Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Thực tiễn giải quyết việc nuôi con nuôi tại địa bàn quận long biên, thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (917.99 KB, 105 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
----------❧★❧----------

NGUYỄN THÚY HẠNH

THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT VIỆC NUÔI CON NUÔI
TẠI ĐỊA BÀN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Chuyên ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự.
Mã số: 8380103

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
(Định hƣớng ứng dụng)

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Phƣơng Lan

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng
tôi.
Các kết quả nêu trong luận văn chƣa đƣợc công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, đƣợc trích
dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của luận văn này.


TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Thúy Hạnh


LỜI CẢM ƠN
Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành
nhất tới toàn thể gia đình, các thầy cô giáo khoa Luật dân sự và tố tụng dân sự, khoa
Sau đại học, tổ bộ môn Luật Hôn nhân và gia đình, các phòng ban của Ủy ban nhân
dân quận Long Biên, UBND các phƣờng trên địa bàn quận Long Biên, bạn bè đồng
nghiệp đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành luận văn tốt nghiệp này.
Đặc biệt, tôi xin gửi lời tri ân, cảm kích đến cô giáo, tiến sĩ Nguyễn Phƣơng
Lan, Giảng viên chính Khoa Pháp luật Dân sự – Trƣờng Đại học Luật Hà Nội,
ngƣời đã tận tình giúp đỡ và trực tiếp hƣớng dẫn tôi trong suốt thời gian hoàn thành
luận văn.
Mặc dù đã rất nỗ lực, song do còn hạn chế về kinh nghiệm, kiến thức của bản
thân nên chuyên đề của tôi không tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả rất mong nhận
đƣợc sự đóng góp ý kiến của quý thầy cô và các bạn để làm phong phú hơn nữa nội
dung về Thực tiễn giải quyết việc nuôi con nuôi trong nƣớc tại địa bàn quận, huyện
trên cả nƣớc.
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày 30 tháng 8 năm 2018
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Thúy Hạnh


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Ký hiệu
Công ƣớc La Hay


Chú giải
Công ƣớc La Hay 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp
tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi Quốc tế.

Luật nuôi con nuôi

Luật nuôi con nuôi số 52/2010/QH12 ngày 17
tháng 6 năm 2010.

Luật hộ tịch
Luật trẻ em

Luật hộ tịch số 60/2014/QH13 ngày 20 tháng 11
năm 2014.
Luật trẻ em số 102/2016/QH13 ngày 05 tháng 4

Nghị định số 68/2002/NĐ-CP

năm 2016.
Nghị định số 68/2002/NĐ-CP quy định chi tiết
thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia
đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố
nƣớc ngoài.

Nghị định số 69/2006/NĐ-CP

Nghị định số 69/2006/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung
một số điều của Nghị định 68/2002/NĐ-CP ngày
10 tháng 7 năm 2002 của Chính phủ quy định

chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân
và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có

Nghị định số 158/2005/NĐ-CP
Nghị định số 19/2011/NĐ-CP
Nghị định số 123/2015/NĐ-CP
Thông tƣ số 15/2015/TT-BTP

yếu tố nƣớc ngoài.
Nghị định số 158/2005/NĐ-CP về đăng ký và
quản lý hộ tịch.
Nghị định số 19/2011/NĐ-CP quy định chi tiết
thi hành một số điều của Luật nuôi con nuôi.
Nghị định số 123/2015/NĐ-CP quy định chi tiết
một số điều và biện pháp thi hành Luật hộ tịch.
Thông tƣ số 15/2015/TT-BTP ngày 16 tháng 11
năm 2015 quy định chi tiết thi hành một số điều
của Luật hộ tịch và nghị định số 123/2015/NĐCP ngày 15 tháng 11 năm 2015 của Chính phủ
quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi
hành Luật hộ tịch.


TTHC

Thủ tục hành chính

UBND

Ủy ban nhân dân



DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1. Kết quả giải quyết việc nuôi con nuôi trong nƣớc trên địa bàn quận
giai đoạn 2011 - 6 tháng đầu năm 2018.
Bảng 2. Kết quả giải quyết việc nuôi con nuôi của các phƣờng qua các năm từ
năm 2011 đến hết 6 tháng đầu năm 2018.
Bảng 3. Nguồn gốc của trẻ em đƣợc nhận làm con nuôi.
Bảng 4. Tỷ lệ trẻ em đƣợc nhận làm con nuôi phân theo độ tuổi.
Bảng 5. Giới tính của trẻ em đƣợc nhận làm con nuôi.


MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

1

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

2

3. Mục đích nghiên cứu

4

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

4


5. Phƣơng pháp nghiên cứu

5

6. Những đóng góp của luận văn

5

7. Bố cục luận văn

6

CHƢƠNG 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ GIẢI QUYẾT VIỆC NUÔI CON NUÔI 7
1.1. Khái niệm nuôi con nuôi

7

1.1.1. Khái niệm nuôi con nuôi dƣới góc độ xã hội

7

1.1.2. Khái niệm nuôi con nuôi dƣới góc độ pháp lý

7

1.2. Khái niệm giải quyết việc nuôi con nuôi

10

1.3. Nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi


10

1.4. Cơ sở giải quyết việc nuôi con nuôi

14

1.5. Căn cứ pháp lý của việc giải quyết nuôi con nuôi

18

1.6. Ý nghĩa của việc nuôi con nuôi

18

Kết luận chƣơng 1

22

Chƣơng 2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT VIỆC NUÔI
CON NUÔI TẠI QUẬN LONG BIÊN – THÀNH PHỐ HÀ NỘI

23

2.1. Kết quả giải quyết việc nuôi con nuôi trên địa bàn quận Long Biên từ năm 2011
đến nay

23

2.2. Một số yếu tố ảnh hƣởng đến việc nuôi con nuôi tại địa bàn quận Long Biên,

thành phố Hà Nội

30

2.2.1. Yếu tố về vị trí địa lý, dân số, lao động

30

2.2.2. Đặc điểm kinh tế, văn hóa, xã hội

32

2.2.3. Phong tục tập quán, truyền thống văn hóa

35

2.2.4. Tâm lý tình cảm

36

2.2.5. Đạo đức, lối sống

37

2.3. Việc áp dụng các điều kiện nuôi con nuôi trong quá trình giải quyết việc nuôi
con nuôi

38

2.3.1. Điều kiện đối với ngƣời đƣợc nhận làm con nuôi


38


2.3.2. Điều kiện về ngƣời đƣợc nhận làm con nuôi

46

2.3.3. Điều kiện về ý chí các bên chủ thể

50

2.4. Thủ tục giải quyết việc nuôi con nuôi

53

2.4.1. Hồ sơ nuôi con nuôi

53

2.4.2. Trình tự, thủ tục, thời hạn thực hiện

60

2.5. Thẩm quyền giải quyết việc nuôi con nuôi trong nƣớc

61

Kết luận Chƣơng 2


62

Chƣơng 3. MỘT SỐ VƢỚNG MẮC, KHÓ KHĂN TRONG QUÁ TRÌNH GIẢI
QUYẾT VIỆC NUÔI CON NUÔI TẠI QUẬN LONG BIÊN VÀ BIỆN PHÁP
KHẮC PHỤC

63

3.1. Một số vƣớng mắc, bất cập trong quá trình giải quyết việc nuôi con nuôi tại
quận Long Biên

63

3.1.1. Vƣớng mắc khi áp dụng pháp luật giải quyết việc nuôi con nuôi tại địa bàn
quận Long Biên

63

3.1.2. Các yếu tố đặc thù tại địa phƣơng

72

3.2. Biện pháp khắc phục những vƣớng mắc, bất cập khi giải quyết việc nuôi con
nuôi

72

3.2.1. Về các quy định của pháp luật

72


3.2.2. Tổ chức thực hiện pháp luật về các điều kiện nuôi con nuôi và xác định thẩm
quyền đăng ký việc nuôi con nuôi

75

3.2.3. Tăng cƣờng nguồn lực cán bộ

75

3.2.4. Tăng cƣờng ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý nhà nƣớc về nuôi
con nuôi

76

3.2.5. Đề xuất kiến nghị về cải cách thủ tục hành chính về nuôi con nuôi tại địa bàn
76
Kết luận chƣơng 3

