Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

ĐỀ TÀI TÀI CHÍNH QUỐC TẾ.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (319.07 KB, 34 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA KINH TẾ - LUẬT

ĐỀ TÀI TÀI CHÍNH QUỐC TẾ
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN: TS. LÊ TUẤN LỘC
NHÓM THỰC HIỆN:
1. PHẠM TRUNG DŨNG K074020284
2. TRẦN THỊ MAI HƯƠNG K074020289
3. THẠCH PHUÔNG MALI K074020393
4. LÊ THỊ KIM NGỌC K074020336
5. NGUYỄN CHÍ NGHĨA K074020394
6. LÊ NGỌC UYÊN K074020383
MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU.......................................................................................................................1
CHƯƠNG I: GIỚI THIỆU CÁN CÂN THƯƠNG MẠI.....................................................2
I. CÁN CÂN THƯƠNG MẠI .............................................................................................2
II. TÁC DỤNG CỦA CÁN CÂN THƯƠNG MẠI.............................................................2
III. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CÁN CÂN THƯƠNG MẠI...............................3
IV. TÁC ĐỘNG CÁN CÂN THƯƠNG MẠI ĐẾN NỀN KINH TẾ.................................4
CHƯƠNG II: CÁN CÂN THƯƠNG MẠI QUA CÁC GIAI ĐOẠN.................................5
I. TỔNG QUAN CCTM 1990 – 2008..................................................................................5
II. TỔNG QUAN CCTM 10 THÁNG ĐẦU NĂM 2009..................................................14
CHƯƠNG III: KHUYẾN NGHỊ........................................................................................31
LỜI KẾT..............................................................................................................................32
2
TÀI CHÍNH QUỐC TẾ

CÁN CÂN THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
A. LỜI MỞ ĐẦU
Cán cân thương mại là một bộ phận quan trọng trong cán cân vãng lai, đặc biệt là đối với


các nước đang phát triển như chúng ta thì cán cân thương mại hàng hóa luôn chiếm tỷ
trọng lớn trong cán cân vãng lai. Do đó, ta có thể thấy được tầm quan trọng của cán cân
thương mại đối với nền kinh tế nói riêng và đời sống kinh tế - xã hội của quốc gia nói
chung. Để có cái nhìn tổng quan về cán cân thương mại Việt Nam, bài tiểu luận của chúng
tôi sẽ trình bày về tình hình cán cân thương mại từ năm 1991 đến nay, đặc biệt chú ý phân
tích sâu bối cảnh trong 10 tháng đầu năm 2009 sau cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu
2007- 2008. Bên cạnh đó, nhóm chúng tôi cũng đưa ra những nguyên nhân chung cùng với
những khuyến nghị góp phần cải thiện cán cân thương mại. Trong quá trình làm đề tài sẽ
không thể tránh khỏi những hạn chế, mong nhận được sự góp ý của thầy và các bạn.
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG I: GIỚI THIỆU CÁN CÂN THƯƠNG MẠI
I. Cán cân thương mại:
Cán cân thương mại là một mục trong tài khoản vãng lai của cán cân thanh toán quốc tế.
Cán cân thương mại ghi lại những thay đổi trong xuất khẩu và nhập khẩu của một quốc gia
trong một khoảng thời gian nhất định (quý hoặc năm) cũng như mức chênh lệch (xuất khẩu
trừ đi nhập khẩu) giữa chúng. Khi mức chênh lệch là lớn hơn 0, thì cán cân thương mại có
thặng dư. Ngược lại, khi mức chênh lệch nhỏ hơn 0, thì cán cân thương mại có thâm hụt.
Khi mức chênh lệch đúng bằng 0, cán cân thương mại ở trạng thái cân bằng.
Cán cân thương mại còn được gọi là xuất khẩu ròng hoặc thặng dư thương mại. Khi cán
cân thương mại có thặng dư, xuất khẩu ròng/thặng dư thương mại mang giá trị dương. Khi
3
cán cân thương mại có thâm hụt, xuất khẩu ròng/thặng dư thương mại mang giá trị âm. Lúc
này còn có thể gọi là thâm hụt thương mại. Tuy nhiên, cần lưu ý là các khái niệm xuất
khẩu, nhập khẩu, xuất khẩu ròng, thặng dư/thâm hụt thương mại trong lý luận thương mại
quốc tế rộng hơn các trong cách xây dựng bảng biểu cán cân thanh toán quốc tế bởi lẽ
chúng bao gồm cả hàng hóa lẫn dịch vụ.
II. Tác dụng của cán cân thương mại:
Các thông tin trong bảng cán cân thương mại có 4 tác dụng chính
Thứ nhất, cung cấp những thông tin liên quan đến cung cầu tiền tệ của một quốc gia, cụ thể
là thể hiện sự thay đổi tỉ giá hối đoái của đồng nội tệ so với ngoại tệ.

