Tải bản đầy đủ (.doc) (135 trang)

QUẢN LÝ TÒA ÁN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY QUA THỰC TIỄN TỈNH THANH HÓA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (473.77 KB, 135 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRỊNH HUY ANH

QUẢN LÝ TÒA ÁN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
QUA THỰC TIỄN TỈNH THANH HÓA

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2018


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRỊNH HUY ANH

QUẢN LÝ TÒA ÁN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
QUA THỰC TIỄN TỈNH THANH HÓA
Chuyên ngành : Luật Hiến pháp - Hành chính
Mã số : 83 80 101.02
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. ĐẶNG MINH TUẤN

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào


khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật - Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Trịnh Huy Anh


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới giảng viên PGS.TS. Đặng Minh Tuấn
đã dành nhiều thời gian và tâm huyết hướng dẫn nghiên cứu và giúp tôi hoàn
thành Luận văn này.
Tôi cũng xin bày tỏ sự kính trọng và lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy
cô giảng viên của khoa Luật thuộc Đại học quốc gia Hà Nội và các thầy cô
cộng tác viên giảng dạy tại Khoa - những người đã tận tình dìu dắt và truyền
đạt những kiến thức khoa học pháp lý bổ ích cho tôi trong suốt khoá học.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng hoàn thiện Luận văn bằng tất cả sự nhiệt
tình và năng lực của mình, tuy nhiên không thể tránh khỏi những thiếu sót, rất
mong nhận được sự góp ý chân thành của thầy cô.
Học viên

Trịnh Huy Anh


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


Tòa án nhân dân

TAND

Tòa án nhân dân Tối cao

TANDTC

Hội thẩm nhân dân

HTND

Cải cách tư pháp

CCTP

Tòa án quân sự

TAQS


MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT......................................................................3
DANH MỤC HÌNH ẢNH.......................................................................................6
MỞ ĐẦU..................................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài................................................................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài...........................................................................................................3
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu.................................................................................................4
3.1. Mục tiêu nghiên cứu...............................................................................................................4
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu..............................................................................................................4

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.................................................................................................4
4.1. Đối tượng nghiên cứu.............................................................................................................4
4.2. Phạm vi nghiên cứu................................................................................................................5
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu..........................................................................5
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn..................................................................................6
7. Cấu trúc của luận văn.....................................................................................................................7

Chương 1..................................................................................................................7
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ TÒA ÁN Ở VIỆT NAM..................................7
1.1. Khái niệm quản lý tòa án............................................................................................................7
1.2. Nội dung quản lý tòa án............................................................................................................12
1.2.1. Về quản lý nguồn nhân lực và chế độ, chính sách đối với Thẩm phán............................12
1.2.2. Về việc thiết lập mô hình tổ chức khoa học, hợp lý bảo đảm cho Tòa án độc lập..........21
1.2.3. Về bảo đảm các điều kiện cơ sở vật chất phục vụ hoạt động của Tòa án........................30
1.2.4. Về hệ thống quản lý nội bộ của Tòa án.............................................................................33
1.3. Mối quan hệ giữa quản lý tòa án với nguyên tắc độc lập của Tòa án.....................................35
1.3.1. Nguyên tắc độc lập của Tòa án..........................................................................................35
1.3.2. Mối quan hệ giữa quản lý tòa án với nguyên tắc độc lập của Tòa án..............................39
1.4. Các yếu tố tác động đến quản lý Tòa án...................................................................................47
1.4.1. Các quy định pháp luật liên quan đến hoạt động quản lý tòa án....................................47
1.4.2. Tình hình chính trị - xã hội của đất nước..........................................................................48
1.4.3. Năng lực đội ngũ cán bộ công chức của Toà án................................................................49
1.4.4. Sự phối hợp của chính quyền, của người dân..................................................................50


1.4.5. Yếu tố truyền thông...........................................................................................................51
1.5. Lịch sử quản lý Tòa án ở nước ta..............................................................................................52

Kết luận chương 1..................................................................................................55
Chương 2................................................................................................................56

THỰC TRẠNG QUẢN LÝ TÒA ÁN QUA THỰC TIỄN TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH THANH HÓA.............................................................................................56
2.1. Khái quát cơ cấu tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân tỉnh Thanh Hoá.......................56
2.2. Kết quả công tác quản lý ở Toà án nhân dân tỉnh Thanh Hóa.................................................62
2.2.1. Ưu điểm.............................................................................................................................64
2.2.2. Hạn chế..............................................................................................................................77
2.3. Nguyên nhân hạn chế...............................................................................................................82

Kết luận chương 2..................................................................................................92
Chương 3:............................................................................................................... 94
QUAN ĐIỂM VÀ CÁC GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI QUẢN LÝ TÒA ÁN...............94
3.1. Quan điểm về nâng cao về hiệu quả quản lý Tòa án...............................................................94
3.1.1. Quan điểm về đổi mới quản lý Tòa án nhân dân nhằm đảm bảo tính độc lập trong thực
hiện quyền tư pháp của tòa án...................................................................................................94
3.1.2. Quan điểm về đổi mới quản lý Tòa án đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp......................95
3.1.3. Quan điểm kế thừa từ các mô hình quản lý toà án trong lịch sử quản lý Tòa án ở Việt
Nam..............................................................................................................................................97
3.2. Các giải pháp nâng cao chất lượng công tác quản lý ở TAND tỉnh Thanh Hóa.......................99
3.2.1. Các giải pháp chung...........................................................................................................99
3.2.2. Các giải pháp cụ thể.........................................................................................................106

