Tải bản đầy đủ (.docx) (43 trang)

Nghiên cứu kết quả phẫu thuật tạo hình thiểu sản vành tai nặng theo kỹ thuật nagata

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.52 MB, 43 trang )

1

MỞ ĐẦU
Thiểu sản vành tai, tiếng Latin là microtia do sự ghép lại của 2 từ micro
(nhỏ) và otia (tai), là bệnh lý bẩm sinh do sự phát triển bất thường của vành
tai trong thời kỳ bào thai với các mức độ khác nhau, từ nhẹ là bất thường một
phần cấu trúc của vành tai đến nặng là hoàn toàn không có vành tai (anotia).
Phẫu thuật tạo hình vành tai đã được nghiên cứu từ thời xa xưa, và nhất
là từ đầu thế kỷ XX đến nay có 1 cuộc cách mạng trong việc phát triển các
phương pháp điều trị. Trong đó tạo hình bằng sụn sườn tự thân vẫn được coi
là phẫu thuật tiến hành phổ biến, với 2 tác giả nổi tiếng là Brent và Nagata.
Ngoài ra còn có các phương pháp khác như: tạo hình bằng vật liệu nhân tạo,
đeo tai giả hay sử dụng mô cấy ghép. Mỗi phương pháp đều có những ưu,
nhược điểm và chỉ định khác nhau tùy từng bệnh nhân. Tuy nhiên cho đến nay
đây vẫn là 1 trong những phẫu thuật khó nhất trong chuyên ngành tạo hình,
đòi hỏi kiến thức chuyên sâu cũng như bàn tay khéo léo tuyệt vời của phẫu
thuật viên.
Mục đích của chuyên đề này trình bày về các phương pháp điều trị thiểu
sản vành tai với những ưu, nhược điểm của từng phương pháp, để phục vụ
cho luận án: “Nghiên cứu kết quả phẫu thuật tạo hình thiểu sản vành tai
nặng theo kỹ thuật Nagata”.


2
I. Lịch sử tạo hình vành tai:[1]
Trong lịch sử loài người từ xa xưa, cắt bỏ 1 phần vành tai như 1 hình phạt
được áp dụng trong thời kỳ chiến tranh.

Hình 1. Hình phạt cắt tai (Naumburg thế kỷ XV) [1]
Phẫu thuật tạo hình tai ngoài đã được nhắc đến trong cuốn Sushruta
Samhita của Ấn độ cách đây hơn 2600 năm (năm 600 trước Công Nguyên),


theo đó tác giả đã dùng vạt má có cuống để tái tạo lại phần dái tai bị mất [1].
Đến thế kỷ XVI, Tagliacozzi người Italia đã tạo hình 1 phần vành tai
bằng vạt da ở cánh tay.

Hình 2. Vạt da cánh tay để tạo hình tai của Tagliacozzi (1597)[1]
Nhà phẫu thuật người Pháp Paré (1509-1590) và Roux (1894) đã tạo hình
toàn bộ vành tai bằng tai giả.


3

Hình 3. Tai giả được tạo bởi Ambroise Paré [1]
- Tạo hình 1 phần vành tai từ thế kỷ XIX:
Năm 1845, nhà phẫu thuật người Đức Dieffenbach đã tạo hình phần trên
và phần dưới vành tai. Ông cho rằng không nên tạo hình toàn bộ vành tai vì
kết quả phẫu thuật quá tồi.

Hình 4. Tạo hình nửa trên và dưới vành tai của Dieffenbach [1]
Cùng với sự phát triển của kỹ thuật gây mê và hiểu biết về vấn đề vô
ab

khuẩn, đến năm 1870, Julius von Szymanowski cũng sử dụng vạt để tạo hình
nửa trên và nửa dưới vành tai.
k
c
ga

a
h
a


f
d
b

b
c
e

i

dg
f
b

Hình 5. Tạo hình nửa trên (a) và nửa dưới (b) vành tai
của Julius von Szymanowski.[1]


