Tải bản đầy đủ (.docx) (63 trang)

NGHIÊN cứu CAN THIỆP hỗ TRỢ điều TRỊ HIVHCV sử DỤNG ỨNG DỤNG TRÊN điện THOẠI DI ĐỘNG THÔNG MINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (507.68 KB, 63 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI

BÙI MINH THU

NGHIÊN CỨU CAN THIỆPHỖ TRỢ
ĐIỀU TRỊ HIV/HCV SỬ DỤNG ỨNG DỤNG
TRÊN ĐIỆN THOẠI DI ĐỘNG THÔNG MINH

ĐỀ CƯƠNG DỰ TUYỂN NGHIÊN CỨU SINH

HÀ NỘI - 2017


MỤC LỤC


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
ADDIE

: Analysis, Design, Development, Implementation and Evaluation

AIDS

(Phân tích, Thiết kế, Phát triển, Sử dụng và Đánh giá)
: Acquired Immune Deficiency Syndrome

ARV


CBYT
Gen
GIS
HBV
HCV
HIV

(Hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải)
: Anti Retrovirus (Thuốc kháng retrovirus)
: Cán bộ Y tế
: Genotype (Kiểu gen)
: Geographic Information System (Hệ thống thông tin địa lý)
: Hepatitis B Virus (Vi rút viêm gan B)
: Hepatitis C Virus (Vi rút viêm gan C)
: Human Immunodeficiency Virus

MSM

(Virus gây suy giảm miễn dịch mắc phải ở người)
: Men who have Sex with Men

NCMT
OS
PNBD
QHTD
TCD4

(Quan hệ tình dục đồng giới nam)
: Nghiện chích ma túy
: Operating System (Hệ điều hành)

: Phụ nữ bán dâm
: Quan hệ tình dục
: Tế bào Lympho T mang thụ thể CD4 trên bề mặt


DANH MỤC BẢNG


5

ĐẶT VẤN ĐỀ
Việt Nam là một trong những nước có tốc độ lây lan HIV trong nhóm người
nghiện chích ma túy nhanh nhất tại Châu Á trong thập kỷ qua. Hiện nay, ước tính có
khoảng 240,000 người nghiện ma túy; đây cũng là đối tượng chiếm khoảng một nửa
số ca nhiễm HIV mới được phát hiện và chiếm hai phần ba tổng số ca nhiễm HIV
tại Việt Nam [1]. Bên cạnh đó, tình trạng đồng nhiễm các bệnh khác như viêm gan
B (HBV) hay viêm gan C (HCV) trong những bệnh nhân này cũng là một trong
những vấn đề cần được quan tâm và giải quyết. Theo các nghiên cứu cho thấy, tại
Việt Nam, tỷ lệ đồng nhiễm HBV trên các bệnh nhân HIV có thể từ 6,6% đến
16,7% [2, 3]; và tỷ lệ đồng nhiễm HCV có thể từ 42,1% đến 47,6% [2, 3]. Mặc dù
không phải là bệnh nhiễm trùng cơ hội, nhưng các vi rút gây viêm gan, cụ thể là
HBV và HCV đang được đánh giá là những nguyên nhân hàng đầu liên quan với
tình trạng nhập viện và tử vong ở người nhiễm HIV [3]. Các kết quả nghiên cứu
cũng cho thấy ở những người có tình trạng đồng nhiễm HBV hoặc HCV với HIV
thường có tình trạng phá hủy tế bào gan nhanh hơn, bao gồm cả ung thư gan và dẫn
đến tử vong nhanh hơn so với người không có tình trạng đồng nhiễm các vi rút
viêm gan [3, 4]. Do đó, các can thiệp giúp nâng cao hiệu quả chăm sóc các bệnh
nhân HIV đồng nhiễm viêm gan là hết sức cần thiết.
Hiện nay, trên thế giới, việc ứng dụng các thiết bị di động trong can thiệp các
vấn đề sức khỏe đang ngày càng phổ biến. Các thiết bị di động như điện thoại di

động hay máy tính bảng (tablet) có những ưu điểm nổi trội như chi phí thấp và khả
năng tiếp cận thông tin cao đã trở thành các phương tiện truyền thông phổ biến nhất
hiện nay. Các thiết bị này đang trở thành các công cụ không thể thiếu trong đời sống
hàng ngày. Đến cuối năm 2012, trên toàn thế giới có khoảng 4,3 tỷ thuê bao di động
[5]. Đặc biệt, trong giai đoạn gần đây, sự khai sinh của dòng điện thoại di động
thông minh (smartphone) có kèm hệ điều hành (operating system - OS) đã mở ra
một kỷ nguyên mới thông qua việc hình thành các kho ứng dụng, giúp cải thiện hiệu
suất đáng kể và cung cấp nhiều tiện ích hơn so với dòng điện thoại thông thường.


6

Hiện nay tồn tại hai OS chính gồm iOS của công ty Apple và Android của công ty
Google. Thống kê cho thấy, trong năm 2012, có tới 46 tỷ lượt tải ứng dụng trên toàn
thế giới trên hai hệ điều hành này, mang lại lợi nhuận khoảng 12 tỷ đô la Mỹ cho
các công ty phát triển ứng dụng [6]. Có rất nhiều loại hình ứng dụng cho điện thoại
thông minh với nội dung phong phú, bao gồm các chủ đề từ Âm nhạc, Thể thao đến
Giáo dục, Đời sống và Y tế. Trong đó, năm 2014 đánh dấu sự tăng trưởng vượt bậc
về thời gian trung bình một người dành cho các ứng dụng về Sức khỏe [7].
Việc phát triển và nghiên cứu các ứng dụng phần mềm trên điện thoại di động
thông minh (smartphone) nhằm hỗ trợ điều trị và phòng chống các vấn đề sức khỏe
liên quan đến HIV/AIDS đang dần trở thành một xu hướng trong khoảng 15 năm
trở lại đây [8]. Có rất nhiều hình thức của các ứng dụng này được triển khai, bao
gồm các tin nhắn di động, đặt lịch hẹn, đặt báo thức, tin nhắn hội thoại. Các phương
pháp này có thể được sử dụng để tăng cường tuân thủ và duy trì điều trị HIV/AIDS,
thúc đẩy trao đổi giữa người bệnh và thầy thuốc, đồng thời, nâng cao chất lượng
dịch vụ y tế [8-12]. Ở Việt Nam, việc ứng dụng y tế di động trong các can thiệp
phòng chống HIV/AIDS còn khá mới mẻ. Nghiên cứu của Trần Xuân Bách (2012)
cho thấy tính chấp nhận và khả thi cao của việc sử dụng điện thoại di động trong hỗ
trợ tuân thủ điều trị ARV [13]. Từ đó, là cơ sở cho việc thiết kế các ứng dụng và

triển khai các can thiệp trong thực tiễn, nhằm nâng cao hiệu quả quản lý và hỗ trợ
bệnh nhân HIV trong quá trình điều trị. Tuy nhiên, trên thế giới và tại Việt Nam,
cho tới nay chưa có nghiên cứu nào cụ thể về việc xây dựng một ứng dụng điện
thoại cho những bệnh nhân HIV/AIDS có đồng nhiễm HBV/HCV mà chỉ mới có
các ứng dụng cho từng bệnh. Do đó, chúng tôi thực hiện đề tài “Nghiên cứu can
thiệp hỗ trợ điều trị HIV/HCV sử dụng ứng dụng trên điện thoại di động thông
minh” với 2 mục tiêu chính:
1. Thiết kế ứng dụng trên điện thoại di động thông minh trong can thiệp hỗ trợ

điều trị HIV/HCV.
2. Can thiệp hỗ trợ điều trị HIV/HCV sử dụng ứng dụng trên điện thoại di động

thông minh.