Kết luận chương 3................................................................................................120
KẾT LUẬN..........................................................................................................121
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................124


DANH MỤC HÌNH ẢNH
Sơ đồ 2.1. Tổ chức Toà án nhân dân tỉnh Thanh Hóa.........................................62



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Ngay sau khi Cánh mạng Tháng Tám thành công, Tòa án là một trong
những cơ quan Nhà nước được hình thành sớm nhất xuất phát từ nhu cầu
chống thù trong, giặc ngoài, bảo vệ thành quả cách mạng, củng cố và xây
dựng chính quyền nhân dân. Trước khi Hiến pháp năm 1946 được thông qua,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 33C-SL ngày 13/9/1945 thành lập hệ
thống Tòa án ở nước ta. Với chức năng nhân danh Nhà nước tiến hành các
hoạt động xét xử nhằm mục tiêu bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quá
trình phát triển của hệ thống Tòa án đã gắn liền với quá trình hoàn thiện và
củng cố nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, hiện nay là Nhà nước cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hoạt động xét xử của Tòa án - trung tâm của
hoạt động tư pháp, nơi thể hiện nền công lý, sự đối xử công bằng trong tất cả
các mối quan hệ - là một trong những hoạt động biểu hiện tập trung, cụ thể
nhất của thực thi quyền lực tư pháp đã được Hiến pháp năm 2013 quy định.
Trong suốt chặng đường 73 năm xây dựng và phát triển, vượt lên muôn
vàn khó khăn, thử thách, các thế hệ cán bộ Tòa án đã đoàn kết một lòng, đồng
tâm hiệp lực hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và Nhân dân
tin tưởng giao phó. Công tác xây dựng, đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa
án luôn được Đảng, Nhà nước và các thế hệ lãnh đạo Tòa án nhân dân tối cao
qua các thời kỳ quan tâm, chú trọng. Trong quá trình đổi mới cơ chế quản lý
Nhà nước, sắp xếp lại bộ máy qua các thời kỳ, hệ thống Toà án nhân dân cũng
từng bước được thay đổi cho phù hợp với tình hình kinh tế, xã hội như: Từ
chế độ Thẩm phán bầu sang chế độ Thẩm phán bổ nhiệm, từ chỗ Chủ tịch
Nước bổ nhiệm Thẩm phán từ cấp huyện đến Thẩm phán tối cao thì nay việc
bổ nhiệm Thẩm phán cấp tỉnh và cấp huyện do Chánh án Toà án nhân dân tối
cao thực hiện; từ việc Toà án nhân dân tối cao thống nhất quản lý các Toà án

1



địa phương sang việc quản lý Toà án địa phương do Bộ Tư pháp đảm nhiệm
và hiện nay lại giao cho Toà án nhân dân tối cao quản lý Toà án địa phương về
mặt tổ chức; một số Toà án chuyên trách cũng được thành lập như Toà kinh tế,
Toà hành chính và Toà lao động ở Toà án nhân dân tối cao và các Toà án cấp
tỉnh.v.v.
Hiện nay, Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 cũng đang được
thực hiện và có tác động mạnh mẽ tới quá trình xây dựng pháp luật và cải
cách thể chế. Chiến lược cải cách tư pháp đã xác định “Tòa án có vị trí trung
tâm, xét xử là hoạt động trọng tâm”. Các hoạt động cải cách tư pháp được
thực hiện xoay quanh trục trung tâm là tổ chức và hoạt động của hệ thống Toà
án. Các hoạt động cải cách, hoàn thiện đối với Viện kiểm sát, cơ quan điều tra
và các cơ quan bổ trợ tư pháp đều phải dựa trên những cải cách và thực tiễn tổ
chức, hoạt động của Toà án.
Vấn đề quản lý toà án là một vấn đề then chốt của việc tổ chức lại bộ
máy, cơ chế hoạt động của hệ thống Toà án. Thực tiễn ở Việt Nam từ năm
1945 trở lại đây cho thấy cơ chế, cách thức quản lý Tòa án về tổ chức có sự
thay đổi qua các giai đoạn lịch sử cụ thể, phụ thuộc vào yêu cầu chính trị, tổ
chức bộ máy nhà nước. Tuy nhiên, thực tiễn quản lý cho thấy các mô hình này
đều chưa thật thành công và phù hợp với điều kiện của Việt Nam. Cơ chế
quản lý Tòa án hiện nay đã làm cho Tòa án nhân dân trở thành một cơ quan
hành chính như các Bộ, cơ quan ngang Bộ thuộc hệ thống cơ quan hành pháp
hiện nay. Chánh án TANDTC phải thực hiện công tác quản lý tất cả đội ngũ
cán bộ thuộc biên chế của Tòa án nhân dân các cấp, thường xuyên thực hiện
các chính sách cán bộ như đề bạt, nâng lương, thi đua, khen thưởng, kỷ luật,...
quản lý cơ sở vật chất của ngành Tòa án từ Trung ương đến địa phương, điều
này một mặt làm cho Chánh án TANDTC không còn thời gian để tập trung
vào việc thực hiện nhiệm vụ chính là công tác xét xử và hướng dẫn áp dụng


