BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
**********
LƯƠNG THỊ YẾN
PHÁT HIỆN KÝ SINH TRÙNG GHẺ
BẰNG DERMOSCOPY VÀ KỸ THUẬT SOI TƯƠI
ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SỸ
2
2
HÀ NỘI – 2019
3
3
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
**********
LƯƠNG THỊ YẾN
PHÁT HIỆN KÝ SINH TRÙNG GHẺ
BẰNG DERMOSCOPY VÀ KỸ THUẬT SOI TƯƠI
Chuyên ngành : Da liễu
Mã số
: 8720401
ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SỸ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS.PHẠM THỊ MINH PHƯƠNG
4
4
HÀ NỘI – 2019
5
5
MỤC LỤC
6
6
DANH MỤC CÁC BẢNG
7
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh ghẻ là một bệnh lây nhiễm ngoài da do loài ký sinh trùng trong nhóm ve
bét, thuộc ngành chân khớp kí sinh trên da, có tên khoa học Sarcoptes scabiei var
hominis.
Bệnh có mặt ở khắp mọi Châu lục trên thế giới, ước tính có hơn 130 triệu
người lây nhiễm hàng năm. Fuller and Claire tỷ lệ mắc ghẻ thay đổi từ 0,3% - 46%
dân số[1]. Bệnh gặp mọi lứa tuổi, giới tính, ở những nơi đông đúc, điều kiện vệ sinh
kém, nguồn nước thiếu, môi trường ô nhiễm.
Bệnh ghẻ lây từ người này qua người khác qua tiếp xúc trực tiếp (bắt tay,
bồng, bế, ẵm, hoặc do dùng chung quần áo, khăn choàng, găng tay, chăn đệm,
giường, chiếu, gối) với người nhiễm bệnh. Bệnh có thể phát triển thành dịch ở các
điều kiện thời điểm chiến tranh, dân di cư, sau kỳ nghỉ hè, nhập ngũ, trại giam, tụ
điểm mại dâm. Bệnh ghẻ ảnh hưởng đến mọi người dân ở tất cả các nước, nghèo
đói và tình trạng sống quá đông người là những yếu tố nguy cơ chính, góp phần
bùng phát dịch bệnh ở các khu vực trại tị nạn.
Biểu hiện bệnh rất đa dạng với các triệu chứng điển hình là mụn nước, luống
ghẻ, sẩn cục do ghẻ ớ các vị trí đặc hiệu như các nếp kẽ, vùng da mỏng, lòng bàn
tay, lòng bàn chân, vùng sinh dục… Bệnh ghẻ gây ngứa dữ dội, ảnh hưởng nghiêm
trọng đến giấc ngủ và chất lượng cuộc sống. Tại vị trí ghẻ ký sinh, đôi khi có hàng
ngàn con ghẻ, điều này dẫn đến dễ có nguy cơ lây nhiễm rất cao.
Các biến chứng và các hậu quả thứ phát của ghẻ gây ra một gánh nặng y tế
cộng đồng, nhiễm trùng thứ phát trên da thường do hai loại vi khuẩn hay
gặp Streptococcus pyogenes và Staphylococcus aureu[2,3]. Bệnh ghẻ mang đến
gánh nặng kinh tế đối với các cá nhân, gia đình, xã hội và cả hệ thống y tế. Các gia
đình ở trong vùng lưu hành bệnh dành một phần thu nhập đáng kể để điều trị, làm
ảnh hưởng đến cuộc sống hàng ngày của người bệnh. Chẩn đoán và quản lý tốt ca
bệnh là cần thiết nhằm cắt đứt nguồn lây và loại trừ bệnh.
8
Có nhiều phương pháp chẩn đoán bệnh ghẻ với tiêu chuẩn vàng là tìm thấy cái
ghẻ. Trong thực hành lâm sàng soi tươi tìm dưới kính hiển vi, có thể thấy cái ghẻ,
trứng ghẻ, chất cặn thải của cái ghẻ. Cùng với sự phát triển của y học ứng dụng
máy soi da Dermoscopy trong chẩn đoán bệnh ghẻ là phương pháp mới không xâm
lấn, không gây đau đớn[9], kết quả nhanh, hiệu quả cao tại bệnh viện Da liễu Trung
Ương. Có nhiều báo cáo trường hợp về kinh nghiệm chẩn đoán bệnh ghẻ bằng soi
da trên thế giới: Các nghiên cứu của Walter và cộng sự[9] và Dupuy[19] đã cho thấy
soi da là một phương pháp chẩn đoán ghẻ có hiệu quả.
Hiện nay ở Việt Nam chưa có nghiên cứu nào so sánh phương pháp chẩn đoán
bệnh ghẻ, chúng tôi thực hiện đề tài “Phát hiện ký sinh trùng ghẻ bằng
Dermoscopy và kỹ thuật soi tươi” với mục tiêu:
1. Đặc điểm lâm sàng bệnh ghẻ trên bệnh nhân đến khám tại bệnh viện Da
liễu Trung Ương.
2. So sánh kết quả phát hiện ký sinh trùng ghẻ của Dermoscopy với kỹ thuật
soi tươi.
9
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
Căn nguyên và cơ chế bệnh sinh
Căn nguyên
Bệnh ghẻ được phát hiện hơn 2500 năm, từ thời La Mã cổ đại. Thời đó, người
La Mã sử dụng thuật ngữ bệnh ghẻ để ám chỉ bất kỳ bệnh da nào gây ngứa. Bệnh
ghẻ là một bệnh nhiễm ký sinh trùng ở da, gây nên bởi sự xâm nhập của một loài ký
sinh bắt buộc ở lớp thượng bì có tên khoa học là Sarcoptes scabiei được xác định
lần đầu vào những năm 1600 nhưng không được xem là nguyên nhân gây bệnh ở da
cho tới những năm 1700 Giovani Cosimo Bonomo mới tìm ra côn trùng Sarcoptes
scabiei là nguyên nhân của bệnh ghẻ[5-7].
