Tải bản đầy đủ (.doc) (127 trang)

luận văn thạc sỹ. Sự hình thành khu vực mậu dịch tự do Trung QUốc - ASEAN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (467.17 KB, 127 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

LƯU THỊ KIM

SỰ HÌNH THÀNH KHU MẬU DỊCH TỰ DO
ASEAN - TRUNG QUỐC
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SƯ

VINH, 2010
1


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

LƯU THỊ KIM

SỰ HÌNH THÀNH KHU MẬU DỊCH TỰ DO
ASEAN - TRUNG QUỐC
CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SƯ THẾ GIỚI
MÃ SỐ: 60.22.50
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SƯ

Người hướng dẫn khoa học:
PGS. TS. Văn Ngọc Thành

VINH, 2010
2



Lời cảm ơn
Tôi xin bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc tới tất cả các thầy, cô giáo trong
Khoa Sử - Đại học Vinh, những người đã truyền thụ và mở mang cho em
những kiến thức quan trọng và quý báu trong suốt những năm của chặng
đường Cao học.
Lời cảm ơn đặc biệt em xin gửi tới thầy giáo, PGS,TS. Văn Ngọc
Thành, người đã dành nhiều thời gian tận tình giúp đỡ, hướng dẫn cho em
những định hướng quan trọng và xác đáng, cũng như giúp đỡ cho em những
tài liệu rất cần thiết để em có thể hoàn thành tốt luận văn này.
Em xin gửi lời cảm ơn và lòng biết ơn chân thành nhất tới gia đình,
người thân, lãnh đạo và các đồng nghiệp, những người đã chia sẻ, động viên
và tạo điều kiện tốt nhất cho em trong quá trình học tập và hoàn thành luận
văn này.
Lưu Thị Kim

3


Mở Đầu
1. Lý do chọn đề tài
Trong bối cảnh xu hướng toàn cầu hóa kinh tế tiếp tục diễn ra mạnh
mẽ, với những động thái, sắc thái mới, làn sóng tự do hóa thương mại diễn ra
sôi động chưa từng thấy, trên thế giới xuất hiện một xu hướng nổi bật là liên
kết, hợp tác khu vực. Hiện nay, số khu vực mậu dịch tự do có đăng ký với Tổ
chức Thương mại thế giới (WTO) và khu vực mậu dịch tự do được thành lập
theo hiệp định tự do mậu dịch song phương là hơn 160, có hơn 90% quốc gia
thành viên của WTO đã tham gia vào một hoặc nhiều khu vực mậu dịch tự do
trên các cấp độ khác nhau [51;tr. 14 - 24]. Những hiệp định này đã góp phần
thúc đẩy sự phát triển của kinh tế khu vực cũng như toàn cầu. ASEAN - Trung
Quốc cũng nằm trong xu hướng chung này, chỉ có hòa nhập mới có thể phát

triển. Với sự gần gũi về địa lý, sự tương đồng về lịch sử văn hóa - xã hội, giao
thương đã phát triển từ xưa đến nay, quan hệ kinh tế, chính trị láng giềng hữu
nghị tốt đẹp đã tạo cơ sở vững chắc để hai bên đi đến quyết định thành lập
khu mậu dịch tự do.
Năm 2001, Thủ tướng Trung Quốc Chu Dung Cơ đã đề ra ý tưởng
thành lập Khu mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc (ACFTA), đến ngày
4/11/2002 tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN - Trung Quốc lần thứ 6, hai bên
đã chính thức ký kết Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện, mở đường
cho việc thiết lập Khu mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc (ACFTA). Đây
là một sự kiện mới mẻ, thể hiện quyết tâm chính trị của các nhà lãnh đạo
ASEAN và Trung Quốc, thể hiện bước phát triển mới của quan hệ giữa hai
bên trong thế kỷ 21. Việc thành lập Khu mậu dịch tự do ASEAN - Trung
Quốc đã làm dấy lên một cuộc chạy đua chuẩn bị ký kết hiệp định thương mại
của nhiều đối tác với ASEAN như Nhật bản, Hàn Quốc, Mỹ, Australia... Đồng
thời ACFTA ra đời còn thúc đẩy những nỗ lực tiến tới quá trình nhất thể hoá
4


Đông Á. Tình hình này đã tác động mạnh mẽ đến quan hệ quốc tế cũng như
đời sống kinh tế - xã hội của khu vực, trong đó có Việt Nam. Mối quan hệ hợp
tác giữa ASEAN và Trung Quốc cũng tạo ra những cơ hội phát triển rất lớn,
đồng thời cũng đặt hai bên trước những thách thức không nhỏ. Điều này đòi
hỏi chúng ta phải nhận thức đầy đủ về những thế mạnh, những thuận lợi cũng
như những thách thức để có thể tận dụng được thời cơ, khắc phục được những
hạn chế để phát triển. Thông qua đó điều chỉnh kết cấu ngành nghề cho phù
hợp, từ đó nâng cao sức cạnh tranh của mình trên thị trường quốc tế, có lợi
cho sự phát triển kinh tế đất nước và khu vực. Vì vậy, đánh giá những tác
động của quá trình hình thành ACFTA đối với khu vực, ASEAN, Trung Quốc
và Việt Nam, nhằm tận dụng những lợi ích do ACFTA mang lại, đồng thời tận
dụng được lợi thế địa - chính trị, địa - chiến lược, địa - kinh tế của nước ta để

Việt Nam hội nhập khu vực và quốc tế một cách hiệu quả nhất, góp phần đắc
lực vào tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là một
vấn đề hết sức có có ý nghĩa, cấp thiết đối với nước ta hiện nay, xét trên cả
phương diện lý luận cũng như cả về thực tiễn. Xuất phát từ cách tiếp cận này,
đề tài “Sự hình thành khu mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc” được lựa
chọn phần nào đáp ứng được yêu cầu thực tiễn của những vấn đề nêu trên cho
các ban, ngành quản lý nhà nước nói chung, các nhà quản lý kinh tế, doanh
nghiệp nói riêng.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trong những năm 80 của thế kỷ 20, cùng với sự phát triển nhanh chóng
trong quan hệ hợp tác kinh tế, vấn đề quan hệ hợp tác kinh tế ASEAN - Trung
Quốc được các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước quan tâm, tuy nhiên, các
công trình nghiên cứu trong thời gian này còn ít. Đến những năm 90 của thế
kỷ 20, khi quan hệ hợp tác giữa ASEAN - Trung Quốc bước vào giai đoạn
phát triển toàn diện, các công trình nghiên cứu cũng nhiều hơn về số lượng và
5