4
- Tạo hình thu nhỏ vành tai: khi có khối u vùng gờ luân hay vành tai to
có thể sử dụng các loại đường rạch từ bờ tự do gờ luân cắt bỏ khối u hoặc
giảm kích thước vành tai. Một số các kỹ thuật tương đồng đã được các tác giả
mô tả như Di Martino (1856), Cocheril (1894) và Joseph (1896).
Một kỹ thuật nổi bật “trượt gờ luân”, được mô tả lần đầu bởi Gersuny
(1903). Từ kỹ thuật này đã có rất nhiều các kỹ thuật cải tiến khác ra đời.

abcde

Hình 6. Các loại đường rạch trong phẫu thuật khối u vùng gờ luân hoặc

vành tai to. [1]
(a) Di Martino (1856), (b) Cheyne (1903), (c) Kolle (1911), (d) Day
(1921), (e) Lexer (1933).

ab

ab

Hình 7. Đường rạch gờ luân được mô tả bởi Joseph [1]


5

ab

Hình 8. Kỹ thuật “trượt gờ luân” của Gersuny [1]

ab

Hình 9. Đường rạch hình lưỡi liềm vùng hố thuyền của Weerda [1]
-Tạo hình vành tai không gây thu nhỏ tai:
+ Sử dụng vạt tại chỗ: có thể sử dụng vạt tại chỗ phía trên hoặc sau trên
vành tai che phủ phần mất chất nửa trên vành tai (thì 1), sau đó cắt cuống ở
thì 2. Kỹ thuật này được mô tả bởi Smith (1917) và Omredanne (1931).
Joseph (1910) sử dụng vạt da rộng có cuống vùng sau tai và vùng cổ.

ab

Hình 10. Vạt có cuống phía sau trên vành tai theo Smith [1].



6

Hình 11. Vạt da có cuống sau bên vành tai của Ombredanne [1]

Hình 12. Vạt da có cuống phía sau tai và vùng cổ của Joseph [1]
- Tạo hình toàn bộ vành tai:
Năm 1870, Julius von Szymanowski là người đầu tiên đưa ra sơ đồ phẫu
thuật tạo hình phục hồi vành tai bị tổn khuyết toàn bộ.


7
Hình 13. Tạo hình toàn bộ vành tai theo Szymanowski [1]
Năm 1908, Schmieden đã dùng khung sụn sườn tự thân làm vật liệu tạo
hình vành tai tuy kết quả chưa được như mong muốn.

Hình 14.Tạo hình vành tai bằng sụn sườn theo Schmieden [1]
Đến năm 1920, Gillies tạo ra 1 trào lưu mới trong phẫu thuật tạo hình
vành tai hiện đại khi tiếp tục phát triển ý tưởng của Schmieden. Ông dùng
một khung sụn sườn tự thân đã được đẽo gọt thành hình nửa trên của vành tai
để cấy vào vùng chũm sau tai theo đường rạch ở gần chân tóc (hình 3). Tuy
nhiên kết quả về mặt thẩm mỹ không được như mong muốn.


8
Hình 15. Tạo hình vành tai “kiểu mới” bằng sụn sườn của Gillies [1]
Sau này, nhiều tác giả đã nghiên cứu thử nghiệm các loại vật liệu khác
nhau để làm chất liệu độn tạo hình cho vành tai như ngà voi, silicon, kim loại,
nhựa hoặc sụn đồng chủng được bảo quản trong rượu, rhimerosal
(merthiolate) hay các hóa chất khác.

Phẫu thuật tạo hình với các trường hợp thiểu sản vành tai chỉ thực sự
phát triển sau năm 1950 với các kỹ thuật của Tanzer, Brent và Nagata.
Năm 1959, Tanzer đã có bước đột phá trong tạo hình vành tai gồm 4 giai
đoạn, với mảnh ghép sụn sườn tự thân được chế tạo thành khung sụn vành tai
và tồn tại được trong nhiều năm.