2


thống nhất pháp luật, ảnh hưởng đến chất lượng xét xử của các cấp Tòa án và
trong nội bộ Tòa án.
Mô hình quản lý Toà án cần phải được tổ chức thích hợp để bảo đảm
hiệu quả của hoạt động xét xử, nhất là khi Toà án đang nỗ lực xây dựng hình
ảnh là một thiết chế được người dân, doanh nghiệp tin cậy trong giải quyết
tranh chấp. Đồng thời, vấn đề quản lý Toà án cũng cần phải được nghiên cứu
để thúc đẩy quyền tư pháp trong mối quan hệ “phân công, kiểm soát và phối
hợp” với các quyền lập pháp và quyền hành pháp.
Với những lý do nêu trên, học viên đã chọn đề tài: "Quản lý Tòa án ở
Việt Nam hiện nay - qua thực tiễn tỉnh Thanh Hóa" để làm luận văn thạc sỹ
chuyên ngành luật hiến pháp - hành chính. Đây là vấn đề có tính thời sự, cần
thiết và cấp bách.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Liên quan đến vấn đề đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nói
chung hay quản lý Tòa án nói riêng, trong thời gian qua ở nước ta đã có khá
nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này. Một số công trình có thể kể như:
Báo cáo khảo sát về “Thực trạng quản lý hành chính Toà án nhân dân địa
phương ở Việt Nam” năm 2012 do Văn phòng luật sư NHQuang & Cộng sự
thực hiện trong khuôn khổ của Dự án 00058492 “Tăng cường tiếp cận công lý
và bảo vệ quyền tại Việt Nam”; Luận văn “Đổi mới tổ chức và hoạt động của
tòa án nhân dân trong tiến trình cải cách tư pháp” của Phan Đức Phương,
Khoa Luật - Đại học quốc gia Hà Nội, 2007; Các luận án tiến sĩ: “Đổi mới tổ
chức và hoạt động của cơ quan tư pháp theo hướng xây dựng Nhà nước pháp
quyền Việt Nam” của Trần Huy Liệu, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2003;
“Đổi mới tổ chức và hoạt động của TAND ở nước ta trong giai đoạn hiện
nay” của Lê Thành Dương, Viện nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật, Hà Nội,

2002.

3


Những công trình nghiên cứu kể trên đã cung cấp một khối lượng kiến
thức, thông tin lớn về đề tài. Đây là nguồn tài liệu tham khảo quý báu cho học
viên thực hiện luận văn này. Mặc dù vậy, hầu hết các công trình nghiên cứu đã
nêu đều chưa cập nhật những đổi mới trong pháp luật và thực tiễn về công tác
quản lý Tòa án trong thời gian gần đây. Thêm vào đó, chưa có công trình nào
đề cập riêng về thực trạng công tác quản lý Tòa án ở TAND tỉnh Thanh Hóa.
Vì vậy, luận văn này vẫn cần thiết và có giá trị về lý luận và thực tiễn.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu

Mục tiêu của luận văn là phân tích thực trạng công tác quản lý Tòa án
trong thực tiễn hoạt động quản lý của TAND tỉnh Thanh Hóa, từ đó rút ra
những bài học kinh nghiệm và đề xuất những giải pháp đổi mới, hoàn thiện cơ
chế quản lý Tòa án ở nước ta đáp ứng các yêu cầu về xây dựng nhà nước pháp
quyền và hội nhập quốc tế.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục tiêu trên, các nhiệm vụ của luận văn là:
- Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về công tác quản
lý Tòa án ở nước ta.
- Khảo sát, phân tích thực trạng quản lý Tòa án trong thực tiễn hoạt
động quản lý của TAND tỉnh Thanh Hóa trong những năm trở lại đây, chỉ ra
những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân.
- Đề xuất các quan điểm, giải pháp nhằm đổi mới và hoàn thiện cơ chế
quản lý Tòa án ở nước ta đáp ứng các yêu cầu về xây dựng nhà nước pháp

quyền và hội nhập quốc tế từ thực tiễn công tác quản lý của TAND tỉnh Thanh
Hoá.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu

4


Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các vấn đề về mô hình và cơ chế
quản lý Tòa án từ thực tiễn hoạt động quản lý của TAND tỉnh Thanh Hóa.
4.2. Phạm vi nghiên cứu

Về nội dung, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận, pháp lý
và thực tiễn liên quan đến cơ chế quản lý Tòa án về mặt tổ chức trong thực
tiễn hoạt động quản lý của TAND, không đi sâu nghiên cứu các vấn đề khác
về quản lý Tòa án.
Về không gian, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu thực trạng công tác quản
lý Tòa án trong thực tiễn hoạt động quản lý của TAND tỉnh Thanh Hóa,
không mở rộng đến các cấp toà án khác ở Thanh Hoá cũng như đến TAND ở
các địa phương khác.
Về thời gian, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu thực trạng công tác quản
lý Tòa án trong thực tiễn hoạt động quản lý của TAND tỉnh Thanh Hóa trong
những năm trở lại đây.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

Luận văn vận dụng các phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật
lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của
Đảng, Nhà nước Việt Nam về tổ chức và hoạt động của TAND. Tác giả đồng
thời vận dụng một số lý thuyết về pháp quyền, kiểm soát quyền lực, độc lập
tư pháp và nhân quyền để làm cơ sở cho việc phân tích, giải quyết các câu hỏi

nghiên cứu của đề tài.
Luận văn kết hợp sử dụng các phương pháp nghiên cứu phổ biến của
khoa học xã hội để giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra. Cụ thể:
- Các phương pháp tổng hợp, phân tích các công trình nghiên cứu hiện
có và các tài liệu khác để làm sáng tỏ những vấn đề lý luận, pháp lý liên quan
đến quản lý Tòa án trong thực tiễn quản lý của TAND ở nước ta hiện nay (ở
Chương I).