Tính chất sinh vật học của ghẻ là: thuộc giới động vật, ngành Arthropoda, lớp
Arachnida, bộ Astigmata, họ Sarcoptidae, chi Sarcoptes, loài Sarcoptes scabiei. Qua
nhiều nghiên cứu thấy chỉ cái ghẻ mới gây bệnh, ghẻ đực không gây bệnh vì đã chết
sau khi giao hợp.
Cái ghẻ hình bầu dục, kích thước 0,3-0,5mm đường kính(mắt thường có thể
thấy như một điểm trắng di động), có 8 chân, 2 đôi chân trước có ống giác, 2 đôi
chân sau có lông tơ, đầu có vòi để hút thức ăn, đòng thời để đào đường hầm trong
da[8]. Chu kỳ toàn bộ cuộc sống cái ghẻ kéo dài 30 ngày nếu cư trú ở thượng bì.
Ghẻ cái sinh ở lớp sừng của thượng bì, đào hang về ban đêm, đẻ trứng về ban
ngày, mỗi ngày ghẻ cái đẻ 1- 5 trứng, 72 - 96 giờ nở thành ấu trùng, sau 5 - 6 lần lột
xác(trong vòng 20 - 25 ngày) trở thành cái ghẻ trưởng thành, sau đó bò ra khỏi
hang, giao hợp và tiếp tục đào hầm, đẻ trứng mới. Khoảng 10% kết quả trứng đậu
thành cái ghẻ trưởng thành.
Cái ghẻ di chuyển qua các lớp trên cùng của da bằng cách tiết enzym proteases
để làm suy giảm tầng lớp sừng. Chúng ăn các mô bị phân hủy nhưng không ăn máu,
chúng di chuyển thông qua các lớp biểu bì, tạo ra các tổn thương hang và để lại sau
phân của chúng.
10
Ban đêm ghẻ cái bò ra khỏi hang tìm ghẻ đực, đây là lúc ngứa nhất, dễ lây
truyền nhất, vì ngứa phải gãi làm vương vãi cái ghẻ ra quần áo, giường chiếu, chăn
màn...cái ghẻ sẽ chết sau khi rời vật chủ 4 ngày. Số lượng trung bình cái ghẻ trên
vật chủ thường ít hơn 20 con, trừ trường hợp ghẻ vảy Na Uy có thể có tới hàng triệu
con cái ghẻ. Nhìn chung, ghẻ cái sinh sôi nảy nở rất nhanh, trong điều kiện thuận lợi
từ một con ghẻ cái, sau 3 tháng có thể lên tới 150 triệu con[8,20,21].
Cái ghẻ có nhiều loài, có loài gây bệnh ở người, có loài gây bệnh ở súc vật:
ngựa, cừu, dê, lợn...Cái ghẻ gây bệnh ghẻ cho súc vật cũng có thể truyền bệnh cho
người, nó thường không có đường hầm và tổn thương có vảy. Riêng loại ghẻ ở lạc
đà thì cái ghẻ giống ở người và có thể lây bệnh.
Cơ chế bệnh sinh
Ghẻ cái không thể bay hay nhảy được, chu kì toàn bộ cuộc sống của chúng
kéo dài 30 ngày nếu cư trú ở trong và trên lớp thượng bì. Cái ghẻ di chuyển qua các
lớp trên cùng của da bằng cách tiết enzyme proteases để làm suy giảm tầng lớp
sừng, đào luống ở lớp sừng, đào luống ở lớp sừng trong vòng 20 phút, ăn các mô bị
phân hủy nhưng không ăn máu. Cái ghẻ di chuyển thông qua các lớp biểu bì, tạo ra
các tổn thương hang và để lại phân của chúng.
Ghẻ cái sinh ở lớp sừng của thượng bì, đào hang về ban đêm, đẻ trứng về ban
ngày, mỗi ngày ghẻ cái đẻ 1- 5 trứng, 72 - 96 giờ nở thành ấu trùng, sau 5 - 6 lần lột
xác(trong vòng 20 - 25 ngày) trở thành cái ghẻ trưởng thành, sau đó bò ra khỏi
hang, giao hợp và tiếp tục đào hầm, đẻ trứng mới. Khoảng 10% kết quả trứng đậu
thành cái ghẻ trưởng thành.
Cái ghẻ di chuyển qua các lớp trên cùng của da bằng cách tiết enzym proteases
để làm suy giảm tầng lớp sừng. Chúng ăn các mô bị phân hủy nhưng không ăn máu,
chúng di chuyển thông qua các lớp biểu bì, tạo ra các tổn thương hang và để lại sau
phân của chúng.
Ban đêm ghẻ cái bò ra khỏi hang tìm ghẻ đực, đây là lúc ngứa nhất, dễ lây
truyền nhất, vì ngứa phải gãi làm vương vãi cái ghẻ ra quần áo, giường chiếu, chăn
11
màn... cái ghẻ sẽ chết sau khi rời vật chủ(sống ngoài cơ thể) được 2-3 ngày hoặc
chết ở nhiệt độ từ 60 độ trở lên [8,13,20]. Số lượng trung bình cái ghẻ trên vật chủ
thường ít hơn 20 con, trừ trường hợp ghẻ vảy Na Uy có thể có tới hàng triệu con cái
ghẻ. Nhìn chung, ghẻ cái sinh sôi nảy nở rất nhanh, trong điều kiện thuận lợi từ một
con ghẻ cái, sau 3 tháng có thể lên tới 150 triệu con[8,20,21].
