BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
VŨ THỊ SAO MAI
THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG
GIAI ĐOẠN TRUY TỐ
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
(Định hướng nghiên cứu)
HÀ NỘI - 2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
VŨ THỊ SAO MAI
THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG
GIAI ĐOẠN TRUY TỐ
Chuyên ngành : Luật Hình sự và Tố Tụng hình sự
Mã số
: 83.80.104
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
(Định hướng nghiên cứu)
Người hướng dẫn khoa học: TS. Vũ Gia Lâm
HÀ NỘI - 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi.
Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng,
được trích dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của luận văn này.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Vũ Thị Sao Mai
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLHS
:
Bộ luật hình sự
BLTTHS
:
Bộ luật tố tụng hình sự
CQĐT
:
Cơ quan điều tra
VKS
:
Viện kiểm sát
VKSND
:
Viện kiểm sát nhân dân
KSV
:
Kiểm sát viên
:
BLHS năm 1999
:
BLHS năm 2015
Bộ luật hình sự năm 1999
(sửa đổi, bổ sung năm 2009)
Bộ luật hình sự năm 2015
(sửa đổi, bổ sung năm 2017)
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ......................................................................................................1
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT....................................................................................2
DANH MỤC BẢNG BIỂU ......................................................................................5
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài ....................................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ..............................................................................2
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ....................................................................4
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................4
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu ............................................5
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài ........................................................5
7. Kết cấu của luận văn .........................................................................................5
Chƣơng 1:MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG
TỐ TRONG GIAI ĐOẠN TRUY TỐ .....................................................................6
1.1. Khái niệm thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố .....................6
1.1.1. Khái niệm quyền công tố ..........................................................................6
1.1.2. Khái niệm thực hành quyền công tố ......................................................11
1.1.3. Khái niệm, đặc điểm thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố ...14
1.2. Phạm vi và nội dung thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố ......18
1.2.1. Phạm vi thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố ...................18
1.2.2. Nội dung thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố .................21
1.3. Ý nghĩa của thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố.................22
1.3.1. Ý nghĩa chính trị - xã hội .......................................................................22
1.3.2. Ý nghĩa pháp lý .......................................................................................23
1.3.3. Ý nghĩa thực tiễn .....................................................................................24
1.4. Mối quan hệ giữa thực hành quyền công tố và kiểm sát tuân theo pháp
luật trong giai đoạn truy tố .................................................................................24
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ........................................................................................28
Chƣơng 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG
TỐ TRONG GIAI ĐOẠN TRUY TỐ VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH ...............29
2.1. Quy định của pháp luật hiện hành về thực hành quyền công tố trong giai
đoạn truy tố ..........................................................................................................29
2.1.1. Quy định về thực hành quyền công tố trong việc quyết định áp dụng,
thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; yêu cầu Cơ quan
điều tra truy nã bị can ..............................................................................................29
2.1.2. Quy định về thực hành quyền công tố trong việc kiểm tra, bổ sung
chứng cứ để quyết định việc truy tố ........................................................................32
2.1.3. Quy định về thực hành quyền công tố trong trường hợp phát hiện còn
có hành vi phạm tội, người phạm tội khác trong vụ án chưa được khởi tố, điều
tra (quyết định khởi tố, quyết định thay đổi, quyết định bổ sung quyết định khởi
tố vụ án, khởi tố bị can) ...........................................................................................35
2.1.4. Quy định về thực hành quyền công tố trong việc ra các quyết định tố
tụng trong giai đoạn truy tố .....................................................................................40
2.2. Thực tiễn thi hành quy định của pháp luật về thực hành quyền công tố
trong giai đoạn truy tố ............................................................................................65
2.3.1. Kết quả đạt được (từ năm 2013 đến năm 2017) ....................................65
2.3.2. Những hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân của những hạn chế,
vướng mắc khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố .........................73
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ........................................................................................87
Chƣơng 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG
THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN TRUY TỐ .............88
ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CẢI CÁCH TƢ PHÁP .....................................................88
3.1. Yêu cầu của cải cách tƣ pháp đối với việc nâng cao chất lƣợng thực hành
quyền công tố trong tố tụng hình sự nói chung và trong giai đoạn truy tố nói
riêng ..........................................................................................................................88
3.2. Một số giải pháp cụ thể nhằm nâng cao chất lƣợng thực hành quyền công
tố trong giai đoạn truy tố ........................................................................................94
3.2.1. Giải pháp lập pháp ..................................................................................94
3.2.2. Giải pháp khác ........................................................................................99
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 ......................................................................................105
KẾT LUẬN ............................................................................................................106
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1: Số vụ án, số bị can Viện kiểm sát ra quyết định truy tố ........................67
(từ năm 2013 đến năm 2017) ..................................................................................67
Bảng 2: Số vụ án Viện kiểm sát ra quyết định trả hồ sơ để điều tra ..................69
bổ sung (từ năm 2013 đến năm 2017) ....................................................................69
Bảng 3: Số vụ án, số bị can Viện kiểm sát ra quyết định đình chỉ .....................71
(từ năm 2013 đến năm 2017) ..................................................................................71
Bảng 4: Số vụ án và số bị can Viện kiểm sát ra quyết định tạm đình chỉ ..........72
(từ năm 2013 đến năm 2017) ..................................................................................72
Bảng 5: Số bị cáo Tòa án tuyên không phạm tội ..................................................77
(từ năm 2013 đến năm 2017) ..................................................................................77
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất nước ta đã và đang trong điều kiện phát triển mạnh mẽ của nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, khoa học công nghệ và hội
nhập quốc tế. Song, mặt trái của nền kinh tế ngày càng phát triển chính là tình
hình tội phạm diễn biến phức tạp với tính chất và hậu quả ngày càng nghiêm
trọng. Trong bối cảnh đó, các nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp và
Hiến pháp năm 2013 đặt yêu cầu phải tăng cường hơn nữa hiệu lực, hiệu quả
công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật; tôn trọng,
bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân; tuyệt đối tuân thủ các
nguyên tắc tư pháp tiến bộ đã được Hiến định, tiến tới đạt mục tiêu xây dựng
nền tư pháp công bằng, nhân đạo, dân chủ, nghiêm minh, đề cao trách nhiệm
trước nhân dân. Để đạt được mục tiêu này, một trong những nhiệm vụ quan
trọng là phải đẩy mạnh công cuộc cải cách tư pháp, chú trọng việc xây dựng
và hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Trong hệ thống các cơ quan tư pháp, VKS đóng vai trò quan trọng
trong việc bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, duy trì trật tự pháp luật, đảm bảo
sự ổn định cho xã hội. Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ
Chính trị đã nhấn mạnh: “Viện kiểm sát các cấp thực hiện tốt chức năng công
tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp”. Tiếp theo
đó, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta đã khẳng định: “Viện
kiểm sát nhân dân được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức Tòa án, bảo
đảm tốt hơn các điều kiện để Viện kiểm sát nhân dân thực hiện hiệu quả chức
năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp”. Điều này
cho thấy hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp
của VKS rất được chú trọng, đặc biệt công tác thực hành quyền công tố trong
giai đoạn truy tố là công tác mang tính chất đặc thù của ngành kiểm sát.