7

Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Tình hình nhiễm HIV và/hoặc viêm gan HBV/HCV
1.1.1. Trên thế giới
Kể từ ca nhiễm đầu tiên được phát hiện năm 1981 cho đến nay, HIV/AIDS vẫn
đang là một một trong những vấn đề y tế công cộng được ưu tiên hàng đầu.
HIV/AIDS là một trong sáu nguyên nhân hàng đầu gây ra gánh nặng bệnh tật trên
toàn thế giới, góp phần vào 2,8% số ca tử vong hàng năm và 3,3% tổng gánh nặng
bệnh tật toàn cầu [14]. Thống kê cho thấy, kể từ năm 2000 đến nay, đã có 38,1 triệu
người nhiễm HIV và 25,3 triệu người tử vong do các bệnh liên quan đến AIDS.
Theo ước tính của UNAIDS, trong năm 2014, có khoảng 36,9 triệu người đang phải
sống chung với HIV; 2 triệu ca mắc mới (trong đó có 220.000 ca là trẻ em) và 1,2
triệu người tử vong do AIDS [15].

Tính đến cuối năm 2012, số người nhiễm HIV trên thế giới hiện còn sống là
35,3 (32,2 - 38,8) triệu người. Trong đó, có 3,3 (3,1 - 3,8) triệu trẻ em dưới 15 tuổi,
khoảng 50% (48 - 53%) số người nhiễm là phụ nữ. Riêng năm 2012, số người
nhiễm HIV mới phát hiện là 2,3 (1,9 - 2,7) triệu người, trong đó trẻ em dưới 15 tuổi
là 320.000 (270.000 - 380.000) người, số người chết do AIDS là 1,6 (1,4 - 1,8) triệu
người. Cứ mỗi ngày trôi qua có thêm 7.000 trường hợp (1.000 trẻ em và 6.000
người lớn) nhiễm HIV mới phát hiện và 90% trong số này ở các nước đang phát
triển [16, 17].
Châu Phi Cận Sahara: là khu vực chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của đại dịch
HIV/AIDS. Ước tính có khoảng 25 triệu người nhiễm HIV đang còn sống, chiếm
70% số người nhiễm toàn cầu. Riêng trong năm 2012, có khoảng 1,6 triệu người
phát hiện nhiễm HIV và 1,2 triệu người chết vì AIDS [18]. Tuy nhiên, ở mỗi quốc
gia tình hình nhiễm HIV khác nhau. Trong khi ở Somalia và Senegal tỷ lệ nhiễm
HIV dưới 1% dân số trưởng thành, thì ở Namibia, Zambia và Zimbabwe khoảng 10
- 15% người lớn bị nhiễm HIV. Khu vực Nam Phi là nơi bị ảnh hưởng nặng nề nhất


8

bởi HIV/AIDS, trở thành “tâm chấn” của đại dịch HIV/AIDS toàn cầu. Tỷ lệ nhiễm
HIV ở Nam Phi là 17,9%; và có ba quốc gia mà tỷ lệ nhiễm HIV ở người lớn vượt
quá 20%, đó là Botswana (23,0%), Lesotho (23,6 %) và Swaziland (26,5%). Hình
thái lây truyền HIV Châu phi chủ yếu là qua quan hệ tình dục (QHTD) khác giới và
nghiện chích ma túy (NCMT) [19].
Châu Á: Những năm đầu vụ dịch ở thập kỷ 1980, trong khi các châu lục khác
đang phải đối phó với tình hình nghiêm trọng HIV, thì Châu Á vẫn chưa bị ảnh
hưởng. Nhưng vào những năm 1990 dịch HIV/AIDS bắt đầu xuất hiện ở một số
nước Châu Á và đến cuối thập kỷ này, HIV đã và đang lây lan nhanh chóng ở nhiều
khu vực của châu lục này [20]. Hiện nay, khoảng gần 5 triệu người đang sống với
HIV ở Nam Á, Đông Á và Đông Nam Á. Mặc dù, tỷ lệ nhiễm HIV ở nhiều nước

Châu Á không cao, nhưng dân số quá đông cũng làm cho số lượng người nhiễm
HIV khá lớn. Ví dụ tại Ấn Độ, tỷ lệ nhiễm HIV trong độ tuổi 15 - 49 là 0,1%, nhưng
với 1,2 tỷ dân số, điều này thực sự tương đương với 2,3 triệu người trưởng thành
sống với HIV ở Ấn Độ [18].
Khu vực Đông Nam Á: Là khu vực bị ảnh hưởng nặng nề của dịch HIV/AIDS
sau Châu Phi cận Sahara. Hiện nay, có khoảng 4,0 triệu người ở khu vực này đang
nhiễm HIV.
Tại Indonesia, có khoảng 380.000 người đang sống với HIV, là nơi có tốc độ
lây lan nhanh nhất Châu Á. Số người nhiễm HIV đang tăng mạnh trong những năm
gần đây, có thể tăng 2 lần vào năm 2015 nếu các biện pháp phòng, chống HIV
không hiệu quả. QHTD rộng rãi và tệ nạn NCMT là lý do chính làm gia tăng nhanh
chóng đại dịch này tại Indonesia. Tỷ lệ phụ nữ bán dâm bị nhiễm HIV là 15% và tỷ
lệ này ở nhóm NCMT là 36% [21].
Thái Lan là một quốc gia điển hình về cam kết mạnh mẽ để giải quyết đại dịch
HIV/AIDS và đã gặt hái những thành công to lớn. Tuy nhiên, thời gian gần đây số
nhiễm mới HIV tăng cao trong nhóm quan hệ tình dục đồng giới nam (MSM), đặc
biệt ở Bangkok, nơi tỷ lệ nhiễm HIV trong nhóm này đã tăng từ 17,3% năm 2003