9
Hình 16. Các bước kỹ thuật tạo hình vành tai theo Tanzer 1959 [1]
Tác giả nổi tiếng nhất trong việc tạo hình vành tai từ sụn sườn tự thân là
Brent đã hoàn thiện kỹ thuật này vào năm 1974, gồm 4 giai đoạn [2]:
- Tạo khung sụn vành tai từ các mảnh sụn sườn.
- Xoay dái tai về vị trí đúng.
- Nâng khung sụn vành tai lên và tạo rãnh sau tai.
- Tạo hình hố xoăn tai và bình tai.
Do phải qua nhiều giai đoạn như vậy rất mất thời gian nên sau này
Nagata (1985) đã xây dựng quy trình phẫu thuật mới chỉ gồm 2 giai đoạn [3]
với giai đoạn 1 chính là 3 bước số 1, 2, 4 của Brent, còn giai đoạn 2 sẽ nâng
khung sụn vành tai và tạo hình rãnh sau tai, từ đó rút ngắn được số lần và thời
gian phẫu thuật.
Kể từ đó, kỹ thuật tạo hình vành tai từ sụn sườn tự thân tiếp tục được rất
nhiều tác giả nghiên cứu và phát triển nhưng cũng không có nhiều khác biệt
so với kỹ thuật của Brent và Nagata. Đến nay, hầu hết các tác giả đều cho
rằng sụn sườn tự thân là vật liệu đáng tin cậy nhất, cho kết quả tốt với biến
chứng ít nhất trong tạo hình vành tai [4], [5], [6].
Ngoài ra còn có các phương pháp khác như tạo hình vành tai với đặt túi
giãn da, sử dụng sụn nhân tạo Medpor hay lắp tai giả.
Nhờ sự phát triển của kỹ thuật mô (tissue engineering) hiện đại trong
những năm gần đây, các nhà khoa học đã có thể nuôi cấy từ một số các tế bào
sụn rồi cho phát triển trong một khuôn tổng hợp đúc thành hình dạng tai người

và được cấy vào dưới da chuột. Đây được gọi là kỹ thuật tiền chế tạo (prefabricated).[4]
II. Phân loại thiểu sản vành tai:
Để thể hiện mức độ nặng nhẹ của thiểu sản vành tai, nhiều hệ thống phân
loại đã được phát triển. Sau đây là một số phân loại của thiểu sản vành tai.[3]


10


11
Bảng 1: Một số cách phân loại thiểu sản vành tai [3]
Theo Marx (1926)
Loại I: Vành tai nhỏ hơn bình thường nhưng có đủ các cấu trúc giải phẫu
Loại II: Vành tai thiếu mất 1-2 đơn vị giải phẫu
Loại III: Vành tai hình hạt đậu, thường hẹp hoặc không có ống tai ngoài
Loại IV( từ Rogers 1977): Không có vành tai
Theo Tanzer (1978)
Loại 1: Không có vành tai
Loại 2: Thiểu sản vành tai (microtia)
a. Có kèm theo hẹp ống tai ngoài
b.

Không kèm theo hẹp ống tai ngoài

Loại 3: Thiểu sản 1/3 giữa vành tai
Loại 4: Thiểu sản 1/3 trên vành tai
a.Tai cụp và tai rủ
b.Tai vùi
c.Thiểu sản toàn bộ 1/3 trên vành tai
Loại 5. Tai vểnh

Theo Weerda(1988)
Thiểu sản mức độ 1: Hầu hết tất cả các cấu trúc bình thường của tai vẫn còn
a. Tai lớn
b.

Dị dạng bình tai và gờ đối bình.

c.

Tai vểnh

d.

Tai vùi

e.

Dị dạng dái tai

f.

Không có phần trên gờ luân

g.

Tai cụp

h.

Stahl ear


Dị dạng mức độ 2: Nhận ra 1 vài cấu trúc bình thường của vành tai.
Dị dạng mức độ 3: Không còn nhận ra bất kỳ cấu trúc nào của vành tai
Chia làm 2 loại: 1 bên và 2 bên. Không có vành tai cũng nằm trong nhóm


12
này.
Theo Nagata (2000)
Loại dái tai: chỉ còn dái tai, không có loa tai, ống tai ngoài và bình tai.
Loại loa tai: còn dái tai, loa tai, ống tai ngoài, bình tai, khuyết gian bình ở
các mức độ.
Loại loa tai nhỏ: còn dái tai và loa tai nhỏ
Không vành tai:
Không điển hình: bao gồm các trường hợp không thuộc các loại trên

Hình 17. Phân loại thiểu sản vành tai của Hermann Marx [4]