Thứ hai, phản ánh khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế của một quốc gia.
Thứ ba, phản ánh tình trạng của cán cân tài khoản vãng lai và nợ nước ngoài, do đó ảnh
hưởng đến ổn định kinh tế vĩ mô. Để đánh giá khả năng chịu đựng của cán cân tài khoản
vãng lai thường sử dụng các chỉ số như là chỉ số xuất khẩu/GDP, chỉ số nợ/xuất khẩu, tỉ lệ
tăng trưởng nhập khẩu/ tăng trưởng xuất khẩu, tỉ lệ mức lãi xuất trả nợ trên mức tăng xuât
khẩu. Thông thường các chuyên gia thường sử dụng chỉ số nợ/xuất khẩu để đánh giá tình
trạng của cán cân tài khoản vãng lại
Tác dụng cuối là thể hiện mức tiết kiệm, đầu tư và thu nhập thực tế. Mối quan hệ giữa cán
cân thương mại với tiết kiệm và đầu tư được thể hiện qua công thức :
X – M = (S - I) + (T – G)
III. Các yếu tố ảnh hưởng đến cán cân thương mại:
Có 4 yếu tố chính ảnh hưởng đến cán cân thương mại : xuất khẩu, nhập khẩu, tỷ giá hối
đoái và các chính sách của chính phủ.
3.1/ Xuất khẩu : chủ yếu phụ thuộc vào những gì đang diễn biến tại các quốc gia khác vì
xuất khẩu của nước này chính là nhập khẩu của nước khác. Do vậy nó chủ yếu phụ thuộc
vào sản lượng và thu nhập của các quốc gia bạn hàng. Chính vì thế trong các mô hình kinh
tế người ta thường coi xuất khẩu là yếu tố tự định.
3.2/ Nhập khẩu : có xu hướng tăng khi GDP tăng và thậm chí nó còn tăng nhanh hơn. Sự
gia tăng của nhập khẩu khi GDP tăng phụ thuộc xu hướng nhập khẩu biên (Mm). Mm là
phần của GDP có thêm mà người dân muốn chi cho nhập khẩu. Ví dụ, Mm bằng 0,3 nghĩa
4
là cứ 1 đồng GDP có thêm thì người dân có xu hướng dùng 0,3 đồng cho nhập khẩu. Ngoài
ra, nhập khẩu phụ thuộc giá cả tương đối giữa hàng hóa sản xuất trong nước và hàng hóa
sản xuất tại nước ngoài. Nếu giá cả trong nước tăng tương đối so với giá thị trường quốc tế
thì nhập khẩu sẽ tăng lên và ngược lại. Ví dụ: nếu giá xe đạp sản xuất tại Việt Nam tăng
tương đối so với giá xe đạp Nhật Bản thì người dân có xu hướng tiêu thụ nhiều xe đạp
Nhật Bản hơn dẫn đến nhập khẩu mặt hàng này cũng tăng.
3.3/ Tỷ giá hối đoái : là nhân tố rất quan trọng đối với các quốc gia vì nó ảnh hưởng đến
giá tương đối giữa hàng hóa sản xuất trong nước với hàng hóa trên thị trường quốc tế. Khi
tỷ giá của đồng tiền của một quốc gia tăng lên thì giá cả của hàng hóa nhập khẩu sẽ trở nên