Thực tiễn áp dụng pháp luật tố tụng hình sự cho thấy, những quy định
của BLTTHS năm 2003 về hoạt động thực hành quyền công tố trong giai
2
đoạn truy tố của VKS đã tạo ra cơ sở pháp lý quan trọng, góp phần rất lớn
trong quá trình VKS thực hiện chức năng của mình, tuy nhiên có nhiều quy
định còn hạn chế, vướng mắc, chưa thực sự có tính khả thi trong thực tiễn. Để
khắc phục những bất cập, hạn chế còn tồn tại cũng như thể chế hóa quan
điểm, chủ trương cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước, BLTTHS năm
2015 đã được Quốc hội thông qua, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018.
Do bộ luật mới có hiệu lực trên thực tế, chưa có thực tiễn kiểm nghiệm, hơn
nữa chưa có công trình nghiên cứu khoa học cụ thể nào đánh giá về sự thay
đổi trong quy định về hoạt động thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy
tố của VKS để tìm hiểu, đánh giá các quy định của BLTTHS năm 2003, làm
rõ sự thay đổi, bổ sung trong quy định của BLTTHS năm 2015; đánh giá thực
trạng và từ đó đưa ra những giải pháp cụ thể nhằm tiếp tục hoàn thiện quy
định của pháp luật cũng như nâng cao chất lượng hoạt động thực hành quyền
công tố trong giai đoạn truy tố của VKS.
Vì thế nghiên cứu khoa học một cách chuyên biệt về “Thực hành quyền
công tố trong giai đoạn truy tố” bằng việc phân tích một số vấn đề lý luận,
các quy định của pháp luật tố tụng hình sự, đánh giá thực trạng thi hành pháp
luật, tìm ra nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc để đề xuất những
giải pháp nâng cao hiệu quả thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố
của VKS là cần thiết, mang ý nghĩa to lớn cả về lý luận và thực tiễn trong giai
đoạn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Qua quá trình nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy chưa có công trình
nghiên cứu nào nghiên cứu trực tiếp, đầy đủ và chuyên sâu về vấn đề thực
hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố.
Có một số công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề này như: “Quyền
công tố ở Việt Nam”, Lê Thị Tuyết Hoa, luận án tiến sỹ Luật học năm 2002;
“Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn
điều tra”, Lê Hữu Thể (chủ biên) năm 2005; “Quyết định của Viện kiểm sát
3
trong giai đoạn truy tố”, Nguyễn Thị Minh Hồng, luận văn thạc sỹ Luật học
năm 2012; “Thẩm quyền của Viện kiểm sát trong giai đoạn truy tố”, Vũ Đức
Ninh, luận văn thạc sỹ Luật học năm 2013; “Chức năng của Viện kiểm sát
trong giai đoạn truy tố”, Nguyễn Thị Thanh Huyền, luận văn thạc sỹ Luật học
năm 2015; “Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự”,
Nguyễn Công Cường, luận văn thạc sỹ Luật học năm 2016; “Trả hồ sơ để
điều tra bổ sung trong giai đoạn truy tố”, Võ Thị Xuân Hương, luận văn thạc
sỹ Luật học năm 2017;…
Bên cạnh đó, cũng có một số bài viết đăng trên tạp chí chuyên ngành
như: “Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố
tụng hình sự của Viện kiểm sát”, Hoàng Thị Sơn, Tạp chí Luật học, số đặc san
về BLTTHS năm 2003; “Bàn về chức năng của Viện kiểm sát trong tố tụng
hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp”, Lê Thị Tuyết Hoa, Tạp chí Kiểm sát
số 18/2007; “Một số giải pháp nâng cao chất lượng ban hành các quyết định
tố tụng hình sự của Viện kiểm sát trong giai đoạn truy tố”, Võ Ngọc Thạch,
Tạp chí Kiểm sát số 5/2014; “Giải pháp để hạn chế việc trả hồ sơ điều tra bổ
sung trong giai đoạn truy tố”, Lê Tấn Cường, Tạp chí Kiểm sát số 5/2014;
“Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong giai đoạn truy tố và vấn đề
nâng cao chất lượng bản cáo trạng”, Nguyễn Minh Đức, Tạp chí Kiểm sát số
8/2016;…
Và một số công trình nghiên cứu mang tính đại cương như: “Giáo trình
tố tụng hình sự”, Trường Đại học Luật Hà Nội; “Giáo trình kỹ năng giải quyết
các vụ án hình sự”, Học viêc tư pháp; “Trình tự, thủ tục giải quyết các vụ án
hình sự”, Mai Thanh Hiếu và Nguyễn Chí Công;…
Những công trình nghiên cứu trên chủ yếu mang tính lý luận chung về
quyền công tố hoặc chức năng của VKS trong một số giai đoạn hoặc từng
hoạt động riêng lẻ của VKS trong giai đoạn truy tố. Vì vậy, cần thiết phải có
sự nghiên cứu toàn diện, có hệ thống; đồng thời nghiên cứu chuyên sâu và
phân tích một cách độc lập về vấn đề thực hành quyền công tố trong giai đoạn
truy tố của VKS.
