BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÁI BÌNH
*****
BÙI THỊ LAN HƯƠNG
THùC TR¹NG HO¹T §éNG KIÓM SO¸T NHIÔM
KHUÈN
T¹I C¸C BÖNH VIÖN CñA TØNH TH¸I B×NH
N¡M 2014
Chuyên ngành: Y tế công cộng
Mã số: 60.72.03.01
LUẬN VĂN THẠC SỸ Y TẾ CÔNG CỘNG
Hướng dẫn khoa học:
GS.TS. LƯƠNG XUÂN HIẾN
TS. NGUYỄN HÙNG LONG
THÁI BÌNH - 2015
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay, nhiễm khuẩn bệnh viện là một trong các nguyên nhân đe dọa
sự an toàn của người bệnh, là một trong những thách thức và mối quan tâm
hàng đầu tại mọi cơ sở khám bệnh, chữa bệnh. Nhiều nghiên cứu cho thấy
nhiễm khuẫn bệnh viện làm tăng tỉ lệ người bệnh tử vong, tăng biến chứng,
tăng ngày nằm điều trị, tăng mức sử dụng kháng sinh, tăng sự kháng thuốc
của vi sinh vật, tăng chi phí dùng thuốc và tăng gánh nặng bệnh tật cho cả
người bệnh và hệ thống y tế. Đây là một vấn đề ngày càng được mọi hệ thống
y tế trên thế giới cũng như ở Việt Nam quan tâm.
Nhiễm khuẩn bệnh viện xảy ra ở khắp nơi trên thế giới, hệ thống y tế
của tất cả các nước phát triển và nước nghèo đều chịu tác động nghiêm trọng
của nhiễm khuẩn bệnh viện. Tổ chức Y tế thế giới tiến hành điều tra cắt ngang
nhiễm khuẩn bệnh viện tại 55 bệnh viện của 14 nước trên thế giới đại diện
cho các khu vực công bố tỉ lệ nhiễm khuẩn bệnh viện là 8,7%. Ước tính ở bất
cứ thời điểm nào cũng có hơn 1,4 triệu người bệnh trên thế giới mắc nhiễm
khuẩn bệnh viện [2].
Các nhà nghiên cứu đưa ra 5 hậu quả của nhiễm khuẩn bệnh viện đối với
bệnh nhân: Tăng tỉ lệ mắc bệnh, tỉ lệ tử vong, ngày điều trị, chi phí điều trị và
sự kháng thuốc của vi sinh vật. Tại Mỹ, cứ 20 bệnh nhân nhập viện có 1 người
bệnh mắc nhiễm khuẩn bệnh viện. Hằng năm thế giới có khoảng 2 triệu người
mắc nhiễm khuẩn bệnh viện với 90.000 người tử vong, chi phí chăm sóc tăng
4,5 tỉ đô-la. Tại Anh, mỗi năm có khảng 100.000 người mắc nhiễm khuẩn bệnh
viện với trên 5000 ca tử vong, chi phí tăng thêm 1 tỉ bảng Anh.
Ở các nước đang phát triển, tình hình nhiễm khuẩn bệnh viện còn nặng
nề hơn do không đủ nguồn lực cho công tác kiểm soát nhiễm khuẩn. Tỉ lệ
nhiễm khuẩn bệnh viện tại Malaysia (2001) là 13,9%. Nhiễm khuẩn bệnh viện
2
là nguyên nhân tử vong hàng đầu ở trẻ sơ sinh. Trên 50% bệnh nhi ở Brazil và
Indonesia mắc nhiễm khuẩn bệnh viện và tử vong từ 12-52%.
Tại Việt Nam, một trong những giám sát nhiễm khuẩn bệnh viện đầu
tiên (2001) được tiến hành trên 5396 bệnh nhân ở 11 bệnh viện đại diện toàn
quốc (6 bệnh viện trung ương, 5 bệnh viện tỉnh), phát hiện 369 bệnh nhân
(6,8%) nhiễm khuẩn bệnh viện. Năm 2005, bệnh viện Bạch Mai giám sát tại
36 bệnh viện với 7541 bệnh nhân, kết quả cho thấy tỉ lệ nhiễm khuẩn bệnh
viện là 7,8%. Các nhiễm khuẩn bệnh viện thường gặp là: hô hấp (41,9%), vết
mổ (27,5%), tiết niệu (13,1%), tiêu hóa (10,3%), da và mô mềm (4,1%),
nhiễm khuẩn huyết (1,0%), nhiễm khuẩn khác (2,0%) [4], [5], [6].
Tình hình nhiễm khuẩn bệnh viện tại Việt Nam nói chung và Thái Bình
nói riêng chưa được đánh giá đầy đủ và có tính hệ thống mà chủ yếu dựa vào
một số điều tra cắt ngang có chọn mẫu đại diện. Các thông tin về nhiễm
khuẩn bệnh viện trong các cơ sở y tế ít khi được công bố.
Để có thông tin về hệ thống tổ chức, cơ sở vật chất và thực hành kiểm
soát nhiễm khuẩn tại các bệnh viện sau 5 năm triển khai thực hiện Thông tư về
kiểm soát nhiễm khuẩn nhằm đưa ra mô hình phù hợp hạn chế tối đa khả năng
nhiễm khuẩn bệnh viện nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh ở Thái Bình
chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài "Thực trạng hoạt động kiểm soát
nhiễm khuẩn tại các bệnh viện tỉnh Thái Bình".
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU:
1. Mô tả thực trạng tổ chức, nhân lực kiểm soát nhiễm khuẩn và các
điều kiện về cơ sở vật chất bảo đảm thực hiện kiểm soát nhiễm khuẩn trong
các bệnh viện của tỉnh Thái Bình năm 2014.
2. Đánh giá kết quả thực hiện một số nhiệm vụ chuyên môn kiểm soát
nhiễm khuẩn được quy định tại Thông tư 18/2009/TT-BYT.
3
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Lịch sử phát triển chống nhiễm khuẩn bệnh viện
Theo Tổ chức Y tế thế giới, nhiễm khuẩn bệnh viện (NKBV) là “những
nhiễm khuẩn mà người bệnh mắc phải trong thời gian điều trị tại bệnh viện
mà thời điểm nhập viện không thấy có yếu tố nhiễm khuẩn hay ủ bệnh nào.
Nhiễm khuẩn bệnh viện thường xuất hiện sau 48 giờ kể từ khi người bệnh
nhập viện” [10].
Nhiều tài liệu có từ thời Hyppocrates đã nói đến và mô tả những dịch
bệnh và hội chứng bệnh thường xuất hiện ở những nơi thiếu điều kiện vệ sinh
như bệnh viện, cơ sở chăm sóc người già, bệnh viện tế bần, nhà tù và nơi tập
trung đông người mà ít thấy hơn ở cộng đồng nơi con người sống tự do hoặc
riêng lẻ. Vào thời đó hội chứng này gọi là hội chứng mắc phải trong bệnh viện.