78

KẾT LUẬN

79

PHỤ LỤC
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trẻ em là hạnh phúc của gia đình, là tƣơng lai của đất nƣớc. Sinh thời Chủ
tịch Hồ Chí Minh luôn dành cho các cháu thiếu niên, nhi đồng tình thƣơng yêu và
quan tâm đặc biệt. Với Bác, trẻ em là những mầm non, những ngƣời chủ tƣơng lai
của đất nƣớc. Bác nói: “cái mầm có xanh thì cây mới vững, cái búp có xanh thì lá
mới tươi quả mới tốt, con trẻ có được nuôi dưỡng giáo dục hẳn hoi thì dân tộc mới
tự cường tự lập”1. Ngƣời đặt niềm tin và xác định rõ vai trò, trách nhiệm của trẻ
em là những ngƣời kế tục sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Đồng thời
Ngƣời cũng nhắc nhở và giao nhiệm vụ bảo vệ, chăm sóc trẻ em cho các ngành,
đoàn thể nhằm ƣơm “mầm xanh tương lai” của đất nƣớc. Nhƣng hiện nay theo số
liệu thống kê năm 2013 của Bộ Lao động thƣơng binh và Xã hội, cả nƣớc hiện có
477,899 trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, trong đó: 236,224 trẻ em mồ côi không nơi
nƣơng tựa; 180,957 trẻ em khuyết tật, tàn tật; 11,980 trẻ em bị nhiễm chất độc hóa
học; 4,277 trẻ em lang thang…2. Đây là những trẻ em rất cần sự chung tay giúp đỡ
của cộng động và xã hội. Việc nhận trẻ em làm con nuôi là một giải pháp hữu hiệu
giúp đỡ các em, tạo điều kiện cho các em có đƣợc một mái ấm gia đình, một môi
trƣờng sống, đƣợc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục tốt hơn.
Nuôi con nuôi là một vấn đề đƣợc xã hội rất quan tâm. Trải qua thời gian
thực tế áp dụng các quy định về nuôi con nuôi, đến năm 2010 Luật Nuôi con nuôi
lần đầu tiên đƣợc Quốc hội khóa XII thông qua ngày 17/6/2010 và có hiệu lực áp
dụng từ ngày 01/01/2011. Luật Nuôi con nuôi ra đời đã đánh dấu bƣớc tiến quan
trọng trong quá trình pháp điển hóa các quy phạm pháp luật và thực tiễn giải quyết
các vấn đề Nuôi con nuôi, điều chỉnh việc nuôi con nuôi một cách toàn diện, tạo cơ
sở pháp lý giải quyết các vấn đề phát sinh trong lĩnh vực nuôi con nuôi. Qua đó,
khơi dậy tinh thần nhân đạo, nhân văn sâu sắc, tình yêu thƣơng, tinh thần trách
nhiệm và mối quan hệ tƣơng thân, tƣơng ái, giúp đỡ lẫn nhau giữa con ngƣời với
con ngƣời. Nuôi con nuôi giúp cho nhiều trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt tìm đƣợc mái
ấm gia đình, đƣợc chăm sóc và bù đắp yêu thƣơng; đồng thời giúp xã hội giảm đƣợc

gánh nặng về tài chính, kinh tế khi phải đầu tƣ cơ sở vật chất, chính sách bảo trợ
cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn.
1

Phạm Thị Nhung (2016), “Chủ tịch Hồ Chí Minh với “ƣơm mầm xanh” tƣơng lai của đất nƣớc”, Tạp chí
xây dựng Đảng, (6).
2
Quỹ bảo trợ trẻ em Việt Nam (2013), “Thống kê số liệu trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt năm 2013”,
www.qbttevinhphuc.org/QTTin/Fdetails/59..


2

Luật Nuôi con nuôi quy định khá rõ ràng về thủ tục giải quyết việc nuôi con
nuôi; trình tự tìm gia đình thay thế cho trẻ em trong các trƣờng hợp; nguyên tắc giải
quyết việc nuôi con nuôi; lệ phí và chi phí giải quyết việc nuôi con nuôi; hệ quả
pháp lý của việc nuôi con nuôi…
Tuy nhiên, qua thời gian triển khai thực hiện tại các cơ quan nhà nƣớc ở địa
phƣơng cũng gặp phải những khó khăn vƣớng mắc, bất cập, chƣa phù hợp với thực
tiễn, hoặc có những quy định chƣa đầy đủ, chƣa rõ ràng cần có sự sửa đổi, bổ sung.
Ví dụ nhƣ: Các quy định về thủ tục giải quyết việc nuôi con nuôi phức tạp hơn, hồ
sơ nuôi con nuôi cần nhiều loại giấy tờ hơn, các điều kiện của việc nuôi con nuôi
chƣa chặt chẽ, dẫn đến việc nhận thức và áp dụng trong thực tế còn thiếu thống nhất
v/v…
Về thực tiễn giải quyết các hồ sơ nuôi con nuôi tại địa bàn quận Long Biên
thời gian qua tuy số lƣợng hồ sơ giải quyết không nhiều nhƣng quá trình giải quyết
hồ sơ cũng gặp phải những khó khăn, vƣớng mắc nhƣ: việc xác định điều kiện của
con nuôi và điều kiện của ngƣời nhận nuôi còn lúng túng và chƣa thống nhất; việc
xác định và lấy ý kiến của cha mẹ đẻ, ngƣời giám hộ của trẻ còn khó khăn; hồ sơ
của trẻ để giới thiệu làm con nuôi chƣa đầy đủ, còn thiếu thông tin về tình trạng sức

khỏe của trẻ; việc giới thiệu trẻ em làm con nuôi của các cơ quan liên ngành còn
chậm và không có hiệu quả do các ban ngành còn chƣa quan tâm và chƣa làm hết
trách nhiệm phối hợp của mình; cơ chế giám sát thực hiện việc nuôi con nuôi chƣa
đƣợc quan tâm thực hiện đầy đủ. Mặt khác đa số các trƣờng hợp cho - nhận con
nuôi thƣờng xảy ra trong địa bàn phƣờng nên ngƣời nhận con nuôi và con nuôi
thƣờng có quan hệ huyết thống, quen biết với nhau nên việc giải quyết còn qua loa,
chƣa đặt lợi ích của con nuôi lên trên để đảm bảo cho trẻ có một gia đình thay thế
phù hợp.
Trƣớc những vấn đề còn tồn tại, vƣớng mắc đó, với nhu cầu về việc nuôi con
nuôi tại địa bàn quận Long Biên nhƣ hiện nay mà em chọn đề tài: “Thực tiễn giải
quyết việc nuôi con nuôi tại địa bàn Quận Long Biên, Thành phố Hà Nội” để
nghiên cứu nhằm đánh giá kết quả đã đạt đƣợc cũng nhƣ những điểm còn hạn chế
trong việc thực hiện các quy định của pháp luật về nuôi con nuôi trên địa bàn quận.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề nuôi con nuôi trong nƣớc đã đƣợc nhiều nhà nghiên thực hiện với
nhiều công trình nghiên cứu ở các cấp độ khác nhau và từ khi Luật nuôi con nuôi có
hiệu lực đến nay, có một số công trình nghiên cứu sau:
* Các đề tài nghiên cứu khoa học:


3

Tác giả Nguyễn Phƣơng Lan (2017), Luật nuôi con nuôi – Thực tiễn thi hành
và giải pháp hoàn thiện, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trƣờng, Đại học Luật Hà
Nội.
Đề tài tập trung nghiên cứu về những vấn đề lý luận chung về pháp luật nuôi
con nuôi, thực tiễn thi hành các điều kiện nuôi con nuôi, thủ tục giải quyết nuôi con
nuôi có yếu tố nƣớc ngoài, hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi và chấm dứt việc
nuôi con nuôi theo Luật nuôi con nuôi để thấy đƣợc khó khăn, bất cập trong quá
trình thực hiện và từ đó đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện.