4
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Những vấn đề lý luận về thực hành quyền
công tố trong giai đoạn truy tố, quy định của pháp luật về thực hành quyền
công tố trong giai đoạn truy tố và thực tiễn thi hành.
- Phạm vi nghiên cứu: luận văn nghiên cứu về hoạt động thực hành
quyền công tố của VKS trong giai đoạn truy tố dưới góc độ là một chế định
pháp luật tố tụng hình sự, cụ thể:
Về lý luận, nghiên cứu khái niệm, phạm vi và nội dung thực hành
quyền công tố trong giai đoạn truy tố, mối quan hệ giữa thực hành quyền
công tố và kiểm sát tuân theo pháp luật trong giai đoạn truy tố; nghiên cứu
các quy định của BLTTHS năm 2015 về thực hành quyền công tố trong giai
đoạn truy tố, từ đó phân tích những điểm mới của BLTTHS năm 2015 đã
khắc phục được cơ bản những hạn chế, vướng mắc của BLTTHS năm 2003.
Thực tiễn thi hành hoạt động thực hành quyền công tố trong giai đoạn
truy tố của VKS trên cả nước từ năm 2013 đến năm 2017 để làm cơ sở đề
xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố
trong giai đoạn truy tố.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu: trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận, các quy
định của pháp luật và thực tiễn thi hành, luận văn đưa ra một số giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả thực hành quyền công tố của VKS trong giai đoạn truy tố.
- Nhiệm vụ nghiên cứu: để thực hiện được mục đích trên, việc nghiên
cứu đề tài cần thực hiện những nhiệm vụ sau:
+ Làm rõ một số vấn đề lý luận như khái niệm, phạm vi và nội dung
thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố vụ án hình sự;
+ Phân tích những quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về
hoạt động thực hành quyền công tố của VKS trong giai đoạn truy tố;
+ Đánh giá thực trạng thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố
của VKS, chỉ ra những kết quả đạt được cũng như những hạn chế, vướng mắc
trong thực tiễn thi hành và nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc đó;
5
+ Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thực hành quyền
công tố trong giai đoạn truy tố.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; các chủ trương quan điểm của Đảng, Nhà nước
về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của VKS và chiến lược cải cách tư pháp
đến năm 2020.
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác nhau như: phân
tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, tổng kết thực tiễn.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa nhất định về mặt khoa học,
đó là giải quyết về mặt lý luận tổng thể, toàn diện vấn đề thực hành quyền
công tố trong giai đoạn truy tố. Đồng thời, luận văn đã phân tích được thực
tiễn thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố, làm cơ sở để đưa ra các
giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả hoạt thực hành quyền công tố trong giai
đoạn truy tố cũng như đưa ra các kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật
về thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố.
Ngoài ra, luận văn còn có ý nghĩa là nguồn tài liệu tham khảo cho quá
trình học tập, nghiên cứu môn luật tố tụng hình sự của các sinh viên, học viên
cao học và cho các cán bộ kiểm sát trong hoạt động nghiệp vụ.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được bố cục gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố trong giai
đoạn truy tố;
Chương 2: Quy định của pháp luật về thực hành quyền công tố trong
giai đoạn truy tố và thực tiễn thi hành;
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng thực hành
quyền công tố trong giai đoạn truy tố.
6
CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ
TRONG GIAI ĐOẠN TRUY TỐ
1.1. Khái niệm thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố
1.1.1. Khái niệm quyền công tố
Trên thế giới, khái niệm quyền công tố và thực hành quyền công tố đã
xuất hiện từ rất sớm, gắn liền với từng kiểu nhà nước và cách thức tổ chức
thực hiện quyền lực nhà nước ở mỗi quốc gia với những điều kiện và hoàn
cảnh lịch sử cụ thể. Ở nước ta, dưới góc độ lập pháp thì Hiến pháp năm 1946
và Hiến pháp năm 1959 chưa trực tiếp đề cập đến công tố và hoạt động công
tố. Hiến pháp năm 1980 lần đầu tiên đưa ra thuật ngữ “quyền công tố” trong
cụm từ “thực hành quyền công tố” khi đề cập đến chức năng của VKSND tại
Điều 138, thuật ngữ này cũng được thể hiện trong Điều 137 Hiến pháp năm
1992, đến Hiến pháp năm 2013 thì cụm từ “thực hành quyền công tố” được
đặt lên trước cụm từ “kiểm sát hoạt động tư pháp”, đây là một điểm nhấn
khác biệt so với các bản Hiến pháp trước đây. Trên cơ sở quy định của Hiến
pháp năm 2013, Luật tổ chức VKSND và các văn bản pháp luật tố tụng hình
sự khác cũng có những quy định tương tự.
Khái niệm quyền công tố đã được đề cập nhiều trong khoa học pháp lí
ở nước ta nhưng đây là vấn đề vẫn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau và hiện
tại vẫn chưa có quan điểm nào được các cơ quan có thẩm quyền chính thức
công nhận.
Theo Từ điển tiếng Việt thì “Công tố là truy tố, buộc tội bị cáo và phát
biểu ý kiến trước Tòa án, nhân danh Nhà nước”1. Từ điển Luật học định
nghĩa: “Quyền công tố là quyền buộc tội nhân danh Nhà nước đối với người
phạm tội”2. Như vậy có thể hiểu một cách khái quát quyền công tố là quyền
buộc tội của Nhà nước đối với người thực hiện hành vi tội phạm thông qua
1
2
Từ điển Tiếng Việt (2004), Nxb Đà Nẵng, tr.210.
Từ điển Luật học (2006), Nxb Từ điển Bách khoa - Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr.298.
