Tải bản đầy đủ (.docx) (65 trang)

SỨC KHỎE tâm THẦN và CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG của BỆNH NHÂN UNG THƯ tại BỆNH VIỆN UNG bướu hà nội, năm 2019

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (342.3 KB, 65 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI

BỘ Y TẾ

NGUYỄN HẢI YẾN

SỨC KHỎE TÂM THẦN VÀ CHẤT LƯỢNG
CUỘC SỐNG CỦA BỆNH NHÂN UNG THƯ
TẠI BỆNH VIỆN UNG BƯỚU HÀ NỘI, NĂM 2019

ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ Y TẾ CÔNG CỘNG

HÀ NỘI – 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI

NGUYỄN HẢI YẾN
SỨC KHỎE TÂM THẦN VÀ CHẤT LƯỢNG
CUỘC SỐNG CỦA BỆNH NHÂN UNG THƯ
TẠI BỆNH VIỆN UNG BƯỚU HÀ NỘI, NĂM 2019
Chuyên ngành: Y tế công cộng
Mã số: 8720701

ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ Y TẾ CÔNG CỘNG


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS. KIM BẢO GIANG
2. TS. BÙI VINH QUANG .......

HÀ NỘI – 2019


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CLCS
ĐTNC
GAD-7
NCDs
IARC

Chất lượng cuộc sống
Đối tượng nghiên cứu
Generalized Anxiety Disorder 7
Non-communicable diseases – Bệnh không lây nhiễm
International Agency for Research on Cancer – Cơ quan

PHQ-9
SKTT
WHO

nghiên cứu ung thư quốc tế
Patient Health questionnaire 9
Sức khỏe tâm thần
World Health Organisation – Tổ chức Y tế Thế giới



MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ..........................................................................................................1
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU.................................................................3
1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM DÙNG TRONG NGHIÊN CỨU..............................2
1.1.1. Chất lượng cuộc sống...........................................................................2
1.1.2. Sức khỏe tâm thần.................................................................................2
1.1.3. Ung thư.................................................................................................2
1.2. THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG VÀ SỨC KHỎE TÂM
THẦN Ở BỆNH NHÂN UNG THƯ.....................................................................2
1.3. CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG VÀ SỨC
KHỎE TÂM THẦN..............................................................................................2
1.3.1. Đặc điểm cá nhân..................................................................................2
1.3.2. Tình trạng sức khỏe và bệnh tật............................................................2
1.3.3. Yếu tố gia đình......................................................................................2
1.3.4. Yếu tố xã hội.........................................................................................2
CHƯƠNG 2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU....................................................2
2.1. Đối tượng nghiên cứu.....................................................................................2
2.2. Địa điểm nghiên cứu......................................................................................2
2.3. Thời gian nghiên cứu......................................................................................2
2.4. Thiết kế nghiên cứu........................................................................................2
2.5. Cỡ mẫu...........................................................................................................2
2.6. Chọn mẫu.......................................................................................................2
2.7. Biến số, chỉ số................................................................................................2
2.8.Bộ công cụ nghiên cứu....................................................................................2
2.9. Kỹ thuật thu thập số liệu.................................................................................2
2.10. Tiêu chuẩn đánh giá......................................................................................2
2.10.1. Tiêu chuẩn đánh giá chất lượng cuộc sống..........................................2
2.10.2. Tiêu chuẩn đánh giá sức khỏe tâm thần..............................................2
2.10.3. Phân tích số liệu..................................................................................2



2.11. Các biện pháp khống chế sai số....................................................................2
2.12. Đạo đức nghiên cứu.....................................................................................2
2.13. Hạn chế, sai số và cách khắc phục................................................................2
2.13.1. Những hạn chế và sai số.....................................................................2
2.13.2. Biện pháp khắc phục...........................................................................2
CHƯƠNG 3. DỰ KIẾN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU.............................................2
3.1. MÔ TẢ THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG VÀ SỨC KHỎE
TÂM THẦN BỆNH NHÂN UNG THƯ...............................................................2
3.1.1. Thông tin chung của bệnh nhân............................................................2
3.1.2. Tình trạng sức khỏe.............................Error! Bookmark not defined.
3.1.3. Tình trạng kinh tế - xã hội....................Error! Bookmark not defined.
3.1.4. Mô tả Chất lượng cuộc sống của các bệnh nhân theo giai đoạn ung thư
........................................................................................................................ 2
3.2. MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN MỨC ĐỘ LO ÂU, TRẦM CẢM
CỦA BỆNH NHÂN UNG THƯ...........................................................................2
CHƯƠNG 4. DỰ KIẾN BÀN LUẬN.....................................................................2
DỰ KIẾN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ.....................................................................2
TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1.

Biến số nghiên cứu...............................................................................2

Bảng 3.1.

Đặc điểm nhân khẩu học......................................................................2


Bảng 3.2.

Mô tả chất lượng cuộc sống của bệnh nhân..........................................2

Bảng 3.3.

Phân loại chất lượng cuộc sống của bệnh nhân……………….. 38

Bảng 3.4.

Điểm chất lượng cuộc sông của bệnh nhân..........................................2

Bảng 3.5.

Phân loại tình trạng sức khỏe tâm thần………………………...29

Bảng 3.6.

Điểm sức khỏe tâm thần của bệnh nhân ung thư................................20

Bảng 3.7. Chất lượng cuộc sống theo các đặc điểm nhân khẩu học.........................20
Bảng 3.8. Chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung thư theo các giai đoạn..............2
Bảng 3.9. Một số yếu tố liên quan đến chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung thư
………………………………………………………………………42
Bảng 3.10. Một số yếu tố liên quan đến mức độ lo âu của bệnh nhân………43
Bảng 3.11. Tỷ lệ có rối loạn lo âu của bệnh nhân theo các đặc điểm bệnh.…45
Bảng 3.11. Tỷ lệ có trầm cảm của bệnh nhân theo các đặc điểm bệnh……...47


