Tải bản đầy đủ (.pdf) (60 trang)

Tong quan ve khau nối ống tiêu hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.11 MB, 60 trang )

PGS TS NGUYỄN VĂN HẢI
Bộ môn Ngoại, ĐHYD TP Hồ Chí Minh
Khoa Ngoại Tiêu hóa, BV Nhân Dân Gia Định
E-mail:


- Lịch sử khâu nối ruột
- Nguyên tắc cơ bản của nối ruột
- Khâu một lớp hay hai lớp?
- Khâu nối tay hay nối máy?
- Trong PTNS: nối ngoài hay trong cơ thể?
- Các cách kiểm tra miệng nối trong mổ
- Miệng nối trực tràng thấp: mở thông HT hay đặt thông TT?


Nối = Anastomosis gốc tiếng Hy lạp
ana:
stoma:

không (without)
miệng (mouth)

Nối ruột: là sự kết nối bằng phẫu thuật 2 phần ruột biệt
lập để tạo thành một ống liên tục
Là việc làm thường ngày của PTV tiêu hóa


Khâu (suture) là một việc cổ xưa của loài người

Người Neanderthal


Xác ướp 1100 TCN



Người Nam Mỹ dùng một loại kiến có cặp càng mạnh để
khâu vết thương


Trước thế kỷ XIX:
- điều trị ngoại khoa VT ruột hiếm khi thành công
- không cố mổ trên đường tiêu hóa
Celsus (# 30 SCN): ghi nhận những nỗ lực để khâu ruột
nhưng không ủng hộ
Abulkasem (87 SCN): khuyên dùng kiến để khâu VT ruột
dùng chỉ làm từ ruột cừu
Nicolas Senn (1893) : tìm thấy 2 hình vẽ cổ nhất về khâu
ruột trong một quyển sách năm 1739


Đến 1818: các PTV nổi tiếng vẫn thường cho khâu ruột là
rất nguy hiểm


Traver (1812)
- phải cho 2 đầu cắt của ruột tiếp xúc nhau mới lành
- kim tròn, chỉ silk, khâu 1 lớp toàn thể
- ráp nối phải đều nhau, chọn chỉ đảm bảo thời gian lành
- cột chỉ và cắt chỉ ngắn, không đính trên trành bụng
Lembert (1826)
- khâu lộn vào trong, để thanh mạc tựa vào thanh mạc

- trở thành nguyên tắc căn bản của PT ruột
Lister (1867) đề nghị dùng chỉ khâu vô trùng, áp dụng
nguyên tắc PT vô trùng


Billroth (1829-1894)

nối ruột thành công đầu tiên

Czerny (1883) cải tiến kỹ thuật Lembert thành khâu 2 lớp, lộn
vào trong
Halsted (1887) nhấn mạnh tầm
quan trọng của lớp dưới niêm mạc
- đề nghị khâu 1 lớp
Connell (1892)
giới thiệu cách khâu liên tục 1 lớp, lộn vào trong (nhanh,
giảm số nốt chỉ cột)


Denans (1826) quan niệm nối ép bằng 2 vòng kim loại
Murphy (1892) thiết kế dụng cụ nối bằng nút bấm kim loại để
nối ruột tận-tận, lộn vào trong (inter-locking metallic button)