7
việc truy tố người đó ra trước Tòa án để xét xử và buộc tội người bị xét xử tại
phiên tòa. Trong giới nghiên cứu khoa học pháp lý ở nước ta hiện nay đang
tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về quyền công tố:
Quan điểm thứ nhất đồng nhất khái niệm quyền công tố với hoạt động
kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKSND (trước khi Hiến pháp năm 1992
được sửa đổi, bổ sung năm 2001). Có thể thấy rõ quan điểm này xuất phát từ
chức năng của VKSND để xem xét quyền công tố. Quan điểm này cho rằng,
tất cả các hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật đều là thực hành quyền
công tố. Điều đó có nghĩa là, ngay cả khi VKS kiến nghị yêu cầu các cơ quan
nhà nước sửa chữa những vi phạm phát luật của mình trên lĩnh vực hành
chính, kinh tế, xã hội (trước đây gọi là kiểm sát chung) cũng là thực hành
quyền công tố. Và bởi vậy, có nhiều nước gọi VKS là Viện công tố. Theo
quan điểm này, quyền công tố không phải là một chức năng độc lập của VKS,
mà chỉ là một quyền năng, một hình thức thực hiện chức năng kiểm sát việc
tuân theo pháp luật. Quan điểm này cũng chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của các
nhà tố tụng hình sự học Liên Xô trước đây.3
Theo chúng tôi, hiểu khái niệm quyền công tố theo quan điểm trên là
chưa chính xác. Bởi vì, quan điểm này đã đánh đồng khái niệm quyền công tố
với khái niệm kiểm sát việc tuân theo pháp luật và cũng không phù hợp với
các quy định của Hiến pháp và các văn bản quy phạm pháp luật. Theo quy
định của pháp luật nước ta thời kỳ trước khi Hiến pháp năm 1992 được sửa
đổi thì VKS có hai chức năng rất cụ thể: chức năng kiểm sát việc tuân theo
pháp luật và chức năng thực hành quyền công tố. Trong quá trình thực hiện,
cho dù giữa hai chức năng này có một số nội dung đan xen, liên hệ chặt chẽ,
tác động qua lại với nhau nhưng không vì thế mà phủ nhận tính độc lập của
chúng cả về nội dung lẫn phạm vi áp dụng. Bởi lẽ đó, không thể đồng nhất hai
chức năng này của VKS với nhau.
3
Võ Quang Nhạn (1984), “Bàn về quyền công tố”, Tạp chí Công tác Kiểm sát, (Số 2).
- Giáo trình Công tác kiểm sát (Phần chung) (1984), Trường Cao đẳng kiểm sát, tr.74.
- Giáo trình Công tác kiểm sát (1996), tập 1, Trường Cao đẳng kiểm sát Hà Nội, Nxb. Công an nhân dân, tr.85-87.
- Giáo trình tố tụng hình sự Xô Viết (1980), Nxb. Pháp lý Matxcơva, tr.92-95.
8
Quan điểm thứ hai cho rằng quyền công tố là quyền của Nhà nước giao
cho VKS truy tố kẻ phạm tội ra Tòa án, thực hiện sự buộc tội tại phiên tòa
(thực hiện quyền công tố)4. Quan điểm này nhấn mạnh vai trò duy nhất của
VKS trong việc thực hiện quyền công tố và chỉ thực hiện duy nhất trong tố
tụng hình sự và cũng chỉ ở một giai đoạn duy nhất của tố tụng hình sự là giai
đoạn xét xử sơ thẩm.
Quan điểm này đã quá thu hẹp khái niệm, nội dung, phạm vi quyền
công tố và không phản ánh được đầy đủ bản chất của quyền này. Trên thực tế,
hoạt động truy tố và buộc tội của VKS tại phiên tòa chỉ là một số nội dung
hoạt động của VKS khi thực hành quyền công tố.
Quan điểm thứ ba cho rằng quyền công tố là quyền đại diện cho nhà
nước để đưa các vụ việc vi phạm trật tự pháp luật ra cơ quan xét xử để bảo vệ
lợi ích của nhà nước, bảo vệ trật tự pháp luật5. Những người theo quan điểm
này cho rằng quyền công tố xuất hiện từ khi có nhà nước và pháp luật, được
thể hiện đầu tiên trong lĩnh vực hình sự, tố tụng hình sự; cùng với sự phát
triển của xã hội, của các ngành luật, quyền công tố được mở rộng sang lĩnh
vực dân sự, tố tụng dân sự và các lĩnh vực tố tụng tư pháp khác. Quyền công
tố là một nội dung của hoạt động thực hiện chức năng của VKSND trong lĩnh
vực tố tụng hình sự, tố tụng dân sự và các lĩnh vực tư pháp khác nhằm đảm
bảo mọi hành vi vi phạm pháp luật, hành vi phạm tội bị xử lý theo pháp luật.
Quan điểm này đã quá mở rộng khái niệm, nội dung và phạm vi của
quyền công tố, đã đồng nhất quyền công tố với những quyền năng của VKS
trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự, dân sự, hành chính, kinh tế,
lao động.
Quan điểm thứ tư cho rằng quyền công tố là quyền nhà nước giao cho
các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự và áp
4
Võ Thọ (1985), Một số vấn đề về Luật tố tụng hình sự, Nxb. Pháp lý, tr.86-88
Thạch Giản (1982), Tìm hiểu bộ máy nhà nước Viện kiểm sát nhân dân, Nxb. Pháp lý, tr.22
5
Giáo trình Công tác kiểm sát (Phần chung) (1984), Trường Cao đẳng kiểm sát, tr.69-72.
Giáo trình Công tác kiểm sát (1996), tập 1, Trường Cao đẳng kiểm sát Hà Nội, Nxb. Công an nhân dân, tr.84-87.
9
dụng các chế tài hình sự đối với người phạm tội. Theo quan điểm này thì
quyền công tố do các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện trong quá trình khởi
tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự và thi hành án hình sự. Đó là
hoạt động tố tụng của Điều tra viên, KSV và những người khác được pháp
luật quy định có trách nhiệm xác định kẻ phạm tội cũng như các căn cứ để kết
tội và áp dụng các hình phạt đối với người phạm tội6.