* Các luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ đã nghiên cứu:
Tác giả Phan Thùy Dƣơng (2013), Thực hiện pháp luật về nuôi con nuôi qua
thực tiễn tại tỉnh Thừa Thiên Huế, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Tác giả Lê Thị Hiền (2012), Pháp luật nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
trong tương quan so sánh với pháp luật nước ngoài, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Tác giả Nguyễn Phƣơng Lan (2004), Bản chất pháp lý của việc nuôi con
nuôi theo pháp luật Việt Nam, Đại học Luật Hà Nội.
Tác giả Nguyễn Phƣơng Lan (2007), Cơ sở lý luận và thực tiễn của chế định
pháp lý về nuôi con nuôi ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ luật học, Đại học Luật Hà
Nội.
Tác giả Bùi Thị Thanh Lê (2015), Các điều kiện nuôi con nuôi theo Luật
nuôi con nuôi năm 2010, Đại học Luật Hà Nội.
Tác giả Kiều Thị Huyền Trang (2014), Quan hệ cha mẹ nuôi – con nuôi và
theo pháp luật Việt Nam hiện nay, Khóa luận tốt nghiệp, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Tác giả Nguyễn Thị Phƣơng Thu (2014), Nguyên tắc giải quyết việc nuôi con
nuôi theo Luật Nuôi con nuôi, Khóa luận tốt nghiệp, Đại học Luật Hà Nội.
Các Luận văn đã nghiên cứu làm rõ các vấn đề cơ sở lý luận và thực tiễn giải
quyết việc nuôi con nuôi trƣớc và sau khi Luật nuôi con nuôi ra đời.
* Các báo cáo tại các Hội thảo:
Bộ Tƣ pháp (2009), Báo cáo tổng kết 05 năm thi hành pháp luật về nuôi con
nuôi (2003-2008);
Bộ Tƣ pháp (2016), Tài liệu hội nghị đánh giá tình hình thực hiện Luật nuôi
con nuôi và Nghị định số 19/2011/NĐ-CP giai đoạn 2011-216;
Bộ Tƣ pháp, Cục con nuôi (2014), Báo cáo sơ kết 3 năm thi hành Luật nuôi
con nuôi và 02 năm thi hành Công ƣớc La Hay số 33 về bảo vệ trẻ em và hợp tác
trong lĩnh vực con nuôi quốc tế.
Các báo cáo cơ bản đã đánh giá đƣợc kết quả thực hiện, những khó khăn,


4


vƣớng mắc trong việc nuôi con nuôi trong nƣớc và nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc
ngoài, nuôi con nuôi thực tế trên phạm vi cả nƣớc và một số địa bàn quận, huyện cụ
thể (nhƣ tại địa bàn Tỉnh Thừa Thiên Huế). Mặc dù đã có nhiều công trình nghiên
cứu về cả cơ sở lý luận và thực tiễn thi hành Luật nuôi con nuôi tại Việt Nam, tuy
nhiên cho đến nay chƣa có công trình nào nghiên cứu về thực tiễn giải quyết việc
nuôi con nuôi tại địa bàn Quận Long Biên, Thành phố Hà Nội. Vì vậy đây là nghiên
cứu có tính ứng dụng trong việc áp dụng pháp luật về nuôi con nuôi tại địa bàn quận
Long Biên, nên không có sự trùng lặp với các công trình nghiên cứu trƣớc đây.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là phân tích, đánh giá thực tiễn giải quyết
việc nuôi con nuôi của các UBND phƣờng tại địa bàn quận Long Biên, thành phố
Hà Nội để thấy đƣợc những kết quả áp dụng pháp luật về nuôi con nuôi trên địa
bàn.
Từ việc trình bày thực tiễn áp dụng pháp luật để giải quyết việc nuôi con
nuôi để chỉ ra những khó khăn, vƣớng mắc trong quá trình giải quyết việc nuôi con
nuôi và từ đó đề xuất một số phƣơng hƣớng, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp
dụng các quy định của pháp luật trong việc giải quyết các yêu cầu nhận nuôi con
nuôi của ngƣời dân trên địa bàn quận.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Luận văn tập trung chủ yếu đánh giá về việc áp dụng các quy định của pháp
luật trong giải quyết việc nuôi con nuôi tại địa bàn quận Long Biên, thành phố Hà
Nội (theo Luật nuôi con nuôi năm 2010). Đồng thời làm rõ những điểm cong bất
cập, thiếu sót để hoàn thiện hồ sơ, quy trình, thủ tục giải quyết việc nuôi con nuôi.
Phạm vi nghiên cứu: Giải quyết việc nuôi con nuôi tại UBND cấp phƣờng
trong địa giới hành chính quận Long Biên, trên các nguồn số liệu đƣợc tổng hợp từ
năm 2011 đến hết tháng 6 năm 2018 của quận Long Biên.
Về nội dung: đề tài tập trung làm rõ quy trình, tổ chức thực hiện, kết quả,
khó khăn, vƣớng mắc và những yếu tố ảnh hƣởng, các giải pháp hoàn thiện, nâng

cao hiệu quả áp dụng pháp luật về nuôi con nuôi, hoàn thiện các hồ sơ pháp lý về
nuôi con nuôi trong nƣớc (thuộc thẩm của Ủy ban nhân dân cấp xã, phƣờng).
Theo quy định của Luật Hộ tịch và Luật nuôi con nuôi, thẩm quyền của
UBND cấp xã chỉ giải quyết việc nuôi con nuôi trong nƣớc, nên việc nuôi con nuôi
có yếu tố nƣớc ngoài không đƣợc nghiên cứu trong phạm vi đề tài này.


5

Vấn đề nuôi con nuôi thực tế trên địa bàn quận kể từ khi Luật nuôi con nuôi
có hiệu lực cũng chƣa ghi nhận đƣợc trƣờng hợp nào nên Luận văn chỉ tập trung
nghiên cứu việc giải quyết yêu cầu nuôi con nuôi phát sinh mới trên địa bàn quận.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Để nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu sau:
5.1. Phương pháp luận nghiên cứu: là phƣơng pháp duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - LêNin.
5.2. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể: gồm phƣơng pháp phân tích; tổng
hợp; điều tra, khảo sát thực tiễn.
5.2.1. Phƣơng pháp điều tra, thu thập số liệu
Phƣơng pháp điều tra, thu thập số liệu thứ cấp: thu thập, xử lý số liệu có sẵn
tại các phòng ban (Phòng Tƣ pháp, Chi cục thống kê quận Long Biên).
Phƣơng pháp điều tra, thu thập số liệu sơ cấp: đƣợc thu thập qua phƣơng
pháp điều tra và khảo sát thực tế. Khảo sát thực tế nhằm kiểm chứng thông tin thu
thập đƣợc từ điều tra trƣớc đó, phỏng vấn trực tiếp các cán bộ làm công tác quản lý
tƣ pháp hộ tịch tại các phƣờng trên địa bàn quận.
5.2.2. Phƣơng pháp thống kê, tổng hợp
Số liệu sau khi thu thập đƣợc tiến hành thống kê và tổng hợp một cách khoa
học theo những luận điểm cần đánh giá để nắm bắt đƣợc tổng quan thực tiễn giải
quyết việc nuôi con nuôi trên địa bàn quận Long Biên.
5.2.3. Phƣơng pháp phân tích, so sánh

Số liệu tổng hợp đƣợc tiến hành phân tích, đánh giá, so sánh để rút ra các kết
luận trên cơ sở các quy định của pháp luật về nuôi con nuôi hiện hành.
6. Những đóng góp của luận văn
Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn giải quyết việc nuôi con nuôi trong
nƣớc; Phân tích các khái niệm, nội dung việc thực hiện pháp luật về nuôi con nuôi
trong nƣớc.
Đánh giá thực trạng giải quyết việc nuôi con nuôi trong nƣớc tại địa bàn
quận Long Biên. Phân tích các yếu tố ảnh hƣởng đến quá trình giải quyết việc nuôi
con nuôi tại địa bàn quận Long Biên, thành phố Hà Nội.
Đề xuất một số kiến nghị về phƣơng hƣớng xây dựng và áp dụng pháp luật.
Thông qua đó, góp phần nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nƣớc trong lĩnh vực
nuôi con nuôi tại địa bàn quận Long Biên, thành phố Hà Nội trong thời gian tới.
Là một công chức trực tiếp làm công tác tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả giải
quyết thủ tục hành chính lĩnh vực Tƣ pháp – hộ tịch, học viên cam kết đƣa ra những