rẻ hơn trong khi giá hàng xuất khẩu lại trở nên đắt đỏ hơn đối với người nước ngoài. Vì thế
việc tỷ giá đồng nội tệ tăng lên sẽ gây bất lợi cho xuất khẩu và thuận lợi cho nhập khẩu
dẫn đến kết quả là xuất khẩu ròng giảm. Ngược lại, khi tỷ giá đồng nội tệ giảm xuống, xuất
khẩu sẽ có lợi thế trong khi nhập khẩu gặp bất lợi và xuất khẩu ròng tăng lên.
3.4/ Các chính sách của chính phủ: bao gồm chính sách thương mại, chính sách đầu tư,
chính sách tỉ giá và các chính sách khác như thuế, tài khóa, lãi suất, tiêu dùng, quản lý nợ
nước ngoài. Các chính sách của chính phủ có ảnh hưởng rất quan trọng đến cán cân thương
mại. Nó có thể tác động trực tiếp hoặc gián tiếp làm cho cán cân thương mại xấu đi hay cải
thiện cán cân thương mại trong ngắn hạn hay dài hạn. Ví dụ : chính sách khuyến khích
nhập khẩu hàng tiêu dùng sẽ làm xấu đi tình trạng cán cân thương mại, chính sách khuyến
khích nhập khẩu tue liệu sản xuất dử dụng để phát xuất khẩu sẽ cải thiện cán cân thương
mại trong dài hạn.
IV. Tác động của cán cân thương mại đến nền kinh tế
Cán cân thương mại hàng hóa và dịch vụ (X_M) cùng với các yếu tố khác như chi cho tiêu
dùng ( C ), chi tiêu đầu tư ( I ), chi tiêu của chính phủ ( G ) cấu thành tổng thu nhập quốc
dân (GDP). Như vậy, CCTM la một bộ phận cấu thành tông thu nhập quốc dân, thặng dư
hay thâm hụt CCTM ảnh hưởng trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế.
Y = C + I + G + (X-M)
Như vậy CCTM có mối quan hệ mật thiết với các chỉ số kinh tế vĩ mô cơ bản. Trạng thái
của CCTM thể hiện động thái của nền kinh tế ở những thời điểm khác nhau. Chính vì vậy,
5
biến động của CCTM trong ngắn hạn và dài hạn là cơ sở để các chính phủ điều chỉnh chiến
lược và mô hình phát triển kinh tế, chính sách cạnh tranh,….

4.1/ Tác động tích cực : xuất khẩu ròng làm tăng lượng tài sản của nền kinh tế. Ngoài ra,
trạng thái của cán cân thương mại có tác động đến nhiều mặt của nền kinh tế, ví dụ nếu
thặng dư sẽ góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo thêm công ăn việc làm mới, tăng
tích lũy quốc gia dưới dạng dự trữ ngoại hối, tạo uy tín và tiền đề để đồng nội tệ tự do
chuyển đổi.
4.2/ Tác động tiêu cực :