Hiểu quyền công tố theo quan điểm này dẫn đến sự nhầm lẫn giữa các
hoạt động buộc tội, xét xử và bào chữa trong tố tụng hình sự. Mỗi một hoạt
động trên được thực hiện bởi một hoặc một số chủ thể nhất định, tùy thuộc
vào từng giai đoạn cụ thể của quá trình tố tụng hình sự. Theo quan điểm nêu
trên thì không chỉ CQĐT và Cơ quan công tố mà Cơ quan xét xử và Cơ quan
thi hành án đều là chủ thể thực hành quyền công tố.
Quan điểm thứ năm cho rằng quyền công tố bao gồm quyền khởi tố,
điều tra vụ án, quyền truy tố và buộc tội bị cáo trước Tòa án. Quyền công tố
luôn gắn liền với hoạt động buộc tội nhân danh nhà nước, do vậy quyền công
tố chỉ được thực hiện duy nhất trong lĩnh vực tố tụng hình sự. Chủ thể tham
gia vào hoạt động thực hành quyền công tố chỉ bao gồm CQĐT (Điều tra
viên) và Viện công tố (Công tố viên). Hoạt động truy tố người phạm tội, hành
vi phạm tội ra trước Tòa án để xét xử chỉ do Viện công tố thực hiện. Quyền
công tố được sử dụng để bảo vệ cả lợi ích công và lợi ích của cá nhân, tổ chức
bị hành vi phạm tội xâm hại. Quan điểm này lại mở quá rộng phạm vi quyền
công tố cũng như chủ thể thực hành quyền công tố vì cho rằng hoạt động điều
tra cũng là hoạt động thuộc nội dung quyền công tố.
Quan điểm thứ sáu cho rằng quyền công tố là quyền của nhà nước đưa
các việc làm phạm pháp liên quan đến lợi ích chung ra Tòa để xét xử, vì nhà
nước nhân danh xã hội duy trì trật tự chung bằng pháp luật. Những người theo
quan điểm này đưa ra kết luận: quyền công tố là quyền nhà nước nhân danh
6
Thuật ngữ pháp lý phổ thông (1986), Tập 1, Nxb Pháp lý, tr.94
- Tội phạm học, Luật hình sự và Tố tụng hình sự (1995), Nxb Chính trị quốc gia, tr.380.
10
xã hội truy cứu trách nhiệm pháp lý đến cùng đối với những người có hành vi
phạm tội hoặc hành vi vi phạm pháp luật, mọi hành động xâm hại đến lợi ích
chung, nhằm mục đích duy trì trật tự của cộng đồng, trật tự pháp luật mà nhà
nước đặt ra để duy trì, củng cố và phát triển các quan hệ xã hội. Quyền công
tố không chỉ có trong lĩnh vực hình sự mà còn có trong các lĩnh vực khác như
dân sự, hành chính, kinh tế, lao động7.
Quan điểm này coi mọi việc đưa ra Tòa án để giải quyết đều do vi
phạm pháp luật. Quan điểm này là chưa đủ cơ sở bởi lẽ trong thực tiễn tố tụng
thì ngoài lĩnh vực tố tụng hình sự, người thực hiện hành vi phạm tội ngoài
xâm hại đến khách thể trực tiếp (quan hệ xã hội trực tiếp bị tội phạm xâm hại)
thì đều xâm hại đến trật tự xã hội chung. Còn trong các lĩnh vực tố tụng khác,
hoạt động xét xử của Tòa án đều nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
các bên tham gia tranh chấp mà các quan hệ pháp lý trong các vụ việc tranh
chấp không phải lúc nào cũng phát sinh từ hành vi vi phạm pháp luật.
Quan điểm thứ bảy cho rằng quyền công tố là quyền được hành xử
nhân danh xã hội, vì lợi ích chung cho xã hội, với mục đích là Tòa án tuyên
một hình phạt đối với người phạm pháp8. Những người theo quan điểm này
cho rằng hành vi đưa các phạm nhân ra Tòa án để xét xử là truy tố. Quyền
truy tố ấy là công tố quyền, vì là quyền của cộng đồng xã hội trừng trị người
phạm tội qua các đại diện của xã hội. Các thẩm phán được giao nhiệm vụ thực
hành công tố quyền là các Thẩm phán công tố. Về bản chất, quyền công tố
thuộc về xã hội và chỉ có xã hội mới có quyền trừng phạt, do đó phạm vi
quyền công tố chỉ giới hạn trong tố tụng hình sự và trước Tòa án.
Trên đây là một số quan điểm về quyền công tố, có thể thấy rằng điểm
hạn chế chung nhất của hầu hết các công trình nghiên cứu về quyền công tố là
không phân định rõ được khái niệm, bản chất, nội dung, phạm vi của quyền
7
Đỗ Văn Đương (1999), Khái niệm, đối tượng, phạm vi, nội dung quyền công tố, Kỷ yếu đề tài cấp bộ
“Những vấn đề lý luận về quyền công tố và thực tiễn hoạt động công tố ở Việt Nam từ năm 1945 đến nay”,
tr.138-140.
- Một số vấn đề góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư
pháp (1997), Trường Cao đẳng kiểm sát Hà Nội, tr.6-17.
8
Nguyễn Quốc Hưng, Hình sự tố tụng lược giảng, Nhà sách Khai Trí, tr.47,131.
11
công tố, hoạt động thực hành quyền công tố và hoạt động kiểm sát các hoạt
động tư pháp. Chúng tôi đồng nhất với cách phân tích, lập luận thể hiện quan
điểm cho rằng quyền công tố chỉ có thể được xem xét trong mối liên hệ với
lĩnh vực pháp luật tố tụng hình sự, nó luôn gắn liền với việc nhân danh nhà
nước (nhân danh công quyền) chống lại hình thức vi phạm pháp luật nghiêm
trọng nhất (tội phạm). Bản chất của hoạt động tố tụng hình sự là hoạt động
của các cơ quan tiến hành tố tụng để phát hiện và truy cứu trách nhiệm hình
sự đối với người phạm tội. Trong tố tụng hình sự luôn tồn tại ba chức năng tố
tụng cơ bản đó là chức năng buộc tội, chức năng gỡ tội, chức năng xét xử.