5


- Các phương pháp tổng hợp, thống kê, phân tích, so sánh các tài liệu,
báo cáo chuyên môn của TAND Tối cao, TAND tỉnh Thanh Hoá và phương
pháp quan sát thực tế để đánh giá thực trạng công tác quản lý Tòa án trong
thực tiễn hoạt động quản lý của TAND tỉnh Thanh Hóa trong những năm trở
lại đây (ở Chương II).
- Các phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh để đề xuất các quan
điểm, giải pháp nhằm đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lý Tòa án ở nước ta
đáp ứng các yêu cầu về xây dựng nhà nước pháp quyền và hội nhập quốc tế từ
thực tiễn hoạt động quản lý của TAND tỉnh Thanh Hoá (ở Chương III).
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn

Luận văn là công trình nghiên cứu đầu tiên về cơ chế quản lý của
TAND được thực hiện ở tỉnh Thanh Hoá từ trước tới nay. Luận văn cũng là
một trong số không nhiều công trình nghiên cứu chuyên sâu và toàn diện từ
thực tiễn cơ sở về chủ đề này đã được thực hiện ở nước ta. Vì vậy, luận văn
cung cấp những kiến thức, thông tin, luận điểm và đề xuất mới có giá trị tham
khảo với việc nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý Tòa án ở tỉnh Thanh Hoá
và hoàn thiện cơ chế quản lý Tòa án ở nước ta trong thời gian tới.
Luận văn cũng góp phần làm sáng tỏ tầm quan trọng của độc lập xét xử

trong quá trình cải cách tư pháp, đổi mới, sắp xếp lại hệ thống Tòa án theo
thẩm quyền xét xử, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam. Qua đó đưa ra phương hướng hoàn thiện các quy định của Hiến pháp và
pháp luật về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân ở Việt Nam theo quan
điểm khoa học, hiện đại, đảm bảo tính độc lập tư pháp.
Bên cạnh đó, luận văn có thể được sử dụng là nguồn tài liệu tham khảo
cho việc giảng dạy, nghiên cứu chuyên ngành luật hiến pháp và luật hành
chính ở Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội và các cơ sở đào tạo khác của
nước ta.

6


7. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn gồm 3 chương:
- Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý Tòa án ở Việt Nam
- Chương 2: Thực trạng quản lý Tòa án qua thực tiễn Tòa án nhân dân
tỉnh Thanh Hóa.
- Chương 3: Quan điểm và các giải pháp đổi mới quản lý Tòa án.

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ TÒA ÁN Ở VIỆT NAM
1.1. Khái niệm quản lý tòa án

7


Khái niệm “quản lý tòa án” là khái niệm thường xuyên được sử dụng

trong các văn bản pháp luật cũng như có đề cập khá phổ biến trong các báo
cáo nội bộ của ngành Tòa án. Trên thực tế, còn một số khái niệm khác có liên
quan được sử dụng với những nội hàm đan xen khác nhau về quản lý tòa án
như “quản trị tòa án”, “quản lý về mặt tổ chức của toà án”, “quản lý các tòa
án địa phương” hoặc “hành chính tư pháp”...
Theo định nghĩa của Hiệp hội Quốc gia Quản lý Tòa án của Hoa Kỳ
(CORE), quản lý tòa án (Court Administration) và quản trị tòa án (Court
Governance) có nội hàm tương tự nhau về mặt nội dung, là tạo ra khuôn khổ
theo đó Tòa án hoạt động, quản lý hàng ngày các hoạt động và xây dựng các
chiến lược dài hạn. Theo tổ chức này, quản trị đặt ra các kế hoạch, sự chỉ đạo,
lãnh đạo và các chiến lược cho tổ chức (Tòa án) và chỉ tập trung vào “bức
tranh lớn”, bao gồm các hoạt động cơ bản như lập kế hoạch, xây dựng các
chiến lược, kế hoạch của Tòa án; thiết lập cơ cấu tổ chức của Tòa án; quyết
định các quy định về quản lý quy trình xét xử và xử lý công việc nội bộ; quyết
định các chính sách nhân sự đối với toàn bộ các nhân viên tòa án; xây dựng
đề xuất và phân bổ ngân sách; quyết định các thỏa thuận hợp đồng với các
nhà cung cấp, nhà thầu và nhà cung cấp dịch vụ bên ngoài [22].
Trong thuật ngữ tiếng Anh, cụm từ “Court Administration” được sử
dụng thường xuyên hơn so với cụm từ “Court Governance” còn trong ngôn
ngữ tiếng Việt, quản lý tòa án được sử dụng thường xuyên và chính thức hơn
so với những khái niệm như “quản trị tòa án”, “quản lý về mặt tổ chức của
toà án”, “quản lý các tòa án địa phương” hoặc “hành chính tư pháp”.
Theo quy định tại Luật Tổ chức TAND 2014 thì việc quản lý Tòa án là
nhiệm vụ của TANDTC quản lý các TAND về mặt tổ chức [4, Điều 18,
Khoản 5 Điều 20].