1


ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay, bệnh ung thư đang là một trong những nguyên nhân gây tử vong
hàng đầu trên thế giới với tốc độ gia tăng đáng báo động [1]. Theo cơ quan nghiên
cứu ung thư quốc tế, gánh nặng ung thư toàn cầu ước tính đã tăng lên 18,1 triệu
trường hợp mới và 9.6 triệu người chết trong năm 2018 [2]. Theo dữ liệu gần đây
của Vương quốc Anh và Hoa Kỳ, ung thư là một tình trạng rất phổ biến với tỷ lệ
mắc bệnh suốt đời là 38 - 41% [3]. Theo tổ chức Y tế thế giới, năm 2014, ung thư là
nguyên nhân thứ 2 gây bệnh tật và tử vong trên thế giới cũng như ở Việt Nam trong
nhóm bệnh không lây nhiễm [4] [5]. Ước tính mỗi năm Việt Nam có 100.000 150.000 ca mới mắc và khoảng 75.000 ca tử vong do ung thư [6]. Theo cơ quan
nghiên cứu ung thư quốc tế thuộc tổ chức Y tế thế giới, ở Việt Nam năm 2018, số ca
hiện mắc ung thư là 300.034 ca, số mới mắc là 164.671 ca. Trong đó loại ung thư
phổ biến nhất ở nam là ung thư phổi, dạ dày và ung thư đại tràng, ở nữ là ung thư
vú, đại tràng và ung thư phổi [2]. Tại Việt Nam, theo báo cáo chung tổng quan
ngành Y tế 2014 của Bộ Y tế, tỉ lệ mắc ung thư tăng nhanh và hơn 70% số bệnh
nhân đến khám chữa bệnh đều đã ở giai đoạn III hoặc IV dẫn đến những tổn thất
nặng nề đối với toàn xã hội [7].
Đã đến lúc phải đương đầu với những thách thức đặt ra bởi số ca mắc ung
thư đang gia tăng rõ rệt trên toàn cầu [8]. Trong một cuộc khảo sát ở Anh về 780
người sống sót sau ung thư và 2740 đối chứng, những người sống sót sau ung thư
có sức khỏe trung bình hoặc kém, việc thực hiện các hoạt động thể chất rất khó
khăn và có sức khỏe cảm xúc kém. Một phần ba những người sống sót sau ung thư
lâu dài ở Anh có nhu cầu chưa được đáp ứng [9]. Hiện nay, chất lượng cuộc sống
(CLCS) ở người bệnh nói chung và người bệnh ung thư nói riêng hiện đã được quan
tâm. Đặc biệt là các bệnh nhân ung thư, bởi họ có thể gặp nhiều vấn đề liên quan
đến thể chất và tinh thần khiến cho CLCS của họ bị ảnh hưởng như: mệt mỏi, mất
ngủ, rối loạn nuốt, ăn không ngon, suy giảm khả năng tình dục, rối loạn cảm xúc,
đau khổ, đau đớn và nhiều vấn đề khác [10]. Sức khỏe tinh thần được liên kết chặt
chẽ với khái niệm chất lượng cuộc sống, cùng với sự vắng mặt của các vấn đề sức



2

khỏe tâm thần hiện tại và đau khổ cảm xúc đáng kể. Từ góc nhìn của bệnh nhân,
một rối loạn cảm xúc đáng kể có thể đơn giản là bất kỳ vấn đề đau khổ nào mà các
cá nhân muốn giúp đỡ cho vấn đề đó [3].
Tại Việt Nam, hầu hết các nghiên cứu về CLCS và sức khỏe tâm thần
(SKTT) của bệnh nhân ung thư mới chủ yếu đề cập đến từng bệnh ung thư khác
nhau tại một số cơ sở điều trị. Các nghiên cứu về tình trạng CLCS và SKTT của
bệnh nhân ung thư còn nhiều hạn chế. Đề tài: “Sức khỏe tâm thần và chất lượng
cuộc sống của bệnh nhân ung thư tại bệnh viện Ung bướu Hà Nội, năm 2019” nhằm
tìm hiểu về CLCS và SKTT của bệnh nhân ung thư tại bệnh viện Ung bướu Hà Nội
với đa dạng các loại ung thư ở các giai đoạn khác nhau là một điều cần thiết. Kết
quả nghiên cứu sẽ đưa ra tình hình thực trạng CLCS và SKTT của bệnh nhân ung
thư tại Bệnh viện Ung bướu Hà Nội, cũng như có những kiến nghị cho các can thiệp
hỗ trợ nâng cao sức khỏe cho bệnh nhân trong quá trình điều trị ung thư sau này.
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1.

Mô tả thực trạng chất lượng cuộc sống và sức khỏe tâm thần của người

bệnh ung thư khi nhập viện tại bệnh viện ung bướu Hà Nội, năm 2019
2. Xác định một số yếu tố liên quan đến chất lượng cuộc sống và sức khỏe
tâm thần của bệnh nhân ung thư khi nhập viện tại bệnh viện ung bướu Hà Nội, năm
2019


3

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU


1.1. Một số khái niệm dùng trong nghiên cứu
1.1.1. Chất lượng cuộc sống
Chất lượng cuộc sống là “nhận thức mà cá nhân có được trong đời sống của
mình, trong bối cảnh văn hóa và hệ thống giá trị mà cá nhân sống, trong mối tương
tác với những mục tiêu, những mong muốn, những chuẩn mực, và những mối quan
tâm” (WHO, 1994).
Việc đo lường CLCS lại không hề đơn giản, hiện tại có nhiều công cụ đo
lường chất lượng cuộc sống đã được phát triển. Hiện có hơn 1000 bộ công cụ được
sử dụng để đánh giá chất lượng cuộc sống [10] trong đó một số bộ công cụ đo
lường chất lượng cuộc sống phổ biến như 36-Item Short Form Health Survey (SF36), 12-Item Short Form. Health Survey (SF-12). The World Health Organisation
Quality of Life - Brief (WHOQOL-BREF), The European Quality of Life
(EUROQOL) or Euro-QoL 5-Dimensions (EQ-5D). Ngoài ra còn có các bộ đo
lường những tình trạng sức khỏe cụ thể như bộ The Kidney Disease Quality of Life
(KDQOL) đánh giá cho bệnh thận, The SF-12 Measure of Physical (PCS) and
Mental (MCS) Functioning (1-12) đo lường cả tình trạng sức khỏe thể chất và tinh
thần.
1.1.2. Sức khỏe tâm thần
Trước đây, khái niệm sức khỏe tâm thần được hiểu dựa vào định nghĩa; “Sức
khỏe là trạng thái hoàn toàn khỏe mạnh về thể chất, tinh thần và xã hội chứ không
đơn thuần là tình trạng không có bệnh tật” [11]. Sức khỏe tâm thần được coi là một
bộ phận không thể tách rời trong định nghĩa về sức khỏe (WHO, 2001), trong đó
sức khỏe tâm thần không chỉ là không bị mắc rối loạn tâm thần mà còn bao hàm
trạng thái thoải mái, sự tự tin vào năng lực bản thân, tính tự chủ, năng lực và khả
năng nhận biết những tiềm năng của bản thân [12]. Sức khỏe tâm thần đã được


