có hiệu
lực pháp luật mang tính cưỡng chế thi hành, còn kết quả hòa giải thành
ngoài Tòa án không có giá trị pháp lý để cưỡng chế thi hành, do đương sự tự
nguyện chấp hành.

1.2. Các yếu tố ảnh hƣởng đến hiệu quả hòa giải vụ án dân sự tại
Tòa án nhân dân
Hiệu quả hòa giải VADS tại TAND phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố,
trong đó các quy định pháp luật TTDS về hòa giải VADS, sự hiểu biết pháp
luật TTDS của đương sự về hòa giải VADS và trình độ, năng lực của Thẩm
phán là những yếu tố tác động trực tiếp đến việc hòa giải VADS.
1.2.1. Các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về hòa giải vụ án
dân sự
Các quy phạm pháp luật TTDS điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong
quá trình Tòa án giải quyết VADS, quy định trình tự, thủ tục khởi kiện, yêu
cầu để Tòa án giải quyết các VADS. Theo đó, các quy định pháp luật TTDS
là công cụ pháp lý quan trọng cho các cá nhân, cơ quan, tổ chức bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp trước Tòa án, bảo đảm cho việc giải quyết VADS được
chính xác, đúng đắn. Đồng thời những quy định về vấn đề hòa giải VADS còn
là căn cứ để Tòa án tiến hành hòa giải và ra quyết định công nhận sự thỏa
thuận của đương sự. Do đó, các quy định của pháp luật TTDS về hòa giải
VADS cần phải thể hiện đầy đủ, rõ ràng để các đương sự thỏa thuận với nhau
về việc giải quyết vụ án. Hơn nữa, các quy định về hòa giải VADS phải thống
nhất với các quy định của pháp luật nội dung về hòa giải. Nếu các quy định
của pháp luật TTDS về hòa giải VADS không đầy đủ, rõ ràng, minh bạch sẽ
làm cho đương sự khó có thể thực hiện được việc thỏa thuận với nhau về việc
giải quyết VADS cũng như gây khó khăn cho Tòa án trong việc công nhận sự
thỏa thuận của đương sự.


14
1.2.2. Sự hiểu biết pháp luật tố tụng dân sự của đương sự về hòa
giải vụ án dân sự
Việc đương sự hiểu biết pháp luật nói chung và pháp luật TTDS nói
riêng về hòa giải VADS đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo quyền tự

định đoạt cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Nếu các đương
sự không hiểu biết pháp luật về hòa giải VADS thì nhiều khi đương sự khó có
thể đạt được thỏa thuận hoặc tuy có đạt được thỏa thuận thì thỏa thuận đó của
các đương sự có khi lại vi phạm điều cấm của pháp luật hoặc trái đạo đức xã
hội. Chính vì vậy, khi các đương sự hiểu biết pháp luật TTDS về hòa giải các
đương sự dễ dàng đạt được sự thỏa thuận cũng như thỏa thuận đó sẽ được Tòa
án công nhận do xuất phát từ ý chí tự nguyện, nội dung thỏa thuận không vi
phạm điều cấm pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội. Hơn nữa, sự hiểu biết pháp
luật của đương sự còn giúp đương sự xác định xem Tòa án tiến hành hòa giải
và ra quyết định công nhận sự thỏa thuận có đúng quy định của pháp luật
TTDS hay không?
1.2.3. Trình độ, năng lực chuyên môn của Thẩm phán
Hòa giải VADS là hoạt động do Tòa án tiến hành, do vậy, không thể
phủ nhận vai trò của các Thẩm phán. Nếu thẩm phán có trình độ chuyên môn
hạn chế, không chủ động tìm hiểu nội dung vụ án cũng như các phương án để
giải quyết tranh chấp, mâu thuẫn của đương sự thì khi được giao giải quyết
VADS, Thẩm phán sẽ bị lúng túng, không có được lòng tin của đương sự,
không làm cho các đương sự hiểu hết được những thuận lợi, khó khăn cũng
như quyền và lợi ích của họ trong quá trình giải quyết VADS. Do đó, các
đương sự không đưa ra thỏa thuận được với nhau về giải quyết VADS. Khi
các Thẩm phán có trình độ và năng lực chuyên môn cao thì việc giải quyết
các VADS mà cụ thể là hòa giải VADS cũng như công nhận sự thỏa thuận
của các đương sự sẽ được tiến hành nhanh chóng, đúng với những quy định
của pháp luật, đồng thời bảo đảm quyền và lợi ích của các đương sự.