đi sâu vào nhiều lĩnh vực. Bước sang thế kỷ 21, ASEAN - Trung Quốc ký
hiệp định thành lập Khu mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc đã trở thành
mối quan tâm rộng rãi của giới nghiên cứu. Qua khảo sát các công trình
nghiên cứu đi trước, chúng tôi xin tổng kết một số xu hướng nghiên cứu chủ
yếu sau:
2.1. Quá trình đàm phán ACFTA
Sau khi ASEAN và Trung Quốc quyết định thành lập ACFTA, nhiều
nghiên cứu đã được công bố, tập trung đánh giá quá trình hình thành ACFTA
và ý nghĩa chiến lược cả về mặt kinh tế lẫn chính trị. Tiêu biểu như “Trung
Quốc với việc thành lập Khu mậu dịch tự do Trung Quốc - ASEAN” của T.S
Lê Văn Mỹ, Viện Nghiên cứu Trung Quốc; "Khu vực thương mại tự do
ASEAN - Trung quốc (ACFTA) và triển vọng hợp tác ASEAN - Trung Quốc”

của PGS. TS. Nguyễn Xuân Thắng, Bùi Trường Giang; "Khu vực mậu dịch tự
do trung Quốc - ASEAN - Quá trình hình thành, thực trạng và triển vọng” của
tác giả Nguyễn Hồng Thu; “Một số ý kiến về Khu mậu dịch tự do ASEAN Trung Quốc” của tác giả Võ Đại Lược, Nghiên cứu Trung Quốc số 6 (46) 2002; “Hiệp định khung Khu mậu dịch tự do Trung Quốc - ASEAN bước phát
triển mới của mối quan hệ Trung Quốc - ASEAN đầu thế kỷ 21” của tác giả Lê
Văn Mỹ, Nghiên cứu Trung Quốc số 5 (57) - 2004; “Người Hoa trong quan
hệ Trung Quốc – ASEAN” của tác giả Trần Khánh, Nghiên cứu Trung Quốc,
số 6 (58) - 2004… Bên cạnh đó, các công trình nghiên cứu khoa học của các
học giả nước ngoài có đề cập tới đề tài này như “Hướng tới FTA - chiến lược
và đối sách xây dựng Khu mậu dịch tự do Trung Quốc - ASEAN” do tác giả
Diệp Phổ Thanh chủ biên, cuốn sách “Khu vực mậu dịch tự do Trung Quốc ASEAN và Quảng Tây" do Cổ Thiểu Tùng chủ biên. Nhìn chung, các tác giả
đã khái quát bức tranh toàn cảnh về quá trình hình thành ACFTA, đồng thời
nêu lên ý nghĩa chiến lược của việc hình thành Khu mậu dịch tự do ASEAN 6


Trung Quốc với các nước thành viên. Theo các tác giả, việc thành lập ACFTA
có ý nghĩa kinh tế và chiến lược quan trọng, tạo ra hiệu quả thúc đẩy quan hệ
quan hệ kinh tế, thương mại hai bên, thúc đẩy có hiệu quả quan hệ kinh tế,
thương mại song phương phát triển.
2.2. Tác động của ACFTA đối với các thành viên
Tháng 10 năm 2001, nhóm chuyên gia hợp tác kinh tế ASEAN - Trung
Quốc đã đưa ra báo cáo nghiên cứu với tiêu đề “Thắt chặt quan hệ kinh tế
Trung Quốc - ASEAN trong thế kỷ 21”, đây là văn kiện mạng tính lịch sử có ý
nghĩa quan trọng và ảnh hưởng lớn tới quan hệ Trung Quốc - ASEAN trong
thế kỷ mới. Báo cáo chia thành 2 phần, phần báo cáo chính và báo cáo từng
nước thành viên ASEAN, nghiên cứu về ảnh hưởng của việc Trung Quốc gia
nhập WTO và tính khả thi của việc xây dựng Khu mậu dịch tự do ASEAN Trung Quốc. Báo cáo cho rằng, việc xây dựng Khu mậu dịch tự do là kết quả
hai bên cùng thắng.
Cũng chủ đề này, cuốn sách “Lợi ích của Trung Quốc trong việc xây
dựng Khu mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc” của tác giả Thái Văn Long,
Nghiên cứu Trung Quốc số 6 (58) - 2004; “Khu vực mậu dịch tự do ASEAN Trung Quốc: Quá trình hình thành và triển vọng” của TS. Hồ Châu – TS.

Nguyễn Hoàng Giáp – TS. Nguyễn Thị Quế đồng chủ biên cũng trình bày
khái quát sự hình thành, phát triển của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN Trung Quốc, tác động của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc đến
khu vực, đồng thời đề cập tới lợi ích của ASEAN và Trung Quốc trong việc
hình thành Khu mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc.
Việc nghiên cứu, khảo sát sự hình thành và tác động của ACFTA cũng
bắt đầu được đề cập trong một số công trình, bài viết trên các tạp chí chuyên
ngành như "Một số ý kiến về ACFTA" của PGS. TSKH Võ Đại Lược; “Bước
đầu tìm hiểu về Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc” (Nghiên cứu
7


Trung Quốc, số 6/2002) của Đỗ Tiến Sâm; "Về ý tưởng liên kết kinh tế Đông
Á" (đăng trên Tạp chí châu Á - Thái Bình Dương, số 39/2002) của PGS. TS
Lê Văn Sang; "Sự tiến triển trong quan hệ ASEAN - Trung Quốc" (Tạp chí
Nghiên cứu châu Âu số 2/2004); của TSKH. Trần Khánh Vân; "Sự phát triển
quan hệ Trung Quốc - ASEAN tác động đến quan hệ quốc tế ở khu vực châu
Á - Thái Bình Dương" (Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 1- 2005) của
Nguyễn Hoàng Giáp… Trong các tác phẩm này, tác giả nêu lên đánh giá bước
đầu về tác động của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc đối với
các nước thành viên, tác giả cho rằng, sau khi ACFTA thành lập sẽ ảnh hưởng
tới cả sự phát triển của Trung Quốc và Việt Nam, thậm chí toàn thế giới. Tình
hình nghiên cứu về quá trình thành lập ACFTA và tác động của nó đối với sự
phát triển kinh tế - xã hội Trung Quốc, ASEAN và khu vực có thể rút ra một
số nhận xét sau:
Thứ nhất, đã có nhiều nghiên cứu về vấn đề ACFTA, song, kết quả
nghiên cứu của các công trình của các tác giả đi trước chỉ giới thiệu khái quát
về quá trình hình thành ACFTA, các bước phát triển, một số thành tựu bước
đầu khi thành lập đến nay.
Thứ hai, một số công trình bước đầu đánh giá về tác động của việc
thành lập ACFTA đối với sự phát triển kinh tế - xã hội Trung Quốc, ASEAN

và khu vực, song đó chỉ mới là khía cạnh trong nhiều khía cạnh được đề cập
tới trong công trình, chưa có công trình nào nghiên cứu, hệ thống cơ sở hình
thành, tiến trình đàm phán và tác động của ACFTA đối với các nước thành
viên như vấn đề “Sự hình thành Khu mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc”.
Bởi vậy, nghiên cứu đề tài này, chúng tôi hy vọng có những đóng góp trên hai
khía cạnh khoa học và thực tiễn.
3. Đối tượng và mục đích nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
8