4

WHO định nghĩa “là một trạng thái hạnh phúc trong đó mỗi cá nhân nhận ra tiềm

năng của chính mình, có thể đối phó với những căng thẳng bình thường của cuộc
sống, có thể làm việc hiệu quả và có thể đóng góp cho cộng đồng” [13] [14].
Các vấn đề về sức khỏe tâm thần đã trở thành gánh nặng bệnh tật trên toàn thế
giới ở cả các nước thu nhập cao và thấp và trung bình [15].
Các điều kiện sức khỏe tâm thần góp phần vào kết quả sức khỏe kém, chết
sớm, vi phạm nhân quyền và tổn thất kinh tế toàn cầu và quốc gia. Không thể có
sức khỏe hoặc phát triển bền vững nếu không có sức khỏe tâm thần. Tình trạng sức
khỏe tâm thần khiến 1 trong 5 năm sống trong tình trạng khuyết tật. Sức khỏe tâm
thần thường gặp ở những người mắc bệnh, trong đó có ung thư. Tuy nhiên, sức khỏe
tâm thần vẫn là một phần bị bỏ quên trong các nỗ lực toàn cầu để cải thiện sức khỏe
[16].
Trong các rối loạn tâm thần, trầm cảm phổ biến nhất. Tình trạng này gây ảnh
hưởng đến cảm xúc, hành vi và có thể dẫn đến các vấn đề thể chất và tinh thần.
Trầm cảm được định nghĩa là - sự buồn bã, mất hứng thú hoặc khoái cảm, cảm thấy
tội lỗi hoặc tự hạ thấp giá trị bản thân, bị rồi loạn giấc ngủ hoặc ăn uống và kém tập
trung [17].
1.1.3. Ung thư
Ung thư được định nghĩa là sự sinh trưởng mất kiểm soát, tạo nên sự tập trung
một khối lượng lớn tế bào do sự sinh sản quá nhanh, vượt quá số tế bào chết đi, hậu
quả là khối tế bào này dần dần xâm lấn và tàn phá các mô và các cơ quan của cơ thể
sống [18].
Ung thư là một chẩn đoán đáng sợ liên quan đến khả năng di căn rõ rệt. Trong
các cuộc điều tra dân số ở Mỹ và Anh, ung thư là nỗi sợ hãi nhất trong các vấn đề y
tế phổ biến và cá nhân [3]. Bệnh ung thư có thể xuất hiện ở bất kỳ phần nào trên cơ
thể. Nó bắt đầu khi các tế bào phát triển vượt mức kiểm soát và chèn lấn các tế bào
bình thường. Điều này làm cho cơ thể khó hoạt động như bình thường. Ung thư có
thể được điều trị rất tốt ở nhiều người. Thực tế, hiện tại số người trở lại có cuộc


5


sống bình thường sau khi được điều trị ung thư là nhiều hơn bao giờ hết. Tế bào ung
thư cũng có thể lan rộng sang các phần khác của cơ thể. Các bệnh ung thư khác
nhau cũng đáp ứng với việc điều trị theo những cách khác nhau. Người ta thường sử
dụng 2 hay nhiều biện pháp điều trị để có được kết quả tốt nhất. Đối với mỗi loại
ung thư có những xét nghiệm có thể được thực hiện để tìm ra giai đoạn của ung thư.
Nói chung thì các giai đoạn thấp hơn (giai đoạn 1 hoặc 2) có nghĩa là ung thư chưa
lan rộng. Các giai đoạn cao hơn (giai đoạn 3 hoặc 4) có nghĩa là ung thư đã lan rộng
hơn. Giai đoạn 4 là giai đoạn cao nhất. Các phương pháp điều trị phổ biến nhất đối
với ung thư là phẫu thuật, hóa trị và xạ trị (Hiệp Hội Ung Thư Mỹ - American
Cancer Society, 2015) [19].
Tại Việt Nam, cứ 10 trường hợp tử vong thì có 7 trường hợp liên quan đến
bệnh mãn tính [WHO, 2015, NCDs – Vietnam) [20]. Theo số liệu của Ghi nhận ung
thư toàn cầu, năm 2018 trên toàn thế giới ghi nhận 18.1 triệu ca mới mắc ung thư và
9,6 triệu trường hợp tử vong do ung thư các loại ung thư với tỷ lệ mới mắc cao nhất
lần lượt là ung thư phổi 11.6%, ung thư vú 11.6%, ung thư tuyến tiền liệt 7.1%, ung
thư ung thư đại tràng 6.1%. Tại Việt Nam, có 164.671 ca mới mắc ung thư, 114.871
trường hợp tử vong do bệnh ung thư. Hơn 300.000 người đang sống chung với bệnh
ung thư [21].
1.2. Thực trạng nghiên cứu chất lượng cuộc sống và sức khỏe tâm thần của
bệnh nhân ung thư
1.1.1. Nghiên cứu về chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung thư
Một nghiên cứu phân tích tổng hợp các thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng
sử dụng bộ công cụ đo lường chất lượng sống EORTC QLQ-C30 với 6024 bệnh
nhân ung thư. Dữ liệu từ 25 thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng EORTC được gộp
lại. Điểm trung bình chất lượng sống của nhóm bệnh nhân ung thư và 5 nhóm
chứng được so sánh để đánh giá tác động của bệnh ung thư đối với chất lượng sống
của bệnh nhân. Trong nhóm bệnh ung thư, hồi quy tuyến tính (kiểm đinh 2 phía Pvalue = 0,05 được điều chỉnh cho các thử nghiệm) đã được sử dụng để điều tra mối
liên quan giữa tuổi và chất lượng sống, điều chỉnh theo giới tính, tình trạng hiện tại,