CCTM thâm hụt kéo dài nhiều năm, đồng nghĩa với việc phải cắt bớt nhập khẩu như là một
phần của những biện pháp tài chính và tiền tệ khắc khổ. Kết quả là làm giảm tăng trường
kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô, gia tăng tình trạng thất nghiệp.
Tuy nhiên, tình trạng của CCTM thặng dư hay thâm hụt trong ngắn hạn chưa nói lên được
trạng thái thực của nền kinh tế, vấn đề là ở chỗ thâm hụt cán cân thương mại ở mức có thể
đảm bảo sức chịu đựng cùa CCTKVL và nợ nước ngoài.
6
CHƯƠNG II: CÁN CÂN THƯƠNG MẠI QUA CÁC GIAI ĐOẠN
I. Tổng quan về tình hình CCTM từ 1990 – 2008:
Từ những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, với những tác động tích cực từ chính
sách đổi mới kinh tế của Đảng và Nhà nước theo hướng thị trường, mở cửa và hội nhập
kinh tế, năng lực sản xuất của nền kinh tế đã được giải phóng, lực lượng sản xuất trong
nước phát triển mạnh mẽ. Cơ cấu sản xuất chuyển dịch theo hướng tích cực, dần dần từ sản
xuất nhằm thay thế hàng nhập khẩu sang sản xuất nhằm mục đích xuất khẩu. Sản xuất
hàng xuất khẩu đã có sự chuyển biến tích cực theo hướng tăng các mặt hàng chế biến,
giảm tỷ trọng các sản phẩm thô, đa dạng hóa chủng loại sản phẩm hàng hóa. Hàng hóa
nhập khẩu chủ yếu là tư liệu sản xuất phục vụ sản xuất trong nước và xuất khẩu. Thị
trường xuất - nhập khẩu cũng tăng trưởng nhanh theo hướng đa dạng hóa và chuyển dần từ
giao dịch gián tiếp thông qua các thị trường xuất - nhập khẩu trung chuyển như Singapore
sang giao dịch trực tiếp tại các thị trường Mỹ, châu Âu và Nhật Bản. Việt Nam cũng trở
thành nước xuất khẩu lớn nhất, nhì thế giới về các mặt hàng như gạo, tiêu, điều, cà phê,...
Việt Nam đã từng bước hội nhập vào nền kinh tế khu vực và toàn cầu với việc gia
nhập ASEAN (năm 1995), ASEM (năm 1996), APEC (năm 1998) và đặc biệt là WTO
(năm 2006). Thị trường xuất - nhập khẩu của Việt Nam được mở rộng nhưng áp lực cạnh
tranh cũng ngày càng lớn. Các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu đã từng bước đầu tư
chiều sâu để hạ giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hóa, đáp ứng ngày càng tốt
hơn yêu cầu chất lượng của những thị trường nhập khẩu khó tính nhất như EU, Nhật Bản,
Mỹ. Bên cạnh đó, đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng góp phần quan trọng trong việc nâng
cao trình độ công nghệ và cung cấp vốn cho việc phát triển mở rộng sản xuất, kinh doanh
xuất - nhập khẩu.

Những sự kiện trên đây khẳng định rằng Việt Nam đang ngày càng hội nhập với
kinh tế Thế giới. Cùng với việc xuất khẩu được cải thiện là nhập khẩu cũng tăng cao dẫn
đến cán cân thương mại thâm hụt.
Nhập siêu là yếu tố cơ bản gây nên tình trạng thâm hụt cán cân tài khoản vãng lai, ảnh
hưởng xấu đến cán cân thanh toán và nợ quốc tế. Việc điều chỉnh cán cân thương mại, hạn
chế nhập siêu có vai trò quan trọng để lành mạnh hoá cán cân thanh toán quốc tế. Tuy
nhiên, tính từ năm 1990 – 2008 , khoảng thời gian 19 năm này Việt Nam đã liên tục nhập
7
siêu ( ngoại trừ trường hợp xuất siêu 1992 ), điều này vẫn chưa được cải thiện khi Việt
Nam đã là thành viên của WTO được 2 năm.
Trong giai đoạn 2001- 2008 đã diễn ra sự thâm hụt kép cả cán cân thương mại hữu hình và
cán cân thương mại vô hình. Tổng mức thâm hụt cán cân tài khoản vãng lai cộng dồn của
cả giai đoạn sẽ vào khoảng 72,5 tỷ USD (bằng 17,6% GDP). Trong đó, thâm hụt cán cân
thương mại hữu hình chiếm 78,6%, thâm hụt cán cân thương mại vô hình chiếm 21,4%
(riêng thâm hụt cán cân dịch vụ chiếm 8,64%, thâm hụt cán cân thu nhập chiếm 12,68%).
Để biết rõ hơn tình hình xuất nhập khẩu cũng như xem xét cụ thể việc thâm hụt cán
cân thương mại của Việt Nam trong giai đoạn 1990 – 2008. Sau đây chúng tôi sẽ trình bày
những con số cụ thể và đặc biệt chú trọng đến nguyên nhân xuất siêu năm 1992, tình hình
xuất nhập khẩu năm đầu tiên Việt Nam là thành viên WTO – 2007, và năm xảy ra khủng
hoảng tài chính toàn cầu – 2008.
Năm Tổng số
Xuất khẩu Nhập khẩu
Cán cân
thương mại
Triệu đô la Mỹ
1990 5156,4 2404,0 2752,4 -348,4
1991 4425,2 2087,1 2338,1 -251,0
1992 5121,5 2580,7 2540,8 39,9
1993 6909,1 2985,2 3923,9 -938,7
1994 9880,1 4054,3 5825,8 -1771,5