Đối tượng nghiên cứu của luận văn là “Sự ra đời của Khu mậu dịch tự
do ASEAN - Trung Quốc”, trong đó đi sâu nghiên cứu cơ sở hình thành, nội
dung Hiệp định khung về hợp tác toàn diện ASEAN - Trung Quốc và tác động
của nó đối với sự phát triển kinh tế xã hội các nước thành viên.
3.2. Mục đích nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu về sự hình thành Khu vực mậu dịch tự
do ASEAN - Trung Quốc và tác động của nó đối với sự phát triển toàn diện 2
bên. Cụ thể tìm hiểu về cơ sở hình thành Khu mậu dịch tự do ASEAN - Trung
Quốc, cũng như thực chất tiến trình đàm phán và nội dung của ACFTA, đến
quá trình triển khai kế hoạch thiết lập khu mậu dịch tự do, chương trình thu
hoạch sớm, phân tích các tác động của nó đối với sự phát triển hai bên và nêu
ra một số giải pháp đối với Việt Nam.
4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tài liệu
Các nguồn tài liệu sử dụng trong luận văn chủ yếu gồm tài liệu gốc của
các hội nghị cấp cao ASEAN +1; các công trình của các tác giả đi trước như:
sách đã xuất bản, các bài tạp chí tiếng Việt đăng trên các tạp chí Nghiên cứu
Trung Quốc, Tạp chí Quốc tế, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, Tạp chí
Thương mại, Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới; các kỷ yếu hội thảo liên

quan, bản tin của Thông tấn xã Việt Nam, các bài viết, thông tin từ mạng
Internet, từ trang Web của Ban thư ký ASEAN, các đề tài cấp bộ, cấp viện
của Viện nghiên cứu Trung Quốc
Số liệu thống kê chủ yếu lấy từ số liệu thống kê của Ban thư ký
ASEAN về hợp tác thương mại, đầu tư Trung Quốc - ASEAN và một số
nguồn thống kê có liên quan khác.
4.2. Phương pháp nghiên cứu

9


Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong luận văn là phương pháp
lịch sử và logic. Ngoài ra do yêu cầu của đề tài cần phải sưu tầm, chọn lọc và
sử dụng các loại tư liệu khác nhau nên phương pháp thống kê, tổng hợp, phân
tích và so sánh cũng được sử dụng.
5. Đóng góp của luận văn
- Cung cấp cho người đọc một cách có hệ thống về cơ sở hình thành
Khu mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc
- Trình bày diễn biến quá trình đàm phán đi đến ký kết hiệp định thành
lập Khu mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc, Nội dung, và các hợp tác triển
khai kế hoạch ACFTA.
- Phân tích những tác động tích cực, tiêu cực đối với sự phát triển kinh
tế xã hội hai bên và một số giải pháp giúp Việt Nam phát huy được tối đa yếu
tố tích cực, hạn chế yếu tố tiêu cực.
- Bổ sung thêm nguồn tư liệu nghiên cứu về Khu mậu dịch tự do ASEAN Trung Quốc tại Việt Nam.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần dẫn luận, tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương:
CHƯƠNG 1: Cơ sở hình thành Khu mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc
CHƯƠNG 2: Tiến trình đàm phán thành lập, nội dung và ý nghĩa của ACFTA
CHƯƠNG 3: Tác động của ACFTA đối với sự phát triển kinh tế xã hội các

nước thành viên

10


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ HÌNH THÀNH KHU MẬU DỊCH TỰ DO
ASEAN - TRUNG QUỐC
1.1. Những điểm tương đồng giữa Trung Quốc và ASEAN
1.1.1. Về điều kiện tự nhiên, văn hóa, xã hội
ASEAN và Trung Quốc là những nước láng giềng có cùng đường biên
giới dài hàng ngàn km, có điều kiện địa lý rất thuận lợi. Trung Quốc giáp với
rất nhiều nước ASEAN như Việt Nam, Lào, Myanma và rất gần với những
nước láng giềng còn lại như Brunây, Singapore, Philipin…, tỉnh Vân Nam
Trung Quốc là tỉnh nối liền Trung Quốc và ASEAN, tỉnh Quảng Tây là cửa
ngõ giữa Trung Quốc và nhiều nước ASEAN. Vị trí địa lý gần kề là ưu thế
thuận lợi cho giao thông, liên lạc, trao đổi hàng hóa giữa khu vực ASEAN và
Trung Quốc. Đặc biệt, sau khi tuyến đường sắt xuyên Á Xingapo - Côn Minh
(Trung Quốc) hình thành và đi vào hoạt động, sẽ góp phần giảm chi phí vận
chuyển người và hàng hóa, góp phần làm cho mối quan hệ buôn bán, đầu tư
và du lịch giữa hai bên sẽ ngày càng sôi động và tăng cường thêm.
Do là những nước láng giềng nên ASEAN và Trung Quốc có nhiều
điểm tương đồng về tập quán, văn hóa xã hội. Các nước này hầu hết đi lên từ
nền văn minh nông nghiệp lúa nước, thuộc vùng văn hóa Nho giáo, vốn có
mối quan hệ ảnh hưởng lẫn nhau từ lâu, có những tập quán thói quen giống
nhau, từ đó sẽ dẫn đến một số điểm tương đồng về thói quen tiêu dùng và thị
hiếu của người dân. Bên cạnh đó, quan hệ chính trị của hai bên cũng đã hình
thành từ lâu, hai bên đã thiết lập được quan hệ bình đẳng, hợp tác tin tưởng
lẫn nhau, đó là cơ sở thuận lợi để hai bên phát triển hợp tác kinh tế.
1.1.2. Về kinh tế thương mại

Hầu hết các nước ASEAN và Trung Quốc đều là những nước có nền
kinh tế đang phát triển, đều đã và đang xây dựng, phát triển nền kinh tế thị
11


trường, đều có mục tiêu coi trọng xây dựng kinh tế, cố gắng tránh những ảnh
hưởng tiêu cực của toàn cầu hóa kinh tế. Nền kinh tế hai bên có nhiều điểm
tương đồng, hai bên đều có nhu cầu và lợi ích chung như ủng hộ lẫn nhau về
phát triển kinh tế độc lập, hợp tác phát triển cùng có lợi. Mặt khác, hai bên
cũng đang phải đối mặt với những thời cơ và thách thức chung trước những
biến đổi nhanh chóng của thế giới
Về cơ cấu kinh tế của hai bên đều phát triển chưa cân đối, một số ngành
kinh tế đều có sự phát triển tương đương nhau. Những đặc điểm giống nhau
của hai bên tuy không phải lúc nào cũng là yếu tố thuận lợi cho hợp tác kinh
tế hai bên song nền kinh tế ASEAN - Trung Quốc hiện có sự bổ sung cho
nhau tương đối rõ rệt như những lĩnh vực nông nghiệp, dịch vụ, khoa học kỹ
thuật, khai thác tài nguyên… ví dụ trong lĩnh vực nông nghiệp, Trung Quốc
có lợi thế về một số mặt hàng rau quả… trong khi các nước ASEAN lại có lợi
thế về lúa gạo, ngũ cốc; Trung Quốc có nhiều loại máy móc nông nghiệp hiện
đại vốn đang rất thiếu ở các nước ASEAN. Về tài nguyên thiên nhiên, trong
khi Trung Quốc đang ngày càng khan hiếm tài nguyên sau một quá trình tăng
trưởng kinh tế cao thì những nước ASEAN vốn là những nước giàu tài
nguyên. Một số nước ASEAN chưa đủ năng lực tận dụng có hiệu quả những
nguồn tài nguyên về thủy năng, mỏ khoáng sản… thì Trung Quốc lại có đầy
đủ máy móc công nghệ, kinh nghiệm khai thác tài nguyên. Hay trong lĩnh vực
công nghiệp, Trung Quốc có một cơ sở công nghiệp hoàn chỉnh, thống nhất có
thể bổ sung cho các nước ASEAN.
Về hợp tác quốc tế, Trung Quốc và ASEAN đều là thành viên của
APEC, do đó quan hệ hợp tác hai bên có nhiều điểm thuận lợi để phát triển
hơn nữa vì hai bên có những điểm giống nhau về các vấn đề lớn như: mục