Mối liên quan giữa tỷ lệ tử vong cao và quá trình phơi nhiễm của bệnh
nhân điều trị tại bệnh viện với ký sinh vật đã được bác sĩ Ignaz Semmelwies
khẳng định từ giữa thế kỷ XIX. Ông đã chứng minh rằng tỷ lệ tử vong do sốt
hậu sản tại phòng đẻ có liên quan đến việc bàn tay của sinh viên bị nhiễm bẩn
từ tử thi ở phòng giải phẫu. Cũng thời điểm này, nhà phẫu thuật Joseph Lister
đã nhận thấy tầm quan trọng của điều kiện vệ sinh trong khu phẫu thuật. các
hoạt động nhằm hạn chế nhiễm trùng của Lister đã không ngừng hoàn thiện,
từng bước qua hàng thế kỷ và nó đã đạt đến đỉnh cao của việc thực hiện tiệt
trùng hoặc các điều kiện gần với tiệt trùng trong phẫu thuật ngày nay.
Kiểm soát nhiễm khuẩn hiện đại chỉ thực sự bắt đầu vào những năm 50
của thế kỷ XX, khi xảy ra 1 loạt vụ nhiễm tụ cầu vàng ở nhiều bệnh viện
thuộc Bắc Mỹ và Vương quốc Anh. Để đối phó với vụ dịch này, các Tổ chức
y tế quốc tế trong đó có hiệp hội bệnh viện Hoa Kỳ đã triển khai chương trình
giám sát phát hiện nhiễm khuẩn bệnh viện.
4
Đến nay, những chương trình kiểm soát nhiễm khuẩn bệnh viện sau 50
năm đã được đưa vào thực hành thường quy ở hầu khắp các bệnh viện khu
vực Tây Bắc bán cầu và ngày nay đã được cộng nhận là những yếu tố quan
trọng để đảm bảo chất lượng chăm sóc người bệnh. Hiện nay, nhiễm khuẩn
bệnh viện hay còn gọi là nhiễm khuẩn liên quan đến chăm sóc y tế (health
care- asociated infections) đang là vấn đề y tế toàn cầu do làm tăng tỷ lệ mắc
bệnh, tử vong, kéo dài ngày nằm viện và tăng chi phí điều trị đồng thời cũng
là nguyên nhân gia tăng chủng vi khuẩn kháng thuốc.
Để chẩn đoán nhiễm khuẩn bệnh viện, người ta thường dựa vào định
nghĩa và tiêu chuẩn chẩn đoán cho từng vị trí NKBV. Ví dụ: NK vết mổ sau
phẫu thuật, NK máu có liên quan đến dụng cụ đặt trong lòng mạch, NK
đường tiết niệu... Hiện nay, theo hướng dẫn từ Trung tâm Giám sát và Phòng
bệnh Hoa Kỳ (CDC) và các hội nghị quốc tế đã mở rộng định nghĩa ca bệnh
cho các vị trí NK khác nhau và đang được áp dụng để giám sát NKBV trên
toàn cầu. Dựa trên các tiêu chuẩn lâm sàng và sinh học, các nhà khoa học đã
xác định có khoảng 50 loại NKBV khác nhau có thể xảy ra tại bệnh viện.
1.2. Tác nhân gây bệnh
Mọi vi sinh vật như virut, vi khuẩn, ký sinh trùng, nấm... đều có thể gây
NKBV. Tuy nhiên, vi khuẩn là căn nguyên phổ biến nhất và thường đã kháng
kháng sinh, hoặc ít nhất cũng có mức độ kháng cao hơn ở cộng đồng.
1.2.1. Vi khuẩn
Vi khuẩn là tác nhân quan trọng nhất trong NKBV, chính vì vậy ngay
từ đầu người ta đã gọi là NKBV. Mọi vi sinh vật đều có thể gây nhiễm khuẩn
bệnh viện. Hệ vi khuẩn này rất phong phú, đa dạng về chủng loại và có tính
đề kháng cao với hầu hết các kháng sinh thông thường. Một số loại vi khuẩn
chủ yếu gây nên NKBV là:
5
- Vi khuẩn nội sinh: là vi khuẩn cư trú trên cơ thể người khỏe mạnh.
Một số vi khuẩn trở thành tác nhân gây bệnh khi hệ thống miễn dịch của cơ
thể bị suy giảm. Một số vi khuẩn nội sinh thường gặp là Cầu khuẩn
Coagulase (-), Escherichia Coli. Các vi khuẩn thuộc nhóm này kháng lại
nhiều kháng sinh, kể cả methicillin và quinolone [15], [16], [17].
- Vi khuẩn ngoại sinh: là vi khuẩn từ dụng cụ y tế, nhân viên y tế, từ
không khí, nước hoặc lây chéo giữa các bệnh nhân [2]. Vi khuẩn ngoại sinh có
độc lực cao, khả năng gây nhiễm khuẩn bệnh viện không phụ thuộc vào tình
trạng miễn dịch cơ thể. Một số nhóm vi khuẩn gây nhiễm khuẩn bệnh viện
thường gặp:
- Cầu khuẩn Gram (+): tụ cầu, liên cầu... hầu hết đã kháng nhiều loại
kháng sinh như Penicilline, gần đây phát hiện đã kháng Methiciline.
- Trực khuẩn Gram (+): Bacillus, Clostridium perfringens (hoại thư
sinh hơi)... gây bệnh ở mắt, mô mềm, phổi, vết thương...
- Vi khuẩn Gram (-): Trong đó trực khuẩn Gram âm thường có liên
quan đến nhiễm trùng bệnh viện và phổ biến ở những bệnh nhân nhiễm trùng
phổi tại khoa điều trị tích cực và khả năng kháng kháng sinh đã tăng lên đáng
kể đối với 1 số liệu pháp điều trị phối hợp kháng sinh chọn lọc. Các vi khuẩn
gram âm thường gặp: Pseudomonas aeruginosa (trực khuẩn mủ xanh), E.
coli, Salmonella, Shigella, Klebsiella, Proteus, Enterobacter... thường gây
bệnh nặng, khó điều trị do đã kháng các kháng sinh thông dụng.
1.2.2. Virut
Các vi rút có thể gây nhiễm trùng bệnh viện như vi rút viêm gan B, vi
rút viêm gan C (lây qua đường máu, lọc máu, đường tiêm, nội soi), các vi rút
hợp bào đường hô hấp, SARS và vi rút đường ruột truyền qua đường tiếp xúc
từ tay- miệng và theo đường phân miệng.
6
- Virut lây truyền qua đường tiêu hóa: Polyovirus, Hepatitis A và E,
Echovirus, Coxsackie A và B, Adenovirus, Rotavirus, Coronavirus…
- Virut lây truyền qua đường hô hấp: sởi, quai bị, cúm, á
cúm, Adenovirus, Coronavirus... Những vi rút này lây truyền qua đường
không khí hoặc bàn tay ô nhiễm. một số vi rút có thể gây viêm phổi nặng ở
bệnh nhân suy giảm miễn dịch.
- Virut lây truyền qua đường máu chủ yếu là HIV, viêm gan B, C...
- Vi rút gây bệnh phát ban: Herpes simplex, Varicella Zoster, sởi,
Rubella, vi rút đường ruột… những vi rút này truyền qua dịch tiết hô hấp và tổn
thương da.