1995 13604,3 5448,9 8155,4 -2706,5
1996 18399,4 7255,8 11143,6 -3887,8
1997 20777,3 9185,0 11592,3 -2407,3
1998 20859,9 9360,3 11499,6 -2139,3
1999 23283,5 11541,4 11742,1 -200,7
2000 30119,2 14482,7 15636,5 -1153,8
2001 31247,1 15029,2 16217,9 -1188,7
2002 36451,7 16706,1 19745,6 -3039,5
2003 45405,1 20149,3 25255,8 -5106,5
2004 58453,8 26485,0 31968,8 -5483,8
2005 69208,2 32447,1 36761,1 -4314,0
2006 84717,3 39826,2 44891,1 -5064,9
2007 111326,1 48561,4 62764,7 -14203,3
2008 143398,9 62685,1 80713,8 -18028,7
• Năm 1992
8
Năm 1992 là năm xuất siêu duy nhất của nước ta trong giai đoạn 1990 – 2008.
Nguyên nhân xuất siêu của năm 1992:
- Năm 1992, tổ chức hỗ trợ kinh tế các nước xã hội chủ nghĩa SEV tan rã, Việt Nam nhanh
chóng xúc tiến quá trình bình thường hóa quan hệ thương mại với khối các nước EU ,
ASEAN và nhiều nước khác trên thế giới, đồng thời tiến hành đàm phán gia nhập diễn đàn
kinh tế các nước khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
- Hiến pháp mới được ban hành, luật doanh nghiệp hình thành, mở ra một thời kỳ thông
thoáng hơn cho nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn đổi mới.
- Giá trị xuất khẩu gạo và một số nông sản khác như tiêu, điều, cà phê của Việt Nam năm
1992 tăng đột biến, Việt Nam từ nước vô danh trở thành một trong những quốc gia xuất
khẩu gạo hàng đầu thế giới, trong khi xuất khẩu trước đây chỉ chủ yếu trông cậy vào dầu
thô.
- Quá trình bình thường hóa quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ đang diễn ra hết sức tốt
đẹp, Hoa Kỳ đã nới lỏng hơn chính sách cấm vận đối với Việt Nam và đang cân nhắc

quyết định xóa bỏ nó.
Những lý do trên là một trong những nguyên nhân nhất định cho sự chuyển biến trong tình
hình xuất nhập khẩu của Việt Nam năm 1992 (Việt Nam xuất siêu).
• Năm 2007:
 Xu t kh u 
Hoạt động xuất khẩu tiếp tục đạt được những kết quả tích cực, thể hiện trên những
mặt chủ yếu như sau:
- Quy mô và tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu được duy trì ở mức cao, tỷ
trọng hàng hóa chế biến, chế tạo, có hàm lượng công nghệ và chất xám cao tăng dần, tỷ
trọng hàng hóa chưa qua chế biến giảm dần. Giá trị kim ngạch xuất khẩu cả năm đạt
48,387 tỷ USD, tăng 21,5% so với năm 2006 (kế hoạch Chính phủ đề ra là 46,7 tỷ USD,
tăng 17,4%), trong đó hàng hóa công nghiệp chiếm 76,3% tổng kim ngạch xuất khẩu (năm
2006 là 76,1%) tiếp tục là động lực cho hoạt động xuất khẩu, khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài xuất khẩu đạt 27,8 tỷ USD, chiếm 57,5% và tăng 21,0% so với năm 2006; khu vực
doanh nghiệp 100% vốn trong nước đạt 20,6 tỷ USD, chiếm 42,5% và tăng 22,2%.
9
- Về mặt hàng xuất khẩu, các mặt hàng xuất khẩu chủ lực có kim ngạch trên 1 tỷ USD (11
mặt hàng và nhóm hàng ) vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng khá (trừ dầu thô) là thủy sản,
gạo, cà phê, cao su, than đá, dệt may, giầy dép, điện tử và linh kiện máy tính, sản phẩm gỗ
và nhóm sản phẩm cơ khí; trong đó có 4 mặt hàng là dầu thô, dệt may, giày dép và thuỷ
sản kim ngạch đạt trên 3 tỷ USD, 2 mặt hàng điện tử và sản phẩm gỗ đạt trên 2 tỷ USD.
Một số nhóm hàng mới mặc dù có kim ngạch chưa cao nhưng tốc độ tăng trưởng tương đối
nhanh như dây điện và cáp điện tăng 25,6%; túi xách, vali, mũ, ô dù tăng 26,2%; sản phẩm
nhựa tăng 52,0%; hàng thủ công mỹ nghệ tăng 18,9% . Kim ngạch xuất khẩu tuy tăng khá
21,5%, trong đó có yếu tố giá xuất khẩu tăng cao, những vẫn chưa đạt yêu cầu và còn thấp
hơn mức tăng của một số năm trước (Chi tiết xem Phụ lục 1e).
Như vậy, so với năm 2006, qui mô và tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu tiếp
tục được duy trì ở mức cao, các chỉ tiêu về tăng trưởng đều thực hiện đạt và vượt kế hoạch.
Kim ngạch xuất khẩu của khu vực các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tiếp tục
chiếm tỷ trọng lớn và có vai trò quan trọng đối với tăng trưởng xuất khẩu của cả nước.