6

mức độ di căn và phân loại bởi vị trí ung thư. Chênh lệch 10 điểm trên thang điểm
0-100 được coi là ý nghĩa về mặt lâm sàng. Bệnh nhân ung thư thường có chất
lượng sống kém hơn so với dân số nói chung, nhưng các lĩnh vực chất lượng sống
cụ thể bị suy yếu thay đổi theo độ tuổi. Khi so sánh ung thư với dân số nói chung,
bệnh nhân ung thư trẻ gặp vấn đề tài chính, chức năng xã hội và vai trò tồi tệ hơn,
trong khi các nhóm ung thư lớn tuổi bị mất cảm giác ngon miệng hơn. Trong nhóm
bệnh ung thư, chất lượng sống tồi tệ hơn khi tăng tuổi đối với hoạt động thể chất và
táo bón, và tốt hơn khi tăng tuổi đối với hoạt động xã hội, mất ngủ và các vấn đề tài
chính (tất cả p <0,05) [22].
Nghiên cứu về CLCS và trầm cảm của bệnh nhân ung thư người Mỹ gốc
Hàn và người chăm sóc trong gia đình của họ với dữ liệu được thu thập từ các bệnh
nhân ung thư người Mỹ gốc Hàn và một trong những người chăm sóc gia đình của
họ sống ở Trung Tây (N = 60 cặp). Kiểm định t-test phù hợp và kiểm định t-test cho
một mẫu được sử dụng để kiểm tra sự khác biệt giữa bệnh nhân và người chăm sóc
và mẫu so sánh trong các nghiên cứu khác. Mô hình hồi quy tuyến tính được sử
dụng để kiểm tra các yếu tố dự đoán trong số các biến được chọn đối với CLCS và
trầm cảm. Kết quả cho thấy, việc xem xét các tài liệu hiện có chỉ ra rằng các biến số
chính liên quan đến CLCS và trầm cảm là hỗ trợ xã hội, giao tiếp và tiếp cận.
Nghiên cứu mô tả cho thấy không có sự khác biệt giữa bệnh nhân và người chăm
sóc về các biến được chọn. Bệnh nhân có CLCS tổng thể tốt hơn các nhóm bệnh
nhân ung thư khác nhưng những người chăm sóc gia đình có CLCS tổng thể thấp
hơn so với các nhóm chăm sóc gia đình khác của bệnh nhân ung thư. Từ nhiều phân
tích hồi quy, hỗ trợ xã hội cao hơn và đánh giá bệnh ít tiêu cực hơn dự đoán CLCS
tổng thể tốt hơn ở bệnh nhân. Đánh giá bệnh ít tiêu cực hơn cũng dự đoán ít trầm
cảm hơn ở bệnh nhân [23].
Một nghiên cứu trên 43 cặp ung thư vú và ung thư tiền liệt tuyến (N=86)
được ghi danh vào một tư vấn can thiệp thông qua điện thoại. Các ghi âm thư thoại

của 228 buổi tư vấn đã được ghi chép và phân tích nội dung định tính để xác định
chủ đề và những quan tâm chính. Đối với mỗi đối tượng tham gia, có tổng cộng 3


7

buổi tư vấn 30 phút đã được mã hóa. Các đối tượng tham gia hoàn thiện các thang
đo sức khỏe tâm thần (trầm cảm, ảnh hưởng tích cực/tiêu cực và sự hài long của
mối quan hệ) trước và sau tư vấn. Kết quả cho thấy mối quan tâm của các bệnh
nhân tập trung vào ung thư và các vấn đề liên quan đến ung thư và điều trị, trong
khi vợ/chồng/bạn tình của các bệnh nhân quan tâm hơn vào sự khỏe mạnh của họ và
những gì có thể làm để giúp bệnh nhân chiến đấu với bệnh tật. Mối quan tâm chính
cho tất cả bao gồm duy trì mối quan hệ và vấn đề giao tiếp. Cụ thể hơn, các thảo
luận giữa các cá nhân về những mối quan tâm này được dự đoán về những cải thiện
đáng kể trong những thay đổi sau tư vấn với phụ nữ mắc ung thư vú. Như vậy, thảo
luận về các mối quan tâm giữa các cá nhân có thể đóng một vai trò quan trọng trong
sức khỏe phụ nữ mắc ung thư so với đàn ông trong đối phó với bệnh ung thư [24] .
Một nghiên cứu trên 332 bệnh nhân ung thư (phụ khoa, vú, ngực, sinh
dục…) đã kiêng hút thuốc ít nhất 24 giờ. Ngày kiêng hút thuốc và CLCS được đánh
giá ở mức cơ bản từ 2, 6 và 12 tháng sau. Các mô hình đường cong tăng trưởng
tiềm ẩn được kiểm tra nếu ngày kiêng có liên quan đến CLCS ở mỗi lần đánh giá.
Các yếu tố nhân khẩu học cơ bản như giới tính, thu nhập và các biến lịch sử hút
thuốc như sự phụ thuộc vào nicotine đã được sử dụng như các yếu tố bất biến theo
thời gian. Mô hình cuối cùng cho mỗi thành phần CLCS có sự phù hợp từ tốt đến
xuất sắc. Nhiều ngày kiêng hơn có liên quan đến trầm cảm thấp hơn ở tất cả các lần
theo dõi và mệt mỏi thấp hơn ở tháng thứ 12, nhưng không liên quan đến đau đớn.
CLCS tốt hơn ở những bệnh nhân bỏ hút thuốc trong thời gian dài hơn. Các phát
hiện cho thấy các mốc thời gian khác nhau, với việc cai thuốc lá ngay lập tức liên
quan đến trầm cảm thấp hơn, sau đó là mệt mỏi thấp hơn. Mặc dù cơn đau giảm dần
theo thời gian, nhưng nó không liên quan đến thời gian cai thuốc lá. Kết quả củng

cố mối quan hệ giữa cai thuốc lá bền vững và CLCS, cần được truyền đạt cho bệnh
nhân [25].
Nghiên cứu điều tra các yếu tố liên quan đến CLCS liên quan đến sức khỏe
được báo cáo của bệnh nhân bằng cách sử dụng công cụ Healthy Days Measure của
Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa bệnh cho bệnh nhân Medicare Advantage đang


8

điều trị ung thư vú, phổi và ung thư đại trực tràng. Trong năm 2015, tổng cộng 6390
bệnh nhân đã được gửi qua các cuộc khảo sát về các yếu tố có thể ảnh hưởng đến
CLCS liên quan đến sức khỏe của họ, bao gồm các triệu chứng liên quan đến ung
thư. CLCS được đo bằng số ngày không khỏe mạnh về thể chất và tinh thần đã trải
qua trong 30 ngày qua và tổng hợp cho tổng số ngày không khỏe mạnh. Những
ngày không khỏe mạnh thường được định nghĩa là ≥14 tổng số ngày không khỏe
mạnh trong tháng trước. Trong số 1567 người được hỏi, số trung bình của tổng số
ngày không khỏe mạnh (độ lệch chuẩn) là 14,0 (11,9) với 46,2% trải qua những
ngày không khỏe mạnh thường xuyên. Trung bình, bệnh nhân báo cáo 10,5 (10,5)
về thể chất và 6,7 (9,4) ngày không khỏe mạnh về tinh thần. Các triệu chứng liên
quan đến ung thư, đặc biệt là đau và mệt mỏi, có liên quan đáng kể với những ngày
không khỏe mạnh tăng lên. Trong các mô hình điều chỉnh, bệnh nhân bị đau có 83
ngày không khỏe mạnh hơn so với bệnh nhân không đau; bệnh nhân mệt mỏi có
nhiều ngày không khỏe mạnh hơn 104% so với bệnh nhân không mệt mỏi. Tiêu
chảy/ táo bón và khó thở cũng có liên quan đến những ngày không lành mạnh. Các
triệu chứng liên quan đến ung thư, đáng chú ý nhất là đau và mệt mỏi, có liên quan
đến CLCS tồi tệ hơn đối với bệnh nhân ung thư di căn. Các can thiệp nhằm mục
đích cải thiện các triệu chứng có thể cải thiện chất lượng cuộc sống cho bệnh nhân
đang điều trị ung thư [26].
Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 175 bệnh nhân đã được chẩn đoán xác định
bệnh ung thư và đang điều trị tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội trong thời gian từ