9

lên 31,3% năm 2009. Hiện nay, có khoảng 590.000 người nhiễm HIV đang sống,
chiếm tỷ lệ 1,2% dân số Thái Lan [22].
Châu Mỹ La Tinh: không có sự biến động lớn và HIV tiếp tục lây truyền ở
nhóm có hành vi nguy cơ cao, bao gồm những người NCMT, hoạt động mại dâm và
đồng tính nam. Ước tính số nhiễm mới HIV ở Châu Mỹ La Tinh trong năm 2012 là
86.000 người, nâng tổng số người đang sống với HIV ở khu vực này lên tới 1,5
triệu người, chiếm 0,4% dân số. Tại một số thành phố ở Argentina gần 50% số
người NCMT nhiễm HIV. Brazil là nơi có số người nhiễm HIV cao nhất ở khu vực
này, tính đến cuối năm 2012, Brazil có 595.000 người nhiễm HIV, chiếm 0,4% dân

số [21].
Đông Âu và Trung Á: Người nhiễm HIV chỉ mới xuất hiện đầu tiên vào năm
1996 nhưng có sự gia tăng mạnh. Chỉ riêng năm 2012, đã phát hiện thêm 150.000
người nhiễm HIV, nâng tổng số người đang sống với HIV tại Đông Âu và Trung Á
lên 1,4 triệu người so với 630.000 người trong năm 2001, tăng 150%. Gần 90% số
ca nhiễm HIV mới tại khu vực này là từ hai quốc gia: Cộng hòa Liên bang Nga
(66%) và Ukraine (21%). Hiện nay nhiều nước ở Trung Á như Kazakhastan,
Uzbekistan báo cáo đã có sự gia tăng số người nhiễm HIV và hầu hết là những
người NCMT [18].
Châu Úc: Nhìn chung ít bị ảnh hưởng bởi đại dịch HIV/AIDS. Hiện nay, ở
châu lục này có khoảng 53.000 người nhiễm HIV còn sống và 1.300 người tử vong
do AIDS. Hình thái lây truyền HIV ở Châu Úc chủ yếu là qua đường tình dục và
TCMT [17, 20].
Bên cạnh các đối tượng có nguy cơ rất cao nhiễm HIV như phụ nữ bán dâm,
người nghiện chích ma túy và MSM, một số các nhóm đối tượng khác cũng có nguy
cơ nhiễm HIV như đối tượng thanh thiếu niên hay đối tượng là cán bộ y tế. Theo
thống kê của Trung tâm phòng chống bệnh tật Hoa Kỳ, tỷ lệ thanh thiếu niên từ 13
đến 24 tuổi nhiễm HIV chiếm 26% tổng số ca nhiễm HIV trên toàn nước Mỹ, và có
tới 50% thanh thiếu niên bị nhiễm nhưng không biết tình trạng mắc bệnh của bản
thân [23]. Các nguy cơ mà thanh thiếu niên hay gặp bao gồm việc có nhận thức hạn


10

chế về nguy cơ nhiễm HIV; chưa có thói quen đi xét nghiệm HIV; quan hệ tình dục
không an toàn; tỷ lệ viêm nhiễm bệnh lây qua đường tình dục cao; vô gia cư hoặc bị
kì thị - tự kỉ [23].
Đã có rất nhiều nghiên cứu về tỷ lệ đồng nhiễm HIV/HCV cũng như tác động
qua lại của hai loại vi rút này đối với tiến triển của bệnh gan cũng như tiến triển của
nhiễm HIV ở những bệnh nhân đồng nhiễm HIV/HCV. Trên 30% bệnh nhân

HIV/AIDS có đồng nhiễm viêm gan C, HIV có tác động rõ rệt làm tăng nhanh quá
trình tiến triển của viêm gan vi rút C, làm tăng tỷ lệ mắc và tử vong do các bệnh lý
về gan ở những đối tượng này, đặc biệt làm tăng nguy cơ nhiễm độc gan do thuốc
kháng vi rút (ARV), các bệnh lý về chuyển hóa, nhanh chóng dẫn đến xơ gan [24].
Tỷ lệ đồng nhiễm HIV với viêm gan C ở Nhật bản là 20%, tại miền tây Iran là
72% [25] và tại Hy lạp là 90,4% [26]. Tại Hoa kỳ, tỷ lệ nhiễm HCV là 10,6% (95%
CI = 8,7-12,4%), HCV genotype 1 là 87,5%, trong đó đồng nhiễm HIV/HCV 24,8%
[27]. Zhou J và cộng sự [28] đánh giá về đồng nhiễm viêm gan – HIV trên 2.979
bệnh nhân tại các nước đông nam Á cho kết quả 49% có đồng nhiễm HCV.
Đánh giá về tỷ lệ đồng nhiễm HIV với viêm gan C trong thời gian 2004-2005
tại Iran, Seyed Alinaghi S và cộng sự thấy có tới 67,2% bệnh nhân đồng nhiễm
HCV, chủ yếu trong nhóm tiêm chích ma túy tĩnh mạch (85,1%) [29].
Douglas G. Fish [30] nghiên cứu thấy từ 15% đến 30% người nhiễm HIV ở
Hoa kỳ có đồng nhiễm với viêm gan vi rút C, và 90% số trường hợp này là người
tiêm trích ma túy tĩnh mạch. Bệnh lý gan mạn tính ở đối tượng này là xơ gan, ung
thư gan nguyên phát và dẫn tới tử vong.
Liz Highleyman [31] nghiên cứu so sánh 4.280 bệnh nhân đồng nhiễm
HIV/HCV điều trị ARV với 6.079 bệnh nhân HCV đơn thuần từ 1997-2010, thấy
45% bệnh nhân có số lượng CD4 trước điều trị ≤ 200 cells/mm3. Các biểu hiện lâm
sàng: cổ chướng, viêm màng bụng do vi khuẩn và chảy máu do giãn vỡ tĩnh mạch
thực quản. Không thấy bệnh lý não do gan và vàng da vàng mắt. Tỷ lệ suy gan ở
nhóm bệnh nhân đồng nhiễm HIV/HCV cao hơn nhóm viêm gan C đơn thuần (6,3%
và 5,0%) [chỉ số nguy cơ HR = 1,83], ung thư tế bào gan nguyên phát tương đương


11

ở các 2 nhóm (1,2% và 0,9%) [HR = 1,69]. Tỷ lệ tử vong ở những bệnh nhân đồng
nhiễm cao hơn (32,9% so với 15,4%). Những bệnh nhân đồng nhiễm và có số lượng
tế bào CD4 < 200 TB/mm3 có tỷ lệ xơ gan mất bù cao hơn.