8


Mặt khác, theo TS. Nguyễn Đức Khuê, Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư

pháp thì “Quản lý về mặt tổ chức của Toà án” là một hình thức quản lý Nhà
nước có nội dung là việc xây dựng các điều kiện cần thiết để hình thành, vận
hành các cơ quan xét xử và để đảm bảo việc thực hiện nguyên tắc “Thẩm
phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Các điều kiện cần thiết
này chính là con người, tổ chức, trụ sở, kinh phí, phương tiện hoạt động cho
các Toà án mà những cơ quan chức năng của Nhà nước phải bảo đảm [26].
“Quản lý các Tòa án địa phương” là việc TANDTC quản lý về mặt tổ
chức đối với các Tòa án địa phương (các Tòa án cấp tỉnh và cấp huyện) gồm
các hoạt động sau: Quyết định luân chuyển, điều động, biệt phái Thẩm phán,
trừ Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; Quyết định việc tổ chức Tòa chuyên
trách theo quy định; quy định cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của các
đơn vị thuộc bộ máy giúp việc của Tòa án nhân dân theo quy định; Quyết
định phân bổ biên chế, số lượng Thẩm phán, ngân sách chi cho hoạt động của
các Tòa án nhân dân; Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các chức danh Phó
Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Chánh
án và Phó Chánh án Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc
tỉnh và tương đương; Trình Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức
Thẩm phán các Tòa án khác; Trình Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định
thành lập, giải thể Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương; Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương
đương; Tổ chức kiểm tra việc thực hiện biên chế, quản lý cán bộ, quản lý và
sử dụng ngân sách, cơ sở vật chất của Tòa án nhân dân; Tổ chức công tác đào
tạo; bồi dưỡng Thẩm phán, Hội thẩm và các chức danh khác của Tòa án nhân
dân” [4, Điều 27].
“Hành chính tư pháp” trong hoạt động Tòa án chưa được quy định cụ
thể tại một văn bản pháp quy nào. Một số nghị quyết đề cập đến công tác

9



hành chính trong hoạt động tư pháp thì đặt ra yêu cầu “tạo điều kiện thuận lợi
cho người dân tiếp cận công lý…” và “phân định rõ thẩm quyền quản lý hành
chính với trách nhiệm, quyền hạn tư pháp trong hoạt động tố tụng tư pháp
theo hướng tăng quyền và trách nhiệm cho Điều tra viên, Kiểm sát viên và
Thẩm phán để họ chủ động trong thực thi nhiệm vụ, nâng cao tính độc lập và
chịu trách nhiệm trước pháp luật về các hành vi và quyết định tố tụng của
mình…” [21].
Theo Nguyên Chánh án TANDTC Trương Hoà Bình, “thủ tục hành
chính tư pháp trong hoạt động của Tòa án được hiểu là các quy trình, thủ tục
mang tính chất hành chính hỗ trợ cho hoạt động xét xử tại Tòa án, giải quyết
các yêu cầu của người dân trước và sau các phiên tòa xét xử và các hoạt động
quản lý, chỉ đạo điều hành của lãnh đạo Tòa án các cấp. Hoạt động này bao
gồm việc tiếp dân; tiếp nhận và xử lý đơn khởi kiện, hồ sơ kháng cáo, kháng
nghị, hồ sơ do Viện Kiểm sát chuyển đến, đơn khiếu nại, công văn; phân công
giải quyết vụ án; cấp sao lục bản án, quyết định của Tòa án; quản lý số lượng
án đầu vào, đầu ra, án tồn; bố trí hội trường xét xử và thủ tục quản lý, trao đổi
thông tin phục vụ cho sự chỉ đạo, quản lý các lĩnh vực công tác của lãnh đạo
Tòa án các cấp.” [19]
Dựa trên những quan điểm nêu trên, có thể liệt kê công tác Hành chính
tư pháp bao gồm các vấn đề sau: Công tác hành chính tư pháp trong hoạt
động của Toà án, bao gồm: nhận đơn khởi kiện, nhận đơn khiếu nại, hỗ trợ
người dân thực hiện các thủ tục hành chính tư pháp; Công tác hỗ trợ hoạt
động xét xử, bao gồm: Phân công án, theo dõi và bảo đảm thời hạn tố tụng và
tổ chức phiên toà.
Công tác hành chính tư pháp tại Toà án không chỉ hỗ trợ cho các hoạt
động tố tụng do Toà án thực hiện, hỗ trợ các hoạt động quản lý, điều hành của

10



Toà án mà công tác này còn phải tạo điều kiện thuận lợi để người dân dễ dàng
tiếp cận các thông tin, dịch vụ của Tòa án.
Thuật ngữ “quản trị Toà án” rất ít khi được đề cập trong các báo cáo
chính thức tại Việt Nam, đặc biệt là các báo cáo của ngành Toà án. Thuật ngữ
này được sử dụng lần đầu tiên trong báo cáo khảo sát Thực trạng quản lý hành
chính Tòa án nhân dân địa phương ở Việt Nam năm 2012, “quản trị tòa án”
được sử dụng khi tập trung khai thác, làm rõ mối quan hệ quản lý giữa cơ
quan Tòa cấp trên và cơ quan Tòa cấp dưới trong công tác quản lý của Tòa án
[25]. Bao gồm các hoạt động cụ thể sau đây: Tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm
phán; chế độ công tác (luân chuyển, đề bạt, khen thưởng và xử lý vi phạm,
nguyên tắc độc lập trong xét xử), điều kiện làm việc (quy chế quản lý nội bộ,
đào tạo và bồi dưỡng cán bộ và phương tiện tác nghiệp) và các vấn đề có liên
quan.
Theo những cách hiểu trên thì có thể thấy, quản lý tòa án có nội hàm
đan xen với các khái niệm liên quan như quản trị tòa án, quản lý hành chính
tư pháp, quản lý về mặt tổ chức của Tòa án hay quản lý các Tòa án địa
phương. Tuy nhiên, các khái niệm quản lý hành chính tư pháp, quản lý về mặt
tổ chức của Tòa án hay quản lý các Tòa án địa phương có nội hàm hẹp hơn so
với khái niệm quản lý tòa án và khái niệm quản trị tòa án. Bởi vì, quản trị hay
quản lý tòa án không chỉ bao gồm các hoạt động “quản lý hành chính”, “quản
lý Tòa án địa phương”, “quản lý về mặt tổ chức của Tòa án” mà còn bao gồm
các vấn đề lớn hơn, quan trọng hơn như xây dựng, thực thi các chính sách,
chiến lược Tòa án.
Thực tế, các thuật ngữ “quản lý Tòa án”, “quản trị Tòa án”, “quản lý
hành chính tư pháp”, “quản lý về mặt tổ chức của Tòa án” hoặc “quản lý
các Tòa án địa phương”, được sử dụng không thống nhất, nhiều khi hay
nhầm lẫn vì mỗi thuật ngữ này có nội dung khác nhau tùy vào ngữ cảnh sử