1.2.3. Một số tác nhân khác
NKBV còn do một số tác nhân khác (tuy ít gặp hơn) như nấm, ký sinh
trùng, đơn bào. Đó là nấm Candida spp, Aspergillus (thường gặp ở khoa hồi
sức cấp cứu), hoặc một số ký sinh trùng như Pneumocystic carinii,
Toxoplasma gondii, Cryptosporidium... Tỷ lệ nhiễm nấm bệnh viện có xu
hướng tăng trong những năm gần đây. Nhiễm khuẩn nấm thường thấy ở bệnh
nhân khoa Hồi sức cấp cứu nơi có nhiều bệnh nhân nặng và suy giảm sức đề
kháng. Một nghiên cứu ở Italia cho thấy tỷ lệ nhiễm nấm xuất hiện là
0,9/10.000 bệnh nhân, chủng phổ biến nhất là C. albicans. Nghiên cứu của
Trương Anh Thư và cộng sự năm 2008 cho thấy tác nhân gây nhiễm khuẩn
bệnh viện tại bệnh viện Bạch Mai, ngoài các vi khuẩn gram âm thường gặp
thì tỷ lệ nhiễm nấm Candida là khá cao (14,3%). Việc sử dụng thuốc kháng
nấm để điều trị ngày càng nhiều, từ đó làm tăng chủng nấm kháng thuốc.
Một số ký sinh trùng gây nhiễm khuẩn bệnh viện là: Pneumosystis
carinii, Toxoplasma Gondii, Cryptosporidium. Nhìn chung ký sinh trùng có
độc lực yếu, thường gây bệnh cơ hội ở người già, trẻ em, bệnh nhân suy giảm
miễn dịch hoặc bệnh nhân có ghép mô [15], [16].
7
1.3. Nguồn lây truyền nhiễm khuẩn bệnh viện
1.3.1. Nguồn truyền nhiễm
Trong nhiễm khuẩn bệnh viện, người là nguồn truyền nhiễm chủ yếu và
bệnh nhân là nguồn truyền nhiễm quan trọng nhất.
- Bệnh nhân và người nhà bệnh nhân: là các bệnh nhân mắc các bệnh
truyền nhiễm đang được điều trị tại khoa truyền nhiễm hoặc các khoa nội,
ngoại. BN đang điều trị bệnh không nhiễm trùng nhưng đang đồng mắc bệnh
truyền nhiễm thể điển hình hoặc không điển hình hoặc người mang mầm bệnh
không triệu chứng.
- Nhân viên y tế: có thể là đang có bệnh ở các mức độ khác nhau (nhưng
vẫn đi làm việc) hoặc người mang mầm bệnh không triệu chứng. Một số nhiễm
khuẩn lan từ nhân viên y tế sang bệnh nhân thường gặp như: nhiễm khuẩn da do
tụ cầu vàng, liên cầu nhóm A, tiêu chảy do Salmonella, cúm [2], [3],…
1.3.2. Cơ chế lây truyền
NKBV có cơ chế lây truyền như cơ chế lây truyền bệnh NK (qua các
đường tiêu hóa, hô hấp, tiết niệu, máu, da, niêm mạc). Tuy nhiên, có 3 cơ chế
quan trọng nhất, đó là:
- Lây qua tiếp xúc: là cơ chế phổ biến và quan trọng nhất, chiếm
khoảng 90% các trường hợp NKBV. Có thể là tiếp xúc trực tiếp hoặc gián tiếp
qua bàn tay nhân viên y tế, bơm kim tiêm, các dụng cụ thăm khám, điều trị có
tính chất xâm nhập, các chất thải ô nhiễm như bông băng, dịch rỉ vết thương,
vết loét, vết bỏng... Vi sinh vật bị truyền từ người bệnh này sang người khác
hoặc từ nhân viên y tế cho người bệnh. Lây truyền qua tiếp xúc gián tiếp xảy
ra do sự tiếp xúc giữa chủ thể nhạy cảm với một vật thể trung gian bị nhiễm.
Bệnh lây truyền qua đường này thường do cộng sinh hay nhiễm trùng những
vi sinh vật đa kháng, các nhiễm trùng da và đường ruột như MRSA, Herpes
8
Simplex, chốc ghẻ, chấy rận, đậu mùa, Zona, nhiễm cúm. Những trẻ dưới 6
tuổi thường dễ bị lây truyền vi rút đường ruột, viêm gan A theo đường này.
- Lây qua giọt bắn: tác nhân gây bệnh có trong các dịch được bắn ra từ
BN (hoặc từ nguồn truyền nhiễm) thông qua ho, hắt hơi, nói chuyện; các giọt
bắn từ các dịch cơ thể khi thực hiện các thủ thuật... Các giọt này sẽ bắn vào
kết mạc mắt, niêm mạc mũi, miệng của người tiếp xúc. Các giọt bắn có kích
thước tương đối lớn (> 5 µm) và thường chỉ bắn được sang người tiếp xúc
trong phạm vi dưới 1 mét.
- Lây qua đường hô hấp: cơ chế này chiếm gần 9% các trường hợp
NKBV. Mầm bệnh được thải ra khỏi nguồn truyền nhiễm qua nói, ho, hắt hơi,
khạc nhổ hoặc qua các thủ thuật thăm khám, điều trị... làm văng, bắn ra các
hạt ô nhiễm (nước bọt, đờm dãi, máu, dịch cơ thể...) có chứa mầm bệnh.
Những hạt này nếu có kích thước lớn từ 5 àm trở lên sẽ bắn trực tiếp vào những
người xung quanh trong phạm vi dưới 1 mét và có thể bắn xa hơn phụ thuộc vào
lực ho của người bệnh. Với những hạt có kích thước dưới 5 àm sẽ bay lơ lửng
trong không khí và xâm nhập vào người cảm thụ qua đường mũi, miệng.
1.3.3. Yếu tố trung gian truyền bệnh
Tương ứng với 3 cơ chế lây truyền chủ yếu là một số yếu tố trung gian
truyền bệnh chính:
- Bàn tay của BN, nhân viên y tế, người nhà, người thăm nuôi.
- Dụng cụ y tế: bơm kim tiêm, các dụng cụ thăm khám điều trị có tính
xâm nhập (nội soi, thăm khám tai - mũi - họng, dụng cụ phẫu thuật...) có thể
nhiễm vi sinh vật. Việc thực hiện thủ thuật xâm nhập tạo thuận lợi để tác nhân
gây bệnh có trên dụng cụ bị ô nhiễm xâm nhập vào cơ thể và gây bệnh. Đồ
vải y tế... không bảo đảm vô khuẩn là nguồn chưa vi sinh vật và có khả năng
lan truyền tác nhân gây nhiễm khuẩn bệnh viện. đã có nghiên cứu cho thấy
9
nhiễm khuẩn ở nhân viên nhà giặt như: sốt, nấm da, ghẻ, … do thu gom xử lý
đồ vải bẩn không đúng quy trình.
- Chất thải y tế: Là môi trường thuận lợi cho vi sinh vật cư trú, phát
triển. Ngoài chất thải sắc nhọn có khả năng lan truyền tác nhân gây bệnh theo
đường máu, hiện chưa có bằng chứng về tác nhân gây nhiễm khuẩn bệnh viện
bắt nguồn từ chất thải như bông, băng, dịch rỉ vết thương, vết bỏng, vết loét...
tuy nhiên chất thải luôn được coi là nguồn ô nhiễm tiềm năng trong bệnh viện.