- Cơ cấu hàng hoá xuất khẩu có chuyển dịch tích cực theo hướng tăng dần tỷ trọng
nhóm hàng chế biến, chế tạo, nhóm hàng có hàm lượng công nghệ và chất xám cao như:
thuỷ sản, dệt may, giầy dép, hàng điện tử và linh kiện điện tử, sản phẩm gỗ... ,giảm dần
xuất khẩu hàng thô (mặc dù xét về kim ngạch thì nhóm hàng nhiên liệu khoáng sản vẫn
tăng cao do được giá).
- Tuy nhiên, qui mô xuất khẩu vẫn còn nhỏ bé, tốc độ tăng trưởng nhanh nhưng
chưa vững chắc và rất dễ bị tổn thương bởi các biến động bên ngoài như giá cả,các rào cản
thương mại mới của nước ngoài...bởi sự phu thuộc vào nguyên vật liệu nhập khẩu còn lớn.
- Sức cạnh tranh của hàng hoá chưa được cải thiện rõ rệt, cơ cấu mặt hàng còn chưa
hợp lý thể hiện ở chỗ chủng loại đơn điệu, chậm xuất hiện những mặt hàng xuất khẩu mới
có kim ngạch đáng kể; giá trị gia tăng thấp.
- Nhiều doanh nghiệp chưa nắm bắt được những cơ hội để thâm nhập và khai thác
các thị trường xuất khẩu; chưa tận dụng triệt để lợi ích từ việc gia nhập WTO, các hiệp
định thương mại song phương và khu vực đã ký kết giữa Việt Nam và các đối tác nhất là
việc cắt giảm thuế quan để khai thác hết tiềm năng của các thị trường lớn như Hoa Kỳ, EU,
Trung Quốc…
10
- Thị trường xuất khẩu tăng không đều, trong khi thị trường ASEAN, EU, Mỹ tăng
khá cao thì một số thị trường quan trọng khác tăng chậm hoặc giảm như Trung Quốc, Nhật
Bản và Ôxtrâylia.
 Nh p kh u v cán cân th ng m ià   
Tổng kim ngạch nhập khẩu năm 2007 đạt 60,78 tỷ USD, tăng 35,4% so với năm 2006,
trong đó doanh nghiệp 100% vốn trong nước nhập khẩu 39,27 tỷ USD, chiếm 64,6%, tăng
38,3% và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhập khẩu 21,51 tỷ USD, chiếm 35,4%,
tăng 30,5% so với năm 2006.
Những mặt hàng nhập khẩu chủ yếu có trị giá tăng cao so với năm 2006 gồm: ô tô nguyên
chiếc các loại tăng 145,5%; linh kiện ô tô tăng 82,2%; thép thành phẩm tăng 75,6%; phôi
thép tăng 38,9%; phân bón các loại tăng 45,1%; sợi các loại tăng 36,8%; hóa chất nguyên
liệu tăng 39,1%; máy móc, thiết bị, phụ tùng tăng 56,3%; điện tử, máy tính và linh kiện
tăng 43,6%; vải tăng 33,6%....