6

số liệu trung thực, phản ánh chính xác việc giải quyết hồ sơ nuôi con nuôi và những
khó khăn, vƣớng mắc thực tế cũng nhƣ đề xuất giải pháp khắc phục. Chính vì vậy,
khi hoàn thành, luận văn sẽ là một nguồn tài liệu tham khảo đáng tin cậy của những
cán bộ trực tiếp tiếp nhận hồ sơ và giải quyết việc nuôi con nuôi tại địa bàn quận
Long Biên và là tài liệu hƣớng dẫn cho công dân khi đến cơ quan hành chính cấp
phƣờng để giải quyết việc nuôi con nuôi.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài những nội dung về: lời cam đoan, mục lục, danh mục các từ viết tắt,
danh mục các bảng biểu, mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn đƣợc kết cấu gồm 3 Chƣơng:
Chƣơng 1: Khái quát chung về giải quyết việc nuôi con nuôi.
Chƣơng 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật giải quyết việc nuôi con nuôi tại

quận Long Biên, thành phố Hà Nội.
Chƣơng 3: Một số vƣớng mắc, khó khăn trong quá trình giải quyết việc nuôi
con nuôi tại quận Long Biên và biện pháp khắc phục.


7

Chƣơng 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ GIẢI QUYẾT VIỆC NUÔI CON NUÔI
1.1. Khái niệm nuôi con nuôi
Nuôi con nuôi là một hiện tƣợng xã hội phổ biến trong xã hội; là việc làm thể
hiện tính nhân đạo sâu sắc, tình yêu thƣơng, tinh thần trách nhiệm và mối quan hệ
tƣơng thân, tƣơng ái, giúp đỡ lẫn nhau giữa con ngƣời với con ngƣời, là biện pháp
tích cực giúp đỡ trẻ em không nơi nƣơng tựa có đƣợc một mái ấm gia đình, đƣợc
chăm sóc và phát triển trong điều kiện tốt nhất. Việc nuôi con nuôi nhằm xác lập
quan hệ cha, mẹ và con lâu dài, bền vững, vì lợi ích tốt nhất của ngƣời đƣợc nhận
làm con nuôi, bảo đảm cho con nuôi đƣợc nuôi dƣỡng, chăm sóc, giáo dục trong
môi trƣờng gia đình.
Khái niệm nuôi con nuôi đã đƣợc quy định tại Khoản 1 Điều 3 Luật nuôi con
nuôi năm 2010: “Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha, mẹ và con giữa người
nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi”
Khái niệm nuôi con nuôi có thể đƣợc hiểu theo hai góc độ: Góc độ xã hội và
dƣới góc độ pháp lý.
1.1.1. Khái niệm nuôi con nuôi dưới góc độ xã hội
Dƣới góc độ xã hội, nuôi con nuôi là một quan hệ xã hội đƣợc hình thành
một cách tự nhiên trong đời sống của con ngƣời và không dựa trên quan hệ huyết
thống, nhằm hình thành quan hệ cha mẹ và con để thỏa mãn nhu cầu tinh thần hoặc
lợi ích tinh thần của các bên. Nuôi con nuôi xuất hiện và tồn tại từ lâu trong lịch sử,
đây là một quyền tự do dân sự của cá nhân và phù hợp với nhu cầu, mong muốn của
con ngƣời. Trên thực tế, việc nuôi con nuôi có thể không đƣợc cơ quan nhà nƣớc có

thẩm quyền công nhận, xong quan hệ cha mẹ nuôi và con nuôi vẫn đƣợc xác lập
trên cơ sở mong muốn của các bên liên quan. Việc nhận con nuôi đƣợc thiết lập bởi
nhiều yếu tố khác nhau nhƣ: xuất phát từ tình yêu thƣơng với đứa trẻ muốn nhận
làm con nuôi; do tâm lý của ngƣời Việt Nam muốn nhận con nuôi để làm phúc, vì
mục đích từ thiện, nhân đạo hay hoàn cảnh ngƣời nhận nuôi không có con cái, do
mê tín muốn nhận con nuôi để vợ có thể sinh đƣợc con của mình...v.v. Dù đƣợc
thiết lập dựa trên yếu tố nào thì quan hệ nuôi con nuôi đều thể hiện sự gắn bó giữa
con ngƣời với nhau trên cơ sở vì lợi ích chung, nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của
con ngƣời và mang tính nhân đạo sâu sắc.
1.1.2. Khái niệm nuôi con nuôi dưới góc độ pháp lý


8

Nuôi con nuôi đƣợc xem xét dƣới các góc độ là một sự kiện pháp lý và là
một quan hệ pháp luật.
Quan hệ nuôi con nuôi đƣợc sự công nhận của cơ quan Nhà nƣớc có thẩm
quyền và đƣợc điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật.
Sự kiện pháp lý là những sự kiện xảy ra trong thực tế mà pháp luật dự liệu,
quy định làm phát sinh các hậu quả pháp lý.
Việc nuôi con nuôi là một sự kiện pháp lý vì nó xảy ra trên thực tế, bao gồm
các yếu tố cấu thành nhƣ: các bên chủ thể có đủ điều kiện để nhận nuôi con nuôi, ý
chí tự nguyện của các bên có liên quan trong quan hệ nuôi con nuôi và ý chí của cơ
quan nhà nƣớc có thẩm quyền. Khi các yếu tố cấu thành này đƣợc đảm bảo đầy đủ
thì quan hệ nuôi con nuôi đƣợc xác lập, làm phát sinh quan hệ cha, mẹ và con giữa
hai bên ngƣời nhận con nuôi và ngƣời đƣợc nhận làm con nuôi.
Các yếu tố cấu thành sự kiện pháp lý nuôi con nuôi bao gồm:
- Các bên chủ thể của quan hệ nuôi con nuôi phải có đủ các điều kiện để
nhận nuôi con nuôi theo quy định của pháp luật.
- Phải có ý chí tự nguyện của các bên liên quan trong quan hệ nuôi con nuôi,

bao gồm: ý chí của ngƣời nhận con nuôi mong muốn nhận nuôi một đứa trẻ để thiết
lập quan hệ cha mẹ con với đứa trẻ đó; Ý chí của cha mẹ đẻ hoặc ngƣời giám hộ của
trẻ em đƣợc cho làm con nuôi để đảm bảo việc cho trẻ em làm con nuôi phải minh
bạch, xuất phát từ hoàn cảnh và mong muốn của bản thân họ muốn cho trẻ em làm
con nuôi nhằm mang lại điều kiện sống tốt hơn cho trẻ em đó mà không có bất cứ
sự tác động, dụ dỗ hay ép buộc nào khác. Sự thể hiện ý chí của cha mẹ đẻ cho trẻ
em làm con nuôi ngƣời khác có thể thể hiện ở bất cứ lúc nào nhƣng nó chỉ có ý
nghĩa khi trẻ em đó đƣợc sinh ra mà còn sống. Trong trƣờng hợp trẻ em đƣợc cho
làm con nuôi đạt đến một độ tuổi nhất định, có khả năng nhận thức về cuộc sống,
bày tỏ thái độ, tình cảm, mong muốn làm con nuôi ngƣời khác thì việc cha - nhận
con nuôi phải có sự đồng ý của chính bản thân trẻ em đó.
- Khi các bên chủ thể có đầy đủ các điều kiện để nhận nuôi con nuôi theo
quy định của pháp luật và các bên liên quan bày tỏ ý chí tự nguyện, mong muốn
đƣợc cho - nhận con nuôi thì cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền tiến hành giải quyết
công nhận quan hệ cha mẹ nuôi và con nuôi đó. Việc nuôi con nuôi đƣợc công nhận
tại cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền làm phát sinh hiệu lực pháp lý của việc nuôi
con nuôi.
Nhƣ vậy dƣới góc độ là sự kiện pháp lý, nuôi con nuôi là một sự kiện pháp lý
phức hợp, bao gồm tập hợp các sự kiện pháp lý hợp thành. Nếu thiếu đi một trong