- Không khí: Mức độ ô nhiễm phụ thuộc vào mật độ người (bệnh nhân,
nhân viên y tế, người nhà) và mức độ thông thoáng trong trong các phòng
bệnh. Xảy ra do sự lây lan những giọt nước bốc hơi trong không khí chứa tác
nhân nhiễm khuẩn có kích thước phân tử nhỏ hơn 5 àm phát sinh khi bệnh
nhân ho, hắt hơi. Vi sinh vật lan truyền theo cách này có thể phân tán rộng
trong dòng không khí, có thể lơ lửng trong không khí lưu chuyển trong thời
gian dài. Vì thế chúng có thể bị hít vào hoặc tích tụ lại ở những vật chủ nhạy
cảm trong cùng 1 phòng hoặc có thể phân tán đi đến 1 khoảng cách xa hơn
tùy thuộc vào các yếu tố môi trường. Những vi sinh vật truyền bằng đường
khí như lao phổi, Rubella, thủy đậu, H5N1, SARS cũng có thể lây truyền theo
đường này khi thực hiện các thủ thuật có tạo khí dung.
1.3.4. Yếu tố nguy cơ
Có thể nói, bất kỳ ai đã vào bệnh viện là có nguy cơ NKBV, không
phân biệt bệnh nhân, nhân viên y tế hay người nhà. Tuy nhiên, tình trạng sức
khỏe của bệnh nhân và việc tiến hành các thủ thuật xâm nhập là những yếu tố
nguy cơ quan trọng nhất trong NKBV.
Bệnh nhân mắc các bệnh mạn tính nặng, cao tuổi, suy dinh dưỡng,
suy giảm miễn dịch hay đang dùng thuốc ức chế miễn dịch; Bệnh nhân đa
chấn thương, bỏng nặng, bệnh hô hấp mạn tính là những người có nguy cơ
cao NKBV.
10
Bệnh nhân phải trải qua các thủ thuật xâm nhập như phẫu thuật, đặt nội
khí quản, thông tiểu, catheter tĩnh mạch có nguy cơ cao mắc NKBV. Một
nghiên cứu tại Mỹ cho thấy: 97% nhiễm trùng tiết niệu xuất hiện ở BN đặt
ống thông tiểu, 85% nhiễm trùng huyết xuất hiện ở BN đặt catheter tĩnh mạch
trung tâm và 83% nhiễm trùng hô hấp liên quan đến thông khí nhân tạo.
1.4. Một số biện pháp kiểm soát nhiễm khuẩn bệnh viện
1.4.1. Vệ sinh bàn tay
Tổ chức Y tế thế giới khuyến cáo rửa tay là biện pháp rẻ tiền và hiệu
quả nhất đề phòng NKBV [1]. Tác nhân gây bệnh (vi khuẩn, virut, ký sinh
trùng, nấm...) từ bệnh nhân, môi trường bệnh viện (dụng cụ, không khí,
nước...) có thể lan truyền qua bàn tay từ nhân viên y tế đến bệnh nhân và
ngược lại. Vì vậy, vệ sinh bàn tay trước và sau mỗi lần tiếp xúc với bệnh
nhân, trước khi làm các thủ thuật vô khuẩn, sau khi tiếp xúc với dụng cụ y tế
NK là biện pháp quan trọng nhất để phòng chống NKBV. Tỉ lệ NKBV và tỉ lệ
tuân thủ vệ sinh bàn tay ở nhân viên y tế có mối liên quan nghịch: tỉ lệ tuân
thủ vệ sinh bàn tay càng tăng thì NKBV càng giảm và ngược lại. Nhiều
nghiên cứu cũng khẳng định sát khuẩn tay là biện pháp quan trọng nhất để dự
phòng lây truyên tác nhân gây bệnh trong các cơ sở y tế. Một nghiên cứu ở
Thụy Sỹ cho thấy: khi tỉ lệ tuân thủ rửa tay của nhân viên y tế tăng từ 47,5%
lên 66,2% thì tỉ lệ NKBV giảm từ 16,9% xuống còn 6,9% [8].
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến sự tuân thủ vệ sinh bàn tay của nhân
viên y tế, trong đó quan trọng nhất là nhận thức của nhân viên y tế về vệ sinh
bàn tay, phương tiện vệ sinh bàn tay và số lượng BN. Cần có sự đầu tư hơn về
trang thiết bị cho BV cũng như tăng cường tuyên truyền tầm quan trọng của
vệ sinh bàn tay cho mọi người trong bệnh viện, trước hết là nhân viên y tế.
11
1.4.2. Mang phương tiện phòng hộ:
Phương tiện phòng hộ bao gồm: găng tay, khẩu trang, áo choàng, tạp
dề, mũ, kính mắt/mặt nạ, ủng/giày. Mục đích sử dụng phương tiện phòng hộ
cá nhân là để bảo vệ nhân viên y tế, người bệnh, người nhà bệnh nhân khỏi bị
nguy cơ lây nhiễm và hạn chế phát tán mầm bệnh ra môi trường bên ngoài.
Nguyên tắc sử dụng phương tiện phòng hộ là phải tùy thuộc vào mục đích sử
dụng, mang phương tiện phòng hộ sẽ làm giảm nguy cơ nhiễm khuẩn do bắn
máu, dịch tiết vào cơ thể.
1.4.3. Vô khuẩn
Kỹ thuật vô khuẩn với các dụng cụ phẫu thuật, nội soi... cần được tuân
thủ nghiêm ngặt khi thực hiện các thủ thuật xâm nhập, phẫu thuật, chăm sóc
vết thương. Thực hiện kỹ thuật vô khuẩn trong mọi quy trình chăm sóc, điều
trị người bệnh nhằm làm giảm nguy cơ lan truyền vi sinh vật tới bệnh nhân và
nhân viên y tế.Vùng da bệnh nhân dự kiến phẫu thuật: sát khuẩn bằng hóa
chất; dùng kéo cắt bỏ lông, tóc (nếu có), không nên dùng dao cạo vì gây tổn
thương vi thể có thể dẫn tới NKBV. Các dụng cụ, đồ dùng trong BV (quần áo,
giường tủ...) và chất thải của bệnh nhân cần được vệ sinh, khử khuẩn bằng các
biện pháp thích hợp. Đối với các dụng cụ y tế dùng lại phải bảo đảm xử lý vệ
sinh theo đúng các quy định của Bộ Y tế. Kiểm soát ô nhiễm không khí: đóng
kín cửa phòng mổ, hạn chế người ra vào khi phẫu thuật, duy trì không khí
sạch tại buồng mổ và các khu vực kế cận với tốc độ thay đổi khí trên 6 luồng
khí mỗi giờ, làm sạch và khử khuẩn bề mặt môi trường hàng ngày buồng kỹ
thuật bằng hóa chất khử khuẩn.
1.4.4. Cách ly bệnh nhân
Tổ chức thực hiện các biện pháp cách ly phòng ngừa như: phòng ngừa
chuẩn, phòng ngừa bổ sung (dựa theo đường lây truyền bệnh); tổ chức thực
12
hiện các hướng dẫn và kiểm tra các biện pháp thực hành kiểm soát NK theo
tác nhân, cơ quan và bộ phận bị NKBV.
Một số trường hợp cần thiết có thể tiến hành cách ly nhằm ngăn ngừa
sự lây lan từ bệnh nhân sang bệnh nhân, nhân viên y tế, người nhà, khách
thăm... Tuy nhiên, việc tổ chức cách ly phải linh hoạt và tùy thuộc từng bệnh cụ
thể và hoàn cảnh của bệnh viện.
- Bệnh lây qua đường tiêu hóa như tả, viêm gan A, viêm dạ dày - ruột...:
mang găng và vệ sinh bàn tay tốt, BN nên dùng riêng dụng cụ ăn uống...