Buộc tội là một chức năng tố tụng nhằm truy cứu trách nhiệm hình sự đối với
người thực hiện hành vi phạm tội. Cơ quan thực hiện chức năng buộc tội có
trách nhiệm và có quyền đưa ra lời cáo buộc cụ thể đối với cá nhân cụ thể và
có nhiệm vụ đưa ra những tài liệu, chứng cứ cụ thể cho sự buộc tội đó.
Với những lập luận cụ thể đã nêu trên, chúng tôi đưa ra khái niệm
quyền công tố như sau:
Quyền công tố là quyền của Nhà nước thực hiện việc truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với người phạm tội, được Nhà nước giao cho VKS (Viện
công tố) thực hiện nhằm phát hiện tội phạm và truy cứu trách nhiệm hình sự
người thực hiện hành vi phạm tội ra trước Tòa án để xét xử và bảo vệ sự buộc
tội đó tại phiên tòa.
1.1.2. Khái niệm thực hành quyền công tố
Trong khoa học luật tố tụng hình sự, việc xác định quyền công tố và
theo đó là thực hành quyền công tố có ý nghĩa lý luận và thực tiễn rất quan
trọng. Giải quyết được rõ ràng, rành mạch những vấn đề trên giúp cho việc
nhận thức đầy đủ, chính xác vị trí, vai trò của VKS trong hệ thống cơ quan
nhà nước nói chung và trong mối quan hệ với các cơ quan tư pháp nói
riêng, cũng như chức năng, nhiệm vụ của VKS, đặc biệt là trong tố tụng
hình sự. Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong giai đoạn hiện nay
khi chúng ta tích cực triển khai thực hiện các nghị quyết của Đảng về cải
cách cơ quan tư pháp.
12
Theo Từ điển tiếng Việt thì “thực hành” có nghĩa là “làm để áp dụng lí
thuyết vào thực tế”, “thực hành” cũng đồng nghĩa với “thực hiện” 9. Đối với
khoa học pháp lý, chúng ta có thể hiểu thực hành là thực hiện việc áp dụng
các lý luận pháp lý vào thực tiễn.
Từ điển Luật học giải thích “Thực hành quyền công tố là việc sử dụng
tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố để truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong các giai đoạn điều tra, truy
tố và xét xử”10.
Cũng như khái niệm quyền công tố, trước khi Luật Tổ chức VKSND
năm 2014 có hiệu lực thi hành thì khái niệm thực hành quyền công tố cũng ít
được đề cập đến trong các tài liệu pháp lý ở nước ta. Nếu có đề cập đến vấn
đề này thì thường là các quan điểm nghiên cứu có tính chất cá nhân, cơ bản là
theo hai khuynh hướng: một là, gắn thực hành quyền công tố với việc thực
hiện những nhiệm vụ khác của Công tố viên trong tố tụng hình sự. Cơ sở lý
luận của khuynh hướng này là việc tổ chức và hoạt động của cơ quan công tố
ở nước ngoài, cơ sở pháp lý mà các tác giả theo khuynh hướng này đưa ra là
các quy định pháp luật hiện hành ở nước ta, nhưng chỉ bó hẹp trong phạm vi
truy tố hoặc buộc tội của VKS trước Tòa án. Một số tác giả khác thì lại mở
rộng phạm vi quyền công tố được thực hiện trong mọi giai đoạn tố tụng hình
sự bao gồm cả điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Khuynh hướng thứ hai
là chỉ nêu ra một số biện pháp pháp lý như: lập cáo trạng và luận tội trước
phiên tòa sơ thẩm hình sự và coi đó là thực hành quyền công tố, thậm chí có
người còn cho rằng thực hành quyền công tố chỉ là sự buộc tội trước phiên tòa
sơ thẩm.
Như đã phân tích ở trên, quyền công tố là quyền của Nhà nước thực
hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Quyền này
gắn với bản chất từng kiểu nhà nước và chỉ có trong lĩnh vực tố tụng hình sự.
9
Từ điển Tiếng Việt (2004), Nxb Đà Nẵng, tr.973
Từ điển Luật học (2006), Nxb Từ điển Bách khoa - Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr.457
10
13
Để bảo đảm thực hiện quyền công tố trong thực tế đấu tranh chống tội phạm
thì nhà nước ban hành các văn bản pháp luật, trong đó quy định các quyền
năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố. Các quyền năng đó được giao
cho cơ quan nhà nước nào thực hiện để phát hiện tội phạm và truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với người phạm tội, thì cơ quan ấy được gọi là cơ quan có
trách nhiệm thực hành quyền công tố.
Ở Việt Nam, căn cứ vào các quy định pháp luật của Nhà nước ta từ
năm 1960 đến nay thì VKSND là cơ quan duy nhất được giao chức năng thực
hành quyền công tố. Thực tiễn hoạt động thực hành quyền công tố mấy chục
năm qua của ngành kiểm sát cho thấy mọi vụ án hình sự đều do VKS truy tố
và thực hiện sự buộc tội trước phiên tòa sơ thẩm, đưa ra lời kết luận của mình
tại phiên tòa phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm. Việc CQĐT và Tòa án
thực hiện việc khởi tố vụ án hình sự, CQĐT bắt giữ người phạm tội, điều tra
thu thập chứng cứ,... thực chất chỉ là những hoạt động hỗ trợ, phục vụ cho
việc thực hành quyền công tố của VKS. Trên cơ sở kết quả điều tra, lời luận
tội của KSV và kết quả tranh tụng dân chủ tại phiên tòa, Tòa án áp dụng pháp
luật để kết luận về tội trạng của bị cáo, trách nhiệm pháp lý của bị cáo. Bản án
kết tội của Tòa án chính là sự chấp nhận lời buộc tội của VKS đối với người
phạm tội.