Lây truyền: bệnh ghẻ lây qua tiếp xúc trực tiếp với người bệnh, nằm chung
giường, mặc chung quần áo, dùng chung khăn tắm, tổn thương ghẻ thường ở vùng
da mỏng có nhiều nếp nhăn. Hầu hết sự lây truyền bệnh ghẻ xảy ra mang tính chất
gia đình, tập thể. Bệnh hay gặp vào mùa xuân hè và có thể trở thành dịch lưu hành
địa phương hoặc xảy ra ở các đơn vị tập thể như doanh trại, trại giam, ký túc xá…
[8].
Ngoài ra, ghẻ có thể lây truyền qua tiếp xúc da-da khi qua hệ tình dục nên có
thể xếp vào nhóm bệnh lây truyền qua đường tình dục(STDs).
. Đặc điểm dịch tễ học bệnh ghẻ
Tình hình bệnh ghẻ trên thế giới
Bệnh ghẻ ảnh hưởng đến mọi người dân ở tất cả các quốc gia, mọi dân tộc,
mọi lứa tuổi cả nam và nữ. Tuy nhiên theo TCYTTG thì nhóm người dễ bị tổn
thương nhất ở các quốc gia nghèo đói với bệnh ghẻ là trẻ nhỏ (tỷ lệ mắc bệnh trung
bình từ 5-10%) và người cao tuổi. Ngoài ra, chẩn đoán bệnh ghẻ ở trẻ sơ sinh hoặc
người già có thể khó khăn vì các đặc điểm lâm sàng ở các nhóm tuổi này có thể
khác với những người trưởng thành bình thường[36]. Cho rằng hầu hết các bác sĩ da
liễu dựa vào các phát hiện lâm sàng hoặc cạo da trong chẩn đoán bệnh ghẻ, có thể
khó phân biệt bệnh ghẻ với các bệnh da liễu khác trong những trường hợp như vậy.
Tỷ lệ nhiễm bệnh cao thường xảy ra ở các nước có khí hậu nhiệt đới, nơi tồn tại
nhiều mầm bệnh, vùng dân cư đông đúc, nhà ở chật hẹp, thiếu vệ sinh, thiếu nước
sinh hoạt. Ở một số cộng đồng khu vực Nam Thái Bình Dương và phía bắc nước
Úc, tỷ lệ này chiếm khoảng 25% tổng số ca, đặc biệt có nơi lên đến 50%. Ở vùng
nông thôn tỷ lệ ghẻ khoảng 7,6% và thành thị là 5%.
12
Theo TCYTTG, bệnh ghẻ là một trong những bệnh phổ biến nhất trên toàn
cầu, nhất là ở các nước đang phát triển. Vào năm 1995, Orkin.M đã ước tính có
khoảng 300 triệu người trên toàn thế giới đã bị nhiễm ký sinh trùng ghẻ[9]. Trong
quá khứ, bệnh xảy ra trong vòng chu kỳ mỗi 15 năm, đợt dịch mới nhất bắt đầu vào
cuối thập kỷ 60 nhưng vẫn tiếp tục cho đến ngày nay và hàng năm ước tính có hơn
130 triệu người trên thế giới bị lây nhiễm ghẻ. Các tài liệu gần đây chỉ ra rằng, tỷ lệ
nhiễm ghẻ có thể thay đổi từ 0,3% đến 46% dân số. Ở các khu vực nhiệt đới, nguồn
lực còn hạn chế, thì gánh nặng của bệnh ghẻ, cũng như các biến chứng của chúng là
một chi phí lớn đối với hệ thống chăm sóc sức khỏe[10]. Trong năm 2010, ước tính
những ảnh hưởng trực tiếp do sự lây lan của bệnh ghẻ đã dẫn đến hơn 1,5 triệu tỷ
YLDs(số năm sống với tàn tật) và những ảnh hưởng gián tiếp của các biến chứng từ
ghẻ: nhiễm khuẩn huyết, bệnh tim mạch, bệnh thận mạn tính[11].
Theo một nghiên cứu tổng quan hệ thống, tỷ lệ mắc bệnh ghẻ trên toàn thế
giới thực sự chưa có kết quả chính xác. Tỷ lệ người nhiễm ghẻ trên toàn cầu dao
động từ 0,2% đến 71,4%. Tất cả các khu vực ngoại trừ Châu Âu và Trung Đông, thì
đều có tỷ lệ nhiễm ở quần thể luôn cao hơn 10%. Nhìn chung, tỷ lệ mắc bệnh ghẻ
cao nhất ở khu vực Thái Bình Dương và Châu Mỹ La Tinh; đối tượng nguy cơ cao
là thanh thiếu niên và người trưởng thành[12].
Một nghiên cứu tổng quan hệ thống khác thực hiện năm 2013 nhằm tìm hiểu
đặc điểm dịch tễ học của bệnh ghẻ ở các nước đang phát triển cho thấy: tỷ suất
nhiễm ghẻ là rất khác nhau, từ 2,71 -46 người trên 1000 dân[1]. Và tỷ lệ hiện mắc
ghẻ ở các khu vực nghèo đói chiếm từ 20% dân số[13].
Số liệu TCYTTG năm 2005, tổng hợp từ 18 nghiên cứu về tỷ lệ bệnh về da ở
trẻ em thuộc 18 quốc gia đang phát triển cho thấy bệnh về da của trẻ em chiếm tỷ lệ
rất cao, từ 21-87%, trong đó các bệnh da do nhiễm trùng gặp rất phổ biến.