9

các sự kiện cấu thành tập hợp đó thì không làm phát sinh quan hệ pháp luật cha mẹ
nuôi và con nuôi.
* Nuôi con nuôi hiểu dưới góc độ là quan hệ pháp luật:
Quan hệ pháp luật là quan hệ xã hội đƣợc các quy phạm pháp luật điều
chỉnh, trong đó các bên chủ thể tham gia mang những quyền chủ thể và nghĩa vụ
pháp lý do pháp luật quy định và đƣợc nhà nƣớc bảo đảm thực hiện.
Quan hệ pháp luật nuôi con nuôi là những quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh

vực nuôi con nuôi, đƣợc quy phạm pháp luật điều chỉnh và nó có đầy đủ các yếu tố
chủ thể, khách thể và nội dung.
- Chủ thể của quan hệ pháp luật nuôi con nuôi gồm: cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi,
con nuôi, ngƣời giám hộ của trẻ em đƣợc nhận làm con nuôi. Để trở thành các chủ
thể trong trong quan hệ nuôi con nuôi, các bên tham gia quan hệ pháp luật nuôi con
nuôi đƣợc thực hiện các quyền của chủ thể và cũng có những nghĩa vụ nhất định.
Ngƣời nhận con nuôi phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện do pháp luật quy định. Cha
mẹ đẻ, ngƣời giám hộ của trẻ em phải đảm bảo các quy định về sự tự nguyện cho
con mình làm con nuôi ngƣời khác vì lý do hoàn cảnh khó khăn không thể nuôi
dƣỡng, chăm sóc cho con một cách tốt nhất, việc cho trẻ em làm con nuôi ngƣời
khác là biện pháp cuối cùng vì lợi ích tốt nhất cho trẻ em. Trẻ em đƣợc nhận làm
con nuôi phải ở trong một độ tuổi nhất định do pháp luật quy định. Ở độ tuổi này
các em chƣa đủ khả năng nhận biết, chịu trách nhiệm về hành vi của mình và cần có
ngƣời chăm sóc và bảo vệ trƣớc những cám dỗ của cuộc sống bên ngoài. Các em
cần có cha mẹ, có một gia đình đủ điều kiện để chăm sóc, yêu thƣơng và lớn lên trở
thành ngƣời có ích cho xã hội.
- Khách thể của quan hệ nuôi con nuôi là lợi ích mà các bên chủ thể hƣớng
tới. Khi xác lập quan hệ nuôi con nuôi các bên đều mong muốn hƣớng tới một lợi
ích nhất định, đó là quyền nhân thân, tình cảm gắn bó lâu dài giữa cha mẹ nuôi và
con nuôi; tình yêu thƣơng, ý thức trách nhiệm với cộng đồng, xã hội; quyền tài
sản...Dù quan hệ nuôi con nuôi đƣợc thiết lập dựa trên mục đích nào thì vẫn phải
đảm bảo mong muốn, lợi ích của các bên là chính đáng, cần thiết cho đứa trẻ đƣợc
nhận nuôi, vì lợi ích của trẻ em đƣợc nhận nuôi.
- Nội dung của quan hệ pháp luật nuôi con nuôi là những quyền và nghĩa vụ
pháp lý của các chủ thể khi tham gia vào quan hệ nuôi con nuôi do pháp luật quy
định, bao gồm các quyền và nghĩa vụ về nhân thân, về tài sản trong quan hệ cha mẹ
và con giữa ngƣời nhận nuôi và con nuôi. Trong quan hệ nuôi con nuôi tồn tại mối
quan hệ giữa ba bên: ngƣời nhận con nuôi, ngƣời cho con nuôi và con nuôi nhƣng



10

chủ yếu vẫn là quan hệ giữa ngƣời nhận nuôi và con nuôi. Khi xác lập quan hệ nuôi
con nuôi, các bên chủ thể đều mong muốn đạt đƣợc lợi ích của mình. Ngƣời nhận
con nuôi mong muốn đƣợc thiết lập quan hệ cha mẹ và con lâu dài và ổn định trên
cơ sở tình yêu thƣơng với đứa trẻ... Ngƣời cho con nuôi vì lý do hoàn cảnh nào đó
không thể chăm sóc đƣợc con mình, mong muốn cho con làm con nuôi ngƣời khác
để con đƣợc chăm sóc, yêu thƣơng và phát triển trong điều kiện đầy đủ hơn. Con
nuôi cũng mong muốn đƣợc sống trong gia đình có đầy đủ cha, mẹ và tình yêu
thƣơng để phát triển toàn diện về cả thể chất và tinh thần.
1.2. Khái niệm giải quyết việc nuôi con nuôi
Theo quan điểm của tác giả: Giải quyết việc nuôi con nuôi là việc cơ quan
nhà nƣớc có thẩm quyền công nhận yêu cầu nhận nuôi con nuôi của các bên đƣơng
sự theo một trình tự thủ tục do luận định. Quan hệ nuôi con nuôi đƣợc xác lập dựa
trên yếu tố tự nguyện, minh bạch, không bị ép buộc vì bất cứ một lý do nào khác,
trẻ em nhận nuôi đƣợc sống trong môi trƣờng gia đình tốt hơn.
1.3. Nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi
Các nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi đƣợc hiểu là những quy phạm
pháp luật thể hiện ý chí, quan điểm của nhà nƣớc trong việc điều chỉnh, chỉ đạo,
quán triệt, thống nhất mọi hoạt động của các cá nhân, tổ chức, các quan hệ phát sinh
trong lĩnh vực nuôi con nuôi, chi phối các quy phạm pháp luật điều chỉnh việc nuôi
con nuôi nhằm đảm bảo thực hiện các quyền cơ bản và lợi ích tốt nhất của trẻ em
đƣợc nhận làm con nuôi 3.
Các nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi đã đƣợc quy định trƣớc đây
trong Nghị định số 68/2002/NĐ-CP và nghị định số 69/2006/NĐ-CP. Tuy nhiên với
cách quy định tại hai văn bản này, dƣờng nhƣ các nguyên tắc này chỉ đƣợc áp dụng
trong việc nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài. Đó là điều chƣa phù hợp với thực tế
nuôi con nuôi. Các nguyên tắc nuôi con nuôi phải chi phối đến toàn bộ quá trình
giải quyết việc nuôi con nuôi, từ việc xác lập quan hệ nuôi con nuôi đến việc thực
hiện chấm dứt việc nuôi con nuôi (nếu có), từ việc nuôi con nuôi trong nƣớc đến

việc nuôi con nuôi nƣớc ngoài. Trên cơ sở đó, Luật nuôi con nuôi 2010 ra đời đã
quy định các nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi trên cơ sở tiếp cận Công ƣớc
La Hay phù hợp với tƣ tƣởng chỉ đạo chi phối việc nuôi con nuôi quốc tế.
Các nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi bao gồm:

3

Nguyễn Phƣơng Lan (2017), Luật nuôi con nuôi - thực tiễn thi hành và giải pháp hoàn thiện, Đề tài nghiên
cứu khoa học cấp trƣờng, Đại học Luật Hà Nội, tr.26.