Pháp luật hiện hành cũng đã có quy định cụ thể về thực hành quyền
công tố tại Điều 3 Luật Tổ chức VKSND năm 2014: “Thực hành quyền công
tố là hoạt động của VKSND trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội
của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết
tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố,
điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự”. Quy định mang tính khái niệm này
được đánh giá là bước phát triển lý luận về quyền công tố và thực hành quyền
công tố trên cơ sở tổng kết thực tiễn hoạt động gần 60 năm qua của VKSND
nước ta. Cơ bản khắc phục các khuynh hướng chưa phù hợp, tồn tại cả trong
nhận thức và thực tiễn xây dựng và áp dụng pháp luật như: 1) Đồng nhất chức
14
năng thực hành quyền công tố với chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp
luật của VKS, dẫn đến mở rộng phạm vi quyền công tố vượt ra ngoài lĩnh vực
tố tụng hình sự sang cả tố tụng dân sự, hành chính, lao động. 2) Coi hoạt động
công tố như là một trong những hình thức thực hiện chức năng kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự. 3) Thu hẹp phạm vi quyền công tố,
coi thực hành quyền công tố chỉ là hoạt động truy tố kẻ phạm tội ra Tòa án và
buộc tội tại phiên tòa11.
Từ những phân tích nêu trên, chúng tôi đưa ra khái niệm thực hành
quyền công tố như sau:
Thực hành quyền công tố là việc VKS sử dụng tổng hợp các quyền
năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố từ khi giải quyết tố giác, tin báo
về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy
tố, xét xử vụ án hình sự nhằm truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người
phạm tội ra trước Tòa án để xét xử và bảo vệ sự buộc tội đó tại phiên tòa.
1.1.3. Khái niệm, đặc điểm thực hành quyền công tố trong giai đoạn
truy tố
1.1.3.1. Khái niệm thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố
Tố tụng hình sự Việt Nam được xác định là một hệ thống các giai đoạn
gắn liền với hoạt động đặc trưng của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố
tụng, những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng
hình sự mà giai đoạn trước là tiền đề của giai đoạn sau và giai đoạn sau là hệ
quả của giai đoạn trước, đồng thời cũng kiểm tra tính đúng đắn của giai đoạn
trước đó.
Theo quan điểm của các nhà nghiên cứu khoa học pháp lý và dựa trên
thực tế áp dụng pháp luật tố tụng hình sự để giải quyết vụ án hình sự cho thấy
quá trình giải quyết vụ án hình sự được chia thành 5 giai đoạn: giai đoạn khởi
tố, giai đoạn điều tra, giai đoạn truy tố, giai đoạn xét xử và giai đoạn tố tụng
11
Nguyễn Như Hùng (2017), “Nội dung, cấu trúc quyền lực tố tụng hình sự trong hoạt động truy tố”, Tạp chí
Kiểm sát, (04), 34-37.
15
đặc biệt (giám đốc thẩm, tái thẩm). Trong đó, giai đoạn truy tố là giai đoạn
quan trọng, góp phần kịp thời sửa chữa và khắc phục những thiếu sót cũng
như vi phạm pháp luật của CQĐT trong quá trình điều tra vụ án hình sự, đồng
thời xác lập cơ sở pháp lý để tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Theo Từ điển tiếng Việt, truy tố là “đưa người coi là phạm tội ra tòa để
xét xử”12. Từ điển Luật học giải thích truy tố là “đưa người phạm tội ra trước
tòa án để xét xử... theo quy định của pháp luật, truy tố người phạm tội ra trước
tòa thuộc thẩm quyền của VKSND”13. Như vậy, có thể hiểu truy tố là giai
đoạn của tố tụng hình sự, trong đó VKS tiến hành các hoạt động cần thiết
nhằm đưa bị can ra trước tòa án để xét xử hoặc ra những quyết định tố tụng
khác để giải quyết đúng đắn vụ án hình sự14.
Quyền công tố nhà nước do VKS thực hiện gồm nhiều quyền năng tố
tụng, trong đó, quyền truy cứu trách nhiệm hình sự bị can ra trước Tòa án
trong giai đoạn truy tố là quyền đặc trưng của VKS. Quyền này được thực
hiện bằng quyết định truy tố của VKS sau khi nhận được hồ sơ vụ án cùng
bản kết luận điều tra, đề nghị truy tố của CQĐT. Trong thực tế, để thực hiện
tốt quyền truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, pháp nhân
phạm tội, VKS phải tiến hành nghiên cứu hồ sơ vụ án, giải quyết nhiều vấn đề
phức tạp đặt ra trong thời hạn nhất định mà BLTTHS đã quy định đối với
từng loại tội phạm nhằm đảm bảo việc truy tố đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật, không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô
tội, xác định đúng trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân. Với nhiệm vụ
riêng, cụ thể, chủ thể duy nhất thực hiện quyền này là VKS, hoạt động truy tố
có tính đặc thù riêng về hành vi tố tụng và văn kiện tố tụng áp dụng nên truy
tố thực sự là giai đoạn độc lập của quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Như đã phân tích ở trên, thực hành quyền công tố là việc VKS sử dụng
tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố từ khi giải
12
Từ điển Tiếng Việt (1997), Nxb Đà Nẵng, tr.1017
Từ điển Luật học (2006), Nxb Từ điển Bách khoa – Nxb Tư pháp. tr. 820
14
Giáo trình Luật tố tụng hình sự (2018), Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, tr.367.
13
16
quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình
khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự để truy cứu trách nhiệm hình sự
đối với người phạm tội. Thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố chỉ
là hoạt động cụ thể của VKS nhằm thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối
với người phạm tội trong một giai đoạn tố tụng cụ thể.
Từ đó ta có thể đưa ra khái niệm thực hành quyền công tố trong giai
đoạn truy tố như sau:
Thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố là việc VKS sử dụng
các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố ở giai đoạn truy tố theo
quy định của pháp luật tố tụng hình sự để quyết định truy tố người phạm tội ra
trước tòa án để xét xử hoặc đưa ra các quyết định khác nhằm giải quyết vụ án.