Ước tính, có khoảng 300 triệu người trên toàn thế giới bị nhiễm KST ghẻ. Tác
giả Fuller năm 2013 cho rằng tỷ lệ mắc bệnh ghẻ rất khác nhau, giao động từ
2,71/1000 tới 46% và vẫn là một gánh nặng bệnh tật lớn, đặc biệt là ở các nước
13
đang phát triển[1]. Ghẻ ảnh hưởng tới mọi tầng lớp xã hội, trong đó trẻ em và phụ
nữ dễ bị cảm nhiễm hơn. Bệnh có xu hướng lưu hành nhiều hơn ở vùng thành thị,
đặc biệt là các vùng đông đúc dân cư, điều kiện vệ sinh kém, bệnh vào mùa đông
nhiều hơn mùa hè. Tỷ lệ mắc bệnh ghẻ đã tăng lên trong hai thập kỷ qua. Ở các
nước phát triển, bệnh ghẻ vẫn là một trong những bệnh da liễu phổ biến, ảnh hưởng
nhiều tới chất lượng cuộc sống, chi phí điều trị cao. Sự lan truyền ký sinh trùng chủ
yếu do tiếp xúc gần gũi với người mang mầm bệnh hoặc qua trung gian là các vật
dụng dính trứng ghẻ, cái ghẻ.
Tình hình bệnh ghẻ tại Việt Nam
Ở nước ta, bệnh ghẻ vẫn còn lưu hành khắp các vùng trong cả nước, ngay cả
những thành phố lớn, bệnh hiện vẫn còn đang tồn tại[8]
Theo điều tra cơ cấu bệnh ngoài da của Bộ môn Da Liễu, Học Viện Quân Y
giai đoạn 1992-1994 trên 13đơn vị cho thấy bệnh ghẻ là một trong 4 bệnh ngoài da
phổ biến nhất trong quân đội bao gồm: nấm da, ghẻ, eczema và viêm da mủ, chỉ
đứng thứ 2 sau bệnh nấm da[14]. Khảo sát trên người nghiện ma túy tại Trung tâm
cai nghiện ma túy Bình Triệu nhận thấy: hầu hết 90-100% bệnh nhân nhiễm HIV có
bệnh da phối hợp, trong đó bệnh ghẻ chiếm tỷ lệ cao(49,6% ổ người nhiễm HIV).
Ngày nay, ghẻ Na Uy được xem là dấu hiệu chỉ điểm của nhiễm HIV chuyển qua
giai đoạn AIDS(hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải). [15]
Theo nghiên cứu của Phạm Hoàng Khâm, tỷ lệ bệnh ghẻ chiếm 3,56% tổng số
người mắc bệnh da liễu, đứng hàng thứ 4 trong các bệnh da liễu thường gặp trong
quân đội[16]. Với kết quả nghiên cứu của Lê Bách Quang thì trong 293 bệnh nhân
tham gia thì có 36 trường hợp mắc bệnh ghẻ, chiếm 12,3%[17]. Bệnh viện Da liễu
Thành Phố Hồ Chí Minh đã thống kê được rằng: bệnh ghẻ chiếm tỷ lệ 3,9% tổng số
bệnh nhân đến khám[18]
14
Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng[14], [23], [24]
Đặc điểm lâm sàng ghẻ
* Thời kỳ ủ bệnh: ở từng người khác nhau phụ thuộc vào khả năng miễn dịch với
ghẻ thhay đổi từ 2-40 ngày, trung bình từ 10-15 ngày.
- Nhiễm ghẻ lần đầu khoảng 21 ngày
- Tái nhiễm ghẻ, ngay lập tức, thường là từ 1-3 ngày
* Tổn thương đặc hiệu: luống ghẻ và mụn nước(còn gọi là mụn trai và đường hang)
- Mụn nước trong bệnh ghẻ thường nhỏ, mọc rải rác, trong như hạt ngọc (nếu
chưa bị bội nhiễm), nhỏ bằng hạt tấm, không bao giờ mọc thành chùm, thường mọc
vùng da non. Mụn nước sắp xếp rải rác, riêng rẽ ở vùng da mỏng như kẽ ngón tay,
đường chỉ lòng bàn tay, mặt trước cổ tay, cẳng tay, nếp vú, quanh thắt lưng, rốn, kẽ
mông, mặt trong đùi và bộ phận sinh dục. Ở trẻ sơ sinh mụn nước có thể xuất hiện ở
lòng bàn chân. Ở quy đầu, ghẻ có thể gây ra vết trợt được gọi là săng ghẻ, dễ nhầm
với săng giang mai.
- Hang do cái ghẻ đào ở lớp sừng là một đường cong ngoằn ngoèo hình chữ
chi, dài 2-3cm, gờ cao hơn mặt da, màu trắng đục hay trắng xám, không khớp với
hằn da, ở đầu đường hang có mụn nước 1-2 mm chính là nới cư trú của cái ghẻ.
Đường hầm thường hiếm thấy, khi thấy đường hầm chẩn đoán xác định bệnh
ghẻ. Luống ghẻ do ghẻ cái tạo thành dài, 3-5mm, bên trên mặt da là một mụn nước
nhỏ, lấy kim chích dịch chay ra, để lộ màu xám hoặc đen, dùng kim khêu sẽ bắt
được cái ghẻ bám trên đầu kim. Đường hầm thường tìm thấy ở kẽ ngón tay, đường
chỉ lòng bàn tay, nếp gấp cổ tay và quy đầu.
- Sẩn cục hay sẩn huyết thanh: hay gặp ở nách, bẹn, bìu.
Tổn thương thứ phát thường do gãi ngứa gây nên, bao gồm: vết xước gãi, vết
trợt, sẩn, vẩy tiết, mụn nước, mụn mủ, chốc, nhọt..., sẹo thâm màu, nhạt màu tạo
nên hình ảnh được ví như bức tranh “khảm xà cừ” “hình hoa gấm”.