Người nhiễm HIV/AIDS nghiện chích ma túy có nguy cơ cao bị lây nhiễm
HBV, HCV và HIV. Trong một nghiên cứu về tỷ lệ đồng nhiễm các tác nhân này
bằng việc xét nghiệm 250 mẫu huyết tương của người tiêm chích ma túy tại Hoa kỳ,
các tác giả nhận thấy: 140 (59,6%) có xét nghiệm khẳng định HIV (+), 226 (90,4%)
có anti HCV(+) và 27 (10,8%) có HbsAg (+). Tỷ lệ đồng nhiễm cả 3 loại HIV, HBV
và HCV là 15 (6%). Đồng nhiễm HBV và HCV là 12 (4,8%) và đồng nhiễm HIV
với HIV là 131 (52,4%) [26].
1.1.2. Tại Việt Nam
Việt Nam là một quốc gia thuộc khu vực Châu Á – châu lục có tỷ lệ người
mắc HIV/AIDS cao trên thế giới. Tính từ ca nhiễm HIV đầu tiên được phát hiện
năm 1990 tại TP Hồ Chí Minh cho đến hết tháng 6/2015, toàn quốc hiện có 227.114
trường hợp số trường hợp báo cáo hiện nhiễm HIV (trong đó số bệnh nhân chuyển
sang giai đoạn AIDS là 71.115) và đã có 74.442 trường hợp tử vong do HIV/AIDS.
Tuy nhiên theo ước tính và dự báo dịch HIV/AIDS năm 2014 có khoảng 256.500
người hiện nhiễm HIV trong cộng đồng. Do đó ước tính còn 38.300 người nhiễm
HIV trong cộng đồng chưa biết tình trạng nhiễm HIV. Theo báo cáo năm 2014, tỷ lệ
người hiện mắc HIV toàn quốc trên 100.000 dân theo số báo cáo là 248 người, tỉnh
Điện Biên vẫn là địa phương có tỷ lệ hiện mắc HIV trên 100.000 dân cao nhất cả
nước (875), tiếp đến là thành phố Hồ Chí Minh (690), thứ 3 là Thái Nguyên (636)
[32]. HIV/AIDS vẫn tập trung chủ yếu trên 3 nhóm đối tượng: NCMT, phụ nữ bán
dâm và MSM.
Tại Việt Nam, dịch HIV/AIDS vẫn đang làm một vấn đề nghiêm trọng và dành
được nhiều sự quan tâm của Chính phủ và các địa phương. Theo báo cáo của Cục
phòng chống HIV/AIDS, tính đến tháng 6 năm 2015, cả nước hiện có 227.114
trường hợp nhiễm HIV/AIDS trong diện quản lý, số bệnh nhân AIDS là 71.115
người và đã có 74.442 người tử vong [33]. Dịch HIV/AIDS đã xảy ra ở tất cả tỉnh,


12


thành phố với 99,8% số quận/huyện và trên 80,3% số xã/phường. Trong số người
nhiễm HIV, mặc dù nam giới là đối tượng chủ yếu (66%), số lượng nữ giới nhiễm
HIV đang tăng lên trong giai đoạn gần đây. Một số hành vi nguy cơ liên quan đến
HIV/AIDS đang có những thay đổi theo hướng phức tạp và khó kiểm soát, can
thiệp. Bên cạnh đó, trong khi lây truyền qua đường máu đã giảm đi, số ca nhiễm do
lây truyền qua đường tình dục đang có xu hướng ngày càng gia tăng từ năm 2007
đến nay [33]. Gia tăng sử dụng ma túy tổng hợp trong các nhóm nguy cơ cao gồm
phụ nữ bán dâm dâm và người quan hệ tình dục đồng giới nam (men who have sex
with men - MSM) dẫn đến tăng nguy cơ lây nhiễm HIV trong các nhóm này và bạn
tình của họ.
Trong nhóm nghiện chích ma túy, theo số liệu giám sát trọng điểm, tỉ lệ hiện
nhiễm HIV trong nhóm nghiện chích ma túy giảm dần trong giai đoạn từ năm 2004
đến 2013, lần đầu tiên xuống dưới 11% trong năm 2013 kể từ năm 1997. Tuy tỉ lệ
hiện nhiễm trong nhóm nghiện chích ma túy đang giảm dần ở một số tỉnh, ở hầu hết
các tỉnh thực hiện giám sát, dịch HIV/AIDS vẫn đang cao ở mức đáng báo động
[32]. Tất cả các vùng trong cả nước tỷ lệ nhiễm HIV trong nhóm nghiện chích ma
túy đều giảm, tuy nhiên tỷ lệ nhiễm HIV trong nhóm nghiện chích ma túy có sự
khác nhau giữa các khu vực, tỷ lệ này ở các tỉnh đồng bằng Bắc bộ là 14,9%, khu
vực miền núi phía bắc 12,1%, ở các tỉnh miền Đông Nam bộ là 9,6%, các tỉnh Bắc
Trung bộ là 7,9%, khu vực đồng bằng sông Cửu Long 9,1%, khu vực Tây Nguyên
5,7%, khu vực duyên hải miền Trung 3,8%. Tỷ lệ nhiễm HIV trong nhóm nghiện
chích ma túy tập trung cao ở các tỉnh ở khu vực ở miền núi phía Bắc, đồng bằng
Bắc bộ và Tp. Hồ Chí Minh (Thái Nguyên 32%; Lai Châu 27,7%; Hà Nội 24%;
Quảng Ninh 22,4%; thành phố Hồ Chí Minh 18,24%; Cao Bằng 17,2%; Lạng Sơn
15,6%; Hải Phòng 14,67%; Sơn La 14,3%) [32].
Trong những năm gần đây, dịch HIV trong nhóm nam bán dâm đồng tính
(MSM) ngày càng được ghi nhận rõ hơn. Số liệu báo cáo cho thấy tỉ lệ hiện nhiễm
trung bình là 3,7% [32]. Tỉ lệ hiện nhiễm HIV trong nhóm MSM ở các thành phố
lớn có xu hướng cao hơn, đang có xu hướng gia tăng tại thành phố Hà Nội và TP