13

Hình 18. Các loại TSVT. Không có vành tai (anotia- phía trên, bên trái);
TSVT typ dái tai (phía trên), dị dạng mức độ trung bình của cả dái tai và gờ
luân (ở giữa); bình tai và ống tai ngoài (ở giữa, bên phải); dị dạng loa tai,
bình tai, ống tai ngoài, dái tai và các phần gờ luân nhĩ ( tai cụp, tai rủ, tai ,
và TSVT typ loa tai và loa tai nhỏ)(phía dưới).
III. Các phương pháp tạo hình vành tai thiểu sản.
Trong chuyên đề này, chúng tôi chỉ đề cập đến các phương pháp tạo
hình thiểu sản vành tai nặng độ III và IV (tức là tạo hình toàn bộ vành tai)
Với cấu trúc giải phẫu phức tạp của vành tai (nhiều chỗ lồi lõm, sụn không

giống với các phần sụn khác trên cơ thể...) nên tạo hình toàn bộ vành tai được
các tác giả công nhận là một trong những phẫu thuật tạo hình khó nhất. Hiện nay
có 1 số phương pháp chủ yếu để tạo hình vành tai thiểu sản như:


14
- Tạo hình vành tai từ sụn sườn tự thân: nổi bật với 2 kỹ thuật của Brent
và Nagata.
- Sử dụng túi nước giãn da của Park.
- Sử dụng vành tai từ sụn sườn nhân tạo (MEDPOR).
- Lắp tai giả.
Tuy nhiên dù áp dụng kỹ thuật nào thì một kế hoạch phẫu thuật chi tiết
cũng rất quan trọng cho sự thành công.
1. Tạo hình vành tai bằng sụn sườn tự thân
1.1 Kế hoạch phẫu thuật
Mặc dù đã có rất nhiều tranh luận về độ tuổi để có thể tiến hành phẫu
thuật tạo hình vành tai nhưng đại đa số các tác giả đều thống nhất cần dựa vào
các yếu tố chính sau đây để xác định độ tuổi thích hợp nhất [2],[3],[4], [5],[6],
[7]
+ Kích thước tương đối của vành tai ở tuổi trưởng thành: Các nghiên cứu
về giải phẫu hình thái cho thấy, vành tai ở trẻ sơ sinh có kích thước bằng
khoảng 67% so với tuổi trưởng thành. Tỷ lệ này là 85% ở trẻ 3 tuổi và là 95%
ở trẻ 6 tuổi. Nói cách khác, trẻ từ 6 tuổi trở lên sẽ có kích thước vành tai gần
bằng so với tuổi trưởng thành.
+ Khối lượng của sụn tự thân sẽ lấy được: Trẻ phải từ 6 tuổi trở lên để có
thể lấy được đủ lượng sụn sườn cần thiết (để làm khung sụn vành tai) mà
không gây ra các tác động tiêu cực cho các cơ quan bên trong lồng ngực.
+ Tuổi bắt đầu gây ra các ảnh hưởng về tâm sinh lý của trẻ do bị dị tật:
Theo Brent, trẻ bị thiểu sản vành tai sẽ chịu các tác động tâm lý tiêu cực nặng
nề hơn ở tuổi bắt đầu đi học khi tiếp xúc với các bạn cùng học hoặc khi có các

giao tiếp xã hội khác.
Tổng hợp các yếu tố được phân tích ở trên, Brent cho rằng độ tuổi phù
hợp để bắt đầu tiến hành phẫu thuật tạo hình vành tai bị thiểu sản là 6 tuổi
[2], [5].
Còn theo phẫu thuật viên người Nhật Nagata, độ tuổi thích hợp lại muộn
hơn, cụ thể là từ 10 tuổi trở lên, khi mà chu vi vòng ngực phải > 60 cm (hoặc