15
- Ghẻ tăng sừng hóa ghẻ vảy, những tác nhân trước phơi nhiễm: điều trị bằng
glucocorticoid dài ngày, suy giảm miễn dịch HIV/AIDS, người được ghép tạng, suy
dinh dưỡng…người bị ghẻ vảy thường bị hoặc có rối loạn hệ thần kinh như hội
chứng Down, bệnh mất trí nhớ, đột quỵ, tổn thương tủy sống, bệnh thần kinh, bệnh
phong…
Có thể khởi phát như ghẻ bình thường, ở các trường hợp khác, biểu hiện lâm
sàng là ezema mạn tính, viêm da dạng vảy nến, viêm da tiết bã hoặc chứng đỏ có
vảy. Tổn thương thường xuất hiện ở dạng sừng hóa và/ hoặc đóng vảy.Thương tổn
cơ bản là các lớp vảy chồng lên nhau và lan tỏa gần như toàn thân, có thể tìm thấy
hàng ngàn cái ghẻ trong các vẩy nhỏ này. Tại các khu vực bị nhiễm ghẻ vảy nặng,
các mảng có ranh giới rõ được bao phủ bởi một lớp vảy rất dày.
Ở tay, chân gây nên bệnh da dạng hạt cơm, với giường móng tăng sừng. Phản
ứng ban đỏ có vảy xuất hiện ở trên mặt, cổ, da đầu và thân mình.
* Triệu chứng cơ năng:
Ngứa: nhiều nhất về đêm, lúc đi ngủ do cái ghẻ di chuyển gây kích thích đầu
dây thần kinh cảm giác ở da và một phần do độc tố ghẻ cái tiết ra khi đào hang.
Ngứa gãi gây nhiễm khuẩn và có thể sốt.
Người bị nhiễm ký sinh trùng ghẻ lần đầu tiên trong vòng 2 tuần đầu hoàn
toàn chưa có biểu hiện ngứa mặc dù ngứa ghẻ được so sánh với đau đẻ và đòn ghen.
Nhưng do có thể mới bị ghẻ xâm nhập nên chưa có sự phản ứng lại nên chưa thấy
ngứa, điều đó lý giải tại sao một số bệnh nhân có tổn thương ghẻ thực sự mà hoàn
toàn chưa thấy ngứa.
Những người bị tái nhiễm ghẻ thì xuất hiện ngứa dữ dội ngay từ khi cái ghẻ
xâm nhập vào da.
* Triệu chứng thực thể
Vị trí tổn thương đặc hiệu: lòng bàn tay, kẽ ngón tay, ngấn cổ tay, mu tay, bờ
trước nách, quanh rốn, mông, 2 chân, đặc biệt nam giới hầu như đều có tổn thương
16
ở bao quy đầu, thân dương vật. Phụ nữ còn bị ở núm vú, trẻ em còn bị ở gót chân,
lòng bàn chân, ghẻ ít khi có tổn thương ở đầu mặt.
Cận lâm sàng
Có rất nhiều phương pháp xét nghiệm phát hiện ký sinh trùng ghẻ
* Tìm thấy luống ghẻ, khêu được cái ghẻ là chính xác nhất
* Soi tìm ký sinh trùng: dưới kính hiển vi quang học.
- Vị trí: kẽ ngón tay, vùng gấp cổ tay, và dương vật. Chẩn đoán là bệnh ghẻ
nếu thấy 3 phát hiện sau: trứng ghẻ, cái ghẻ và phân của chúng (hòn phân). Các
bước tiến hành:
- Soi dưới kính hiển vi:
+ Kỹ thuật lấy bệnh phẩm:
Xác định luống ghẻ: là đường chỉ nhỏ ngoằn ngoèo dài 3 – 10mm, có màu
xám hoặc đen. Cuối luống ghẻ có điểm phình to, nếu lấy kim khêu có thể bắt được
cái ghẻ.
Có thể tìm ký sinh trùng ghẻ ở một số vị trí khác như mụn nước, sẩn, săng ở
quy đầu.
Xác định ký sinh trùng ghẻ: dùng kim khêu vào điểm phình to cuối luống ghẻ
có thể bắt được ký sinh trùng ghẻ bám trên đầu kim, cho lên lam kính đã nhỏ sẵn
một giọt KOH hoặc parafin
+ Nhận định kết quả
Ký sinh trùng ghẻ có các đặc điểm sau: cơ thể không chia làm 3 phần rõ rệt.
Kích thước: ghẻ cái là 250-300 micromet, ghẻ đực là 150-220 micromet.
Ngoài ra có thể tìm thấy các thành phần khác như trứng, ấu trùng hoặc phân ghẻ.
- Hang ghẻ: tổn thương nằm trong lớp sừng, cái ghẻ nằm ở cuối hang. Thân
tròn, dài 400 micromet. Mụn nước xuất hiện gần cái ghẻ, trứng cũng được nhìn
thấy, hạ bì bị xâm nhập bởi bạch cầu ái toan.
17
- Sẩn ghẻ: thâm nhiễm viêm mạn tính dày đặc bạch cầu ái toan. Trong một số
trường hợp, phản ứng với ghẻ dai dẳng như u lympho tế bào đơn nhân không điển hình.
-
Bệnh ghẻ vảy: lớp sừng dày bị làm thủng bởi vô số cái ghẻ
- Huyết học: Tăng bạch cầu ái toan trong ghẻ vảy
- Nuôi cấy: tụ cầu vàng và GAS là nguyên nhân gây nhiễm trùng thứ phát
Các xét nghiệm cận lâm sàng bổ sung chẩn đoán: miễn dịch IgE và kỹ thuật
PCR để khẳng định. Tuy nhiên chi phí các phương pháp này khá cao nên hiện nay
vẫn chưa được áp dụng nhiều tại Việt Nam. Mặt khác, không phải lúc nào xét
nghiệm cũng tìm thấy cái ghẻ và trứng. Vì vậy chẩn đoán bệnh chủ yếu sẽ dựa vào
các đặc điểm lâm sàng và tính chất dịch tễ của bệnh[8,27,28].