18/02/2015 đến 10/05/2015 cho thấy: CLCS của các bệnh nhân ung thư điều trị tại
Khoa Ung bướu và chăm sóc giảm nhẹ tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội là thấp,
điểm trung bình theo bộ câu hỏi FACT-G là 47,03 điểm (SD = 13,84). Trong đó,
lĩnh vực thể chất có điểm cao nhất là 16,24/28 điểm (SD = 5,49), thấp nhất là lĩnh
vực hoạt động (6,14/28 điểm – SD = 4,16), hai lĩnh vực quan hệ gia đình xã hội và
tinh thần lần lượt là 12,39/28 điểm (SD = 2,97), 12,26/24 điểm (SD = 6,14). Một số
yếu tố ảnh hưởng đến CLCS của BN ung thư bao gồm: trình độ văn hóa, giai đoạn
bệnh, thời gian mắc bệnh và phương pháp điều trị. Trong khi đó, nghiên cứu không


9

tìm thấy mối tương quan với: tuổi, giới, nghề nghiệp, điều kiện kinh tế, bảo hiểm
cũng như loại ung thư và bệnh lý kèm theo. Thời gian mắc bệnh dài trên 1 năm sẽ
làm CLCS của bệnh nhân giảm rõ nhất, tương tự các bệnh nhân ở các giai đoạn
nặng hơn, phải điều trị chăm sóc giảm nhẹ sẽ có CLCS rất thấp. CLCS của BN ung
thư có mối tương quan với: trình độ văn hóa, giai đoạn bệnh, thời gian mắc bệnh và
phương pháp điều trị. Thời gian mắc bệnh dài, giai đoạn nặng hơn của bệnh cũng
như những BN đang được điều trị chăm sóc giảm nhẹ có CLCS thấp hơn có ý nghĩa
thống kê [10].
Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 200 bệnh nhân đã được chẩn đoán xác định
bệnh ung thư và đang điều trị tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Bắc Ninh trong thời gian
từ 15/02/2017 đến 15/07/2017 cho kết quả chất lượng cuộc sống của các bệnh nhân
ung thư đang điều trị hóa chất là thấp, điểm trung bình theo bộ câu hỏi FACT-G là
48,09 điểm (SD = 8,54). Trong đó, điểm trung bình của lĩnh vực hoạt động là thấp
nhất chỉ có 7,06 điểm (SD = 4,24), cao nhất là lĩnh vực thể chất 16,35 điểm (SD =
4,81), hai lĩnh vực quan hệ gia đình xã hội và tinh thần lần lượt là 12,37 điểm (SD =
4,55), 12,13 điểm (SD = 1,21). Trong nghiên cứu này, CLCS của bệnh nhân ung thư
có liên quan chặt chẽ với các đặc điểm về bệnh học như giai đoạn ung thư và thời
gian mắc bệnh. Điểm CLCS EQ-5D cũng được chỉ ra là có mối tương quan thuận

với tất cả các chỉ số chức năng (p < 0,001). Trong đó mức độ tương quan mạnh đối
với chỉ số chức năng thể chất (với hệ số tương quan là 0,84), chỉ số chức năng cảm
xúc (với hệ số tương quan là 0,61), chỉ số chức năng hoạt động (với hệ số tương
quan là 0,48) và chỉ số chức năng xã hội (hệ số tương quan là 0,39). Mức độ tương
quan ở mức trung bình được chỉ ra trong trường hợp chỉ số chức năng nhận thức
(với hệ số tương quan là 0,52). Ngược lại, điểm CLCS EQ-5D được chỉ ra là có có
mối tương quan nghịch với các chỉ số triệu chứng (mệt mỏi, buồn nôn, đau, mất
ngủ, chán ăn, thở nhanh, táo bón, tiêu chảy, vấn đề tài chính) [27].
1.1.2. Nghiên cứu vê sức khỏe tâm thần của bệnh nhân ung thư
Sự hiện diện của đau khổ có liên quan đến giảm chất lượng cuộc sống liên
quan đến sức khỏe [28]. Trầm cảm là một trong những yếu tố quyết định mạnh mẽ


10

nhất đến chất lượng cuộc sống liên quan đến sức khỏe và nó cũng ảnh hưởng đến
việc tham gia điều trị [29] [30].
Theo nghiên cứu của Kuhnt và cộng sự trên 2.141 bệnh nhân ung thư báo
cáo tỷ lệ hiện mắc trong giai đoạn 12 tháng chung đối với bất kỳ rối loạn tâm thần
nào là 39,4% (95% CI: 37,3-41.5) và tỉ lệ có rối loạn lo âu là 15,8% (95% CI: 14,417,4), tỉ lệ mắc rối loạn cảm xúc 12,5% (95% CI: 11.3-14.0) , phụ thuộc nicotine là
7,3% (95% CI: 6,2-8,5), rối loạn do tình trạng y tế nói chung là 3,7% (95% CI: 3.04.6), cho việc lạm dụng hoặc nghiện rượu là 1,1% (95% CI: 0,7-1,6). Tỷ lệ mắc suốt
đời đối với bất kỳ rối loạn tâm thần nào là 56,3% (95% CI 54,1-58,6), đối với rối
loạn lo âu là 24,1% (95% CI: 22,3-25,9), 20,5% (95% CI: 18,9-22,3) đối với rối
loạn cảm xúc, 18,2% (95% CI: 16,6-20,0) đối với sự phụ thuộc vào nicotine, 6,4%
(95% CI: 5,4-7,6) đối với lạm dụng hoặc nghiện rượu, 4,6% ( CI 95%: 3,8-5,6) cho
các rối loạn do tình trạng y tế nói chung và 0,2% (95% CI: 0,1-0,6) cho các rối loạn
ăn uống. Rối loạn tâm thần rất phổ biến ở bệnh nhân ung thư, cho thấy sự cần thiết
phải cung cấp hỗ trợ tâm lý liên tục từ bệnh nhân nội trú đến chăm sóc ngoại trú,
dẫn đến phân bổ nhân sự trực tiếp và các nguồn lực khác [31].
Nghiên cứu về rối nhiễu tâm lý, chất lượng cuộc sống và hỗ trợ xã hội cho