15
1.3. Quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về
hòa giải vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân
1.3.1. Quy định về nguyên tắc tiến hành hòa giải vụ án dân sự

Theo quy định tại Điều 5 và Điều 205 BLTTDS năm 2015 thì nguyên
tắc tiến hành hòa giải như sau:
- Việc hòa giải phải tôn trọng ý chí tự nguyện của các đương sự
Khi giải quyết tranh chấp trong VADS, các đương sự đã tự nguyện
thỏa thuận với nhau có nghĩa là các đương sự tự lựa chọn, quyết định giải
quyết mâu thuẫn bằng cách hòa giải và thương lượng với nhau. Tự nguyện
thỏa thuận còn thể hiện ở chỗ các đương sự tự do về mặt ý chí và tự do bày tỏ
ý chí về việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Chính vì vậy, nếu
như các đương sự tiến tới sự thỏa thuận về giải quyết tranh chấp mà việc thỏa
thuận này lại do hành vi dùng vũ lực, bị đe dọa dùng vũ lực tác động đến ý
chí chủ quan của đương sự buộc họ phải lựa chọn cách thức thỏa thuận để bảo
vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và tài sản của mình thì không
được coi là tự nguyện thỏa thuận.
- Nội dung thỏa thuận của đương sự không vi phạm điều cấm của
pháp luật và không trái đạo đức xã hội
Khi tiến hành hòa giải thì theo quy định tại Điều 5, Điều 205 BLTTDS
năm 2015 việc hòa giải không chỉ được Tòa án tiến hành theo đúng trình tự,
thủ tục mà pháp luật quy định mà nội dung thỏa thuận giữa các đương sự
không được không vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã
hội. Sự tuân thủ pháp luật là yêu cầu bắt buộc trong đời sống xã hội cho nên
mọi thỏa thuận vi phạm điều cấm pháp luật đều không có giá trị pháp lý. Đạo
đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung giữa người với người trong đời
sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng, bởi vậy sự thỏa thuận
của các đương sự không được trái với những chuẩn mực này.
Tuy nhiên có ý kiến cho rằng ngoài hai nguyên tắc cơ bản đã được
quy định thì cần bổ sung thêm nguyên tắc hòa giải tích cực, kiên trì. Việc bổ


16
sung nguyên tắc này sẽ bảo đảm Thẩm phán không thể coi hòa giải là một thủ

tục mang tính chất bắt buộc, tính hình thức mà cần phải cố gắng, kiên trì giúp
đỡ các đương sự hòa giải được với nhau. Việc hòa giải thành mang lại nhiều ý
nghĩa không chỉ đối với các đương sự mà còn với cả Tòa án, Thẩm phán tiến
hành hòa giải. Tuy nhiên, Thẩm phán tiến hành hòa giải cũng cần phải linh
hoạt trong từng trường hợp, tránh trường hợp kéo dài hòa giải mà không đạt
được kết quả, dẫn đến tốn thời gian, chi phí6.
1.3.2. Quy định về phạm vi hòa giải vụ án dân sự
Theo Khoản 1 Điều 205 BLTTDS năm 2015 thì phạm vi những vụ án
mà Tòa án tiến hành hòa giải rất rộng bao gồm tất cả các VADS chỉ trừ những
vụ án không hòa giải được hoặc pháp luật quy định không được hòa giải hoặc
vụ án được giải quyết theo thủ tục rút gọn, còn lại khi giải quyết vụ án, Tòa
án phải tiến hành hòa giải.
1.3.2.1. Những vụ án dân sự không được hòa giải
Những vụ án không được hòa giải là những vụ án mà pháp luật không
cho phép hòa giải vì nếu hòa giải đối với những vụ án này đồng nghĩa với
việc tạo điều kiện cho các bên vi phạm pháp luật hoặc xâm hại đến tài sản
công. Đối với những vụ án này Tòa án không thông báo về phiên hòa giải,
trong hồ sơ không có biên bản hòa giải. Điều 206 BLTTDS năm 2015 quy
định những vụ án không được hòa giải gồm: "yêu cầu đòi bồi thường vì lý do
gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước và những vụ án phát sinh từ giao dịch
dân sự vi phạm điều cấm của pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội".
- Đối với yêu cầu đòi bồi thường gây thiệt hại đến tài sản của Nhà
nước, Tòa án không tiến hành hòa giải vì tài sản của Nhà nước thuộc sở hữu
toàn dân. Bất cứ hành vi nào gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước đều là trái
pháp luật và phải chịu trách nhiệm bồi thường. Người gây thiệt hại không có
quyền thương lượng hay thỏa thuận với Nhà nước về trách nhiệm bồi thường
6. Đặng Quang Huy, "Quy định của BLTTDS năm 2015 về nguyên tắc hòa giải trong TTDS", Kỷ yếu Hội
thảo Những quy định chung của BLTTDS năm 2015 của Trường Đại học Luật Hà Nội, tháng 6/2018, tr. 27.