* Giải phẫu bệnh:
- Hang ghẻ nằm trong lớp sưmgf, cáin ghẻ nằm ở cuối hang
- Sẩn ghẻ: thâm nhiễm viêm mạn tính dày đặc bạch cầu ái toan
- Bệnh ghẻ vảy: lớp sừng dày bị làm thủng bởi vô số cái ghẻ
* Dermoscopy: trình bày ở phần sau
. Chẩn đoán ghẻ
* Chẩn đoán xác định:
Dựa vào triệu chứng lâm sàng, yếu tố dịch tễ và phát hiện thấy ký sinh trùng
ghẻ trên kính hiển vi hoặc Dermoscopy. Trường hợp xét nghiệm không thấy ký sinh
trùng ghẻ nhưng dịch tễ và lâm sàng ghi ngờ, các xét nghiệm cần được làm lại[45].
* Chẩn đoán phân biệt[45]
- Sẩn ngứa
- Tổ đỉa
- Săng giang mai, giang mai II
- Ghẻ vảy: vảy nến, viêm da cơ địa, viêm da tiết bã
18
. Các thể và mức độ bệnh
* Các thể bệnh
• Ghẻ giản đơn: chỉ có đường hang và mụn nước, ít có tổn thương thứ phát.
• Ghẻ nhiễm khuẩn: có tổn thư¬ơng của ghẻ, mụn mủ do bội nhiễm liên cầu, tụ cầu,
có thể gặp biến chứng viêm cầu thận cấp.
• Ghẻ biến chứng viêm da, eczema hoá: do chà xát cào gãi lâu ngày
• Ghẻ nhiễm khuẩn có biến chứng viêm cầu thận cấp.
• Ghẻ Na Uy (Norwrgian) – ghẻ vảy: khác với ghẻ thông thường, tổn thương ghẻ không
phải là mụn nước mà là đám vảy tiết lẫn vảy da dày giống như bệnh vảy nến.
• Tổn thương cả ở dưới móng, mặt và đầu. Điều đặc biệt là triệu chứng ngứa rất nhẹ
nhưng lại rất nhiều cái ghẻ nằm trong đám vảy tiết. Ghẻ vảy rất hiếm gặp chỉ thấy ở
những người có miễn dịch kém như: bệnh nhân AIDS, hội chứng đao, người bệnh
tâm thần phân liệt.
* Mức độ:
- Mức độ bệnh:
+ Mức độ nhẹ: Thương tổn chỉ khu trú ở tay (có thể kèm chàm hóa, bội nhiễm
tại chỗ);
+ Mức độ trung bình: Thương tổn khu trú ở tay, chân, đùi, mông (có thể có
chàm hóa, bội nhiễm tại chỗ);
+ Mức độ nặng: Thương tổn có ở toàn thân (có thể có chàm hóa, bội nhiễm
kèm theo).
- Mức độ ngứa:[16]
+ Ngứa nhiều: lúc nào cũng ngứa, không ngủ được
+ Ngứa vừa: ngứa ở hai thời điểm trong ngày trở lên, ngủ được
19
+ Ngứa ít: ngứa ở một thời điểm ngủ được
Điều trị bệnh ghẻ
Điều trị bệnh ghẻ tương đối dễ dàng, chỉ cần diệt hết cái ghẻ và phòng tránh
không bị tái nhiễm. Hầu hết những phương pháp điều trị đều cho đáp ứng tốt, bệnh
có thể khỏi hoàn toàn nhưng đôi khi cũng cần điều trị đợt hai cách một thời gian sau
đó khoảng từ 2 - 7 ngày.
* Nguyên tắc
- Phát hiện sớm, điều trị sớm khi chưa có biến chứng
- Điều trị tất cả những người bị ghẻ sống chung cùng một lúc
- Nên tầm soát các bệnh lây truyền qua đường tình dục với những người bệnh
trên 18 tuổi[8]
- Điều trị kết hợp với phòng bệnh chống lây lan. Cách ly người bệnh, giặt luộc, là,
phơi nắng quần áo, chăn màn, đồ dùng. Không dùng chung quần áo, ngủ chung.
* Thuốc đông y: lá cây ba gạc, lá đào đun nước tắm, kèm theo tinh dầu nhựa
cây máu chó bôi tại chỗ ngày một lần vào buổi tối, hoặc tắm biển hoặc nước muối
khoảng một tuần. Giặt sạch, phơi khô quần áo chăn màn[8]
* Phương pháp Tây y
Ở người lớn, các thuốc diệt ghẻ tại chỗ nên sử dụng khắp bề mặt da, trừ vùng
mặt và da đầu, và đặc biệt chú ý tới các vùng nếp kẽ, vùng sinh dục, quanh móng,
sau tai. Ở trẻ em và những bệnh nhân ghẻ vảy, cần điều trị cả vùng mặt và da đầu.
Bệnh nhân cần được tư vấn rằng, thậm chí khi đã điều trị đầy đủ, các dát và ngứa có
thể kéo dài sau đó 4 tuần. Ngoài ra có thể sử dụng corticoid tại chỗ, kháng histamin
và, nếu cần thiết là corticoid hệ thống để giảm ngứa và dát đỏ khi bệnh nhân đã sử
dụng thuốc diệt ghẻ.
20
Bảng 1.1. Tóm tắt các phương pháp điều trị ghẻ[44]
Thuốc
Kem permethrin
5%
Lindan 1%
(lotion)
Kem crotamiton
10%
Sulfur 5-10%
dạng sương
Liều
Bôi và lưu lại trên da 814 giờ, co thể nhắc lại
sau 7 ngày.
Hoa Kỳ.
Không khuyến cáo cho trẻ em
giờ rồi tắm. Có thể nhắc
dưới 2 tuổi, phụ nữ có thai và
lại sau 1 tuần.
cho con bú.
Dùng trong 2 ngày liên
tục, nhắc lại 1 lần trong
Có hiệu quả chống ngứa.
vòng 5 ngày.
An toàn cho trẻ em dưới 2
Sử dụng trong 3 ngày,
tháng, phụ nữ có thai và cho
sau đó tắm.
con bú, nhưng bằng chứng
hiệu quả chưa cao.