tiêu, tính chất và cách thức vận hành của APEC. Trung Quốc và ASEAN đã
hiệp thương điều hoà với nhau về nhiều vấn đề để có lập trường thống nhất về
12


những vấn đề quan trọng liên quan đến lợi ích chung của các nước đang phát
triển trong chương trình tự do hoá mậu dịch đầu tư và hợp tác kinh tế APEC.
Ngoài ra, Trung Quốc và một số nước ASEAN đều tham gia vào hợp
tác kinh tế phát triển Tiểu vùng sông Mêkông mở rộng và chương trình hợp
tác ASEAN phát triển lưu vực sông Mêkông nên nhờ đó không những các
nước trong Tiểu vùng có điều kiện thuận lợi để tăng khả năng giao thương,
thu hút đầu tư từ nước ngoài mà còn có thể hợp tác khai thác sử dụng tài
nguyên của dòng sông một cách có hiệu quả nhất.
Những đặc điểm tương đồng và bổ sung trên là nhân tố rất thuận lợi
thúc đẩy hợp tác kinh tế giữa hai bên mà không phải một khu vực mậu dịch tự
do nào cũng có được. Thành lập một khu mậu dịch tự do chung sẽ mang lại
cho cả hai bên nhiều cơ hội tận dụng những nhân tố thuận lợi, không gian
kinh tế lớn, cùng bổ sung hợp tác với nhau để cùng phát triển.
1.1.3. Về chính trị ngoại giao và an ninh
Các nước ASEAN và Trung Quốc vốn có truyền thống hữu nghị lâu
đời, đặc biệt, chiến tranh lạnh kết thúc kéo theo sự thay đổi quan trọng không
chỉ trong cục diện quan hệ quốc tế trên phạm vi toàn cầu mà ở cả các khu vực.
Đông Nam Á vốn là khu vực bị chia rẽ giữa hai chiến tuyến theo ý thức hệ
trong gần suốt thời kỳ chiến tranh lạnh, từ đầu những năm 1990 bắt đầu quá
trình tái tạo cục diện mới cùng với việc kết thúc cuộc chiến ở Campuchia,
bình thường hóa quan hệ Việt - Mỹ, Việt - Trung và sự xích lại gần nhau giữa
các nước Đông Dương với 6 nước thành viên ASEAN cũ, đặc biệt là từ khi
Việt Nam, Lào và Campuchia lần lượt trở thành thành viên ASEAN. Cũng kể
từ đó, quan hệ ASEAN - Trung Quốc bước sang một chương mới, đặc trưng
bởi sự phát triển rất nhanh và khá toàn diện của các mối quan hệ hợp tác cả

trên phương diện song phương (giữa từng nước thành viên ASEAN với Trung
Quốc) lẫn trên phương diện đa phương (giữa khối ASEAN với Trung Quốc
13


trong các khuôn khổ hợp tác ASEAN và ASEAN với các đối tác bên ngoài).
Từ đó góp phần mở đường hoặc khai thông cho quan hệ kinh tế và các quan
hệ khác giữa hai bên phát triển toàn diện.
Đặc biệt, từ sau cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á xảy ra năm
1997 xu thế liên kết khu vực có phần phát triển. Sau cuộc khủng hoảng này,
quá trình tự do hoá và toàn cầu hoá được đẩy lên một nấc mới. Đã đến lúc thế
giới chứng kiến một sự kiện kinh tế dù xảy ra ở một nước đang phát triển
cũng có thể ảnh hưởng đến những nền kinh tế phát triển khác và ngược lại.
Đây là một cuộc khủng hoảng mang tính chất toàn khu vực, và hơn nữa
nó không chỉ dừng lại ở phạm vi trong khu vực mà còn mang tính chất toàn
cầu. Nó đã cho thấy rằng sự ổn định và an toàn về kinh tế - xã hội đang và sẽ
ngày càng trở thành lợi ích chung của tất cả các nước trên thế giới. Các nước
cần phải có sự chuẩn bị thích đáng cho quá trình này, cần phải huy động, kết
hợp sức mạnh của quốc gia với sức mạnh quốc tế, cần có sự hợp lực, sự liên
kết của nhiều quốc gia chứ không thể giải quyết bằng nỗ lực của một quốc gia
riêng lẻ nào.
Cuộc khủng hoảng đã làm cho các nước, đặc biệt là các nước Đông
Nam Á và Đông Á, phải xem xét lại chính sách phát triển kinh tế của mình, từ
đó phải điều chỉnh chiến lược kinh tế. Từ bài học của khủng hoảng, cả Trung
Quốc và ASEAN đều nhận thấy tính cấp thiết hơn bao giờ hết sự quan trọng
của sự hợp tác để huy động sức mạnh của các nước trong khu vực cùng giải
quyết những vấn đề chung, bảo đảm ổn định và an toàn cho nền kinh tế các
nước thành viên nói riêng và kinh tế khu vực nói chung.
Nhờ sự cố gắng của các nhà lãnh đạo 2 bên, quan hệ giữa ASEAN và
Trung Quốc sau cuộc khủng hoảng tiền tệ châu Á phát triển nhanh chóng,

niềm tin chính trị song phương đươc nâng lên rõ rệt, sự giao lưu về kinh tế gia
tăng tạo điều kiện cho các lĩnh vực hợp tác khác không ngừng được mở rộng,
14