1.1.3.2. Đặc điểm thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố
Thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố là chức năng hiến định
của VKS trong việc thực thi quyền lực nhà nước để truy cứu trách nhiệm hình
sự người phạm tội. Do VKS là chủ thể duy nhất được giao nhiệm vụ truy tố
người phạm tội, nên VKS phải được trao đầy đủ quyền năng và thực hiện triệt
để quyền năng của mình để bảo đảm không bỏ lọt tội phạm và người phạm
tội, không làm oan người vô tội.
Thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố mang tính công khai
và được thực hiện theo trình tự, thủ tục tố tụng do pháp luật quy định. Đặc
điểm này nhằm bảo đảm cho hoạt động của VKS được thực hiện một cách
độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, không có bất cứ sự can thiệp nào vào hoạt
động thực hành quyền công tố của VKS. Tuy nhiên hoạt động thực hành
quyền công tố của VKS cũng phải được giám sát bởi nhiều chủ thể khác nhau
ở trong và ngoài tố tụng hình sự.
Hoạt động thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố của các
KSV chịu sự lãnh đạo tập trung của Viện trưởng VKS mỗi cấp và chịu sự
lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng VKSND tối cao. VKS cấp trên có quyền
rút, hủy bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của VKS cấp
dưới và yêu cầu ra quyết định đúng pháp luật.
17
Hoạt động thực hành quyền công tố có đặc điểm khác với hoạt động
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn truy tố. Tuy cùng một chủ
thể tiến hành là VKS nhưng thực hành quyền công tố có đối tượng là tội phạm
và người thực hiện hành vi phạm tội. Trong khi thực hành quyền công tố,
VKS trực tiếp ra các quyết định làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt việc
buộc tội. Các quyết định của VKS khi thực hành quyền công tố có ý nghĩa
quyết định đến vụ án và người thực hiện hành vi phạm tội. Trong khi đối
tượng của hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn truy tố
là việc tuân theo pháp luật của cơ quan, cá nhân tiến hành tố tụng và những
người tham gia tố tụng khác có hoạt động phát sinh trong giai đoạn truy tố.
Để kiểm sát việc tuân theo pháp luật, VKS tiến hành các hoạt động kiểm sát,
kịp thời phát hiện các vi phạm pháp luật và yêu cầu, kiến nghị các chủ thể
chấm dứt vi phạm, khôi phục lại trật tự pháp luật bị vi phạm.
Khác với giai đoạn điều tra và giai đoạn xét xử, khi thực hành quyền
công tố ở giai đoạn truy tố, VKS gần như “một mình một sân”. Ở giai đoạn
điều tra và giai đoạn xét xử, các hoạt động thực hành quyền công tố của VKS
luôn được thực hiện song hành cùng với hoạt động điều tra của CQĐT và hoạt
động xét xử của Tòa án. Ở giai đoạn truy tố, với tính chất là một giai đoạn
độc lập trong tố tụng hình sự, VKS thực hiện quyền năng tố tụng đặc trưng
nhất của mình thông qua các hoạt động thực hành quyền công tố. Khi đó,
VKS phải “tự mình” kiểm tra lại kết quả của toàn bộ các quyết định tố tụng,
hoạt động tố tụng mà CQĐT có thẩm quyền đã tiến hành và đưa ra các quyết
định một cách chính xác, đầy đủ, khách quan nhằm truy tố người phạm tội ra
trước Tòa án để xét xử hoặc đưa ra các quyết định khác để giải quyết vụ án.
Hoạt động thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố là hoạt động
truy cứu trách nhiệm hình sự thường đối lập với hoạt động bào chữa nhưng
đều có mục đích chung là tìm đến sự thật và bảo đảm công lý, công bằng, lẽ
phải. Trong khi hoạt động công tố phải bảo đảm tính toàn diện, không những
tập trung vào việc tìm kiếm, củng cố các bằng chứng buộc tội mà còn phải
18
tìm kiếm cả bằng chứng gỡ tội để cho việc buộc tội khách quan và chính xác
hơn thì hoạt động bào chữa lại chủ yếu hướng vào việc tìm kiếm những bằng
chứng gỡ tội. Thực hành quyền công tố là hoạt động mang tính nhà nước đối
với người phạm tội, còn bào chữa là hoạt động để thực hiện quyền bào chữa
của cá nhân, được pháp luật quy định, nên có sự khác biệt nhất định về nội
dung và phương pháp thực hiện.
1.2. Phạm vi và nội dung thực hành quyền công tố trong giai đoạn
truy tố
1.2.1. Phạm vi thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố
Với tính chất là một giai đoạn độc lập của tố tụng hình sự, giai đoạn
truy tố có chức năng thực hiện các nhiệm vụ cụ thể do luật định nhằm kiểm
tra lại tính hợp pháp và có căn cứ của toàn bộ các hành vi tố tụng mà CQĐT
đã áp dụng để bảo đảm cho các quyết định của VKS được chính xác và khách
quan, góp phần truy cứu trách nhiệm hình sự đúng người, đúng tội và đúng
pháp luật. Do đó, để hoạt động thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy
tố của VKS đạt hiệu quả thì việc xác định đúng phạm vi thực hành quyền
công tố nói chung và phạm vi thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố
nói riêng có ý nghĩa vô cùng quan trọng.
- Về phạm vi thực hành quyền công tố:
Có quan điểm cho rằng phạm vi thực hành quyền công tố đồng nhất
với phạm vi quyền công tố. Theo quan điểm của chúng tôi, phạm vi quyền
công tố có phần “rộng” hơn phạm vi của thực hành quyền công tố.
Xét về mặt nguyên tắc, chúng đồng nhất về phạm vi, đó là từ khi có tội
phạm xảy ra cho đến khi bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
Mục đích của tố tụng hình sự đòi hỏi mọi tội phạm xảy ra đều phải được phát
hiện và xử lý theo pháp luật. Do đó, về mặt nguyên tắc, cứ có tội phạm xảy ra
là đòi hỏi quyền công tố phải được phát động. Song, để có cơ sở phát động
công tố quyền phải có một giai đoạn chuẩn bị nhằm thu thập tài liệu, tin tức
về tội phạm xảy ra, như: tiếp nhận, xác minh tin báo, tố giác về tội phạm; tiến