Bôi và lưu lại trên da 24
10% (lotion)
giờ, sau đó tắm.
µg/kg
Lựa chọn điều trị đầu tiên ở
Bôi và lưu lại trên da 8
Benzyl benzoat
Ivermectin, 200
Lưu ý
Dùng liều duy nhất, có
thể nhắc lại sau 10-14
Hiệu quả cao và an toàn.
ngày.
Cho tới nay, ivermectin là thuốc uống duy nhất để điều trị bệnh ghẻ, có hiệu
quả cao. Thuốc được tìm thấy lần đầu trong những năm 1970 trên môi trường nuôi
cấy của một loài nấm actinomycete là Streptomyces avermitilis. Ivermectin có cấu
trúc tương tự như kháng sinh nhóm macrolid nhưng không có hoạt tính kháng
khuẩn. Cơ chế diệt ghẻ của thuốc là do ivermectin có ái lực cao với các ion chlorid
ở hệ thần kinh ngoại vi của động vật không xương sống, chẹn các kênh dẫn truyền
21
qua synap thần kinh. Kết quả làm cho KST tê liệt và chết. Đã có nhiều nghiên cứu
về tính hiệu quả của ivermectin trong điều trị ghẻ. Một nghiên cứu cho thấy sử dụng
liều đơn ivermectin có tỷ lệ khỏi bệnh là 70%; liều nhắc lại sau 2 tuần cho tỷ lệ khỏi
tăng lên tới 95%. cả ivermectin tại chỗ và uống đều an toàn và hiệu quả như nhau
trong điều trị bệnh ghẻ không biến chứng. Điều trị duy nhất, cho dù tại chỗ hoặc
bằng miệng, có liên quan đến tỷ lệ chữa khỏi cao trong một tuần điều trị. Tuy nhiên,
điều trị lặp lại sau một tuần có thể được yêu cầu để đạt được 100% chữa khỏi[41]
Ở Việt Nam, các thuốc điều trị ghẻ chủ yếu vẫn là dung dịch DEP, kem
crotamiton, thuốc xịt Spregal (có thành phần là esdepaletrin và piperonyl butoxid).
Ngoài ra, kháng histamin tại chỗ hoặc toàn thân, corticoid tại chỗ được dùng để
chống ngứa, giảm các triệu chứng do cơ thể nhạy cảm với kháng nguyên của KST
ghẻ như mụn nước, chàm hóa.... Ngoài thuốc điều trị, vấn đề vệ sinh thân thể, vệ
sinh môi trường, cách ly, điều trị cho những người sống gần bị bệnh đóng vai trò
quan trọng, quyết định kết quả điều trị bệnh ghẻ.
Phòng, điều trị và kiểm soát bệnh ghẻ[29],[30], [31]
Các biện pháp phòng bệnh ghẻ chủ yếu là vệ sinh cá nhân hàng ngày sạch sẽ.
Điều trị bệnh sớm, tránh tiếp xúc và dùng chung các đồ dùng của người bị bệnh.
Tuyên truyền trong cộng đồng để tránh lây lan thành dịch, tổ chức khám, phát hiện
bệnh tại các cơ sở sống tập trung như: nhà trẻ, doanh trại, ký túc xá, viện dưỡng
lão…[8, 13].Hiện tại quản lý bệnh ghẻ tập trung vào việc xác định và điều trị các ca
bệnh liên quan đến lây truyền trong hộ gia đình, nhưng dữ liệu về vấn đề này rất ít
để có thể hỗ trợ. Cách quản lý này được xem như một chiến lược hiệu quả để giảm
tỷ lệ măc bệnh trong cộng đồng. Chẩn đoán có thể khó khăn và phụ thuộc vào việc
xác định lâm sàng ở hầu hết các khu vực nhiệt đới. Phương pháp điều trị tại chỗ có
hiệu quả, nhưng hóa chất hiệu quả nhát trong số này là Permethrin, có thể tốn kém
và đôi khi không có sẵn ở nhiều vùng với tỷ lệ mắc bệnh cao. Phương pháp điều trị
thay thế có ít hiệu quả, dung nạp kém, hoặc có tác dụng phụ đáng kể. Phác đồ điều
trị tại chỗ là bất tiện và số người trong hộ gia đình tuân thủ đúng phác đồ điều trị là
22
thấp, điều này có thể làm giảm hiệu quả đièu trị và là nguyên nhân dẫn đến tái
nhiễm [32], [33], [34], [35].