người bệnh mắc ung thư buồng trứng đang điều trị hoá chất thực hiện bởi Wen và
cộng sự cho thấy người bệnh mắc ung thư buồng trứng có tỉ lệ mắc lo âu và trầm
cảm cao. Lo lắng và trầm cảm được đánh giá ở mức cơ bản và ba tháng sau khi bắt
đầu hóa trị liệu tích cực sử dụng thang đo lo âu và trầm cảm HADS. CLCS được
đánh giá cùng lúc sử dụng bảng câu hỏi của Tổ chức nghiên cứu và điều trị ung thư
châu Âu với 30 câu hỏi chất lượng cốt lõi của cuộc sống QLQ-C30 và QLQ-OV28.
Hỗ trợ xã hội được đánh giá bằng thang đo hỗ trợ xã hội (PSSS) ở mức cơ bản. Kết
quả cho thấy, bệnh nhân ung thư buồng trứng tái phát có tỷ lệ lo lắng và trầm cảm
cao. Mức độ lo lắng, nhưng không trầm cảm đã giảm đáng kể sau khi hóa trị liệu
tích cực. Đáng chú ý, cả lo lắng và trầm cảm đều có liên quan đáng kể với CLCS
kém hơn trên tất cả các lĩnh vực chức năng, sức khỏe tổng quát và hầu hết các triệu
chứng ở cả hai điều kiện cơ bản và sau hóa trị. Hỗ trợ xã hội có liên quan đến trạng


11

thái tinh thần được cải thiện, một số khía cạnh hoạt động và triệu chứng của CLCS
[32].
Nghiên cứu bệnh phối hợp ở những người mắc ung thư trên cộng đồng ở
Hàn quốc cho thấy tỉ lệ mắc rối loạn tâm thần cao nhất vào thời điểm một tháng sau
khi được chẩn đoán mắc ung thư. Rối loạn stress phản ứng và rối loạn điều chỉnh
chiếm tỉ lệ cao nhất. Trầm cảm khá cao ở nhóm trẻ trong khi lo âu cao hơn ở nhóm
người cao tuổi hơn [33].
Nhiều bằng chứng cho thấy các vấn đề về sức khỏe tâm thần bị các chuyên gia
ung thư bận rộn bỏ qua trong các quá trình chăm sóc giảm nhẹ và không giảm nhẹ.
Chỉ có thiểu số (ít hơn một phần ba) bệnh nhân nhớ lại được hỏi về cảm xúc, lo lắng
hoặc thay đổi tâm trạng. Khoảng một nửa các ghi chú y tế của bệnh nhân không có
bằng chứng về việc nhận được bất kỳ đánh giá nào về sức khỏe tâm lý xã hội [34].
Nhiều bệnh nhân có mối quan tâm về sức khỏe tâm thần không được cung cấp
phương pháp điều trị thích hợp trong khi mắc bệnh ung thư [35].

Mitchell AJ, Lord K, Symonds P đã tiếp cận 279 bệnh nhân tới ba lần trong
vòng 9 tháng kể từ lần xuất hiện đầu tiên với chẩn đoán ung thư và thu thập dữ liệu
sau tổng số 558 lần liên hệ. Sử dụng bộ công cụ là thang đo PHQ-9 và HADS-D, tỷ
lệ trầm cảm là 12,7%. Nghiên cứu này cho thấy hầu hết các triệu chứng như khó
ngủ hoặc ngủ quá nhiều; cảm thấy mệt mỏi hoặc có ít năng lượng; kém ăn hoặc ăn
quá nhiều; khó tập trung vào những thứ như đọc sách có ảnh hưởng khi chẩn đoán
trầm cảm trong bối cảnh ung thư và do đó không nên bỏ qua một cách bừa bãi, ngay
cả trong các giai đoạn giảm nhẹ. Các triệu chứng tối ưu để chẩn đoán trầm cảm sẽ
phụ thuộc vào việc một khái niệm hẹp về trầm cảm hay một khái niệm rộng về trầm
cảm được coi là quan trọng về mặt lâm sàng [36].
Một nghiên cứu sử dụng phương pháp lý thuyết cơ sở để thu thập và phân tích
dữ liệu đã được sử dụng để tìm hiểu nhận thức của các bác sĩ ung thư, nhân viên xã
hội và y tá về nguyên nhân của sự suy yếu sức khỏe tâm thần của bệnh nhân ung
thư. Sáu mươi mốt chuyên gia chăm sóc sức khỏe ung thư đã được phỏng vấn về


12

những gì họ cho là nguyên nhân của sự suy yếu sức khỏe tâm thần ở bệnh nhân của
họ. Phân tích liên quan đến mã hóa theo dòng và được quy nạp, với các mã và danh
mục nổi lên từ các câu chuyện của người tham gia. Các chuyên gia chăm sóc sức
khỏe ung thư rất nhạy cảm trong nhận thức về sự đau khổ của bệnh nhân. Các phát
hiện được tổ chức thành ba loại bao gồm các yếu tố liên quan đến bệnh tật, yếu tố
xã hội và yếu tố hiện sinh. Các chủ đề liên quan đến bệnh tật bao gồm các tác dụng
phụ của bệnh và điều trị, mất các chức năng cơ thể và các mối quan tâm về hình ảnh
cơ thể gây ra sự suy yếu về sức khỏe tâm thần của bệnh nhân. Các chủ đề liên quan
đến xã hội bao gồm căng thẳng kinh tế xã hội, cô đơn/ thiếu sự hỗ trợ xã hội và đau
khổ liên quan đến gia đình. Các chủ đề hiện sinh bao gồm sự phụ thuộc/ sợ hãi trở
thành gánh nặng, lo lắng về cái chết, đau buồn và mất mát. Những phát hiện này
nhấn mạnh sự cần thiết phải có những cuộc trò chuyện rõ ràng với bệnh nhân về