- Bệnh lây qua đường hô hấp như lao, cúm, quai bị...: luôn mang khẩu
trang, rửa tay, thông thoáng không khí, hạn chế khách thăm... Một số bệnh
nguy hiểm như SARS cần cách ly nghiêm ngặt (phòng điều trị riêng, máy
điều hòa, lọc khí riêng, cấm khách thăm, mang khẩu trang hoặc mặt nạ hô
hấp, vô khuẩn tốt dụng cụ, đồ dùng của bệnh nhân...).
- Bệnh lây qua đường máu, da và niêm mạc như HIV, viêm gan B, C...:
mang găng, vô khuẩn dụng cụ tốt, xử lý tốt chất thải là máu, dịch cơ thể.
1.4.5. Chính sách kiểm soát nhiễm khuẩn
Xây dựng chính sách quốc gia về tăng cường công tác kiểm soát NK;
ban hành các quy định, hướng dẫn thực hành kiểm soát NK trong các cơ sở
khám, chữa bệnh và xây dựng các tiêu chuẩn đánh giá chất lượng thực hành
kiểm soát NK để đưa vào nội dung kiểm tra bệnh viện hằng năm và đánh giá
chất lượng bệnh viện.
- Đào tạo kiểm soát nhiễm khuẩn
Đào tạo phổ cập về kiểm soát NK cho các thầy thuốc, nhân viên của cơ
sở khám, chữa bệnh bao gồm các thực hành về phòng ngừa chuẩn và phòng
ngừa dựa vào đường lây, các hướng dẫn thực hành phòng ngừa NKBV theo
cơ quan, vị trí. Đưa chương trình đào tạo kiểm soát NK vào chương trình đào
13
tạo chính quy trong các trường y và triển khai chương trình đào tạo vệ sinh
bệnh viện cho hộ lý và nhân viên vệ sinh bệnh viện.
- Giám sát nhiễm khuẩn bệnh viện
Tổ chức giám sát NKBV để có cơ sở dữ liệu về NKBV như tỉ lệ mắc
NKBV, tác nhân gây bệnh, vi khuẩn kháng thuốc... Giám sát NKBV là một
trong những yếu tố quan trọng để cải thiện tình hình NKBV. Nhân viên kiểm
soát NKBV thường phải dành nhiều thời gian để tiến hành giám sát NKBV,
nhận biết những người bệnh NKBV, xác định vị trí NK, những yếu tố góp
phần vào NK. Từ đó giúp bệnh viện có kế hoạch can thiệp và đánh giá được
hiệu quả của những can thiệp này. Giám sát NKBV còn là tiền đề cho việc
thực hiện các nghiên cứu về kiểm soát NK. Chương trình giám sát cũng cần
bao gồm chương trình kiểm soát kháng sinh. Cần đưa ra được những quy định
chính sách sử dụng kháng sinh. Cần hạn chế những hoạt động tiếp thị của các
hãng thuốc trong BV, đặc biệt tại các BV có đào tạo.
1.5. Mô hình kiểm soát nhiễm khuẩn theo thông tư 18/2009/TT-BYT [1]
1.5.1. Hệ thống tổ chức kiểm soát nhiễm khuẩn
Kiểm soát NK trong bệnh viện là một chương trình quản lý liên tục với
những mục tiêu, kế hoạch và bước đi thích hợp. Mục tiêu cơ bản nhất của
chương trình kiểm soát NK là nâng cao chất lượng chăm sóc, làm giảm tần
suất mắc NKBV, bảo đảm an toàn cho người bệnh.
Theo Thông tư 18/2009/TT-BYT của Bộ Y tế, hệ thống kiểm soát NK
trong các bệnh viện bao gồm 3 cấp độ:
- Hội đồng /Ban kiểm soát NK.
- Khoa/Tổ kiểm soát NK.
- Mạng lưới kiểm soát NK.
14
1.5.2. Hội đồng /Ban kiểm soát nhiễm khuẩn
- Tổ chức: Hội đồng /Ban kiểm soát NK do Giám đốc bệnh viện ra
quyết định thành lập. Chủ tịch Hội đồng kiểm soát NK là lãnh đạo của bệnh
viện; Phó Chủ tịch Hội đồng hoặc ủy viên thường trực là Chủ nhiệm khoa
kiểm soát NK hoặc Tổ trưởng tổ kiểm soát NK; ủy viên của Hội đồng kiểm
soát NK là đại diện các khoa lâm sàng, cận lâm sàng, kế hoạch, điều dưỡng…
- Nhiệm vụ: đề xuất, tư vấn cho Giám đốc bệnh viện về kiểm soát NK.
- Phương thức hoạt động: họp định kỳ (mỗi quý 1 lần) hoặc đột xuất để
xây dựng các quy định cụ thể về kiểm soát NK, thông qua kế hoạch hoạt động
như giám sát NKBV, đào tạo kiểm soát NK v.v...
1.5.3. Khoa/Tổ kiểm soát nhiễm khuẩn
- Tổ chức: các BV quy mô 150 giường bệnh trở lên thành lập Khoa
kiểm soát NK; các BV dưới 150 giường bệnh thành lập Tổ kiểm soát NK.
Khoa/Tổ kiểm soát NK tùy theo quy mô bệnh viện có các bộ phận sau:
hành chính - giám sát, khử khuẩn - tiệt khuẩn, giặt là và các bộ phận khác do
Giám đốc BV quyết định.
Trưởng khoa /Tổ trưởng, các Phó Trưởng khoa có trình độ đại học trở
lên thuộc chuyên ngành y, điều dưỡng hoặc dược và được đào tạo về kiểm
soát NK.
- Nhiệm vụ:
+ Xây dựng kế hoạch kiểm soát NK định kỳ và hằng năm để trình Hội
đồng /Ban Kiểm soát NK thẩm định trước khi Giám đốc bệnh viện phê duyệt
và tổ chức thực hiện.
+ Đầu mối xây dựng các quy định, quy trình kiểm soát NK trên cơ sở
các quy định, hướng dẫn chung của Bộ Y tế và trình Giám đốc bệnh viện phê
duyệt và tổ chức thực hiện.
15
+ Đầu mối phối hợp với các khoa, phòng/ban liên quan giám sát công
tác kiểm soát NK, bao gồm: (1) Phát hiện, giám sát và báo cáo dịch bệnh
truyền nhiễm theo quy định của pháp luật về phòng, chống bệnh truyền
nhiễm; (2) Phát hiện, nhận báo cáo các trường hợp NK liên quan đến chăm
sóc y tế từ các khoa lâm sàng và kết quả nuôi cấy vi khuẩn từ khoa vi sinh vật
(xét nghiệm) và đề xuất các giải pháp can thiệp kịp thời; (3) Theo dõi và báo
cáo các vi khuẩn kháng thuốc.
+ Kiểm tra, đôn đốc cán bộ, nhân viên, lao động hợp đồng, giáo viên,
học viên, BN, người nhà BN và khách thực hiện đúng quy định kiểm soát NK
trong công tác khám, chữa bệnh.
+ Tuyên truyền, huấn luyện, nghiên cứu khoa học và chỉ đạo tuyến
dưới về kiểm soát NK.
+ Quản lý, giám sát các hoạt động khử khuẩn, tiệt khuẩn, giặt là, cung
cấp dụng cụ vô khuẩn, hóa chất sát khuẩn, khử khuẩn, đồ vải và vật tư tiêu
hao phục vụ công tác kiểm soát NK trong toàn BV.