15
có thể xác định sự phát triển của khung sụn sườn nhờ X-quang). Theo tác giả
này, việc lấy sụn sườn ở trẻ từ 10 tuổi trở lên sẽ không gây ảnh hưởng đáng kể
tới sự phát triển kích thước lồng ngực sau này. Ngoài ra còn vì khối lượng,
kích thước sụn sườn cần lấy để tạo hình trong kỹ thuật của Nagata đòi hỏi
nhiều hơn so với kỹ thuật của Brent [6].
Trong 1 số trường hợp khi trẻ bị mặc cảm tâm lý sớm thì có thể tiến hành
phẫu thuật sớm hơn, khi trẻ khoảng 7 tuổi. Còn nếu trẻ rất sợ phẫu thuật có
thể đợi thêm 1 thời gian nữa rồi mới tiến hành phẫu thuật khi trẻ đã nhận thức
đầy đủ và sẵn sàng.[7]
1.2. Kỹ thuật 4 giai đoạn của Brent
1.2.1.Giai đoạn 1: Tạo hình khung sụn vành tai bằng sụn sườn đối bên.
+ Bước 1: tạo mẫu vành tai căn cứ vào tai bình thường của BN (với
trường hợp thiểu sản vành tai một bên) hoặc tai của mẹ BN hoặc 1 mẫu tai
phù hợp với khuôn mặt trẻ (với trường hợp thiểu sản vành tai hai bên) [8],[9],
[10].
Mẫu vành tai thường được làm nhỏ hơn kích thước tai bình thường
khoảng 2-3mm vì sau đó còn có phần da bọc bên ngoài. Sau đó tùy các trường
hợp thiểu sản khác nhau mà khung sụn được tạo hình cho phù hợp.
Sau đó là tiến hành đánh dấu các vị trí sẽ đặt khung sụn theo các kích
thước sao cho cân đối với tai bên lành trong đó khóe mắt ngoài, mũi và dái tai
là các điểm tham chiếu. Tuy nhiên đối với trường hợp thiểu sản nửa mặt thì

khó để đặt cân đối với tai lành. Lúc đó điểm tham chiếu tin cậy theo Brent là
cực trên tai lành chứ không phải là điểm khóe mắt ngoài nữa. Chúng ta cũng
cần đánh giá phần dái tai của tai thiểu sản vì trong 1 số trường hợp nó ở gần
đường giữa của khuôn mặt hơn.[2]


16

Hình 19. Lấy mẫu vành tai và đánh dấu vị trí giải phẫu để cấy sụn [9]
+ Bước 2: Phẫu thuật lấy sụn sườn để tạo hình khung sụn vành tai.
Thường dùng các sụn sườn thứ 6, 7, 8 đối bên để làm khung sụn, trong đó
phần khung chính được tạo thành từ khớp sụn của sụn sườn thứ 6 và 7, còn gờ
luân được tạo thành từ phần “di động” của sụn sườn 8.

(A)

(B)

Hình 20. (A) Vị trí rạch da lấy sụn sườn
(B) Xác định kích thước khung sụn 6 – 7[9]

Hình 21. Các bước tạo hình khung sụn vành tai từ sụn sườn[10]
A. Tạo khung sụn cơ bản từ khớp giữa hai sụn sườn; B. Đẽo gọt khung sụn cơ
bản; C. Bào mỏng sụn sườn tạo rãnh luân nhĩ; D. Khâu luân nhĩ vào khung
sụn cơ bản; E. Hoàn thành khung sụn vành tai.


17
+ Bước 3: Vùi khung sụn xuống dưới da: tại vị trí vành tai đã được xác
định (bước 1) người ta tiến hành đường rạch ở phía sau dưới phần tai thiểu

sản, lấy bỏ phần hết phần sụn. Da được bóc tách theo bình diện dưới da đủ tạo
1 túi để đặt vừa khung sụn nhưng cũng không hẹp quá tránh việc khung sụn
làm da bị căng dễ dẫn đến thiểu dưỡng và hoại tử da. Theo các nhà phẫu thuật
đây là giai đoạn rất quan trọng quyết định thành công của phẫu thuật. Nếu bóc
tách da dày quá thì sẽ không thấy rõ các gờ rãnh của khung sụn, nếu mỏng
quá thì gây thiểu dưỡng. Nếu túi đặt khung sụn rộng quá thì việc nuôi dưỡng
sụn cũng kém và dễ di lệch vị trí khung sụn. Sau khi đặt ta sẽ kiểm tra vị trí
của khung sụn đã đúng và cân đối với bên lành chưa. Ta có thể cố định khung
sụn và lớp cân cơ bằng các mũi chỉ tiêu, đơn sợi.[2]
Để tránh hiện tượng tụ dịch, máu cũng như tạo khe, rãnh cho vành tai,
cần đặt 2 dẫn lưu nhỏ phía dưới và bên cạnh khung sụn trong 4 - 5 ngày đồng
thời với hút với áp lực âm liên tục. Những mảnh sụn thừa nên vùi dưới da đầu
hoặc dưới vết rạch vùng ngực để sử dụng cho giai đoạn sau. Sau đó vùng tai
sẽ được băng ép.
Gần đây, Brent có thay đổi nhỏ trong giai đoạn 1 khi gắn thêm một mảnh
sụn vào khung sụn ban đầu ở phía dưới để tạo ra bình tai [10].
Trong giai đoạn đầu của kỹ thuật Brent, dái tai chưa được đặt đúng vị trí.
1.2.2 Giai đoạn 2: Chuyển dái tai về đúng vị trí
Được thực hiện sau giai đoạn 1 khoảng 3 - 4 tháng, dái tai sẽ được xoay
ra sau để tiếp nối với bờ dưới của khung sụn đã vùi dưới da. Ở đây sẽ thường
dùng vạt chữ Z.