thúc đẩy sự thịnh vượng của các nước ASEAN và khu vực Đại Tây Nam
Trung Quốc [23;tr. 30 - 38]. Cũng sau cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ
khu vực 1997, ASEAN càng đánh giá cao vai trò của Trung Quốc (thể hiện
qua các động thái “phối hợp” của Trung Quốc trước yêu cầu phục hồi kinh tế
sau khủng hoảng của ASEAN) đối với triển vọng hợp tác và phát triển của
mình.
Tuy giữa một số nước ASEAN và Trung Quốc vẫn còn tồn tại một số
bất đồng về biên giới lãnh thổ, trong đó có vấn đề chủ quyền biển Đông,
nhưng tại cuộc gặp gỡ ở Phnômpênh vào tháng 11 năm 2002, lãnh đạo cấp
cao hai bên đã ký tuyên bố về hành vi ứng xử của các bên ở biển Đông, nhằm
tiến tới xây dựng bộ quy tắc ứng xử ở biển Đông, mở đường cho một giải
pháp cơ bản, lâu dài đối với các tranh chấp ở biển Đông. Ngoài ra hai bên đã
thông qua tuyên bố chung ASEAN - Trung Quốc về hợp tác trong lĩnh vực an
ninh phi truyền thống. Những văn kiện trên đánh dấu sự tín nhiệm về chính trị
- an ninh giữa ASEAN và Trung Quốc đã phát triển tới một nấc thang mới,
tạo cơ sở và điều kiện đảm bảo quan trọng cho việc thành lập khu mậu dich tự
do nói riêng và cho việc bảo vệ hòa bình ổn định ở khu vực nói chung.
1.2. Không gian địa lý
1.2.1. Vị trí của ASEAN trong nền kinh tế của Trung Quốc
ASEAN được thành lập năm 1967, lúc đầu mới chỉ 5 nước, đến nay
gồm 10 nước trong khu vực Đông Nam Á. Là một tổ chức các nước vừa và
nhỏ ở khu vực Đông Nam Á có vị trí địa lý gần gũi với Trung Quốc. Đông
Nam Á có vị trí hết sức quan trọng, trấn giữ vị trí huyết mạch trên tuyến
đường vận chuyển biển của Trung Quốc với nước ngoài, cộng với nguồn tài
nguyên thiên nhiên vô cùng phong phú, ASEAN có vai trò quan trọng trong

quá trình phát triển kinh tế của Trung Quốc.

15


Các nước ASEAN có vị trí chiến lược quan trọng nằm ở phía đông
Nam lục địa châu Á - Âu, tiếp giáp giữa Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương,
nằm trên con đường hàng hải huyết mạnh nối liền châu Á với châu Âu bởi có
eo biển Malacca, do vậy, ASEAN giữ vai trò quan trọng trong quân sự và
thương mại cũng như trong phát triển kinh tế, trao đổi và hợp tác thương mại
với nhiều nước, đặc biệt với Trung Quốc. Theo thống kê, 1/3 khối lượng hàng
hóa và dầu thô trên thế giới phải vận chuyển qua eo biển này. Theo ước tính,
có khoảng 60% số tàu của Trung Quốc trong tổng số tàu đi qua eo biển
Malacca một ngày [18; tr. 26 - 35].
Mặt khác, ASEAN là nơi có nguồn năng lượng dồi dào, có thể đáp ứng
được nhu cầu của Trung Quốc trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và phát triển kinh tế. Với tư cách là những nước láng giềng, có vị trí chiến
lược, các nước ASEAN là nơi cung cấp năng lượng quan trọng của Trung
Quốc và là những đối tác hợp tác quan trọng trong thị trường năng lượng
quốc tế nên những nước này chiếm vị trí hết sức quan trọng trong chiến lược
năng lượng của Trung Quốc. Hiện nay Việt Nam, là nước sản xuất than lần
thứ 3 và là nước xuất khẩu than lớn thứ 2 của thế giới, Inđônêxia là nước sản
xuất than lớn nhất Đông Nam Á, cũng là nước xuất khẩu than lớn thứ 3 thế
giới sau Trung Quốc và Ôxtrâylia, là nước sản xuất khí đốt tự nhiên thứ 6 thế
giới và là nước xuất khẩu khí đốt hóa lỏng lớn nhất thế giới, Brunây là nước
sản xuất khí đốt hóa lỏng lớn thứ tư thế giới. Đông Nam Á cũng là nguồn
nhập khẩu dầu thô quan trọng của Trung Quốc, hiện Trung Quốc nhập khẩu
15% lượng dầu thô từ các nước Đông Nam Á, trước đây Trung Quốc nhập
khẩu dầu thô lớn nhất từ Inđônêxia, và những năm gần đây, Việt Nam lại
thành nước xuất khẩu dầu thô lớn nhất Đông Nam Á cho Trung Quốc và lớn

thứ 6 thế giới. Ngoài dầu thô, Trung Quốc còn tăng cường nhập khẩu khí đốt
tự nhiên và than đá của các nước Đông Nam Á. Hiện nay, Việt Nam là thị
16


trường nhập khẩu than đá chủ yếu của Trung Quốc ở Đông Nam Á, năm
2005, Việt Nam đã xuất khẩu sang Trung Quốc 9 triệu tấn than, Inđônêxia
cam kết trong vòng 25 năm tới sẽ cung cấp cho Trung Quốc 2,6 triệu tấn khí
đốt hóa lỏng mỗi năm [2; tr. 3].
ASEAN là vùng đất nhiệt đới gió mùa, có vị trí chiến lược vô cùng
quan trọng, đã từng là địa bàn giành giật ảnh hưởng giữa các cường quốc.
ASEAN là một khu vực sản xuất và tiêu thụ lớn, nguồn tài nguyên thiên nhiên
phong phú, với nhiều thảm động, thực vật vô cùng phong phú đa dạng, nhiều
mặt hàng vô cùng cần thiết cho việc cung cấp nguyên liệu thô cho Trung
Quốc như: cao su, thiếc, đay, chè, gạo… Đặc biệt, trong điều kiện nguồn tài
nguyên ngày càng khan hiếm, đất trồng trọt bình quân theo đầu người thấp,
chỉ bằng 50% của thế giới, cộng thêm tốc độ phát triển nhanh chóng như hiện
nay, Trung Quốc cần rất nhiều hàng hóa sơ cấp của ASEAN. Vì vậy việc thắt
chặt hơn nữa quan hệ ASEAN và Trung Quốc sẽ khiến cho nhiều quốc gia
được hưởng lợi, trong đó những nước được hưởng lợi nhiều nhất là những
nước giàu tài nguyên thiên nhiên có thể giúp Trung Quốc giải quyết được vấn
đề nguyên liệu cho công cuộc phát triển kinh tế. Hiện nay, Trung Quốc là
nước tiêu thụ hàng đầu dầu thực vật của Malaysia, cao su của Thái Lan, gỗ
tếch của Myanma, đồng của Philipin và bột giấy của Inđônêxia [11; tr. 7].
Vì vậy, việc xây dựng ACFTA có lợi cho việc Trung Quốc gia tăng các
quan hệ chính trị, ngoại giao, kinh tế mậu dịch với ASEAN, có lợi cho việc đa
dạng hóa thị trường nhập khẩu, mở rộng không gian phát triển kinh tế của
Trung Quốc, đặc biệt thúc đẩy kinh tế các tỉnh phía Nam Trung Quốc phát
triển. Đồng thời, họ có điều kiện cải thiện môi trường chính trị, thúc đẩy giải
quyết tranh chấp chủ quyền biển Đông, đối phó với hoạt động của chức tội

phạm xuyên quốc gia, đặc biệt là tổ chức buôn bán ma túy quốc tế, mở rộng
ảnh hưởng của Trung Quốc trong khu vực.
17