Các mặt hàng nhập khẩu có kim ngạch lớn thuộc nhóm máy móc, thiết bị phụ tùng, nguyên
nhiên vật liệu (không kể xăng dầu) và chiếm 58% tỷ trọng tổng kim ngạch nhập khẩu.
Trong đó có một số mặt hàng chiếm tỷ trọng cao như: sắt thép, kim loại và phôi thép 6,7 tỷ
USD; phân bón các loại 997 triệu USD; máy móc, thiết bị, phụ tùng 10,3 tỷ USD; hoá chất,
chất dẻo nguyên liệu 3,9 tỷ USD, điện tử máy tính linh kiện 2,9 tỷ USD; vải, sợi, bông và
nguyên phụ liệu dệt may, da 7,2 tỷ USD, gỗ nguyên liệu 1,0 tỷ USD, thức ăn gia súc và
nguyên liệu 1,1 tỷ USD, tân dược và nguyên liệu 861 triệu USD.
Qua đó cho thấy nhập khẩu hàng hóa năm 2007 chủ yếu là máy móc, thiết bị, phụ tùng và
nguyên, nhiên phụ liệu đã đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển và sản xuất hàng hóa phục vụ
trong nước và xuất khẩu, góp phần đổi mới công nghệ và hiện đại hóa sản xuất; đảm bảo
cung cấp đầy đủ và kịp thời nhiều mặt hàng thiết yếu, đáp ứng đa dạng nhu cầu tiêu dùng
trong nước; .Lượng hàng tiêu dùng nhập khẩu chiếm tỷ trọng nhỏ (trên 3%) trong tổng kim
ngạch nhập khẩu (khoảng 2 tỷ USD). Tuy nhiên, nhập khẩu gia tăng nhanh chóng làm tăng
nhập siêu không đạt mục tiêu kế hoạch đề ra.
Nhập siêu cả năm 2007 ước khoảng 12,3 tỷ USD tăng 144,7% so với năm 2006, bằng
25,6% kim ngạch xuất khẩu (năm 2006 là 12,7%). Đây là mức nhập siêu cao so với cùng
11
kỳ nhiều năm qua do tác động của các nguyên nhân khách quan và chủ quan như: nền kinh
tế tiếp tục tăng trưởng cao, đầu tư nước ngoài tăng mạnh, giá và lượng một số mặt hàng
nguyên nhiên vật liệu nhập khẩu tăng, ảnh hưởng của việc cắt giảm thuế theo cam kết và
nhu cầu tiêu dùng, sức mua trong nước tăng cao.
• Năm 2008
Hoạt động thương mại năm 2008 bên cạnh một số thuận lợi như một số mặt hàng trong
một số tháng đầu năm được lợi về giá, về thị trường, nhưng cũng gặp không ít khó khăn do
cạnh tranh thị trường, về chính sách giám sát hàng dệt may của Mỹ, việc áp thuế bán phá
giá giày mũ da của EU, các quy định của Luật nông nghiệp Mỹ, đặc biệt việc khủng hoảng
tài chính, tiền tệ của Mỹ và một số nền kinh tế lớn đã làm giảm sút sức mua, sức thanh
tóan của các nhà nhập khẩu trong những tháng cuối năm đã làm cho nhu cầu và mức tiêu
thụ giảm, kim ngạch xuất khẩu qua từng tháng cuối năm bị giảm dần, ảnh hưởng tới tổng
kim ngạch cả năm. Trước tình hình kim ngạch xuất khẩu hàng hóa vào EU và Hoa Kỳ có