18

Hình 22. Chuyển dái tai về đúng vị trí [9]
1.2.3 Giai đoạn 3: Nâng toàn bộ vành tai tạo hình và tạo rãnh sau tai.
Sau vài tháng khung sụn đã gắn tương đối chắc chắn với vỏ bao gồm tổ chức
xơ và mạch máu. Vì vậy việc bóc tách khung sụn để nâng vành tai sẽ không
ảnh hưởng đến khung sụn cũng như mạch máu nuôi dưỡng của nó.

- Rạch da theo đường từ trên xuống dưới dọc theo chu vi của gờ luân nhĩ,
cách khoảng một vài mm
- Bóc tách vào mặt sau tai, phía ngoài của vỏ bọc khung sụn để có thể
nâng vành tai lên, đảm bảo khung sụn vẫn được bọc trong tổ chức xơ và mạch
máu cho đến khi đạt được kích thước phù hợp.
- Sử dụng 1 mảnh sụn đã lấy từ trước (được vùi dưới da trong giai đoạn
1) đặt vào giữa khung sụn vành tai và mặt xương chũm để nâng vành tai lên
(so sánh với bên đối diện về độ vểnh của tai sao cho cân đối).
- Lấy 1 mảnh da vùng bẹn làm chất liệu ghép để phủ kín mặt sau vành tai
vừa nâng và mặt ngoài xương chũm. Mảnh da ghép được khâu nhiều mũi chỉ
chờ và đặt 1 mảnh gạc có tẩm mỡ kháng sinh (bolster) rồi dùng chỉ chờ buộc


19
lại để ép phần da vừa ghép với khung sụn. Bolster thường được để khoảng 5-7
ngày sau đó lấy ra. Lúc này mảnh da ghép thường được nuôi dưỡng tốt. Góc
vành tai thường lớn hơn 1 chút trong vòng vài tuần cho đến khi mảnh da ghép
liền tốt và sẽ hơi co lại. Trong thời gian này cần tránh các chấn thương vào
vùng tai, bệnh nhân cần được băng tai hoặc dùng bát chụp tai đề phòng các
chấn thương không mong muốn, đặc biệt khi ngủ.[2]

(A)

(B)

(C)

(D)

Hình 23. Nâng khung sụn vành tai và tạo rãnh sau tai [10]

A. Rạch da theo khung sụn vành tai mới tạo hình B. Đệm 1 mảnh sụn sườn
vào giữa khung sụn và xương chũm; C. Che mảnh sụn bằng vạt cân cơ, D.
Che phủ bằng mảnh da ghép lấy từ vùng bẹn.
1.2.4 Giai đoạn 4: Tạo hình bình tai và làm sâu loa tai.
- Lấy một mảnh ghép gồm cả da và sụn ở mặt trước bên của loa tai bên
đối diện.
- Rạch da dọc theo bờ sau của bình tai theo hình chữ J hoặc chữ C.
- Đặt mảnh ghép phức hợp da sụn vào vị trí vết rạch để tạo thành bình tai
có 2 chiều cũng như 1 chỗ lõm ở phía sau. Có thể lấy bớt 1 phần tổ chức phần
mềm ở loa tai mới tạo ra để làm sâu thêm hố của loa tai. Phần bóng của bình
tai mới tạo ra giống ống tai ngoài.