Dermoscopy trong da liễu
- Thuật ngữ dermoscope, “dermoscopy” có thể được dịch là “soi da” được
chấp nhận và được đặt ra lần đầu tiên bởi Friedman et al. Dermoscopy là công cụ
chẩn đoán không can thiệp với mục đích phát hiện các hình thái tổn thương lâm
sàng của da và cấu trúc dưới da mà không thể nhìn thấy bằng mắt thường. Những
hình ảnh lâm sàng thu nhận được sẽ được cân nhắc, liên hệ với những bệnh lý nhất
định và được sử dụng cho chẩn đoán[37]
- Cấu tạo máy và cơ chế hoạt động của Dermoscopy
Cấu tạo cơ bản một máy dermoscopy gồm:
+ Một kính không màu(achromatic lens): hầu hết các công cụ có độ hội tụ 10x,
một số máy có độ hội tụ cao hơn
+ Hệ thống chiếu sang(inbuilt illuminating system): là những đèn halogen,
màu sắc tương phản của tổn thương sẽ được thay thế bởi màu vàng của đèn
halogen. Hệ thống đèn LED sẽ cung cấp độ sang trắng cao hơn trong khi làm giảm
tiêu thụ so với hệ thống đèn halogen tới 70%
+ Hệ thống cung cấp năng lượng(Power supply): hệ thống cung cấp năng
lượng thường là pin, ngoài ra dermoscopy có thể tích hợp các phương tiện khác hỗ
trợ như phần mềm công nghệ, camera số, camera cố định, bộ nhớ, chương trình
phân giải hình ảnh…
Về cơ bản công cụ dermoscopy chia ra làm 3 nhóm:[42]
Nhóm công cụ không có phương tiện lưu giữ hình ảnh(without image
capturing facility)
Nhóm có phương tiện lưu trữ hình ảnh
Nhóm có cả phương tiện lưu trữ hình ảnh và khả năng phân tích
23
- Soi da bằng Dermoscopy: Hình ảnh của ký sinh trùng ghẻ như đầu cái ghẻ
hình tam giác, phân, trứng ghẻ, ghẻ, luống ghẻ. Nội soi da cũng được xem là một
công cụ nhạy cảm và tiện dụng trong chẩn đoán bệnh ghẻ in vivo[38]. Nó cho phép
xác định cấu trúc hình tam giác hoặc hình chữ V tương ứng với phần trước của con
ve, bao gồm đầu và các cặp chân. Vì con ve thường được tìm thấy ở cuối hang, nên
nó được mô tả giống như một chiếc máy bay phản lực với dấu vết của nó, một tàu
lượn delta hoặc một ống sinh tinh[39]
Các nghiên cứu phát hiện ký sinh trùng ghẻ bằng Dermoscopy trên thế giới
- Abdel-Latif AA, Elshahed AR, Salama OA, Elsaie ML 2018 nghiên cứu: So
sánh các đặc tính chẩn đoán của cạo da, băng dính và soi da trong chẩn đoán bệnh
ghẻ ở 100 bệnh nhân được chẩn đoán lâm sàng về bệnh ghẻ trải qua cạo da, xét
nghiệm băng dính và nội soi da. Cho kết quả16 trường hợp (16,0%) chắc chắn được
chẩn đoán là bệnh ghẻ bằng cách sử dụng xét nghiệm băng dính phát hiện sự hiện
diện của ve hoặc trứng của chúng. Chỉ có 10 trường hợp (10,0%) chắc chắn được
chẩn đoán là bệnh ghẻ bằng cách sử dụng xét nghiệm cạo da phát hiện ve hoặc
trứng của chúng. Nội soi da chẩn đoán bệnh ghẻ ở 22 trường hợp (22,0%), trong đó
chỉ có 10 trường hợp được chẩn đoán chắc chắn là ghẻ bằng cách phát hiện ve bằng
cách sử dụng xét nghiệm băng dính, cạo da hoặc cả hai. Đưa ra kết luận: Chẩn đoán
bệnh ghẻ chỉ có thể được xác nhận bằng cách nhìn thấy ve. Xét nghiệm băng dính
và quy trình cạo da có độ đặc hiệu cao trong chẩn đoán bệnh ghẻ, nhưng độ nhạy
thấp của chúng không thể loại trừ khả năng bị ghẻ. Xét nghiệm băng hướng dẫn soi
da có thể là một công cụ hữu ích để chẩn đoán bệnh ghẻ tốt hơn.[47]
- Park JH, Kim CW, Kim SS.2012 Độ chính xác chẩn đoán của nội soi da cho
bệnh ghẻ: Nạo da bằng nội soi da được coi là phương pháp chẩn đoán lựa chọn cho
bệnh ghẻ tại thời điểm hiện tại. Nội soi da đặc biệt hữu ích trong chẩn đoán bệnh
ghẻ ẩn danh. Ngoài ra, sự hiện diện của các vệt có thể nhìn thấy có thể là một dấu
hiệu tích cực đáng tin cậy của bệnh ghẻ trong trường hợp không có dữ liệu soi da
hoặc kính hiển vi.[25]
24
- Dupuy A, Dehen L, Bourrat E, Lacroix C, Benderdouche M, Dubertret L,
Morel P, Feuilhade de Chauvin M, Petit A.2007 Độ chính xác của nội soi da tiêu
chuẩn để chẩn đoán bệnh ghẻ. 756 bệnh nhân được chẩn đoán giả định về tư vấn
bệnh ghẻ ở một trung tâm, 238 người đã được gửi liên tục đến hai thủ tục chẩn
đoán. Ba bác sĩ da liễu (một chuyên gia, hai người thiếu kinh nghiệm) đã tham
gia. Chiến lược chẩn đoán chỉ sử dụng các kỹ năng lâm sàng, kết quả DS và kết hợp
cả hai đã được so sánh. Độ nhạy là 91% (khoảng tin cậy 95%: 86-96) đối với DS và
90% (khoảng tin cậy 95%: 85-96) để kiểm tra bằng kính hiển vi các vết trầy xước
trên da (P = 0,005 đối với độ không thấp). Độ đặc hiệu là 86% (khoảng tin cậy 95%:
80-92) đối với DS và 100% (theo định nghĩa) để kiểm tra bằng kính hiển vi các vết
trầy xước trên da.[46]
25
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Bệnh nhân được chẩn đoán sơ bộ nhiễm ký sinh trùng ghẻ tại khoa khám bệnh
Bệnh viện Da liễu Trung
Ương.
Tiêu chuẩn lựa chọn
- Bệnh nhân có các triệu chứng lâm sàng nghĩ tới ghẻ
- Đồng ý tham gia vào nghiên cứu (ký bản cam kết chấp thuận tham gia
nghiên cứu của luận văn).
Tiêu chuẩn loại trừ
- Rối loạn tâm thần kinh
- Đã được điều trị ghẻ trong vòng 1 tháng
Địa điểm, thời gian nghiên cứu
Địa điểm: Khoa Khám bệnh và khoa Xét nghiệm Bệnh viện Da liễu trung ương.
Thời gian: 7/2019 – 7/2020
Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu
Mô tả cắt ngang
Mẫu nghiên cứu
* Cỡ mẫu:
Cỡ mẫu: Tính theo công thức mô tả 1 tỷ lệ :