13

Hồ Chí Minh; tỉ lệ hiện nhiễm HIV ước tính lên tới khoảng 16% tại đây [32]. Quan
hệ tình dục qua đường hậu môn không được bảo vệ là con đường lây truyền HIV
chính trong nhóm MSM. Bên cạnh đó, tỉ lệ hiện nhiễm HIV trong nhóm MSM tiêm
chích ma túy khá cao và không thể bỏ qua. Ước tính có khoảng 191.000 đến
573.000 MSM trên cả nước [32]. Tuy nhiên số liệu về MSM tại Việt Nam vẫn còn
hạn chế.
Đối với nhóm phụ nữ bán dâm (PNBD), ước tính có khoảng 72.000 phụ nữ
bán dâm (dao động từ 36.000 đến 108.000) tại Việt Nam. Tỉ lệ hiện nhiễm HIV
trong nhóm phụ nữ bán dâm (PNBD) có xu hướng giảm dần trên quy mô toàn quốc
kể từ năm 2002. Theo kết quả giám sát trọng điểm 2013, tỉ lệ này còn 2,6%, là tỉ lệ
thấp nhất kể từ năm 1998. Tuy nhiên tỉ lệ hiện nhiễm HIV trong nhóm PNBD tương
đối cao, trên 10% tại Hà Nội, Hải Phòng, Cần Thơ, và TP Hồ Chí Minh [32]. Tỷ lệ
này có sự khác nhau ở các khu vực, ở các tỉnh đồng bằng Bắc bộ tỷ lệ này chiếm
4,9%, khu vực miền núi phía Bắc là 2,2%, các tỉnh miền Đông Nam bộ là 2,8%, các
tỉnh Bắc Trung bộ là 2,2%, khu vực đồng bằng sông Cửu Long là 2,5%, khu vực
Tây Nguyên 0,4%, khu vực duyên hải miền Trung 0,8% [32].
Theo tác giả Khưu Văn Nghĩa [34], người NCMT, đặc biệt là NCMT đồng
nhiễm HIV có rất nhiều nguy cơ nhiễm từ 2 chủng HCV trở lên. Đây có thể là
nguyên nhân khiến tỷ lệ điều trị HCV thành công thấp trên nhóm người NCMT
đồng nhiễm HIV. Các phương pháp xác định kiểu gen HCV trong mẫu máu có thể
bỏ sót các ca có ngưỡng virus thấp. Do đó, các nhà nghiên cứu Tây Ban Nha mong
muốn tìm xem có dòng HCV tiềm ẩn nào là thủ phạm khiến cho tỉ lệ thất bại trong
điều trị HCV cao không. Các nhà nghiên cứu giả định rằng sự thanh lọc hiệu quả
các chủng nhạy cảm với interferon có thể dọn đường cho các chủng HCV kháng
thuốc nhân lên và chiếm ưu thế trong cơ thể. Để kiểm tra giả thuyết này, các nhà
nghiên cứu đã lấy máu của 203 người NCMT trước và sau ít nhất 6 tháng điều trị
interferon-nền. Việc trị liệu HCV ở các bệnh nhân này đều thất bại sau 6 tháng cho

bệnh nhân dùng thuốc.


14

Nghiên cứu về kiểu gen của siêu vi gây viêm gan C (HCV genotype) ở người
bị viêm gan siệu vi C mãn tính, và tìm hiểu mối liên hệ giữa 2 yếu tố quan trọng
trong việc tiên lượng đáp ứng điều trị đặc hiệu là kiểu gen HCV và tải lượng siêu vi
C từ tháng 4/2004 đến tháng 1/2005, tại phòng xét nghiệm Trung Tâm Y Khoa
MEDIC, 327 trường hợp. Các tác giả thấy: 3 kiểu gen chính là 1, 6 và 2: kiểu gen
HCV 1 chiếm 58,4% (1: 5,8%; 1a: 6,4%; 1a/1b: 0,3%; 1b: 45,9%), tiếp theo là kiểu
gen 6 (toàn bộ là 6a: 23,9%) và kiểu gen 2 là 13,1% (2: 1,5%; 2a/2c: 11,6%). Chỉ có
một trường hợp là kiểu gen 3b (0,3%). Có 14 trường hợp (4,3%) không xác định
được kiểu gen HCV bằng kỹ thuật LiPA tiếp tục thực hiện kỹ thuật giải trình tự
chuỗi (Sequencing) để xác định kiểu gen HCV (Hệ thống Trugene, Bayer) và xác
định được tất cả kiểu gen của 14 trường hợp đó: Kiểu gen 1 : 2 trường hợp; 1b: 2;
2a: 1; 2c: 1; 6a: 8. Có 229 trường hợp thực hiện định lượng siêu vi C trong máu.
Lượng siêu vi dao động từ 3.200 bản sao/ml (Copies/ml) đến trên 40.000.000 bản
sao/ml, trung bình 6,46x106 ± 8,50x106 bản sao/ml. Kiểu gen HCV 1, 2, 6 có lượng
siêu vi C trên 2x106 bản sao/ml là 91, 18, 32 trường hợp; và có lượng siêu vi C
dưới 2x106 copies/ml là 46, 15, 27 trường hợp. Qua đó các tác giả nhận thấy rằng
không có sự khác nhau có ý nghĩa giữa lượng siêu vi C trong máu và kiểu gen 1, 2,
6 của siêu vi C (p > 0,05) [35].
Tại Viện Y Dược học Dân tộc TP. HCM, 136 người nhiễm HIV/AIDS nghiện ma
tuý được nghiên cứu về đồng nhiễm HIV/HCV, kết quả cho thấy: tỷ lệ đồng nhiễm
HIV/HCV là 68,24%, đồng thời nhiễm cả HCV/HBV và HIV (+) là 18,75% [36].
Nguyễn Tiến Hòa [37] nghiên cứu tỷ lệ nhiễm HIV/HCV ở nhóm NCMT,
PNBD ở Hà Nội (2008, 2009, 2010) cho kết quả: Ở nhóm nghiện chích ma túy thấy
tỷ lệ đồng nhiễm HIV/HCV là 86,0%, 92,0%, 100%). Ở nhóm phụ nữ bán dâm tỷ lệ
đồng nhiễm HIV/HCV là 32,2%. Kiểu gen HIV của NCMT và PNBD được xác

định là CRF_AE01 và kiểu gen HCV được xác định là HCV-6 (-6a, -6e) và HCV-1
(-1a, -1b). NCMT đồng nhiễm HIV/HBV/HCV thì kiểu gen HCV đa số là HCV-1a.
NCMT và PNBD đồng nhiễm HBV/HCV thì nhiễm kiểu gen HCV-6 và HCV-1
tương đương nhau


15

Với mục đích xác định tỷ lệ nhiễm HBV, HCV và tỷ lệ viêm gan ở bệnh nhân
đồng nhiễm HBV, HCV, HIV điều trị ngọai trú, một nghiên cứu đã được thực hiện
tại Bệnh viện Bệnh nhiệt đới Thành phố Hồ chí Minh trên 304 bệnh nhân nhiễm
HIV theo dõi ngọai trú, chưa điều trị ARV và không có biểu hiện nhiễm khuẩn cơ
hội, các tác giả thấy: tỷ lệ đồng nhiễm vi rút viêm gan siêu vi là 56,3%, trong đó
đồng nhiễm với HCV chiếm 42,1%, HBV 6,6% và đồng nhiễm cả 3 tác nhân
HBV& HCV & HIV 7,6%. Tỷ lệ có biểu hiện viêm gan ở những bệnh nhân có đồng
nhiễm HBV và HCV cao (48,5%) với men gan ALT trung vị là 69 U/L [38].
Một nghiên cứu trên 50 bệnh nhân đồng nhiễm HIV với viêm gan B, C điều trị
tại khoa Vi rút Ký sinh trùng Bệnh viện Nhiệt đới trung ương từ 10/2010 đến
3/2011 thấy: các biểu hiện lâm sàng của bệnh nhân đồng nhiễm HIV/viêm gan gồm
hoàng đản (34%), mệt mỏi chán ăn (92%), các dấu hiệu của bệnh gan mạn tính tiến
triển xơ gan như: Gan to (48%), lách to (30%), cổ trướng (28%), phù (8%) và đặc
biệt là sao mạch (chiếm 8%). Các xét nghiệm biểu hiện rối loạn chức năng gan và
suy tế bào gan: Men gan tăng (64%), bilirubin máu tăng (44%), albumin máu giảm
(29,8%), tỷ lệ prothrombin giảm dưới 60% (77,7%) [39].
Phần lớn các bệnh nhân trong nghiên cứu đều nhiễm HCV kiểu gen 1 hoặc 4
(genotype 1 or 4) là các kiểu gen khó điều trị (65% và 8%, theo thứ tự), chỉ 2%
genotype 2 và 26% genotype 3. Chỉ có 3 bệnh nhân (1%) có đồng nhiễm lúc khởi
đầu nghiên cứu. Các bệnh nhân được điều trị đơn thuần interferon alfa thông thường
(25%), sử dụng interferon kết hợp ribavirin (33%), và sử dụng peginterferon alfa
kết hợp ribavirin (42%). Không bệnh nhân nào bị đồng nhiễm HBV, có tế bào CD4