20

Hình 24. Tạo hình bình tai [9]
* Ưu điểm:
1. Có thể tiến hành phẫu thuật sớm (khoảng 6 tuổi)
* Nhược điểm:
1. Cần nhiều thì phẫu thuật.
2. Thường gây biến dạng lồng ngực
3. Hình thái một số chi tiết như loa tai, khuyết gian bình, đường viền
của đối bình tai chưa thực sự rõ nét.
1.3. Kỹ thuật 2 giai đoạn của Nagata: được giới thiệu lần đầu vào năm 1993,
kỹ thuật Nagata đã đạt được thành công lớn nhờ vào việc cải tiến kỹ thuật
Brent, rút ngắn còn 2 giai đoạn phẫu thuật. Việc tạo hình bình tai, khuyết gian
bình đã được đưa vào khung sụn ở giai đoạn 1.
1.3.1 Giai đoạn 1: Tạo khung sụn vành tai bằng sụn sườn cùng bên, xoay dái
tai về đúng vị trí và tạo hình bình tai [11] [12].
+ Bước 1: Lấy mẫu vành tai (giống kỹ thuật của Brent).



21
+ Bước 2: Lấy sụn sườn cùng bên tai tổn thương làm chất liệu tạo hình
khung sụn vành tai.
Thường dùng các sụn sườn số 6, 7, 8, 9 để làm khung sụn. Cụ thể: khớp
sụn sườn số 6, 7 tạo phần khung cơ bản, sụn sườn số 8 làm gờ luân và rễ gờ
luân, sụn sườn thứ 9 tạo thành rễ trước, sau của gờ đối luân.
Khi lấy sụn sườn Nagata đã cố gắng giữ lại màng sụn để tránh biến dạng
lồng ngực sau mổ.
*Cách lựa chọn các mảnh sụn:[11]
Để tạo ra 1 khung sụn hoàn chỉnh, chúng ta cần có ít nhất 6 mảnh sụn sườn:
(1) Phần đáy: thường lấy từ sụn sườn số 6 và 7
(2) Phần đối luân: lấy từ sụn sườn số 9
(3) Phần gờ luân: lấy từ sụn sườn số 8
(4) Phần bình tai và đối bình
(5) Mảnh projection
(6) Mảnh sụn chờ dưới da vùng ngực cho thì 2.
Khung sụn được chia làm 3 tầng sụn khác nhau: tầng 1 tức là phần đáy
gồm loa tai (hố xoăn tai trên và dưới), tầng 2 gồm rễ gờ luân, hố tam giác và
hố thuyền; tầng 3 gồm gờ luân, gờ đối luân, bình tai và gờ đối bình
Cả hình dạng của tai bình thường và hình dạng sụn sườn giúp xác định
được các mảnh sụn trên. Sun sườn số 8 thường đủ dài để tạo gờ luân (10cm).
Nếu ngắn quá, có thể chia thành 2 đoạn 7cm và 3cm. Phức hợp bình- đối bình
thường lấy từ sụn sườn 7 hoặc 6 nơi sụn dầy nhất.
Các mảnh sụn được khâu cố định với nhau bằng 1 loại chỉ thép đặc biệt.


22


Hình 25. Các mảnh sụn khác nhau và khung
sụn được tạo thành.[11]
*Chọn khung sụn:[11]
TSVT bao gồm rất nhiều mức độ khác nhau và thường không luôn cần
phải tạo ra 1 khung sụn toàn bộ. Chúng ta có thể chia ra 3 loại: (1) TSVT
không có bình tai; (2) TSVT có bình tai nhưng không có gờ đối bình và (3)
TSVt có đầy đủ phức hợp bình- đối bình. Từ đó có 3 loại khung sụn:
- Typ I: Khung sụn toàn bộ bao gồm phần đáy, gờ luân, đối luân và
phức hợp bình- đối bình.
- Typ II: Khung sụn bao gồm phần đáy, gờ luân, đối luân và đối bình.
- Typ III: Khung sụn bao gồm phần đáy, gờ luân và đối luân.