1.2.2. Vị trí của Trung Quốc trong nền kinh tế các nước ASEAN.
Trung Quốc là một nước láng giềng khổng lồ nằm ở phía Bắc các nước
Đông Nam Á, từ lâu trong lịch sử các nước này đã có mối liên hệ qua lại thân
thiết với nhau, giao thương giữa các nước Đông Nam Á và Trung Quốc đã
diễn ra rất sôi động từ xa xưa. Tuy nhiên, chưa bao giờ Trung Quốc đặt các
nước này vào vị trí ưu tiên trong chính sách đối ngoại của mình. Từ khi thực
hiện chính sách mở cửa năm 1978, Trung Quốc mới bắt đầu chủ động thiết
lập mối quan hệ với các nước ASEAN, tuy chưa nhiều nhưng mối quan hệ hai
bên đã trở nên nồng ấm hơn. Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, thế giới có
nhiều biến đổi sâu sắc, chiến tranh thế giới bị đẩy lùi, hòa bình và hợp tác là
xu thế chủ đạo của thời đại, các nước trên thế giới đều ưu tiên cho việc phát
triển kinh tế và nâng cao sức mạnh kinh tế của mình. Trong bối cảnh đó Trung
Quốc cũng điều chỉnh chiến lược, tập trung vào phát triển kinh tế và đạt được
những thành tựu rực rỡ. Từ cuối những năm 90 của thế kỷ 20, đặc biệt những
năm đầu thế kỷ 21, Trung Quốc phát triển mạnh mẽ, thu hút sự chú ý của toàn
thế giới, nhiều dự báo cho rằng thế kỷ 21 là thế kỷ của Trung Quốc, và Trung
Quốc đã trở thành "công xưởng của thế giới”. Để tập trung phát triển kinh tế,
Trung Quốc đã điều chỉnh chính sách đối ngoại, rất coi trọng môi trường xung
quanh ổn định, do vậy rất chú trọng chính sách đối ngoại với các nước
ASEAN. Ngoài ra, việc thắt chặt quan hệ với các nước ASEAN để dần đẩy lùi
ảnh hưởng của Mỹ tới các nước ASEAN là một việc rất cần thiết để đập tan
chính sách kiềm chế ngăn chặn Trung Quốc của Mỹ.
Sự lớn mạnh nhanh chóng và sự phát triển như vũ bão của nền kinh tế
Trung Quốc, cùng với thị trường khổng lồ hơn 1,3 tỷ người tiêu dùng, tạo ra
sức hấp dẫn lớn đối với các nước ASEAN. Có thể nói, Trung Quốc là thị

trường xuất khẩu đầy tiềm năng đối với các nước ASEAN, nhất là sau khi nền
kinh tế Mỹ, Nhật - thị trường chính của ASEAN bị suy thoái thì Trung Quốc
18


trở thành thị trường đầy hứa hẹn. Đặc biệt, nền kinh tế của các nước ASEAN
chủ yếu dựa vào tài nguyên và xuất khẩu hàng hóa sơ cấp. ASEAN đã xuất
khẩu một khối lượng hàng hóa lớn vào thị trường Trung Quốc. Hiện nay, khi
nền kinh tế Trung Quốc phát triển nhanh chóng, nguồn tài nguyên tính theo
đầu người thấp, ASEAN sẽ xuất khẩu sang Trung Quốc một khối lượng hàng
hóa lớn như cao su, đường, gỗ, dầu cọ, gạo, dầu thô, sợi..., năm 2002 Trung
Quốc nhập khẩu từ các nước ASEAN 18,708 tỷ USD, tăng 23,4% so với cùng
kỳ năm 2001, kim ngạch mậu dịch 2 chiều Trung Quốc - ASEAN đã vượt hơn
4 tỷ USD của năm 2001, chiếm 8% tổng ngoại thương của Trung Quốc [9; tr.
30]. Những năm gần đây, mặt hàng điện tử của các nước ASEAN cũng đã
thâm nhập được vào thị trường Trung Quốc, đánh dấu bước ngoặt quan trọng
trong xuất khẩu các mặt hàng điện tử sang thị trường Trung Quốc, tuy nhiên
những mặt hàng sơ chế vẫn là một ưu thế nổi trội của các nước ASEAN,
chiếm 1/5 tổng kim ngạch xuất khẩu. Trung Quốc là bạn hàng lớn thứ 6 của
ASEAN, là nước xuất khẩu một lượng hàng hóa đáng kể vào thị trường
ASEAN, các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Trung Quốc sang ASEAN là
máy móc, đồ chơi, dệt, hóa chất... Song ASEAN được thiên nhiên ưu đãi cho
nguồn tài nguyên phong phú và trữ lượng lớn, nên các nước này có nhiều ưu
thế hơn Trung Quốc. Đặc biệt, các sản phẩm nhiệt đới của ASEAN được thị
trường Trung Quốc ưa dùng, vì vậy khi thị trường Mỹ, Nhật có xu hướng
giảm sút thì Trung Quốc là thị trường mới nổi, giàu tiềm năng và gần gũi hơn
với các nước ASEAN. Trong quá trình công nghiệp hóa và phát triển kinh tế,
Trung Quốc là nguồn cung cấp các mặt hàng chế tạo giúp ASEAN thực hiện
quá trình công nghiệp hóa và phát triển kinh tế. Điều này góp phần ổn định
kinh tế, xã hội các nước ASEAN.

Trung Quốc là một quốc gia đông dân với tiềm năng thị trường to lớn
sẽ là nơi để các nước ASEAN tiến hành mở rộng hợp tác đầu tư tìm kiếm lợi
19


nhuận. Đặc biệt, sau khi đầu tư nước ngoài vào Đông Nam Á bị giảm sút do
cuộc khủng hoảng tiền tệ năm 1997 - 1998. Sự phát triển nền của nền kinh tế
Trung Quốc đã tạo cơ hội kinh doanh và đầu tư cho nhiều nước, nhất là đối
với những nước gần gũi vị trí địa lý như ASEAN. Nền kinh tế Trung Quốc
luôn giữ nhịp độ tăng trưởng 8 - 9 % liên tục trong hai thập kỷ cuối của thế kỷ
20, dẫn tới nhu cầu đầu tư sản xuất và tiêu dùng của cư dân tăng lên không
ngừng, với những lợi thế về lao động giá rẽ, Trung Quốc trở thành địa chỉ hấp
dẫn của các nhà đầu tư quốc tế, trong đó có các nhà đầu tư của các nước
ASEAN. Cùng với sự phát triển bền vững của nền kinh tế, cuộc sống của hơn
1,3 tỷ dân này đang ngày càng thay đổi, được cải thiện về chất, cơ cấu tiêu
dùng thay đổi theo hướng ngày càng tiên tiến, có thể dự đoán, Trung Quốc sẽ
thành một thị trường tiềm năng to lớn, tạo cơ hội cho các nước ASEAN tăng
cường đầu tư vào thị trường này [18; tr. 28].
Mặt khác, sự phát triển của nội lực bên trong của các nước ASEAN đòi
hỏi trao đổi thương mại gia tăng, phải mở rộng thị trường tiêu thụ. Hợp tác
với Trung Quốc hy vọng xuất khẩu nhiều vào thị trường Trung Quốc, do thị
trường này vẫn tiếp tục phát triển nhanh, tiềm năng thâm nhập vào thị trường
này còn rất lớn. Thông qua quan hệ thương mại, đầu tư hai bên gia tăng để tận
dụng cơ hội thương mại gia tăng. Hơn nữa, cuộc khủng hoảng tài chính 1997
- 1998 cho thấy những điểm yếu trong cơ cấu của từng nước thành viên
ASEAN cũng như những hạn chế của tổ chức ASEAN trong việc gìn giữ ổn
định kinh tế trong khu vực. Các nước ASEAN thấy rằng chỉ có hợp tác với
Trung Quốc mới thoát khoải tình trạng khó khăn và duy trì được sự phát triển
về sau [51;tr. 14 - 24].
1.3. Bối cảnh lịch sử