đếm dưới 200 tế bào/mm3 hay đang sử dụng ma túy hoặc nghiện rượu. Sau khi xác
định kiểu gen HCV trong các mẫu máu, các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra rằng
không có bệnh nhân nào có đột biến dòng HCV gen trội và đã kết luận: “Không tìm
thấy một biến đổi kiểu gen HCV nào khi so sánh trước và sau điều trị HCV trong
trong số bệnh nhân tham gia nghiên cứu. Việc điều trị HCV dường như không tạo ra
kiểu gen HCV kháng interferon mà lúc đầu người ta cho là có hiện diện. Đồng
nhiễm nhiều kiểu gen HCV, dù trên người NCMT nhiễm HIV đi nữa, cũng chỉ nên


16

coi là các trường hợp hiếm hoi, điều này không giải thích được hiệu quả điều trị
HCV thấp ở nhóm này”.
1.2. Tình hình sử dụng điện thoại di động thông minh
1.2.1. Trên thế giới
Công nghệ thông tin, đặc biệt là Internet và điện thoại di động đang ngày càng
trở nên phổ biến và trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống hiện đại.
Trên toàn thế giới, ước tính có khoảng 3,2 tỷ người sử dụng Internet và có khoảng
4,3 tỷ thuê bao di động [5, 40].
Các thiết bị di động như điện thoại di động hay máy tính bảng (tablet) có
những ưu điểm nổi trội như chi phí thấp và khả năng tiếp cận thông tin cao đã trở
thành các phương tiện truyền thông phổ biến nhất hiện nay. Các thiết bị này đang
trở thành các công cụ không thể thiếu trong đời sống hàng ngày. Đến cuối năm
2012, trên toàn thế giới có khoảng 4,3 tỷ thuê bao di động [5]. Đặc biệt, trong giai
đoạn gần đây, sự khai sinh của dòng điện thoại di động thông minh (smartphone) có
kèm hệ điều hành (operating system - OS) đã mở ra một kỷ nguyên mới thông qua
việc hình thành các kho ứng dụng, giúp cải thiện hiệu suất đáng kể và cung cấp
nhiều tiện ích hơn so với dòng điện thoại thông thường. Hiện nay tồn tại hai OS
chính gồm iOS của công ty Apple và Android của công ty Google. Thống kê cho
thấy, trong năm 2012, có tới 46 tỷ lượt tải ứng dụng trên toàn thế giới trên hai hệ

điều hành này, mang lại lợi nhuận khoảng 12 tỷ đô la Mỹ cho các công ty phát triển
ứng dụng [6]. Hiện nay, có rất nhiều loại hình ứng dụng cho điện thoại thông minh
với nội dung phong phú, bao gồm các chủ đề từ Âm nhạc, Thể thao đến Giáo dục,
Đời sống và Y tế. Trong đó, năm 2014 đánh dấu sự tăng trưởng vượt bậc về thời
gian trung bình một người dành cho các ứng dụng về Sức khỏe [7].
1.2.2. Tại Việt Nam
Tại Việt Nam, tỷ lệ người dân được tiếp cận Internet đã tăng đáng kể từ năm
1997 đến năm 2015, với 45% tổng dân số trong năm 2015 và phần lớn trong độ tuổi
từ 15-24 tuổi (chiếm 38% vào năm 2014) [41]. Bên cạnh đó, có khoảng hơn 22 triệu


17

người Việt Nam đang sử dụng điện thoại thông minh, trong đó phần lớn là những
người trẻ tuổi [42].
1.3. Tình hình sử dụng ứng dụng sức khỏe trên điện thoại di động thông minh
1.3.1. Trên thế giới
Internet và các ứng dụng trên điện thoại di động, đặc biệt là điện thoại thông
minh (smartphone), được xem là những nguồn thông tin sức khỏe quan trọng nhờ
tính phổ biến, dễ tiếp cận và chi phí thấp [43, 44]. Chúng giúp người sử dụng có thể
tiếp cận được với các dịch vụ và thông tin y tế chất lượng cao, cũng như tăng sự
tương tác với cán bộ y tế [44, 45]. Thông qua các ứng dụng này, cán bộ y tế có thể
biết được tình trạng bệnh và nhu cầu sử dụng dịch vụ y tế của bệnh nhân, từ đó có
thể liên hệ kịp thời và đưa ra những lời khuyên cần thiết. Bên cạnh đó, các bằng
chứng cho thấy, các can thiệp sử dụng Internet và các ứng dụng smartphone như
một công cụ trung gian giúp chuyển tải thông điệp sức khỏe cũng đạt những hiệu
quả đáng kể trong việc thay đổi các hành vi nguy cơ như uống rượu, hút thuốc lá,
chống béo phì hay hỗ trợ tâm lý, từ đó cải thiện và nâng cao sức khỏe người sử
dụng [46].
1.3.2. Tại Việt Nam

Việt Nam là một trong những nước có tốc độ gia tăng sử dụng các thiết bị di
động ở mức cao nhất, đặc biệt là điện thoại thông minh. Ước tính đến cuối năm
2014, có khoảng hơn 22 triệu người Việt Nam đang sử dụng điện thoại thông minh,
trong đó phần lớn là những người trẻ tuổi [42]. Tổng số lượt tải các ứng dụng là 190
triệu lượt với hơn 15.000 ứng dụng, trong đó chủ yếu là các trò chơi điện tử [42].
Tuy nhiên, dự báo trong các năm sắp tới, các ứng dụng liên quan đến Y tế và Giáo
dục sẽ trở thành những ứng dụng được phổ biến rộng rãi nhất. Có thể thấy, Việt
Nam là một thị trường tiềm năng cho việc phát triển ứng dụng điện thoại di động
thông minh, đặc biệt là trong lĩnh vực sức khỏe.