17
của mình. Mặt khác, pháp luật cũng phòng ngừa trường hợp những cá nhân
đại diện cho Nhà nước, lợi dụng quyền đó để tùy tiện thương lượng với bên
gây thiệt hại hoặc móc ngoặc với bên gây thiệt hại làm thất thoát tài sản của
Nhà nước.
Tuy nhiên, Điều 197 Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015 không quy
định về hình thức sở hữu Nhà nước mà quy định về hình thức sở hữu toàn
dân. Do đó, phạm vi những vụ án không được hòa giải quy định ở khoản 1
Điều 206 BLTTDS năm 2015 là không tương thích với BLDS năm 2015.
- Những VADS phát sinh từ giao dịch dân sự vi phạm điều cấm của
pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội Tòa án cũng không được hòa giải. Đây
chính là các giao dịch dân sự vô hiệu nên khi giải quyết vụ án này Tòa án sẽ
giải quyết theo hướng tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu theo Điều 123 BLDS
năm 2015 và giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu theo Điều 131
BLDS năm 2015 vì khi giao dịch dân sự vô hiệu thì về mặt pháp lý quyền và
nghĩa vụ của các bên không được Nhà nước thừa nhận và bảo vệ nên Tòa án
không thể tiến hành hòa giải được. Tuy nhiên, nếu các đương sự thỏa thuận về
giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu thì có được chấp nhận không?
Vấn đề này cần tiếp thu quy định hợp lý trong Nghị quyết 05/2012/NQ-HĐTP
hướng dẫn về vấn đề này.
Tóm lại, những VADS không được hòa giải, nghĩa là về bản chất
không thể tiến hành hòa giải giữa các bên đương sự. Nói cách khác, đó là
những loại việc pháp luật cấm các bên thỏa thuận về việc giải quyết tranh
chấp. Việc gây thiệt hại cho tài sản của Nhà nước chỉ có thể được giải quyết
bằng việc bồi thường vì tính chất của loại tài sản này thuộc sở hữu toàn dân,
không thể tiến hành hòa giải để giải quyết về số lượng hay nội dung giá trị bồi
thường; những quy định vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội
không được công nhận từ thời điểm xác lập, do đó không thể bằng thỏa thuận
giải quyết nội dung của các giao dịch này.



18
1.3.2.2. Những vụ án không tiến hành hòa giải được
Về nguyên tắc, Tòa án phải hòa giải VADS trước khi đưa vụ án ra xét
xử sơ thẩm. Thực tiễn hòa giải xảy ra những trường hợp mặc dù vụ án đó phải
hòa giải nhưng do nguyên nhân khách quan hoặc chủ quan mà Tòa án không
thể tiến hành hòa giải được. Đây là những trường hợp không tiến hành hòa
giải được quy định tại Điều 207 BLTTDS năm 2015. Những vụ án không tiến
hành hòa giải được bao gồm:
Thứ nhất, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được Tòa
án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt
Trước đây, trong trường hợp bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ
đến lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt, thì theo hướng dẫn tại Nghị quyết
05/2012/NQ-HĐTP Tòa án lập biên bản về việc không tiến hành hòa giải
được do bị đơn vắng mặt và ra quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục
chung, bởi bị đơn thường là chủ thể bị động, bất lợi và có ý thức trốn tránh
nên chỉ cần vắng mặt lần thứ hai, không cần xét đến lý do vắng mặt thì pháp
luật cho phép Tòa án tiếp tục tiến hành giải quyết vụ án mà không cần hòa
giải. Trong trường hợp tại phiên tòa bị đơn có yêu cầu Tòa án hoãn phiên tòa
để tiến hành hòa giải, thì Tòa án không chấp nhận, nhưng cần tạo điều kiện
cho các bên thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án. Tuy nhiên,
BLTTDS năm 2015 không quy định cụ thể là khi bị đơn đã được Tòa án triệu
tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt thì Tòa án lập biên bản
không hòa giải được và đưa vụ án ra xét xử nhưng trên thực tế Tòa án vẫn áp
dụng hướng dẫn tại Nghị quyết 05/2012/NQ-HĐTP để đưa vụ án ra xét xử.
Ngoài ra, BLTTDS năm 2015 cũng đã bổ sung đối tượng là người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan, đối tượng này tuy không khởi kiện, không bị kiện
nhưng có một đặc điểm chung giống bị đơn như đã phân tích ở trên đó là đa
phần họ đều ở thế bị động trong VADS, do đó khi Tòa triệu tập hợp lệ đến lần
thứ hai mà họ vắng mặt tức là họ không thiện chí hòa giải, Tòa lập biên bản

không hòa giải được và ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Tuy nhiên, quy