1.3.1. Xu thế toàn cầu hóa, khu vực hóa và xu hướng hình thành các hiệp
định thương mại tự do (FTA) trên thế giới
20


1.3.1.1. Xu thế toàn cầu hóa
Xuất hiện như một tất yếu khách quan trong quá trình phát triển lực
lượng sản xuất vật chất của xã hội loài người, toàn cầu hóa kinh tế là xu thế
lịch sử, tác động toàn diện đến mọi mặt của sự phát triển xã hội. Toàn cầu hóa
dựa trên sự bùng nổ các thành tựu khoa học, kỹ thuật - công nghệ mới không
chỉ tiếp sức cho nền kinh tế nhiều nước phát triển nhanh chóng mà còn đẩy
nhanh phân công lao động quốc tế. Tự do hóa kinh tế và phát triển kinh tế thị
trường trên diễn ra phổ biến trên toàn cầu, các nền kinh tế dựa dẫm vào nhau,
phụ thuộc nhau giữa các nước gia tăng.
Toàn cầu hóa là mối quan hệ kinh tế vượt qua biên giới quốc gia, khu
vực để vươn tới quy mô toàn thế giới. Nó bao hàm nhất thể hóa về thị trường,
vốn, sức lao động, dịch vụ, công nghệ và các quy định pháp chế kinh tế giữa
các nước trên thế giới. Toàn cầu hóa kinh tế là cơ sở và động lực thúc đẩy
toàn cầu hóa trên nhiều lĩnh vực. Là một xu thế khách quan, quá trình toàn
cầu hóa hiện đang lôi kéo các nước tích cực tham gia với nhiều cấp độ và nội
dung khác nhau như hội nhập khu vực và quốc tế, hội nhập kinh tế, hội nhập
văn hóa…
Quá trình toàn cầu hóa hiện nay diễn ra với các đặc điểm cơ bản sau:
- Cách mạng khoa học công nghệ, cách mạng sinh học, cách mạng tin
học là động lực thúc đẩy mạnh mẽ quá trình toàn cầu hóa kinh tế.
- Kinh tế thị trường phát triển với nhiều hình thức dẫn đến sự tăng
cường tự do hóa kinh tế và xu hướng vừa hợp tác vừa cạnh tranh.
- Quan hệ kinh tế không chỉ giới hạn trong từng lĩnh vực thương mại,
xuất khẩu mà ngày càng mở rộng trên tất cả mọi lĩnh vực.
Do vậy, xu thế toàn cầu hóa đang được thúc đẩy diễn ra mạnh mẽ, nó bị

chi phối bởi:

21


Thứ nhất, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật phát triển nhanh chóng
trên rất nhiều lĩnh vực như: công nghệ thông tin, sinh vật, kỹ thuật năng lượng
không ngừng đạt được bước đột phá, đồng thời được áp dụng vào sản xuất.
Do sự phân công hóa, lợi thế của các nước khác nhau, về mặt khách quan đòi
hỏi tăng cường hợp tác kinh tế kỹ thuật trên phạm vi toàn cầu. Mặt khác, sự
tiến bộ của khoa học công nghệ tạo tiền đề cho nền kinh tế tri thức, trong thế
kỷ 21 nền kinh tế tri thức đóng vai trò chủ đạo, chi phối sự phát triển của xã
hội. Ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ sẽ giảm chi phí sản xuất, vận
chuyển hàng hóa, tạo điều kiện cho mạng lưới sản xuất, phân công và phân
phối lao động trên toàn cầu, vốn lưu động và các công ty xuyên quốc gia hoạt
động sôi nổi là xu thế tất yếu. Toàn cầu hóa kinh tế đã thúc đẩy hợp tác hóa
quốc tế và khu vực hóa. Toàn cầu hóa kinh tế đem đến cơ hội thuận lợi cho sự
phát triển kinh tế của các khu vực, trên thế giới dần dần hình thành các khu
vực kinh tế, mở đầu là châu Âu với cộng đồng chung châu Âu, nay là Liên
minh châu Âu (EU), tiếp theo là nhất thể hóa khu vực thương mại tự do Bắc
Mỹ, thứ 3 là nhất thể hóa khu vực châu Á - Thái Bình Dương, với hạt nhân là
tổ chức Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC).
Thứ hai, sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, những nhân tố gây trở ngại
cho hợp tác kinh tế giữa các nước không còn nữa. Hơn nữa, các nước tư bản
phát triển hàng đầu như một số nước chủ chốt trong EU và Nhật Bản cũng
đang thúc đẩy xu thế toàn cầu hoá vân động theo hướng tự do hoá tư bản.
Thứ ba, do các nước như Trung Quốc, Liên Xô cũ, các nước Đông Âu
và rất nhiều nước đang phát triển đang tiến hành thúc đẩy nền kinh tế thị
trường, các chướng ngại cản trở hợp tác kinh tế toàn cầu được dỡ bỏ.
Thứ tư, nhiều vấn đề lớn xuất hiện, một nước riêng lẻ không thể giải

quyết mà nó đòi hỏi phải có sự hợp tác quốc tế rộng rãi mới có thể giải quyết
được. Một lực lượng quan trọng thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa đó là các
22