tình trạng tâm thần cũng như khám phá sự hiểu biết của họ về sự đau khổ của họ
[37].
Nghiên cứu mô tả cắt ngang về tình trạng lo âu của bệnh nhân ung thư sử
dụng thang đo Zung Self - Rating Anxiety Scale (SAS) để phỏng vấn trực tiếp 510
BN ung thư đang điều trị tại Trung tâm Y học hạt nhân và Ung Bướu – Bệnh viện
Bạch Mai cho thấy điểm lo âu trung bình của các BN tham gia nghiên cứu là 37,1
(SD = 6,5). Tỉ lệ bị lo âu của đối tượng nghiên cứu (tổng điểm > 40) là 33,53%,
trong đó 31,96% bị lo âu mức độ nhẹ; 1,57% lo âu mức độ vừa; không có trường
hợp nào cho thấy lo âu nặng và rất nặng theo thang SAS. Người bệnh nữ lo âu
nhiều hơn nam giới, đối tượng làm nội trợ và nông dân lo âu nhiều hơn những BN
làm nghề khác, BN không có BHYT, BN nghèo, không đủ khả năng chi trả lo âu
nhiều hơn so với những BN còn lại. Xét trong từng nhóm yếu tố, những BN ung thư
vú, BN nặng, BN sử dụng phương pháp phẫu thuật kết hợp xạ trị, hóa trị, BN có
thời gian điều trị > 6 tháng và những BN gặp nhiều tác dụng phụ khi điều trị cũng
cho tỷ lệ lo âu cao hơn các BN khác (p<0,001). Vì thế, các bác sĩ cần chú ý hơn tới
các vấn đề tâm lý của BN ung thư khi điều trị [38].


13

Nghiên cứu mô tả cắt ngang, với thang đo lo âu, trầm cảm của bệnh viện
HADS (Anxiety, Depression in Hospital Scale) được sử dụng để phỏng vấn 264
bệnh nhân ung thư vú tại Hà Nội. Kết quả cho thấy bệnh nhân ung thư vú có lo âu
thực sự, trầm cảm thực sự, vừa có lo âu thực sự và vừa có trầm cảm thực sự chiếm
28,8%, 15,9% 13,3% một cách tương ứng. Những yếu tố liên quan đến lo âu được
xác định là số năm học, phương pháp điều trị, trong khi đó, những yếu tố liên quan
đến trầm cảm là số năm đã học, tình trạng tham gia bảo hiểm y tế. Cần có can thiệp
thích hợp trên nhóm phụ nữ bị ung thư vú với tình trạng lo âu, trầm cảm để đảm bảo
chất lượng cuộc sống của họ [39].
Các rối loạn tâm lý là một bệnh thường gặp ở bệnh nhân ung thư và nếu không

được điều trị có khả năng tác động tiêu cực đến sự chăm sóc và phục hồi trong điều
trị ung thư của họ.


14

1.3. Các yếu tố liên quan đến chất lượng cuộc sống và sức khỏe tâm thần
Khung lý thuyết
Yếu tố xã hội

Yếu tố cá nhân

Áp lực công việc

Tuổi
Giới
Dân tộc
Nơi ở
Tình trạng hôn nhân
Thu nhập

Nhu cầu thăng tiến
Mối

quan

hệ

đồng


nghiệp/ bạn bè
Bảo hiểm y tế

SỨC KHỎE VÀ SỨC
KHỎE TÂM THẦN
BỆNH NHÂN UNG
THƯ

Yếu tố gia đình

Yếu tố sức khỏe

Điều kiện kinh tế

Bệnh mạn tính khác

Người chăm sóc

Tiền sử sức khỏe tâm

Kỳ vọng gia đình

thần


15

1.3.1. Đặc điểm cá nhân
Theo nghiên cứu “Có thể có sự khác biệt về CLCS ở các bệnh nhân ung thư
khác nhau” của R. M. McCabe và các cộng sự (2014), các đặc điểm chung của

người bệnh như tuổi, giới, điều kiện kinh tế có ảnh hưởng đến CLCS của bệnh nhân
ung thư [40].
Theo Choi et al., 2012; H. Lee & Jin, 2013, đối với bệnh nhân ung thư người
Mỹ gốc Hàn lớn tuổi, việc tìm kiếm sự hỗ trợ từ các thành viên gia đình là một
thách thức bởi vì họ không muốn trở thành gánh nặng cho con cái họ bằng cách dựa
vào chúng quá nhiều và cảm thấy ung thư là cuộc chiến của họtiền lương một mình.
Theo nghiên cứu: “Tổng quan về các yếu tố tác động đến CLCS của người
bệnh mạn tính”, tình trạng sống một mình, không có nghề nghiệp ổn định, mức
sống thấp là các yếu tố được ghi nhận có tác động tiêu cực đến cuộc sống người
bệnh ung thư. Trong khi đó, nghiên cứu không tìm thấy mối tương quan với: tuổi,
giới, nghề nghiệp, điều kiện kinh tế, bào hiểm cũng như loại ung thư và bệnh lý
kèm theo [20].
1.3.2. Tình trạng sức khỏe và bệnh tật
Tình trạng sức khoẻ và bệnh tật của bệnh nhân ung thư gồm loại ung thư, giai
đoạn ung thư, thời gian điều trị, phương pháp điều trị ung thư đều có tác động đến
CLCS của họ [41].
Theo kết quả: “Khảo sát chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung thư và một
số yếu tố ảnh hưởng tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội năm 2015’’, CLCS của bệnh
nhân có liên quan chặt chẽ với các đặc điểm về bệnh họ như giai đoạn của ung thư
và thời gian mắc bệnh, phương pháp điều trị. Người bệnh có giai đoạn bệnh nặng
hơn thì có điểm CLCS giảm hơn (điểm giảm từ 61,3 trong giai đoạn 1 về 41,6 trong
giai đoạn 4) , và thời gian điều trị càng dài thì CLCS của họ cũng giảm. Loại ung
thư và các bệnh lý kèm theo khác dù có làm CLCS của bệnh nhân thay đổi chút ít,
song không đủ mang lại sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. [10]