18

1.4. Ứng dụng điện thoại trong hỗ trợ điều trị và dự phòng HIV/AIDS, Viêm
gan B, Viêm gan C
Việc áp dụng công nghệ thông tin, dựa vào sự sẵn có của Internet và điện thoại
di động, được coi là một cách khả thi trong việc thu hẹp khoảng cách về tiếp cận
các dịch vụ dự phòng và điều trị HIV/AIDS trong những nhóm đối tượng nguy cơ
cao. Các nghiên cứu trước đó đã cho thấy hiệu quả đáng kể của việc áp dụng các
can thiệp dựa vào Internet và điện thoại di động trong dự phòng và điều trị HIV và
các bệnh lây truyền qua đường tình dục [47, 48], thúc đẩy việc sử dụng dịch vụ xét
nghiệm HIV và cải thiện mức độ tuân thủ trong điều trị HIV [49, 50]. Mặt khác,
hiện nay, các can thiệp HIV vẫn chủ yếu dựa trên tin nhắn điện thoại hoặc tin nhắn
thoại (voice message) [8, 48], trong khi đó các ứng dụng điện thoại thông minh
(smartphone applications) có thể thực hiện được nhiều chức năng hơn, mức độ
tương tác tốt hơn và cung cấp các thông điệp sức khỏe phù hợp hơn với từng đối
tượng trong qua sử dụng Web hoặc ứng dụng được truy cập từ điện thoại [51, 52].
Bên cạnh đó, một số nghiên cứu cũng đánh giá tính khả thi trong việc triển
khai ứng dụng công nghệ thông tin (điện thoại, Internet, …) trong giảm nguy cơ lây
nhiễm HIV/AIDS. Nghiên cứu của Bradley và cộng sự tại Ấn Độ trên nhóm phụ nữ

bán dâm cho thấy, đối tượng sẵn sàng sử dụng điện thoại và nhận điện thoại bất cứ
khi nào cảm thấy thoải mái, ngoài ra việc ứng dụng này cũng cung cấp các công cụ
trong quá trình theo dõi và đánh giá đối tượng trong tương lai [53]. Nghiên cứu
khác của Phillips và cộng sự tại Mỹ phát triển một ứng dụng trên điện thoại thông
minh nhằm làm giảm nguy cơ mắc HIV trên nhóm đối tượng sử dụng ma túy đang
cai nghiện. Kết quả cho thấy phương pháp này được phần lớn đối tượng chấp nhận,
có tính khả thi trong việc triển khai rộng và làm tăng nhận thức của đối tượng với
nguy cơ nhiễm HIV [54], Ybarra và cộng sự đã tổng kết các nghiên cứu ứng dụng
công nghệ thông tin trong can thiệp phòng chống HIV/AIDS và kết quả cho thấy
Internet và điện thoại di động là một kênh can thiệp có tính giá trị cao, đặc biệt
trong nhóm MSM và nhóm đối tượng thanh thiếu niên. Ngoài ra nghiên cứu cũng
gợi ý cần có đánh giá thêm khi lồng ghép với các dạng can thiệp khác [48].


19

Các can thiệp qua ứng dụng Internet và điện thoại di động dành cho nhóm đối
tượng có nguy cơ cao như nam bán dâm đồng tính, nhóm phụ nữ bán dâm hay
nhóm sử dụng ma túy đã được triển khai ở một số nước trên thế giới [51, 55], tuy
nhiên các ứng dụng cho các đối tượng có nguy cơ khác nhu thanh thiếu niên hay
cán bộ y tế vẫn còn thiếu.
Trên thế giới, đã có nhiều can thiệp ứng dụng điện thoại di động trong hỗ trợ
điều trị và dự phòng HIV/AIDS như việc gửi tin nhắn nhắc nhở tuân thủ điều trị,
cung cấp thông tin và nhận thức về bệnh, nhắc nhở bệnh nhân đến lịch tái khám,
thúc đẩy các hành vi có lợi như việc sử dụng dịch vụ tư vấn và xét nghiệm
HIV/AIDS, hỗ trợ quá trình điều trị và quản lý ca bệnh, cũng như hỗ trợ thu thập dữ
liệu trong các nghiên cứu [56]. Ngoài ra, điện thoại di động cũng có thể vượt qua
những rào cản trong việc tiếp cận thông tin và dịch vụ như rào cản về địa lý, giới
tính và kỳ thị [57].
Các can thiệp sử dụng điện thoại trong lĩnh vực HIV/AIDS chủ yếu vẫn là gửi

tin nhắn hoặc gọi điện nhắc nhở. Velthoven (2013) tiến hành một nghiên cứu tổng
quan hệ thống cho thấy các nghiên cứu sử dụng chức năng gửi tin nhắn với nhiều
vai trò: dự phòng HIV, nhắc nhở lịch khám, nhắc nhở lịch xét nghiệm, tuân thủ điều
trị và liên lạc với cán bộ y tế [58]. Trong đó có 2 nghiên cứu báo cáo có kết quả khả
quan trong việc sử dụng tin nhắn giúp tăng khả năng tuân thủ điều trị. Tác giả kết
luận rằng bằng chứng về hiệu quả của dịch vụ tin nhắn vẫn còn chưa rõ ràng [58].
Nghiên cứu của Jone và cộng sự thử nghiệm ứng dụng điện thoại thông minh để
cung cấp thông điệp dự phòng HIVcho phụ nữ, so sánh với nhóm được tiếp xúc với các
video của một chương trình tivi mang tính giáo dục cũng về dự phòng HIV. Kết quả
cho thấy, cả hai nhóm có xu hướng giảm các hoạt động quan hệ tình dục không an toàn
sau giai đoạn nghiên cứu và không có sự khác biệt giữa hai nhóm [59].
Một nghiên cứu tổng quan hệ thống khác do Devi và cộng sự (2015) thực hiện
nhằm đánh giá việc sử dụng điện thoại di động trong hỗ trợ tuân thủ điều trị, dự
phòng, giáo dục và thu thập dữ liệu cũng như quản lý dài hạn đối với bệnh nhân
nhiễm HIV/AIDS. Kết quả cho thấy, các can thiệp điện thoại di động chủ yếu là hỗ


20

trợ tuân thủ điều trị (52,2%); đánh giá chất lượng dịch vụ (12,2%); dự phòng bệnh
(9%); 14,4% truyền thông giáo dục sức khỏe; 6,6% thu thập dữ liệu và 5,5% giám
sát bệnh nhân [57]. Kết quả cũng cho thấy, có 73% nghiên cứu báo cáo kết quả tốt
khi áp dụng điện thoại di động, 23% có kết quả không có ý nghĩa và 4% kết quả
kém hơn. Tuy nhiên, nghiên cứu của Devi chỉ ra rằng, các nghiên cứu này tập trung
chủ yếu tới các đối tượng là quần thể chung mà chưa có sự tập trung vào các đối
tượng có nguy cơ cao như NCMT, PNMD và MSM, do đó có thể không phản ánh
được những vấn đề liên quan đến kỳ thị mà họ gặp phải [57]. Mặt khác, các nghiên
cứu này vẫn chỉ cung cấp những gói dịch vụ đơn lẻ mà chưa có sự tích hợp nhiều
chức năng khác nhau vào trong cùng một can thiệp.
Ở Việt Nam, việc ứng dụng y tế di động trong các can thiệp phòng chống