11

1.3.1. Khi giải quyết việc nuôi con nuôi cần tôn trọng quyền của trẻ em
được sống trong môi trường gia đình gốc
Gia đình nơi trẻ em sinh ra đƣợc coi là môi trƣờng lý tƣởng nhất cho sự phát
triển của trẻ em. Do còn non nớt về thể chất và trí tuệ, nên trẻ em cần đƣợc bảo vệ
và chăm sóc, đặc biệt trong bầu không khí yêu thƣơng, hạnh phúc và cảm thông của
những thành viên trong gia đình.
Đây là một nguyên tắc đƣợc thừa nhận trong cộng đồng quốc tế. Lời nói đầu
Công ƣớc của Liên Hiệp Quốc về quyền trẻ em: “tin tưởng rằng, gia đình với tư
cách là nhóm xã hội cơ bản và là môi trường tự nhiên cho sự phát triển và hạnh
phúc của tất cả các thành viên gia đình, đặc biệt là trẻ em cần có sự bảo vệ và giúp
đỡ cần thiết có thể đảm đương đầy đủ các trách nhiệm của mình trong cộng đồng”
Lời nói đầu của Công ƣớc La Hay: “công nhận rằng để phát triển hài hoà và toàn
diện nhân cách của mình, trẻ em cần phải được lớn lên trong môi trường gia đình,
trong bầu không khí hạnh phúc, yêu thương và cảm thông; nhắc lại rằng mỗi quốc
gia cần phải ưu tiên tiến hành các biện pháp thích hợp để trẻ em có thể được chăm
sóc trong gia đình gốc của mình”. Trẻ em phải đƣợc sống trong môi trƣờng gia
đình của mình, đƣợc cha mẹ đẻ chăm sóc. Chỉ trong trƣờng hợp cha mẹ đẻ của trẻ

không thể trực tiếp nuôi dƣỡng, chăm sóc trẻ bởi những lý do nhƣ đã chết, bị hạn
chế quyền nuôi dƣỡng hoặc do hoàn cảnh gia đình không đủ điều kiện để nuôi con
… thì việc cho trẻ em làm con nuôi mới đƣợc đặt ra xem xét giải quyết. Nguyên tắc
này đảm bảo cho trẻ em đƣợc sống trong môi trƣờng gốc, hạn chế tối đa những bất
lợi có thể xảy ra với các em khi không thể đƣợc cha mẹ đẻ chăm sóc, nuôi dƣỡng.
Điều này góp phần củng cố mối quan hệ huyết thống, tình yêu thƣơng ruột thịt của
trẻ; tránh cho trẻ cảm thấy cô đơn, xa lạ trong môi trƣờng mới, tạo điều kiện cho sự
phát triển nhân cách của trẻ sau này. Điều này cũng hoàn toàn phù hợp theo Công
ƣớc của Liên hiệp quốc về quyền trẻ em để “tôn trọng quyền của trẻ em được giữ
gìn bản sắc của mình, kể cả quốc tịch, họ tên và các quan hệ gia đình được pháp
luật thừa nhận..” . Yếu tố về bản sắc dân tộc cũng rất quan trọng đối với trẻ em vì
nó chính là cội nguồn của một đứa trẻ. Vì vậy, khi giải quyết cho trẻ em làm con
nuôi cần phải chú ý đến yếu tố này.
Để thực hiện nguyên tắc trên, Luật nuôi con nuôi đã quy định thứ tự ƣu tiên
lựa chọn gia đình thay thế cho trẻ. Ngƣời đƣợc ƣu tiên trƣớc tiên đƣợc nhận trẻ em
làm con nuôi là những ngƣời thân thích, ruột thịt trong gia đình của trẻ nhƣ: cha
dƣợng, mẹ kế, cô, dì, cậu, chú, bác ruột của ngƣời đƣợc nhận làm con nuôi. Chỉ khi


12

những ngƣời này không nhận nuôi trẻ hoặc không có điều kiện nuôi dƣỡng trẻ em
thì trẻ em mới đƣợc xem xét giải quyết cho ngƣời khác ngoài gia đình nuôi dƣỡng.
Trên địa bàn quận Long Biên, việc giải quyết cho nhận con nuôi đảm bảo
tuân thủ quy định của nguyên tắc này. Thứ tự ƣu tiên khi tìm gia đình thay thế cho
trẻ luôn đƣợc đảm bảo: những ngƣời thân thích, ruột thịt trong gia đình trẻ đƣợc
xem xét đầu tiên khi cha mẹ đẻ của trẻ có nhu cầu muốn cho con làm con nuôi
ngƣời khác, để đảm bảo con nuôi đƣợc sống trong môi trƣờng gia đình gốc, tránh sự
xáo trộn làm ảnh hƣởng đến tâm lý của trẻ. Tuy nhiên, việc giải quyết cho nhận con
nuôi trên nguyên tắc này cũng có ảnh hƣởng đến việc tìm cho trẻ có một mái ấm gia

đình, đƣợc chăm sóc và phát triển trong điều kiện tốt nhất. Môi trƣờng, hoàn cảnh
của gia đình thay thế bên ngoài có thể còn tốt hơn của những ngƣời thân thích trong
gia đình gốc đem lại cho các em.
Có thể nói đây là nguyên tắc cơ bản, nền tảng chi phối đến các nguyên tắc
khác trong việc giải quyết việc nuôi con nuôi.
1.3.2. Việc nuôi con nuôi phải bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của
người được nhận làm con nuôi và người nhận con nuôi, tự nguyện, bình đẳng,
không phân biệt nam nữ, không trái pháp luật và đạo đức xã hội
Việc nuôi con nuôi phải đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các các bên
trong quan hệ nuôi con nuôi, nhƣng trƣớc tiên là của ngƣời đƣợc nhận làm con
nuôi. Việc nuôi con nuôi đƣợc xác lập trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng của các bên
chủ thể. Điều đó cũng có nghĩa là việc thể hiện ý chí cho trẻ em làm con nuôi của
cha mẹ đẻ hoặc ngƣời giám hộ của trẻ xuất phát từ ý chí của chính bản thân họ, mà
không bị tác động dụ dỗ, hứa hẹn bởi bất cứ lợi ích vật chất nào, không bị lừa dối,
cƣỡng ép. Việc cho nhận con nuôi không đƣợc gắn liền và kèm theo bất cứ mục
đích vụ lợi nào.
Trong quá trình nuôi con nuôi, lợi ích của trẻ em phải đƣợc tính đến trƣớc
tiên trong mối tƣơng quan với lợi ích của cha mẹ nuôi. Quy định thứ tự ƣu tiên lựa
chọn gia đình thay thế: “Trường hợp có nhiều người cùng hàng ưu tiên xin nhận
một người làm con nuôi thì xem xét, giải quyết cho người có điều kiện nuôi dưỡng,
chăm sóc, giáo dục con nuôi tốt nhất” 4.
Việc nuôi con nuôi phải đƣợc đảm bảo về bình đẳng giới, “không phân biệt
nam nữ” trong việc cho - nhận con nuôi. Điều đó thể hiện ở cả hai phía: việc nhận
nuôi trẻ em không xuất phát từ tƣ tƣởng trọng nam khinh nữ, hoặc lựa chọn giới
4

Xem Khoản 2 Điều 5 Luật nuôi con nuôi.


13


tính của trẻ em; việc cho trẻ em làm con nuôi không nhằm mục đích để sinh con trai
để nối dõi tông đƣờng...5
Trong thời gian qua, trên địa bàn quận Long Biên việc giải quyết các trƣờng
hợp cho - nhận con nuôi đều đảm bảo sự tự nguyện của các chủ thể (thể hiện ý chí
tự nguyện của cha mẹ nuôi và cha mẹ đẻ, ngƣời giám hộ của trẻ) trên nguyên tắc
đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em đƣợc nhận nuôi. Không có trƣờng
hợp ông bà nội, ngoại nhận cháu làm con nuôi hay anh, chị đã thành niên nhận em
ruột làm con nuôi; không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Trên địa bàn quận không
xảy ra trƣờng hợp nhận con nuôi nhằm mục đích để trục lợi hay lợi dụng chính sách
ƣu đãi của nhà nƣớc, mà chủ yếu là các trƣờng hợp nhận trẻ em bỏ rơi làm con nuôi
của mình do có tình cảm yêu thƣơng gắn bó với đứa trẻ trong quá trình tạm thời
nuôi dƣỡng; nhận con nuôi do gia đình hiếm con, mong muốn có một đứa trẻ để vui
cửa vui nhà và đƣợc thể hiện quyền, nghĩa vụ làm cha, mẹ; muốn nhận con của
ngƣời thân thích làm con nuôi của mình... Các trƣờng hợp đó đều nhằm mục đích
tạo môi trƣờng gia đình tốt nhất cho trẻ, để các em phát triển toàn diện về thể chất
và tinh thần, tránh cho các em những tổn thƣơng không đáng có.
Mặc dù là Quận là một trong những quận của thủ đô có điều kiện kinh tế khá
phát triển, tuy nhiên trên địa bàn quận vẫn còn những phƣờng sản xuất nông nghiệp,
trình độ dân trí của ngƣời dân còn thấp, chƣa đồng đều nên vẫn còn tƣ tƣởng trọng
nam, khinh nữ. Đối với những trƣờng hợp nhận con nuôi của gia đình hiếm con,
thƣờng mang tâm lý thích con trai để nối dõi tông đƣờng. Do đó, việc thực hiện triệt
để nguyên tắc “không phân biệt nam nữ” cùng còn khó thực hiện; cơ quan giải
quyết việc nuôi con nuôi không có cơ sở để từ chối giải quyết.
1.3.3. Chỉ cho làm con người nước ngoài khi không tìm được gia đình
thay thế ở trong nước
Đây là nguyên tắc căn bản, làm thay đổi hẳn quan niệm, cách thức giải quyết
việc nuôi con nuôi từ trƣớc tới khi Luật nuôi con nuôi đƣợc ban hành. Đây cũng là
nguyên tắc đƣợc thừa nhận trong các văn kiện quốc tế. Lời nói đầu của Công ƣớc
La Hay “công nhận rằng vấn đề con nuôi quốc tế có thể có lợi thế là đem lại một