+ Theo dõi, đánh giá, báo cáo phơi nhiễm và tai nạn rủi ro nghề nghiệp
liên quan đến tác nhân vi sinh vật của thầy thuốc, nhân viên y tế.
+ Tham gia cùng khoa vi sinh, khoa dược và các khoa lâm sàng theo
dõi vi khuẩn kháng thuốc và sử dụng kháng sinh hợp lý.
+ Phối hợp với các khoa, phòng/ban, các thành viên mạng lưới kiểm
soát NK phát hiện, giải quyết các vấn đề liên quan tới công tác kiểm soát NK.
- Phương thức hoạt động: Khoa/Tổ kiểm soát NK làm đầu mối tổ chức
thực hiện công tác kiểm soát NK trong bệnh viện; chủ động tổ chức thực hiện
các chủ trương, đường lối, chỉ đạo về kiểm soát NK do Hội đồng/Ban kiểm soát
NK đề xuất được Giám đốc bệnh viện phê duyệt; thực hiện giám sát sự tuân thủ
nguyên tắc phòng và kiểm soát NK, giám sát phát hiện ca bệnh, tổ chức hệ thống
báo cáo phơi nhiễm và thực hiện các dự phòng phơi nhiễm nghề nghiệp.
16
1.5.4. Mạng lưới kiểm soát nhiễm khuẩn
- Tổ chức: gồm đại diện các khoa lâm sàng và cận lâm sàng; mỗi khoa
cử ít nhất 1 bác sĩ hoặc 1 điều dưỡng, tham gia mạng lưới kiểm soát NK hoạt
động dưới sự chỉ đạo chuyên môn của Khoa /Tổ kiểm soát NK. Các thành
viên thường xuyên được huấn luyện cập nhật chuyên môn về kiểm soát NK.
- Nhiệm vụ: tham gia, phối hợp tổ chức thực hiện công tác kiểm soát NK
tại bệnh viện, tham gia kiểm tra, giám sát, đôn đốc các thầy thuốc, nhân viên tại
bệnh viện thực hiện các quy định, quy trình chuyên môn liên quan đến kiểm soát
nhiễm khuẩn.
Điều kiện bảo đảm công tác kiểm soát nhiễm khuẩn
+ Cơ sở hạ tầng bệnh viện:
- Được thiết kế và trang bị cơ sở vật chất để bảo đảm yêu cầu kiểm soát
NK. Khi xây mới hoặc sửa chữa cải tạo có sự tham gia tư vấn của khoa hoặc
cán bộ làm công tác kiểm soát NK.
- Có bộ phận (đơn vị) khử khuẩn - tiệt khuẩn tập trung đạt tiêu chuẩn:
thiết kế một chiều; ngăn cách rõ 3 khu vực NK, sạch và vô khuẩn; dựa vào
phân hạng và phân cấp điều trị để trang bị các phương tiện xử lý dụng cụ phù
hợp như máy rửa /khử khuẩn, máy hấp ướt, máy tiệt khuẩn nhiệt độ thấp, máy
sấy khô, đóng gói dụng cụ; các phương tiện làm sạch, hóa chất, các test kiểm
tra chất lượng tiệt khuẩn; các buồng, tủ, giá kê để bảo quản dụng cụ tiệt khuẩn.
- Có nhà giặt thiết kế một chiều, đủ trang bị và phương tiện như máy
giặt, máy sấy, phương tiện là (ủi) đồ vải, xe vận chuyển đồ vải bẩn, sạch; bể
(thùng) chứa hóa chất khử khuẩn để ngâm đồ vải NK, tủ lưu giữ đồ vải; xà
phòng giặt, hóa chất khử khuẩn. Bệnh viện có thể hợp đồng với công ty có
chức năng giặt khử khuẩn đồ vải y tế để bảo đảm việc giặt và cung cấp đồ vải
đáp ứng yêu cầu phục vụ người bệnh và chuyên môn.
17
- Có cơ sở hạ tầng để bảo đảm xử lý an toàn chất thải lỏng, chất thải rắn
và chất thải khí y tế theo quy định về quản lý chất thải y tế.
- Các khoa phải có đủ buồng tắm, buồng vệ sinh, nước sạch, phương
tiện rửa cho người bệnh, người nhà và nhân viên y tế.
- Mỗi khoa phải có ít nhất 1 buồng để đồ bẩn và xử lý dụng cụ y tế.
- Buồng phẫu thuật và buồng chăm sóc đặc biệt được trang bị hệ thống
thông khí, lọc khí thích hợp, bảo đảm yêu cầu vô khuẩn.
- Khoa lâm sàng phải có ít nhất 1 buồng cách ly được trang bị các
phương tiện cách ly theo hướng dẫn của Bộ Y tế để cách ly người bệnh có
nguy cơ phát tán tác nhân gây bệnh truyền nhiễm nguy hiểm.
- Khoa lâm sàng phải có ít nhất 1 buồng thủ thuật có đủ trang thiết bị,
thiết kế đáp ứng yêu cầu kiểm soát NK: có bồn rửa tay, vòi nước, nước sạch,
xà phòng hoặc dung dịch vệ sinh tay, khăn lau tay, bàn chải chà tay, bàn làm
thủ thuật, tủ đựng dụng cụ vô khuẩn, thùng đựng chất thải.
- Phòng xét nghiệm phải bảo đảm điều kiện an toàn sinh học phù hợp
với từng cấp độ và chỉ được tiến hành xét nghiệm trong phạm vi chuyên môn
theo quy định của Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm.
- Khoa truyền nhiễm phải có đủ phương tiện phòng ngừa lây truyền
bệnh và có khoảng cách an toàn với các khoa, phòng khác và khu dân cư theo
quy định của Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm.
- Cơ sở vật chất chế biến, phân phối thực phẩm trong bệnh viện phải
được xây dựng và thiết kế theo đúng các quy định pháp luật về vệ sinh, an
toàn thực phẩm.
+ Trang thiết bị và phương tiện
- Bảo đảm các phương tiện vệ sinh môi trường đầy đủ và phù hợp:
18
+ Phương tiện vệ sinh tay: bồn rửa tay, phương tiện sát khuẩn tay, khăn
lau tay sạch dùng một lần và hóa chất vệ sinh tay.
+ Có đủ phương tiện vệ sinh chuyên dụng bảo đảm cho công việc vệ
sinh bệnh viện hiệu quả.
+ Trường hợp bệnh viện hợp đồng với công ty cung cấp dịch vụ vệ sinh
công nghiệp thì hợp đồng phải xác định rõ yêu cầu về trang thiết bị, hóa chất,
tiêu chuẩn vệ sinh, quy trình vệ sinh, đào tạo nhân viên vệ sinh theo chương
trình, tài liệu của Bộ Y tế và kiểm tra đánh giá chất lượng.
+ Có đủ phương tiện thu gom, vận chuyển, lưu giữ chất thải. Thùng, túi
lưu giữ chất thải phải bảo đảm đủ số lượng, chất lượng và đúng màu quy định.
- Khoa kiểm soát NK được trang bị các phương tiện văn phòng để phục
vụ công tác giám sát, đào tạo như máy vi tính, máy in và các phương tiện khác
phục vụ công tác kiểm tra, đánh giá chất lượng môi trường và kiểm soát NK.