11



dụng chúng. Việc sử dụng thuật ngữ nào cần căn cứ vào tính chất của mối
quan hệ mà Tòa án tham gia [23].
Theo nhiều tài liệu nghiên cứu, hai thuật ngữ “quản trị Tòa án” và
“quản lý Tòa án” được dùng thay thế nhau, mặc dù về mặt pháp lý ở Việt
Nam chỉ sử dụng khái niệm quản lý Tòa án. Do đó, để bám sát yêu cầu nghiên
cứu và phù hợp về mặt pháp lý ở nước ta, luận văn này sử dụng thuật ngữ
công tác “quản lý toà án” nhằm tập trung phân tích về hoạt động quản lý Tòa
án ở nước ta chủ yếu về mặt tổ chức. Trong phạm vi của một luận văn thạc sĩ,
người viết tập trung nghiên cứu những vấn đề cơ bản bao gồm: quản lý cán
bộ, quản lý Hội thẩm và quản lý kinh phí, cơ sở vật chất phục vụ hoạt động
của Tòa án.
Từ các phân tích trên, có thể đưa ra một khái niệm khái quát đó là:
“Quản lý Toà án là việc xây dựng các điều kiện cần thiết để hình thành và
vận hành có hiệu quả các cơ quan xét xử. Các điều kiện cần thiết này chính
là con người, tổ chức, trụ sở, kinh phí, phương tiện hoạt động cho các Toà án
mà những cơ quan chức năng của Nhà nước phải bảo đảm.”
1.2. Nội dung quản lý tòa án
1.2.1. Về quản lý nguồn nhân lực và chế độ, chính sách đối với

Thẩm phán
Về vấn đề này, dù có nhiều mô hình quản lý khác nhau, nhưng các mô
hình đều có điểm chung là:
Thứ nhất, Thẩm phán phải có nhiệm kỳ vững chắc, thậm chí có thể là
suốt đời, lương bổng tương xứng, không bị các hoạt động chính trị của lập
pháp và hành pháp chi phối. Nếu Thẩm phán chỉ được bổ nhiệm trong một
nhiệm kỳ ngắn ngủi theo bất cứ một thể thức nào hoặc do bất cứ ngành quyền
nào cũng vậy, họ sẽ không có được một tinh thần độc lập và cương quyết.
Hơn nữa, Thẩm phán là một nghề đặc thù luôn phải chịu áp lực từ dư luận xã


12


hội và bị đe dọa bởi các thế lực nguy hiểm trong xã hội, nên nếu không có
một nhiệm kỳ vững chắc, dài lâu và chế độ lương bổng không tương xứng thì
ngành nghề này khó có thể tìm được những người có tài, có đức, lại chí công,
vô tư trong hoạt động xét xử. Chính sự độc lập của tư pháp, của Thẩm phán
về việc hạn chế quyền lực nhà nước, đảm bảo thực hiện các quyền dân chủ,
quyền con người.
Thứ hai, đối với công tác tuyển chọn Thẩm phán, để Tòa án độc lập xét
xử, Thẩm phán cần phải được tuyển chọn trên cơ sở có đầy đủ năng lực, phẩm
chất và tính độc lập. Việc bổ nhiệm Thẩm phán phải bảo đảm người được bổ
nhiệm là những người có phẩm chất phù hợp nhất cho công tác xét xử.
Những người được chọn vào làm việc ở cơ quan xét xử phải là các cá
nhân liêm khiết, có khả năng với sự đào tạo thích hợp và có chuyên môn về
luật pháp. Việc đề bạt Thẩm phán phải dựa vào những yếu tố khách quan, đặc
biệt là năng lực, tính liêm khiết và kinh nghiệm. Bất cứ cách thức lựa chọn
Thẩm phán Tòa án nào cũng phải bảo đảm không có sự bổ nhiệm vì những
động cơ không chính đáng. Trong việc lựa chọn Thẩm phán không được phân
biệt đối xử trên cơ sở chủng tộc, da màu, giới tính, tôn giáo, quan điểm chính
trị và các quan điểm khác, nguồn gốc dân tộc hay xã hội, tài sản, thành phần
xuất thân, trừ yêu cầu rằng, một ứng viên được chọn vào cơ quan xét xử phải
là công dân của quốc gia có liên quan và yêu cầu đó, không bị coi là có tính
chất phân biệt đối xử.
Các nước khác nhau có thể áp dụng những thủ tục và các biện pháp
tuyển chọn khác nhau để đảm bảo Thẩm phán được bổ nhiệm một cách chính
xác. Trong đó, có các cơ chế bổ nhiệm sau:
Việc bổ nhiệm Thẩm phán để thực hiện chức năng xét xử là một vấn đề
quan trọng trong hoạt động quản lý hệ thống Tòa án. Nghiên cứu kinh nghiệm
một số quốc gia cho thấy, có nhiều các thức hình thành nên đội ngũ Thẩm