gia đình lâu dài cho những trẻ em không tìm được một gia đình thích hợp tại Nước
gốc của mình” 6.

5

Nguyễn Phƣơng Lan (2017), Luật nuôi con nuôi - thực tiễn thi hành và giải pháp hoàn thiện, Đề tài nghiên
cứu khoa học cấp trƣờng, Đại học Luật Hà Nội, tr.28.
6
Xem Lời nói đầu Công ƣớc La Hay.


14

Nếu việc nuôi dƣỡng trong phạm vi trong nƣớc không thực hiện đƣợc thì
việc cho trẻ em làm con nuôi ngƣời nƣớc ngoài sẽ mang lại một gia đình cho trẻ,
giúp trẻ em đƣợc chăm sóc, yêu thƣơng, nuôi dƣỡng một cách riêng biệt trong gia
đình, phù hợp với đặc điểm tâm lý của trẻ, không phải sống tập trung trong các cơ
sở nuôi dƣỡng, bảo trợ xã hội. Đƣợc sống trong môi trƣờng gia đình, trẻ em sẽ đƣợc
chăm sóc kịp thời, đƣợc thể hiện và phát huy hết năng khiếu, năng lực sở trƣờng
của bản thân… Vì vậy, việc tìm cho trẻ em một gia đình ở nƣớc ngoài là một giải
pháp tốt nhất đối với trẻ em khi không tìm đƣợc gia đình thay thế ở trong nƣớc.
Việc không tìm đƣợc gia đình thay thế ở trong nƣớc phải có xác nhận của Nƣớc gốc
theo Điều 4 Công ƣớc La Hay.
Đảm bảo thực hiện nguyên tắc này trong thực tế, Luật nuôi con nuôi quy
định các biện pháp, cách thức tìm gia đình thay thế trong nƣớc cho trẻ em và chỉ khi
thực hiện hết các biện pháp đó trong thời gian luật định mà vẫn không tìm đƣợc gia
đình trong nƣớc nhận nuôi trẻ em thì trẻ em đó mới đƣợc giới thiệu làm con nuôi ở
nƣớc ngoài. Đây là quy định nhằm tạo điều kiện tối đa quyền của trẻ em đƣợc nuôi
dƣỡng trong nƣớc, quyền đƣợc giữ gìn bản sắc của mình, kể cả quốc tịch và việc
cho trẻ em làm con nuôi nƣớc ngoài chỉ là biện pháp, lựa chọn cuối cùng.

Trong thời gian qua trên địa bàn quận Long Biên, việc tìm gia đình thay thế
cho trẻ chƣa đƣợc các cấp chính quyền, cơ quan chức năng quan tâm thực hiện. Các
trƣờng hợp trẻ em đƣợc nhận làm con nuôi đều do ngƣời dân tự liên hệ và đề nghị
cơ quan chức năng giải quyết việc cho nhận con nuôi theo thẩm quyền. Việc tìm gia
đình thay thế cho trẻ em vẫn chƣa đƣợc xem xét đến, mặc dù đây là một thủ tục bắt
buộc đƣợc quy định tại Điều 15 Luật nuôi con nuôi.
Nhƣ vậy, các nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi có mối liên hệ chặt
chẽ, tác động, ràng buộc lẫn nhau tạo thành những tƣ tƣởng cốt lõi, xuyên suốt chỉ
đạo toàn bộ quá trình giải quyết việc nuôi con nuôi, đồng thời là nền tảng pháp lý để
xây dựng, sửa đổi, bổ sung pháp luật về nuôi con nuôi 7.
1.4. Cơ sở giải quyết việc nuôi con nuôi
Việc nuôi con nuôi đƣợc giải quyết trên cơ sở các yếu tố sau:
1.4.1. Nhu cầu của người nhận nuôi con nuôi

7

Nguyễn Phƣơng Lan (2017), Luật nuôi con nuôi - thực tiễn thi hành và giải pháp hoàn thiện, Đề tài nghiên
cứu khoa học cấp trƣờng, Đại học Luật Hà Nội, tr.30.


15

Ngƣời nhận nuôi con nuôi mong muốn nhận một đứa trẻ để yêu thƣơng,
chăm sóc, nuôi dƣỡng và thiết lập quan hệ cha mẹ và con một cách lâu dài và ổn
định, bền vững. Việc nhận nuôi con nuôi có thể vì nhiều lý do khác nhau nhƣng
trƣớc hết phải xuất phát từ chính nhu cầu của ngƣời nhận con nuôi, phải xuất phát
từ yếu tố tình cảm, từ ý chí tự nguyện của ngƣời nhận con nuôi và quan trọng hơn là
phải vì lợi ích của trẻ em đƣợc nhận làm con nuôi. Ngƣời nhận nuôi con nuôi muốn
thông qua việc nhận nuôi một đứa trẻ để thỏa mãn những nhu cầu nhất định của bản
thân và gia đình. Nhu cầu đó là yếu tố đầu tiên để xem xét giải quyết việc nuôi con

nuôi. Ngƣời nhận nuôi con nuôi hoàn toàn tự nguyện, chủ động và hiểu biết đầy đủ
về hậu quả pháp lý của việc nhận con nuôi.
Nếu nhu cầu của ngƣời nhận nuôi xuất phát từ những động cơ, mục đích trái
pháp luật, trái đạo đức xã hội thì việc giải quyết việc nuôi con nuôi sẽ không có giá
trị pháp lý.
Để quan hệ nuôi con nuôi đƣợc xem xét xác lập thì nhu cầu của ngƣời cho
con nuôi và nhu cầu của trẻ em đƣợc nhận nuôi cũng rất quan trọng. Ngƣời cho con
nuôi có thể là cha, mẹ đẻ của trẻ em; có thể là ngƣời giám hộ của trẻ. Vì lý do nào
đó không thể chăm sóc con của mình nên tự nguyện cho con làm con nuôi ngƣời
khác, mong muốn con sẽ đƣợc chăm sóc, nuôi dƣỡng và phát triển trong môi trƣờng
gia đình tốt hơn. Trẻ em là những đối tƣợng dễ bị tổn thƣơng và cần ngƣời chăm
sóc, yêu thƣơng, quan tâm, lo lắng nhất vì các em chƣa có đủ nhận thức về cuộc
sống, về xã hội. Môi trƣờng gia đình là môi trƣờng tốt nhất đảm bảo cho các em
đƣợc sống an toàn và phát triển toàn diện cả về thể chất và tinh thần, là môi trƣờng
hình thành nhân cách của trẻ sau này. Khi cho trẻ em làm con nuôi cũng cần có sự
đồng ý của đứa trẻ đó trong trƣờng hợp trẻ đạt đến một độ tuổi nhất định vì ở lứa
tuổi đó trẻ có thể nhận thức đƣợc tình yêu thƣơng từ bố mẹ nuôi hay mối nguy hại
từ bên ngoài có thể đến với trẻ.
Từ sự phân tích trên cho thấy cơ sở giải quyết việc nuôi con nuôi đầu tiên
phải dựa trên nhu cầu cho - nhận con nuôi của các bên là hoàn toàn chủ động và tự
nguyện. Mong muốn của các bên cho và nhận con nuôi là hoàn toàn hợp pháp và vì
lợi ích tốt nhất của trẻ em đƣợc nhận nuôi. Các bên đã thể hiện ý chí, mong muốn
của mình một cách công khai bằng văn bản theo quy định của pháp luật.
1.4.2. Các bên chủ thể của quan hệ nuôi con nuôi phải đáp ứng được các
điều kiện của việc nuôi con nuôi