xu hướng tăng không cao như năm 2007, chúng ta đã đẩy mạnh việc đa dạng hoá thị
trường, nhiều loại hàng hoá đã vào được các thị trường xuất khẩu mới, nhất là thị trường
châu Phi đã tăng đột biến đồng thời giảm dần xuất khẩu qua các thị trường trung gian.
Về nhập khẩu, khi mức nhập khẩu và nhập siêu những tháng đầu năm ở mức cao, Chính
phủ đã chỉ đạo thực hiện nhiều giải pháp quyết liệt kiềm chế nhập siêu, nên mức nhập siêu
đã giảm dần và thực hiện vượt yêu cầu đề ra.
 Xu t kh u  
Kim ngạch cả năm đạt xấp xỉ 63 tỷ USD, tăng trên 29,5% so với năm 2007. Kim ngạch
của khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 34,87 tỷ USD, chiếm tỷ trọng
55,4%, tăng 25,5% so với năm 2007; của khu vực doanh nghiệp 100% vốn trong nước đạt
28,02 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 44,6%, tăng 34,9%, so với năm 2007.
Tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu giữ được ở mức cao do trong những tháng đầu
năm dầu thô, than đá và nhiều mặt hàng nông sản gặp thuận lợi về giá và thị trường xuất
khẩu. Những mặt hàng có tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cao như gạo, nhân điều, khoáng
sản.
12
Ngoài 10 mặt hàng có kim ngạch trên 1 tỷ USD đã thực hiện được từ năm 2007 (chủ yếu
thuộc nhóm hàng công nghiệp chế biến, nông sản) là thủy sản, gạo, cà phê, cao su, dầu thô,
dệt may, giầy dép, điện tử và linh kiện máy tính, sản phẩm gỗ và nhóm sản phẩm cơ khí,
trong năm nay xuất hiện thêm 1 mặt hàng có khả năng đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD là dây
điện và cáp điện.
Một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực có khối lượng giảm nhưng do giá thế giới tăng mạnh
nên về mặt trị giá tăng khá so với năm 2007 như: Dầu thô tăng 23,1% nhưng lượng giảm
7,7%, than đá tăng 44,3% nhưng lượng giảm 38,3%, cà phê tăng 5,8% nhưng lượng giảm
18,3%, cao su tăng 14,6% nhưng lượng giảm 9,8%, chè tăng 12,2% nhưng lượng giảm
8,8%.
Sản phẩm tàu thuyền, sản phẩm từ gang thép, sản phẩm từ cao su có mức tăng trưởng cao
so với năm 2007, là những mặt hàng có triển vọng tăng mạnh trong những năm tới.
Cơ cấu thị trường hàng hoá có sự chuyển dịch, thị trường Châu Á chiếm 44,5% (năm 2007
là 41,9%), Châu Âu chiếm 18,3% (năm 2007 là 18,7%), Châu Mỹ 20,6% (năm 2007 là

21,9%), Châu Đại dương 6,7% (năm 2007 là 6,4%), Châu Phi 1,9% (năm 2007 là 1,27%).
Đến nay, hàng hoá xuất khẩu nước ta đã vươn tới hầu hết các quốc gia và vùng lãnh thổ.
Cuộc khủng hoảng tài chính đã ảnh hưởng đến xuất khẩu của nước ta vào EU và Hoa Kỳ
khiến tốc độ tăng xuất khẩu vào hai thị trường này giảm so với năm 2007 nhưng năm qua
chúng ta tiếp tục đẩy mạnh việc đa dạng hoá thị trường xuất khẩu, nhiều chủng loại hàng
hoá đã vào được các thị trường xuất khẩu mới, giảm dần xuất khẩu qua các thị trường
trung gian, đặc biệt xuất khẩu vào thị trường châu Phi tăng đột biến.
Nhận định chung về các kết quả đạt được
Trên cơ sở những kết quả đạt được trong hoạt động xuất khẩu năm 2008, có thể rút ra một
số nhận định cơ bản như sau:
o Những thành tựu:
Năm 2008 do chịu ảnh hưởng của biến động của kinh tế thế giới nên xuất khẩu diễn biến
không theo quy luật, những tháng đầu năm xuất khẩu gặp thuận lợi về giá, KNXK đạt mức
cao trong 2 tháng 7 và 8 tuy nhiên đến tháng 9 xuất khẩu giảm mạnh và tiếp tục giảm trong
những tháng cuối năm. Nhìn chung cả năm 2008, xuất khẩu đã đạt được mức tăng trưởng
cao, phát triển cả về quy mô, tốc độ, thị trường và thành phần tham gia xuất khẩu. Có thể
nhìn nhận như sau:
13

×