19
định này chưa thực sự hợp lý bởi vì người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
gồm có người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập và không
có yêu cầu độc lập. Xét thấy đối với người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan
không có yêu cầu độc lập được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn
vắng mặt thì thuộc trường hợp vụ án không hòa giải được là hợp lý. Tuy
nhiên đối với trường hợp Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai đối với người có
quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập mà họ vẫn vắng mặt thì
phải xử lý như đối với trường hợp của nguyên đơn, đảm bảo tương thích với
điểm đ Khoản 2 Điều 227 BLTTDS năm 2015 đó là sẽ coi như họ đã từ bỏ
yêu cầu độc lập và Tòa án phải ra quyết định đình chỉ giải quyết đối với yêu
cầu độc lập của họ, trừ trường hợp họ có người đại diện hợp pháp tham gia.
Một vấn đề nữa, trong trường hợp người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan
được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt vì sự kiện bất khả
kháng thì nên có nghị quyết hướng dẫn cụ thể đối với trường hợp này, đảm
bảo sự thống nhất, tương thích đối với Điều 227 BLTTDS năm 20157
Thứ hai, đương sự không thể tham gia hòa giải được vì có lý do
chính đáng
Đây là trường hợp đương sự không thể tham gia hòa giải được vì có lý
do chính đáng có thể là trường hợp bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan
xảy ra như: Thiên tai, hỏa hoạn, ốm đau, tai nạn….phải điều trị tại bệnh viện,
khoảng cách địa lý xa nhau đi lại khó khăn, tốn kém như một trong các bên
đương sự đang ở nước ngoài.
Thứ ba, đương sự là vợ hoặc chồng trong vụ án ly hôn là người mất
năng lực hành vi dân sự
Quyền nhân thân là quyền dân sự gắn với mỗi cá nhân, không thể
chuyển giao cho người khác, vụ án ly hôn là vụ án gắn với quyền nhân thân

của mỗi người, do đó khi vợ hoặc chồng mất năng lực hành vi dân sự, không
7. Đặng Quang Huy, "Quy định của BLTTDS năm 2015 về nguyên tắc hòa giải trong TTDS", Kỷ yếu Hội
thảo Những quy định chung của BLTTDS năm 2015 của Trường Đại học Luật Hà Nội, tháng 6/2018, tr. 30.


20
thực hiện được ý chí, không tự thỏa thuận, không quyết định được lợi ích của
mình thì Tòa án không tiến hành hòa giải.
Tuy nhiên, Điều 23 BLDS năm 2015 bổ sung thêm trường hợp người
có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi là người thành niên do tình
trạng thể chất hoặc tinh thần mà không đủ khả năng nhận thức, làm chủ hành
vi nhưng chưa đến mức mất năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của
người này, người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu
quan, trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần, Tòa án ra quyết định
tuyên bố người này là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi và
chỉ định người giám hộ, xác định quyền, nghĩa vụ của người giám hộ. Vậy,
nếu đương sự là vợ chồng trong vụ án ly hôn là người có khó khăn trong nhận
thức và làm chủ hành vi thì thuộc trường hợp không tiến hành hòa giải được
không? Thiết nghĩ, vấn đề này TANDTC cần có hướng dẫn cụ thể.
Thứ tư, một trong các đương sự đề nghị không tiến hành hòa giải
Đây là quy định mới của BLTTDS 2015 phù hợp với thực tiễn, đương
sự không muốn hòa giải thì Tòa án không hòa giải được, phù hợp với quy
định về quyền tự định đoạt của đương sự. Nếu đương sự đề nghị không tiến
hành hòa giải ngay từ đầu sẽ rút ngắn thời gian giải quyết vụ án.
Đối với những vụ án do cơ quan cơ quan tổ chức khởi kiện vì lợi ích
của người khác, nếu phải hòa giải thì Tòa án không hòa giải giữa cơ quan, tổ
chức khởi kiện với bị đơn mà phải hòa giải giữa bị đơn với nguyên đơn
(những chủ thể của tranh chấp) hoặc người đại diện của họ trừ trường hợp
pháp luật quy định không được hòa giải hoặc không hòa giải được.
Khác với vụ án không được hòa giải, những vụ án không tiến hành

hòa giải được về bản chất lại là những loại việc pháp luật quy định cần phải
tiến hành hòa giải giữa các bên đương sự khi giải quyết vụ án. Yếu tố dẫn đến
việc hòa giải không thực hiện được là những lý do thực tế pháp luật chấp
nhận là cơ sở cho việc không cần tiến hành hòa giải giữa các đương sự và tiến
hành tiếp tục giải quyết vụ án ở những bước tiếp theo. Theo đó, trong trường


×