13


phán, và mỗi các thức cũng có những ưu điểm và hạn chế nhất định. Có thể
khái quát các phương thức tuyển chọn và bổ nhiệm Thẩm phán chính sau:
- Theo chế độ bổ nhiệm Thẩm phán thì người được tuyển chọn làm
Thẩm phán do người có thẩm quyền quyết định bổ nhiệm. Chế độ này có
những ưu điểm Thẩm phán được bổ nhiệm sẽ yên tâm công tác, có điều kiện
tích lũy kinh nghiệm xét xử, nâng cao trình độ chuyên môn, ý thức pháp luật
và trách nhiệm cá nhân. Tuy nhiên, cơ chế bổ nhiệm này đòi hỏi có quy trình,
thủ tục bổ nhiệm chặt chẽ và cơ quan bổ nhiệm đảm bảo tính độc lập, khách
quan nhằm tránh tình trạng người có thẩm quyền bổ nhiệm sẽ can thiệt vào
hoạt động xét xử của Thẩm phán được bổ nhiệm.
Kinh nghiệm ở các quốc gia chuyển đổi trong quá trình bổ nhiệm Thẩm
phán cho thấy, việc không có cơ chế giám sát và đánh giá thích hợp đối với
các hội đồng lựa chọn sẽ dẫn đến ảnh hưởng đến tính độc lập của thẩm phán
từ các nhánh quyền lực đặc biệt hành pháp và tư pháp. Ở Azerbaijan, trước cải
cách tư pháp năm 2005, Hội đồng lựa chọn Thẩm phán là cơ quan duy nhất
bảo đảm việc quản lý, lựa chọn ứng viên bổ nhiệm Thẩm phán nhưng thực tế
dưới sự kiểm soát “bí mật” của nhánh hành pháp và sự thiếu minh bạch trong
quá trình hình thành nên Hội đồng; mặc dù, hiện nay Hội đồng chỉ tiến hành
phỏng vấn và lập danh sách để Tổng thống bổ nhiệm. Tuy nhiên, trên thực tế
các ứng viên đã được thương lượng trong vòng tròn nội bộ của chính quyền
Tổng thống với sự tham gia của Chánh án Tòa án. Ở Nga, Chánh án và Văn
phòng Tổng thông có ảnh hướng rất lớn đến việc bổ nhiệm Thẩm phán. Mặc
dù, Ủy ban chuyên môn được thành lập ở cấp liên bang và cấp khu vực có
nhiệm vụ kiểm tra, chỉ định các thành viên và giới thiệu các ứng viên Thẩm
phán, tuy nhiên tất cả việc chỉ định bổ nhiệm Thẩm phán đều phụ thuộc vào
quyền phủ quyết của các Chánh án Tòa án. Nếu Chánh án Tòa án không dồng

ý với quyết định của Ủy ban chuyên môn thì có quyền yêu cầu ủy ban chuyên

14


môn chỉ đưa ra các ứng viên mà trước đó được Chánh án Tòa án ủng hộ. Hơn
thế nữa, Bộ phận Nhân sự của Văn phòng Tổng thống xem xét đề xuất của ủy
ban theo một thủ tục không công khai trước khi đưa ra khuyến nghị cuối cùng
cho tổng thống về việc bổ nhiệm.
Để có thể lựa chọn được đội ngũ Thẩm phán có năng lực, có trình độ
chuyên môn, có kinh nghiệm sống phong phú, phẩm chất đạo đức nhằm đảm
bảo thực hiện nguyên tắc độc lập xét xử thì việc chọn xét và đề nghị bổ nhiệm
Thẩm phán trong bất kỳ mô hình nào cũng cần phải tuân theo một trình tự,
thủ tục chặt chẽ, khách quan, minh bạch, loại trừ những can thiệp sai trái tác
động vào quá trình tuyển chọn. Các tiêu chuẩn phải được quy định cụ thể từ
trước về chất lượng, năng lực, chuyên môn và phẩm chất cá nhân, sức khỏe,
tinh thần trách nhiệm, có kinh nghiệm thực tế,... ở nhiều nước trên thế giới,
đặc biệt là các nước thuộc EU đã hình thành Hội đồng tư pháp – một thiết chế
độc lập với các nhánh hành pháp, lập pháp và tư pháp có chức năng quản lý tư
pháp trong đó có các thẩm quyền khác nhau liên quan đến bổ nhiệm Thẩm
phán. Thành phần của Hội đồng tư pháp được lựa chọn khách quan, chủ yếu
được bầu với sự tham gia rộng rãi của các chủ thể trong giới Thẩm phán,
Công tố viên, các luật sư giỏi, các luật gia và có kinh nghiệm công tác...
- Phương thức tuyển chọn và bổ nhiệm Thẩm phán thông qua việc tổ
chức các kỳ thi quốc gia
Theo phương thức này, các ứng viên cho chức danh Thẩm phán phải
trải qua những chương trình đào tạo chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp và
phải trải qua các kỳ thi để lựa chọn Thẩm phán. Điển hình áp dụng mô hình
này là Đức, Nhật Bản, Hàn Quốc... Ví dụ như đối với Đức, ứng cử viên Thẩm
phán phải là người đã vượt qua kỳ thi tư pháp quốc gia lần thứ hai, phải nộp