16

Giải quyết việc nhận nuôi con nuôi không thể tùy tiện, mà phải tuân thủ các

nguyên tắc chỉ đạo đƣợc pháp luật quy định. Đó là đảm bảo quyền, lợi ích tốt nhất
của trẻ em đƣợc nhận làm con nuôi, tạo ra môi trƣờng gia đình lành mạnh, tốt nhất
cho sự phát triển của trẻ, không vì mục đích trục lợi, không trái đạo đức xã hội.
Ngƣời nhận con nuôi phải đảm bảo đƣợc các điều kiện do luật định: phải là
ngƣời hoàn toàn bình thƣờng, có năng lực hành vi đầy đủ để nhận thức về hậu quả
pháp lý của việc nhận nuôi con nuôi. Ngƣời nhận con nuôi phải có đủ sức khoẻ để
chăm sóc, nuôi dƣỡng con nuôi và phải có điều kiện về kinh tế để đảm bảo mang
đến cho con nuôi sự chăm sóc, nuôi dƣỡng đầy đủ hơn gia đình gốc của các em.
Ngƣời nhận nuôi con nuôi phải là ngƣời có tƣ cách đạo đức tốt, không thuộc các
trƣờng hợp bị hạn chế quyền làm cha mẹ, quyền nhận nuôi con nuôi vì điều này sẽ
ảnh hƣởng đến sự phát triển nhân cách của trẻ em khi nuôi dƣỡng trong một gia
đình không tốt.
Ngƣời cho con nuôi là cha, mẹ đẻ hoặc ngƣời giám hộ của trẻ em phải đảm
bảo các quy định về sự tự nguyện cho con mình làm con nuôi ngƣời khác vì lý do
hoàn cảnh khó khăn không thể nuôi dƣỡng, chăm sóc cho con một cách tốt nhất,
việc cho trẻ em làm con nuôi ngƣời khác là biện pháp cuối cùng vì lợi ích tốt nhất
cho trẻ em. Việc cho con làm con nuôi ngƣời khác phải hoàn toàn tự nguyện, không
bị ép buộc, hứa hẹn, trao đổi vì bất cứ lợi ích vật chất nào...mà phải vì lợi ích tốt
nhất của con, mong muốn con đƣợc sống trong môi trƣờng gia đình mới có điều
kiện đƣợc chăm sóc, nuôi dƣỡng tốt hơn gia đình hiện tại.
Trẻ em đƣợc nhận làm con nuôi phải đảm bảo ở trong một độ tuổi nhất định
do pháp luật quy định. Ở độ tuổi này các em chƣa đủ khả năng nhận biết, chịu trách
nhiệm về hành vi của mình và cần có ngƣời chăm sóc và bảo vệ của cha mẹ trƣớc
những cám dỗ của cuộc sống bên ngoài. Nhà nƣớc khuyến khích nhận trẻ em có
hoàn cảnh đặc biệt làm con nuôi vì các em là những đứa trẻ thiệt thòi, bất hạnh và
rất cần có cha mẹ, có một gia đình chăm sóc, yêu thƣơng và giáo dục để lớn lên trở
thành ngƣời có ích cho xã hội.
Nhƣ vậy, để giải quyết và công nhận việc nuôi con nuôi thì các bên phải tuân
thủ đầy đủ các quy định của pháp luật với tƣ cách ngƣời nhận nuôi hoặc ngƣời đƣợc
nhận làm con nuôi, chứ không thể tùy tiện theo mong muốn của các bên. Đây là cơ

sở quan trọng để cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền xem xét việc cho - nhận con nuôi
có đủ điều kiện để giải quyết hay không, đảm bảo việc nuôi con nuôi không sai mục
đích, không trái đạo đức xã hội, không xâm phạm đến các quyền cơ bản của trẻ em.


17

1.4.3. Việc nuôi con nuôi phải được công nhận bởi cơ quan nhà nước có
thẩm quyền, theo trình tự, thủ tục nhất định.
Việc nuôi con nuôi phải tuân thủ theo một trình tự và thủ tục chặt chẽ do luật
định để đảm bảo sự an toàn và lợi ích tốt nhất cho trẻ em trong quá trình giải quyết
việc nuôi con nuôi. Điều này sẽ tránh đƣợc những tiêu cực xảy ra với các em nhƣ
hiện tƣợng mua bán trẻ em để lấy nội tạng, làm nô lệ tình dục hay để bóc lột sức lao
động của các em, biến các em thành công cụ để thoả mãn nhu cầu, mong muốn, lợi
ích của bản thân ngƣời nhận nuôi con nuôi.
Việc nuôi con nuôi xuất phát từ nhu cầu, sự thỏa thuận giữa ngƣời nhận nuôi
với cha mẹ đẻ của trẻ em. Nếu sự thỏa thuận không đƣợc cơ quan nhà nƣớc có thẩm
quyền công nhận thì quan hệ nuôi con nuôi đó không có giá trị pháp lý.
Khi các bên chủ thể của quan hệ nuôi con nuôi có đầy đủ các điều kiện theo
luật định thì cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền thực hiện các thủ tục, trình tự theo
quy định để xem xét công nhận việc nuôi con nuôi. Các điều kiện nhận nuôi con
nuôi phải chặt chẽ, có sự kiểm tra, thanh tra, giám sát nhằm tránh sai sót, tiêu cực có
thể xảy ra trong quá trình giải quyết việc nuôi con nuôi.
Sau khi quan hệ cha mẹ nuôi và con nuôi đƣợc công nhận, quan hệ giữa cha
mẹ nuôi và con nuôi, giữa con nuôi với các thành viên khác trong gia đình phát sinh
quyền và nghĩa vụ liên quan theo quy định của pháp luật. Nếu một trong các bên
không thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình thì cơ quan nhà nƣớc có trách
nhiệm theo dõi, kiểm tra tình hình thực hiện việc nuôi con nuôi kịp thời ngăn chặn
để đảm bảo quyền lợi hợp pháp của các bên chủ thể.
1.4.4. Việc nuôi con nuôi phải đảm bảo đúng mục đích

Việc nuôi con nuôi chỉ đƣợc cơ quan nhà nƣớc công nhận khi việc nuôi con
phải đảm bảo đầy đủ các yếu tố: vì lợi ích của con nuôi; đảm bảo quyền lợi ích tốt
nhất của con nuôi đƣợc sống trong môi trƣờng gia đình, đƣợc chăm sóc yêu thƣơng,
nuôi dƣỡng tốt nhất. Ngăn chặn và phòng ngừa việc nuôi con nuôi với mục để trục
lợi, bóc lột sức lao động, xâm hại tình dục; bắt cóc, mua bán trẻ em. Trong quá trình
giải quyết việc nuôi con nuôi nếu có dấu hiệu vi phạm thì cần phải có biện pháp
ngăn chặn và xử lý kịp thời để đảm bảo quyền của trẻ em. Việc nhận nuôi con nuôi
không đƣợc trái đạo đức xã hội, phong tục tập tập quán, truyền thống văn hóa tốt
đẹp của dân tộc. Việc nuôi con nuôi phải đúng mục đích nhằm xác lập quan hệ cha,
mẹ và con lâu dài, bền vững, vì lợi ích tốt nhất của ngƣời đƣợc nhận làm con nuôi,


×