- Cơ sở chế biến thực phẩm và phân phối suất ăn trong BV phải có đầy
đủ trang thiết bị và phương tiện theo đúng các quy định pháp luật về vệ sinh
an toàn thực phẩm.
+ Nhân lực chuyên trách kiểm soát nhiễm khuẩn
Bệnh viện phải bảo đảm nhân lực cho Khoa /Tổ kiểm soát NK hoạt
động. Ngoài nhân lực cho các bộ phận như khử khuẩn, tiệt khuẩn, giặt là, bộ
phận giám sát NK phải bảo đảm tối thiểu 1 nhân lực được đào tạo về kiểm
soát NK cho 150 giường bệnh.
+ Đào tạo nâng cao kiến thức, kỹ năng thực hành kiểm soát NK cho cán bộ,
nhân viên y tế:
- Cán bộ, nhân viên của Khoa /Tổ kiểm soát NK phải được đào tạo
chuyên khoa và thường xuyên cập nhật kiến thức, kỹ năng thực hành kiểm
soát NK.
19
- Cán bộ, nhân viên của bệnh viện phải được đào tạo về các quy trình
kỹ thuật chuyên môn kiểm soát NK, sử dụng đúng và thành thạo các phương
tiện phòng hộ cá nhân.
1.6. Tình hình nhiễm khuẩn bệnh viện trên thế giới và tại Việt Nam
1.6.1. Tình hình trên thế giới
Nhiễm khuẩn bệnh viện xảy ra ở khắp nơi trên thế giới, hệ thống y tế của
tất cả các nước phát triển và nước nghèo đều chịu tác động nghiêm trọng của
NKBV. Tổ chức Y tế thế giới tiến hành điều tra cắt ngang NKBV tại 55 BV của
14 nước trên thế giới đại diện cho các khu vực công bố tỉ lệ NKBV là 8,7%.
Ước tính ở bất cứ thời điểm nào cũng có hơn 1, 4 triệu người bệnh trên thế giới
mắc NKBV [9]. Chương trình kiểm soát nhiễm khuẩn được triển khai từ đầu
những năm 1980 tại hầu hết các nước đang phát triển. Nhiễm khuẩn hiện diện ở
mức độ cao trong khi nguồn lực cho công tác kiểm soát còn hạn hẹp.
Theo báo cáo của Tổ chức Y tế thế giới, tỷ lệ nhiễm khuẩn bệnh viện
trên thế giới chiếm từ 5 – 10% số người nhập viện. Tại các khoa hồi sức cấp
cứu, số này cao hơn nhiều, từ 35,2 – 44%. Bên cạnh nhiễm khuẩn bệnh viện,
tình hình bệnh dịch do các tác nhân gây bệnh đang bùng phát như HIV, lao,
H5N1, các vi sinh vật đa kháng làm cho công tác kiểm soát nhiễm khuẩn và
phòng chống bệnh dịch trở thành mối quan tâm của mọi hệ thống y tế. Hiện
nay, nhiễm khuẩn nhiễm khuẩn bệnh viện là một trong các nguyên nhân hàng
đầu đe dọa sự an toàn của người bệnh, làm tăng tỉ lệ người bệnh tử vong, tăng
biến chứng, tăng ngày nằm điều trị, tăng mức sử dụng kháng sinh, tăng sự
kháng thuốc của vi sinh vật, tăng chi phí dùng thuốc và tăng gánh nặng bệnh
tật cho cả người bệnh và hệ thống y tế. Đây là một vấn đề ngày càng được
mọi hệ thống y tế trên thế giới cũng như ở Việt Nam quan tâm.
20
NKBV gây hậu quả nặng nề cho bệnh nhân, bệnh viện và xã hội trên cả
hai phương diện: lâm sàng làm tăng thời gian nằm viện và tỉ lệ tử vong, về
kinh tế làm tăng chi phí điều trị. Theo một số nghiên cứu tại bệnh viện Bạch
Mai, số ngày nằm viện gia tăng do NK vết mổ, NK huyết và NK hô hấp lần
lượt là 11, 4 ngày, 24, 3 ngày và 7,8 ngày. Tương tự, chi phí phát sinh trung
bình tăng thêm lần lượt là 1,9 triệu đồng, 32,3 triệu đồng và 23,6 triệu
đồng [5], [6].
Ngoài ra, NKBV còn làm tăng khả năng kháng thuốc, gây khó khăn cho
điều trị. Kháng thuốc cũng chính là một trong những nguyên nhân gây tăng chí
phí, tăng ngày nằm viện và làm tăng biến chứng, tử vong ở bệnh nhân NKBV
còn làm giảm chất lượng điều trị và làm giảm uy tín của bệnh viện.
Các nhà nghiên cứu đưa ra 5 hậu quả của NKBV đối với bệnh nhân
(BN): tăng tỉ lệ mắc bệnh, tỉ lệ tử vong, ngày điều trị, chi phí điều trị và sự
kháng thuốc của vi sinh vật. Tại Mỹ, cứ 20 BN nhập viện có 1 BN mắc
NKBV. Hằng năm thế giới có khoảng 2 triệu người mắc NKBV với 90.000
người tử vong, chi phí chăm sóc tăng 4,5 tỉ đô-la. Tại Anh, mỗi năm có khảng
100.000 người mắc NKBV với trên 5000 ca tử vong, chi phí tăng thêm 1 tỉ
bảng. ở các nước đang phát triển, tình hình NKBV còn nặng nề hơn do không
đủ nguồn lực cho công tác kiểm soát NK. Tỉ lệ NKBV tại Malaysia (2001) là
13,9%. NKBV là nguyên nhân tử vong hàng đầu ở trẻ sơ sinh. Trên 50% bệnh
nhi ở Brazil và Indonesia mắc NKBV và tử vong từ 12-52%. NKBV không
chỉ gây bệnh cho BN mà còn cho cả nhân viên y tế. Dịch SARS (2003) đã làm
cho nhân viên y tế trở thành BN với tỉ lệ 20-60% tổng số trên toàn thế giới.
1.6.2. Tình hình tại Việt Nam
Từ năm 1979, BộY tế chính thức đưa quy chế chống nhiễm khuẩn vào
hệ thống quy chế của bệnh viện. Trên cơ sở đó, khoa chống nhiễm khuẩn tại
các bệnh viện được thành lập trong hệ thống tổ chức. với mục đích kiểm soát
21
nhiễm khuẩn bệnh viện có hiệu quả, đặc biệt trong việc ngăn ngừa sự trỗi dậy
của các dòng vi khuẩn kháng đa kháng sinh, trong lây chéo, trong ô nhiễm
môi trường, các bệnh viện đã thực hiện quản lý tốt, điều trị tốt và chăm sóc tốt
người bệnh. Một dấu mốc quan trọng đánh dấu sự phát triển của kiểm soát
nhiễm khuẩn là thông tư 18/2009/TT-BYT ngày 14/9/2009 do Bộ trưởng Bộ
Y tế ban hành hướng dẫn tổ chức thực hiện công tác kiểm soát nhiễm khuẩn
tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh. Kế hoạch hành động quốc gia tăng
cường công tác kiểm soát nhiễm khuẩn trong các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh
đến năm 2015 được ban hành tại quyết định số 1014 ngày 30/3/2012 của Bộ
trưởng Bộ Y tế cũng đã được triển khai thực hiện trong cả nước. Đến năm
2009, Bộ Y tế ban hành thông tư 18/2009/TT-BYTB quy định về việc thành
lập hệ thống kiểm soát nhiễm khuẩn trong bệnh viện bao gồm hội đồng kiểm
soát nhiễm khuẩn, khoa hoặc tổ kiểm soát nhiễm khuẩn trong các bệnh viện.