23

Hình 26. Phân loại khung sụn. (A1) Không có bình tai và/ hoặc gờ đối
bình. (A2) khung sụn toàn bộ (typ I). (B1) Bình tai nguyên vẹn nhưng
phần còn lại thiểu sản. (B2) Khung sụn typ II. (C1) Phức hợp bình và đối
bình bình thường. (C2) Khung sụn typ III.[11]

(A)

(B)

Hình 27. (A). Lấy sụn sườn 6, 7, 8, 9 cùng bên
(B). Tạo hình khung sụn vành tai từ sụn sườn[12]


24
+ Bước 3: Vùi khung sụn xuống dưới da tại vị trí vành tai đã được xác định.

Tìm đường rãnh trước dái tai ban đầu và rạch theo đường này dài khoảng
3-4 cm rồi rạch da hình chữ W từ rãnh sau dái tai xuống phía dưới sao cho tạo
ra 2 vạch da tương ứng với 2 cạnh của chữ W. Sau đó tách phần dái tai ban
đầu nhưng vẫn để lại cuống nuôi ở phía dưới tại vị trí của khuyết gian bình.
Bóc tách qua vết rạch da nhưng lưu ý bảo tồn phần trung tâm của vạt da để
tăng cường cấp máu cho vạt da. Lấy bỏ hết phần sụn. Đường rạch phía trước
dái tai sẽ tạo ra bờ của bình tai mới. Tận cùng của đường rạch này là hình tròn
đường kính khoảng 2mm được bóc tách hết chiều dày của da. Đây sẽ là vị trí
của vạt chữ W tạo nên bờ của khuyết gian bình. Vạt da phía trước sẽ được bóc
tách và nâng lên để đặt phần bình tai của khung sụn.[11]
Sau khi bóc tách đủ rộng sẽ luồn khung sụn vào phía dưới vạt da. Khung sụn
sẽ được đặt đúng vị trí.
+ Bước 4: xoay dái tai về đúng vị trí và tạo hình bình tai.
Dái tai được xoay lại và khâu dính với đường rạch da chữ W ở phía sau.
Vùng da nhỏ khuyết hình vòng cung phía dưới góp phần tạo nên bình tai.
Hai dẫn lưu nhỏ sẽ được đặt dưới và trên khung sụn và hút liên tục đảm
bảo khung sụn được gắn vào vạt da. Dẫn lưu thường được để trong 48-72h.

Hình 28. Vùi khung sụn dưới vạt da, xoay dái tai về đúng vị trí và tạo hình
bình tai .[14]
Chú ý: đường rạch phía sau có hình chữ W, phần chữ S có gạch chéo là
phần da không bóc tách để cung cấp máu cho vạt da.


25
1.3.2 Giai đoạn 2: Thực hiện sau giai đoạn 1 khoảng 6 tháng.
- Tạo 1 miếng sụn hình liềm từ sụn sườn số 5.

Hình 29. Nâng khung sụn và tạo rãnh sau tai [13]
- Rạch da dọc phía sau rìa gờ luân khoảng 1 vài mm rồi chèn mảnh sụn

hình liềm vào để nâng toàn bộ khung sụn lên.
- Lấy mảnh cân cơ thái dương nông và dùng vạt da trượt ở phía sau kéo
lên để che phủ mảnh sụn phía sau. Đây là điểm khác biệt của kỹ thuật Nagata
so với kỹ thuật của Brent. Một đường rạch hình zigzac vùng thái dương phía
trên trước tai được tạo ra, 1 vạt cân cơ thái dương được đưa xuống qua 1
đường hầm dưới da phía sau tai. Vạt cân cơ này sẽ che phủ phần sau tai,
khung sụn và cả phần của xương chũm bị bộc lộ nếu có. Một vạt da trượt
vùng đỉnh chẩm sẽ che phủ lên phần cân cơ này. Và một bolster cũng được
buộc và ép vạt da xuống.
Có khoảng 14% trường hợp vạt da này bị hoại tử, có thể do vạt da được
nuôi dưỡng kém vì căng da quá mức do các gờ rãnh của khung sụn bị cao.
Hơn nữa đường rạch chuyển vị trí dái tai cũng làm cho vạt da bị kém nuôi
dưỡng. Đường rạch da vùng thái dương thường để lại sẹo và làm cho tóc


×