Gambee (1951) mô tả kiểu khâu nối một lớp, lộn vào trong

Hautefeuille (1976) đề xuất khâu nối một lớp, liên tục


Connell


Lembert


1989 Titanium là chất liệu của các ghim khâu nối
thay thế cho thép không rỉ
1980 Bắt đầu thời kỳ phẫu thuật xâm lấn tối thiểu.
PTV yêu cầu sử dụng dụng cụ cắt thẳng (TLC) được trong
nội soi
1976 Công ty Ethicon giới thiệu lần đầu tiên dụng cụ khâu
nối cơ học chỉ dùng 1 lần (disposable)
1958 Sau khi tìm hiểu các dụng cụ của Nga, một phẫu thuật viên
người Mỹ, Mark Ravitch đưa ra vài chức năng quan trọng đột phá
1950s Người Nga phát triển các dụng cụ khâu nối mổ mở hiện đại.
1934 Dr H. Freidrich của Ulm Germany phát minh catridge có thể thay thế.
1920 Aladar von Petz sản xuất một dụng cụ đơn giản hơn, được xem như là
nguyên mẫu đầu tiên của các dụng cụ khâu nối cơ học mở
1909 Dụng cụ đầu tiên được Humer Hültl phát minh ở Hungary


Đầu thế kỷ XX # 250 PP khâu nối

Hiện nay

(1). Khâu lộn vào trong

(1). Miệng nối kín

(2). Từng mũi khâu phải lấy lớp


(2). Cầm máu tốt

dưới niêm mạc
(3). Nối trong môi trường không
nhiễm bẩn và chấn thương
(4). Sử dụng KT vô trùng
(5). Phải đảm bảo đủ máu nuôi
(6). Miệng nối không bị căng

(3). Máu nuôi tốt
(4). Không căng
(5). Không hẹp




Khâu nối liện tục nhanh hơn, rẻ hơn mà không làm tăng
biến chứng so với khâu nối 2 lớp


- 6 RCT, 670 BN (299 nối 1 lớp, 371 nối 2 lớp)
TG

Năm

Nước

TG nối
1 lớp/2 lớp


Xì MN
1 lớp

Xì MN
2 lớp

Tử vong
1 lớp/2 lóp

Irvin

1973

UK

-

17%

16%

10%/10%

Everett

1975

UK

-


15%

25%

-

Goligher

1977

UK

-

45%

26%

-

Maurya

1988

India

-

7%


18%

-

Ordorica

1998

Mexico

26’/43’

5%

7%

-

Burch

2000

USA

20,8’/30,7’

3%

2%


-



Nhóm 1 lớp: khâu mũi rời, toàn thể, chỉ silk 3-0

Nhóm 1 lớp: khâu mũi liên tục, chừa NM, chỉ PDS 3-0
Khâu nối 1 lớp ít tốn kém hơn, nhanh hơn, không làm
tăng biến chứng



- 7 RCT, 1125 BN (441 nối máy, 684 nối tay)
- Bằng chứng 1A
- Nối máy ÍT xì MN hơn (1,3% so với 6,7%)
- Hẹp MN, XH, thời gian nối, tỉ lệ mổ lại, tử vong, áp xe trong ổ
bụng, NTVM, ngày nằm viện KHÔNG KHÁC
Nên nối bên-bên bằng stapler sau cắt ĐT phải


9 RCT, 1233 BN (622 nối máy, 611 nối tay)
Nối máy

Nối tay

KTC 95%

Tử vong (901 BN)


2,4%

3,6%

- 2,8% - 1,6%

Xì MN LS (1233 BN)

6,3%

7,1%

-5,2% - 2,3%

Xì MN XQ (825 BN)

7,8%

7,2%

-4,8% - 7,3%

Hẹp MN (1042 BN)

8%

2%

12 - 31


Chảy máu MN (662 BN)

5,4%

3,1%

-0,1% – 5,5%

Nối máy # nối tay về xì và tử vong, thời gian nối nhanh hơn


- Hồi cứu 499 BN (296 nối máy, 203 nối tay)
- Nối máy nhanh hơn nối tay (cho cả TQ, DD, ĐTT)
- Không có khác biệt về thời gian nằm viện
- Nối máy: thời gian hồi phục và thời gian có NĐR lại nhanh
hơn với KDD, KĐTT, nhưng không khác với KTQ (TB # 8 ngày)
- Nối máy: ít có BC miệng nối (xì, chảy máu) hơn trong KDD,
KĐTT


×