Sau khi thông tư này có hiệu lực, Cục Quản lý khám, chữa bệnh và các
Sở Y tế đã chỉ đạo, đôn đốc các bệnh viện tổ chức thực hiện thông tư. Tuy vậy
việc thực hiện các nội dung của Thông tư ở một số bệnh viện còn những hạn
chế.
Theo điều tra cắt ngang năm 2012 nhằm mục đích đánh giá thực trạng
công tác tổ chức, nguồn lực, và thực hành kiểm soát nhiễm khuẩn tại các bệnh
viện công lập ở cả 3 tuyến trung ương, tỉnh và huyện của Cục quản lý khám
chữa bênh cho thấy: hầu hết các bệnh viện có hội đồng kiểm soát nhiễm khuẩn,
95,6% các bệnh viện đã thành lập khoa hoặc hoặ tổ kiểm soát nhiễm khuẩn;
hơn một nửa số bệnh viện đã thành lập mạng lưới kiểm soát nhiễm khuẩn.
Hiện nay toàn quốc đã có 3 hội kiểm soát nhiễm khuẩn bệnh viện ở địa
phương, đó là hội kiểm soát nhiễm khuẩn thành phố Hà Nội, hội KSNK thành
phố Hồ Chí Minh và hội ở Thừa Thiên Huế. Các hội này hoạt động với tôn
chỉ và mục đích là đoàn kết phát triển nghề nghiệp, nhằm đảm bảo an toàn
22
cho người bệnh, cho nhân viên y tế và cộng đồng, và hiện nay các hội địa
phương đang hoạt động rất hiệu quả góp phần tăng cường công tác kiểm soát
nhiễm khuẩn tại địa phương và có nhiều đóng góp đối với công tác KSNK
quốc gia. Vì vật việc thành lập hội KSNK quốc gia cũng là yêu cầu bức thiết
nhằm thống nhất các chủ trương, đường lối phát triển nghề nghiệp và trong
tương lai sẽ tham gia hiệp hội KSNK khu vực Châu Á - Thái Bình Dương,
tiến tới trở thành thành viên của hiệp hội KSNK thế giới. đến nay, nhiều bệnh
viện trên toàn quốc đã triển khai quy chế kiểm soát nhiễm khuẩn bước đầu có
hiệu quả như bệnh viện Bạch Mai, Bệnh viện Việt- Đức, Bệnh viện Trung
ương Huế, Bệnh viện Nhi đồng 1, Bệnh viện đa khoa Tỉnh Đồng Tháp, Bệnh
viện Thanh Nhàn,…
Chương trình kiểm soát nhiễm khuẩn tại nhiều bệnh viện, đặc biệt là
các bệnh viện tuyến trung ương đã đóng góp vai trò quan trọng trong việc
triển khai các kỹ thuật mới đòi hỏi vô khuẩn cao như phẫu thuật nội soi,phẫu
thuật tim hở, phẫu thuật có cấy ghép, … kiểm soát nhiễm khuẩn đã trở thành
một chuyên ngành gắn liền với chất lượng triển khai các hoạt động chuyên
môn khác trong mỗi cơ sở khám chữa bệnh. Nhiều bệnh viện đã xây dựng
những quy định, quy trình kiểm soát nhiễm khuẩn phù hợp với điều kiện và
hoàn cảnh đơn vị.
Mặc dù đã đạt được nhiều kết quả bước đầu, công tác kiểm soát nhiễm
khuẩn tại Việt Nam còn gặp nhiều thách thức cần tập trung giải quyết trong
thời gian tới. gần đây, Bộ Y tế đã ban hành thông tư hướng dẫn triển khai
công tác kiểm soát nhiễm khuẩn trong các cơ sở khám chữa bệnh, tuy nhiên
nhiều quy định, quy trình kiểm soát nhiễm khuẩn cũng như những hướng dẫn
phòng ngừa và kiểm soát nhiễm khuẩn bệnh viện trong các lĩnh vực chuyên
môn khác nhau vẫn chưa được thiết lập. Bên cạnh đó, so với hệ thống kiểm
soát nhiễm khuẩn các nước thì Việt Nam chưa có hội đồng kiểm soát nhiễm
23
khuẩn cấp quốc gia, còn thiếu hệ thống giám sát, thông tin và báo cáo nhiễm
khuẩn bệnh viện và công tác kiểm soát nhiễm khuẩn. Hội đồng KSNK ở hầu
hết các bệnh viện chưa được xây dựng quy chế, kế hoạch hoạt động, chưa
phân công rõ ràng cho các thành viên, do vậy hoạt động của các hội đồng
chưa hiệu quả. Mạng lưới KSNK ở các bệnh viện chưa phát huy được vai trò
của mình trong việc phối hợp với các khoa KSNK thực hiện giám sát các hoạt
động KSNK tại bệnh viện. Hiện nay vần còn 15,7% các bệnh viện tuyến
huyện chưa có khoa hoặc tổ KSNK [15]. Nhân lực cho công tác kiểm soát
nhiễm khuẩn vẫn trong tình trạng vừa thiếu vừa yếu. Số nhân lực trung bình
(gồm bác sĩ, điều dưỡng, kỹ thuật viên, y công,…) cho 1 khoa kiểm soát
nhiễm khuẩn là 5,36 người/100 giường bệnh trong đó số nhân lực chuyên
môn trong 1 khoa KSNK chỉ là 2,15 người/100 giường bệnh; số nhân lực là
giám sát nhiễm khuẩn bệnh viện là 0,85 người/100 giường bệnh, trong đó cán
bộ đại học (bác sĩ, điều dưỡng, dược sĩ) là 0,37 người/100 giường bệnh [15].
Tại Việt Nam, quy chế chống NKBV lần đầu tiên được ban hành vào
năm 1997. Một trong những giám sát NKBV đầu tiên (2001) được tiến hành
trên 5396 bệnh nhân ở 11 bệnh viện đại diện toàn quốc (6 bệnh viện trung
ương, 5 bệnh viện tỉnh), phát hiện 369 bệnh nhân (6,8%) NKBV. Năm 2005,
bệnh viện Bạch Mai giám sát tại 36 BV với 7541 bệnh nhân, kết quả cho thấy
tỉ lệ NKBV là 7,8%. Các NKBV thường gặp là: hô hấp (41,9%), vết mổ
(27,5%), tiết niệu (13,1%), tiêu hóa (10,3%), da và mô mềm (4,1%), NK
huyết (1,0%), NK khác (2,0%) [4], [5], [6].
Tại một số BV ở Hà Nội như Bạch Mai, Việt Đức, Thanh Nhàn, Lao và
bệnh phổi, tỉ lệ NKBV hằng năm từ 3-7%, với 3 loại chính: nhiễm trùng hô
hấp, vết mổ và tiết niệu. Năm 2003 khi xảy ra dịch SARS tại Việt Nam, có 37
nhân viên y tế đã nhiễm bệnh. Dịch cúm A (H1N1) làm cho hàng chục nhân
viên y tế nhiễm bệnh trong bệnh viện ……