đơn lên Bộ Tư pháp bang đề nghị được làm Thẩm phán. Nếu được chấp nhận,
hộ sẽ được bổ nhiệm làm “Thẩm phán thử việc”, thời gian thử việc là 05 năm

15


kể từ ngày bổ nhiệm; nếu họ đã là công chức, thời gian thử việc là 02 năm.
Sau khi két thúc thời gian thử việc, Thẩm phán thử việc có thể được bổ nhiệm
làm Thẩm phán chính thức. Việc bổ nhiệm Thẩm phán ở các bang rất khác
nhau. Nhìn chung, Bộ trưởng Bộ Tư pháp bang có vai trò quyết định trong
việc bổ nhiệm Thẩm phán của Tòa án thẩm quyền chung.
- Phương thức tuyển chọn và bổ nhiệm Thẩm phán thông qua cơ chế
Hội đồng tuyển chọn
Đây là phương thức hiện đang được khá nhiều quốc gia áp dụng, theo
đó, căn cứ vào các tiêu chuẩn về trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp,
tiêu chuẩn đạo đức, uy tín, các ứng viên sẽ được thông qua tuyển chọn của
một Hội đồng. Thông thường các Hội đồng này bao gồm đại diện của các cơ
quan như Tòa án, Bộ Tư pháp, Hiệp hội Luật sư, một số cơ quan của Nghị
viện... Như mô hình của Thái Lan, Hội đồng Tư pháp gồm 13 thành viên,
Chánh án Tòa án tối cao là Chủ tịch, các Ủy viên hội đồng được bầu trong số
các Thẩm phán ở tất cả các cấp của Tòa án Công lý, trong đó 04 thành viên
còn lại được bầu trong số 100 Thẩm phán bậc cao của các Tòa sơ thẩm. Hội
đồng thực hiện việc tuyển chọn Thẩm phán để Nhà Vua bổ nhiệm, luân
chuyển, đề bạt và kỷ luật các Thẩm phán.
Hay như mô hình của Úc: Khi cần bổ sung Thẩm phán, Bộ trưởng Bộ
Tư pháp liên bang sẽ thông báo công khai về việc tuyển chọn Thẩm phán. Bộ
trưởng Bộ Tư pháp cũng có thể gửi công văn cho các Tòa án liên bang để
thông báo có đề cử ai không. Sau khi nhận được hồ sơ của các ứng viên, một
Hội đồng tuyển chọn sẽ xem xét hồ sơ và phỏng vấn ứng cử viên đó. Hội
đồng tuyển chọn bao gồm: Chánh án Tòa án Tối cao Ức đã nghỉ hưu, Chánh

án Tòa án liên bang, Thẩm phán liên bang đã nghỉ hưu, Thư ký Bộ trưởng Bộ
Tư pháp. Sau khi xem xét hồ sơ và phòng vấn, Hội đồng sẽ làm báo cáo gửi
cho Bộ trưởng Bộ Tư pháp về ứng viên được lựa chọn. Bộ trưởng Bộ Tư pháp

16


sẽ đề nghị lên Thủ tướng, Thủ tướng sẽ chuyển lên cho Toàn quyền liên bang
ra quyết định bổ nhiệm.
Ưu điểm của phương thức tuyển chọn thông qua Hội đồng này là đảm
bảo sự công khai, minh bạch, bảo đảm tính đa dạng trong nguồn tuyển chọn
và bổ nhiệm Thẩm phán, hạn chế được những ảnh hưởng bên ngoài vào quá
trình tuyển chọn và bổ nhiệm Thẩm phán.
- Phương thức bầu cử
Cơ chế bầu cử được tiến hành thông qua cử tri trực tiếp hay gián tiếp
thông qua đại biểu cử tri lựa chọn. Chế độ này có ưu điểm là bảo đảm quyền
dân chủ trực tiếp của người dân trong hoạt động xét xử và Thẩm phán sẽ có
tính độc lập hơn so với quyền lập pháp và hành pháp. Tuy nhiên, cơ chế này
có những hạn chế sau: (i) cơ chế này thường nặng về hình thức bởi việc đánh
giá về trình độ chuyên môn pháp lý và phẩm chất đạo đức của người được
tuyển chọn khó chính xác; (ii) có thể dẫn đến tình trạng Thẩm phán không chú
trọng vào hoạt động tích lũy kinh nghiệm xét xử, nâng cao trình độ chuyên
môn mà có xu hướng ra các phán quyết phù hợp với dư luận, báo chí để lấy
lòng người dân trong lần bầu cử tiếp theo; (iii) nhiệm kỳ của Thẩm phán phụ
thuộc vào nhiệm kỳ bầu cử nên thường ngắn, không phù hợp với hoạt động
nghề nghiệp của Thẩm phán.
Theo phương thức này, các chức vụ quản lý của hệ thống Tòa án như
Chánh án, Phó Chánh án hoặc các Thẩm phán được giới thiệu và bầu. Những
người được bầu sẽ chịu trách nhiệm trước cơ quan bầu ra mình. Áp dụng mô
hình này có một số bang của Hoa Kỳ, Trung Quốc. Ví dụ như mô hình của

Trung Quốc, theo quy định tại điều 9 Luật Thẩm phán thì điều kiện để trở
thành Thẩm phán bao gồm là công dân Trung Quốc, trên 23 tuổi, tôn trọng
Hiến pháp, có trình độ nghiệp vụ giỏi và phẩm chất tốt, có sức khỏe, đã công
tác 01 năm đối với người có trình độ pháp luật chuyên nghiệp tốt nghiệp Học

17


×