công ty xuyên quốc gia, các công ty này đã xâm nhập vào mọi ngành nghề ở
mọi quốc gia và khu vực trên toàn thế giới thông qua các công ty con, các
công ty này kiểm soát một lượng hàng hóa, lượng đầu tư khổng lồ trên toàn
cầu.
Có thể nói rằng, toàn cầu hóa kinh tế thế giới đồng nghĩa với sự mở
rộng của thương mại, đầu tư, dịch vụ, chuyển dịch lao động giữa các khu vực
trên thế giới. Việc mở rộng thương mại bao gồm thương mại hàng hóa vô
hình, dịch vụ và bản quyền. Cùng với chúng là sự chuyển dịch lao động và cả
các quan niệm giá trị, lối sống đã tác động, làm biến đổi văn hóa của các dân
tộc. Do đó, nói tới toàn cầu hóa phải nói tới sự chuyển biến của toàn cầu hóa
kinh tế và hội nhập quốc tế, sự hình thành các khu vực mậu dịch tự do.
Toàn cầu hoá luôn gắn liền với khu vực hoá kinh tế thế giới, khu vực
hoá là một bộ phận tổ thành của toàn cầu hoá. Xu hướng của khu vực hoá là
từng bước phá vỡ tính hạn hẹp để vươn rộng hơn trong không gian toàn cầu.
Khu vực hoá biểu hiện ban đầu rõ nhất là sự hình thành thị trường tự do toàn
khu vực với mức thuế quan thống nhất, do vậy các nước thành viên vẫn có thể
duy trì chế độ bảo hộ tập thể đối với hàng hoá dịch vụ được cung ứng từ bên
ngoài khu vực trong một thời gian nhất định. Đồng thời thông qua cạnh tranh
nội bộ khu vực, các nước thành viên có thể xác định các điểm lợi thế và bất
lợi cho nền kinh tế nước mình. Để từ đó tái cơ cấu toàn bộ nền kinh tế theo
hướng tối ưu hoá trong phân công nội bộ khu vực đang dựa trên việc phát huy
lợi thế so sánh, tiến tới việc tự do hoá việc di chuyển vốn, lao động, chuyển
dao công nghệ và sử dụng đồng tiền chung cho khu vực
Từ sự phân tích cho thấy, dưới tác động của quá trình toàn cầu hóa kinh
tế, xu hướng hợp tác, liên kết kinh tế phát triển mạnh mẽ trên nhiều cấp độ,

tạo điều kiện cho các nước, nhất là các nước đang phát triển có cơ hội để tiếp
cận các dòng vốn, công nghệ, kỹ năng và kinh nghiệm quản lý, mở rộng thị
23


trường. Các nền kinh tế đang phát triển và kinh tế chuyển đổi do đó sẽ có cơ
hội để phát triển các mô thức rút ngắn, nghĩa là thông qua hội nhập quốc tế để
đi tắt đón đầu, tiến tới những bước phát triển cao hơn trên cơ sở thừa hưởng
và tận dụng có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài và khai thông, kết nối nguồn
lực bên trong.
1.3.1.2.Khu vực hóa
Sự kết thúc của cuộc chiến tranh lạnh đã làm thay đổi cả cơ sở lợi ích
và tính chất cơ cấu của các mối quan hệ quốc tế, hòa bình và phát triển trở
thành chủ đề chính của thời đại, toàn cầu hóa và nhất thể hóa kinh tế khu vực
đã trở thành hai trào lưu phát triển nổi bật của thế giới, các khu vực mậu dịch
tự do, mang tính khu vực, liên khu vực, liên châu lục hay song phương, được
coi là công cụ chính sách kinh tế chủ đạo của ngày càng nhiều quốc gia nhằm
điều chỉnh và đối phó với sức ép cạnh tranh và hội nhập của môi trường toàn
cầu hóa kinh tế ngày nay. Hiện nay, trên thế giới xuất hiện nhiều khu vực kinh
tế điển hình như: EU, Khu mậu dịch tự do ở bắc Mỹ, ở châu Á, Phi, châu Đại
Dương, đồng thời có rất nhiều tổ chức nhất thể hóa kinh tế khu vực được
thành lập. Sự đa dạng về cấp độ và mang tính thể chế ngày càng cao tiếp tục
ra đời. Sự đa dạng về cấp độ phát triển, sự khác biệt về các đặc điểm địa kinh tế, địa - chính trị cùng với những ảnh hưởng về các đặc điểm lịch sử, văn
hóa đã và đang làm cho các hình thức liên kết kinh tế trở nên phong phú đa
dạng.
Sự phát triển nhanh chóng của các khu vực mậu dịch tự do trên thế giới
là một biểu hiện quan trọng nhất của quá trình nhất thể hóa kinh tế khu vực.
Khu vực mậu dịch tự do là hình thức thấp nhất của tiến trình hội nhập kinh tế
quốc tế. Ở hình thức này, các nền kinh tế thành viên tiến hành giảm và loại bỏ
dần hàng rào thuế quan, các hạn chế định lượng và các biện pháp phi thuế

quan trong thương mại nội khối. Tuy nhiên, họ vẫn độc lập thực hiện chính
24


sách thuế quan đối với các đối tác ngoài khối. Ví dụ về cấp độ này có thể kể
đến như NAFTA, AFTA và cấp độ phát triển cao hơn được gọi là "Thị trường
chung" - là hình thức liên kết thuế quan cộng thêm việc bãi bõ các hạn chế đối
với việc lưu chuyển của các yếu tố sản xuất khác. Trong khuôn khổ thị trường
chung, không những hàng hoá dịch vụ mà hầu hết các nguồn lực khác như
vốn, kỹ thuật, công nghệ, nhân công đều được tự do lưu chuyển giữa các
thành viên ví như Liên minh châu Âu (EU)
Việc thành lập các khu mậu dịch tự do dựa trên các hiệp định thương
mại tự do được ký kết giữa các bên có liên quan, giữa hai nước hay nhiều
nước thông qua các biện pháp dỡ bỏ thuế quan và các biện pháp hạn chế về
thương mại khác xuất hiện ngày càng nhiều. Trong những năm gần đây, nội
dung FTA có sự thay đổi, không chỉ bao gồm tự do hóa về thương mại hàng
hóa mà còn cam kết hợp tác trong nhiều lĩnh vực như dịch vụ, đầu tư… Hiện
nay, trên thế giới có hơn 160 khu mậu dịch tự do, 90% thành viên Tổ chức
thương mại thế giới WTO đều tham gia vào một hay nhiều khu vực mậu dịch
tự do hoặc các thỏa thuận thương mại [51;tr. 14 - 24]. Việc giảm thuế các loại
hàng hóa giữa các nước, các khu vực khiến thị trường thương mại, dịch vụ
ngày càng sôi động, thị trường ngày càng được mở rộng, môi trường đầu tư
ngày càng thuận lợi.
Hiện nay, trên thế giới các tổ chức kinh tế khu vực diễn ra dưới năm
cấp độ khác nhau:
Thứ nhất, sự liên kết khu vực để xây dựng khu mậu dịch tự do trên cơ
sở nhiều yếu tố đồng nhất, ví dụ: NAFTA gồm Mỹ, Canađa và Mêhicô, có
hiệu lực trong vòng 14 năm từ năm 1994 đến năm 2008. NAFTA nhằm xóa
bỏ quan thuế và giảm hàng rào phi quan thuế giữa ba nước có nhiều nét tương
đồng này. Từ đó thúc đẩy thương mại hàng hoá dịch vụ tạo điều kiện cho đầu

tư nước ngoài (FDI) và thiết lập cơ chế giải quyết tranh chấp có hiệu lực. Đây
25


×