16

1.3.3. Yếu tố gia đình
Theo nghiên cứu “Chất lượng cuộc sống và trầm cảm của bệnh nhân ung thư

người Mỹ gốc Hàn và Người chăm sóc gia đình của họ”, Hyojin Yoon, đại học
Michigan, 2015 tổng hợp từ bảy nghiên cứu định tính cho thấy gia đình được coi là
một nguồn hỗ trợ chính và là nguồn gây căng thẳng lớn cho bệnh nhân ung thư
người Mỹ gốc Hàn. Căng thẳng cảm nhận có thể được quy cho bệnh nhân tuân thủ
các giá trị dân tộc nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thực hiện các kỳ vọng vai trò
ngay cả sau khi nhận được chẩn đoán ung thư. Nhận thức gia đình như một nguồn
gây căng thẳng cũng liên quan đến bệnh nhân. Niềm tin rằng các thành viên trong
gia đình họ không biết những gì họ thực sự trải qua. Chẳng hạn, một người sống sót
sau căn bệnh ung thư vú cho biết, gia đình tôi mong tôi làm việc và hoạt động giống
như trước khi phẫu thuật. Nó làm tôi buồn [23].
1.3.4. Yếu tố xã hội
Có bằng chứng đáng kể cho thấy rằng bệnh nhân ung thư bị suy nhược tâm lý
đáng kể và lâu dài liên quan đến các dạng ung thư khác nhau và điều trị y tế [42]
[43].
Theo nghiên cứu: “Tổng quan về các yếu tố tác động đến chất lượng cuộc
sống của người bệnh mạn tính” của Vũ Lê Ngọc và Hoàng Thy Nhạc Vũ, 2015, các
yếu tố kinh tế – văn hoá – xã hội cũng như là yếu tố liên quan đến tình trạng sức
khoẻ của người bệnh có tác động đến sự thay đổi chất lượng sống của người bị bệnh
mãn tính, trong đó có ung thư [20].
1.4. Một số thông tin về địa điểm nghiên cứu
Bệnh viện Ung Bướu Hà Nội ở địa chỉ 42A Thanh Nhàn, phường Thanh Nhàn,
quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội. Bệnh viện Ung Bướu Hà Nội là bệnh viện
chuyên khoa hạng I, tuyến cuối trong việc khám và điều trị ung thư cho các tỉnh
thành phía Bắc và miền Trung.
Bệnh viện Ung Bướu Hà Nội được tách ra từ khoa Khối U của bệnh viện
Thanh Nhàn và được thành lập theo quyết định số 99/2000/QĐ-UB ngày 8/11/2000
của Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội, có vị trí dễ dàng tìm thấy, nằm gần những


17


trục đường lớn như Trần Khát Chân, Kim Ngưu, thuận lợi cho bệnh nhân di chuyển
cả bằng xe máy hoặc ô tô. Với những nỗ lực không ngừng phát triển về mọi mặt
trong chăm sóc sức khỏe cho người bệnh, Bệnh viện Ung Bướu Hà Nội được Bộ Y
tế tin tưởng giao tiếp nhận, khám và điều trị cho người bệnh ung thư có thẻ bảo
hiểm y tế và không có thẻ bảo hiểm y tế từ các tỉnh miền Bắc và miền Trung như
một bệnh viện tuyến cuối trong điều trị ung thư (Văn bản số 6038/BYT-BH ngày
01/9/2008 của Bộ Y tế). Mặt khác, với những nỗ lực không ngừng cùng người bệnh
để giành hy vọng sống, Bệnh viện Ung Bướu Hà Nội đã được Ủy ban nhân dân
thành phố Hà Nội công nhận là bệnh viện hạng I theo Quyết định số 7401/QĐUBND ngày 04/12/2013.
Từ khi thành lập và phát triển, cho đến nay, Bệnh viện Ung Bướu Hà Nội đã
có một đội ngũ gần 400 cán bộ, y bác sỹ có trình độ chuyên môn cao, cơ sở vật chất
và trang thiết bị hiện đại, đồng bộ. Cơ cấu tổ chức gồm có:




















Ban Giám đốc
08 Phòng chức năng
07 Khoa cận lâm sàng
Khoa Xét nghiệm
Khoa Giải phẫu bệnh – Tế bào
Khoa Chẩn đoán hình ảnh
Khoa Nội soi – Thăm dò chức năng
Khoa Dược
Khoa Kiểm soát nhiễm khuẩn
Khoa Dinh dưỡng – Tiết chế
16 Khoa lâm sàng
Khoa Khám bệnh
Khoa Phẫu thuật – Gây mê hồi sức
Khoa Ngoại tổng hợp
Khoa Ngoại đầu cổ
Khoa Ngoại vú – Phụ khoa
Khoa Nội I
Khoa Nội II
Khoa Xạ trị
Khoa chăm sóc giảm nhẹ
Khoa Y học hạt nhân
Đơn nguyên Khám bệnh theo yêu cầu


18








Đơn nguyên Ngoại theo yêu cầu
Đơn nguyên Nội theo yêu cầu 1
Đơn nguyên Nội theo yêu cầu 1
Đơn nguyên Nội trú ban ngày theo yêu cầu
Đơn nguyên Chăm sóc đặc biệt theo yêu cầu
Mỗi chuyên khoa được phân công giữ vai trò khác nhau nhưng vẫn là một hệ

thống liên kết chặt chẽ và hỗ trợ nhau trong quá trình điều trị và phục hồi cho bệnh
nhân.


19

CHƯƠNG 2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Các bệnh nhân từ 16 tuổi trở lên được chẩn đoán mắc ung thư, nhập viện lần
đầu tại bệnh viện ung bướu Hà Nội từ thứ 2 đến thứ 6 trong giai đoạn từ ngày 1
tháng 7 năm 2019 đến ngày 15 tháng 8 năm 2019
Tiêu chuẩn loại trừ:
- Bệnh nhân không đồng ý tham gia nghiên cứu.
- Bệnh nhân tái nhập viện trong thời gian thu thập số liệu.
- Bệnh nhân bị bệnh cấp và mạn tính nặng, hạn chế giao tiếp không thể trả lời
bộ câu hỏi.
- Bệnh nhân mang thai và nuôi con bú
2.2. Địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện tại bệnh viện Ung bướu Hà Nội

2.3. Thời gian nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 4/2019 – 2/2020
2.4. Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả cắt ngang có phân tích
2.5. Cỡ mẫu
Nghiên cứu áp dụng công thức tính cỡ mẫu ước lượng một tỷ lệ:
n = Z2(1-α/2)

p x (1 – p)
(p x )2

Trong đó:
n: cỡ mẫu tối thiểu cần thiết
α: là mức ý nghĩa thống kê, lấy α = 1%
Z: hệ số tin cậy, nếu lấy α = 0,01 thì Z = 2,58 tương ứng với độ tin cậy 99%
: khoảng sai lệch tương đối mong muốn, lấy  = 0,2
p = 0,394 Tỷ lệ người bệnh ung thư có vấn đề sức khoẻ tâm thần, theo nghiên
cứu trước là 39,4%
Thay vào công thức trên ta được n = 266


×