HIV/AIDS còn khá mới mẻ. Nghiên cứu của Trần Xuân Bách (2012) cho thấy tính
chấp nhận và khả thi cao của việc sử dụng điện thoại di động trong hỗ trợ tuân thủ
điều trị ARV [13]. Kết quả cho thấy, có 84,5% bệnh nhân sử dụng điện thoại, trong
đó có 78,6% cảm thấy có hiệu quả trong việc hỗ trợ tuân thủ điều trị và 63,5% sẵn
sàng chi trả cho dịch vụ hỗ trợ này. Các hình thức cung cấp ưa thích bao gồm việc
gửi tin nhắn (41,8%) và liên hệ với cán bộ y tế (35,4%). Các chức năng ưa thích bao
gồm tiếp nhận tư vấn trực tiếp từ cán bộ y tế (43,1%); tự động nhắc uống thuốc
(29,1%); cung cấp thông tin sức khỏe (21,3%) và trợ giúp sử dụng dịch vụ (16,5%).
Đó là cơ sở cho việc thiết kế các ứng dụng và triển khai các can thiệp trong thực tiễn.
Trên thế giới và tại Việt Nam, cho tới nay chưa có nghiên cứu nào cụ thể về
việc xây dựng một ứng dụng điện thoại cho những bệnh nhân HIV/AIDS có đồng
nhiễm HBV/HCV mà chỉ mới có các ứng dụng cho từng bệnh. Ứng dụng điện thoại
cho nhóm bệnh HBV/HCV có phần hạn chế về số lượng hơn so với bệnh HIV/AIDS.
Cantudo-Cuenca (2014) tổng hợp một số ứng dụng trên điện thoại thông minh cho
nhóm bệnh viêm gan. Có 23 ứng dụng được tìm thấy, trong đó 12 ứng dụng cho cán
bộ y tế, 4 ứng dụng cho bệnh nhân và 7 ứng dụng cho cả hai, tuy nhiên phần lớn các
thông tin trong các ứng dụng này chưa được kiểm chứng và chưa có bằng chứng nào
về hiệu quả trong can thiệp lâm sàng đối với các ứng dụng này [60].


21

Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành tại Phòng khám ngoại trú - Khoa Truyền nhiễm Bệnh viện Bạch Mai từ tháng 06/2017 đến tháng 6/2019.
Bệnh viện Bạch Mai được thành lập từ năm 1911 với tên gọi là Nhà thương
Cống Vọng. Với hơn 100 năm phát triển, hiện tại bệnh viện có quy mô 1900 giường
bệnh với 55 đơn vị trực thuộc: 03 Viện, 08 Trung tâm, 12 Phòng/Ban chức năng, 23
Khoa Lâm sàng, 06 Khoa Cận lâm sàng, 1 Trường Cao đẳng Y tế, Tạp chí Y học

lâm sàng …
Nghiên cứu được triển khai tại Phòng khám Ngoại trú (PKNT) – Khoa Truyền
nhiễm – bệnh viện Bạch Mai. Phòng khám đang hoạt động với 12 nhân viên y tế
bao gồm: 03 bác sỹ, 05 điều dưỡng, 02 nhân viên hỗ trợ, 02 dược sỹ và 02 đồng
đẳng viên. Sau 7 năm hoạt động, hiện mỗi tháng PKNT đang quản lý khoảng 1400
bệnh nhân HIV. Phòng khám chuyên cung cấp các dịch vụ chăm sóc và điều trị toàn
diện cho người nhiễm HIV. Theo báo cáo năm 2014, trung bình mỗi ngày có khoảng
30 – 50 người bệnh được chẩn đoán và điều trị ARV. PKNT làm việc từ 7h30 đến
12h00, buổi chiều bắt đầu từ 13h30 đến 16h30 các ngày từ thứ 2 tới thứ 6.
2.2. Đối tượng nghiên cứu
Các người bệnh được chẩn đoán nhiễm HIV/HCV.
Tiêu chuẩn lựa chọn bao gồm:
- Từ 18 tuổi trở lên
- Điều trị tại khoa Truyền nhiễm – Bệnh viện Bạch Mai
- Có sử dụng điện thoại thông minh (smartphone) trên hệ điều hành Ios,
Android có với kết nối internet (3G).
- Đồng ý tham gia nghiên cứu và ký vào bản thỏa thuận tham gia nghiên cứu
bản điện tử trên ứng dụng.
Tiêu chuẩn loại trừ:
- Có vấn đề về sức khỏe tâm thần, không có khả năng trả lời câu hỏi


Phân bổ ngẫu nhiên
22

- Không đồng ý tham gia nghiên cứu
2.3. Thiết kế nghiên cứu
2.3.1. Sơ đồ thiết kế nghiên cứu

Nghiên cứu áp dụng thiết kế thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối

chứng, với các giai đoạn trong thiết kế nghiên cứu được tổng hợp trong sơ đồ
sau:

Nhóm chứng

Hình 1.1. Sơ đồ nghiên cứu


23

2.3.2. Thiết kế ứng dụng
Nghiên cứu tiến hành phát triển và thử nghiệm một ứng dụng điện thoại thông
minh, nhằm hỗ trợ quá trình điều trị cũng như quản lý những bệnh nhân nhiễm
HIV/HCV, giúp thúc đẩy sự tuân thủ và tiếp cận dịch vụ y tế, sàng lọc các hành vi
nguy cơ cao, kịp thời đưa ra những lời khuyên, hướng dẫn và kết nối họ đến và sử
dụng dịch vụ tư vấn và chăm sóc sức khỏe hiện có. Đồng thời, ứng dụng này đồng
bộ với các phương tiện trên web và phương tiện xã hội nhằm phổ biến các thông tin
sức khỏe quan trọng. Ngoài ra, ứng dụng này còn là một công cụ có chi phí thấp có
thể thu thập các dữ liệu theo dõi dọc trong quần thể bệnh nhân này, giúp đưa ra các
chiến lược nhằm kiểm soát các vấn đề liên quan đến HIV/HCV.
Ứng dụng điện thoại thông minh này sẽ được phát triển dựa trên công nghệ
điện toán đám mây và được dựa trên nhiều nền tảng điện thoại khác nhau như
Android, iOS. Dữ liệu của ứng dụng (bao gồm các thông tin người bệnh cung cấp
và các thông tin người cung cấp dịch vụ cung cấp) được lưu trữ trong máy chủ của
ứng dụng. Từ đó các nhân viên y tế có thể tiếp cận dữ liệu dễ dàng mà vẫn đảm bảo
tính bảo mật.
2.3.3. Quy trình thiết kế ứng dụng
Ứng dụng eCARE - ID được thiết kế dựa trên mô hình ADDIE (Phân tích,
Thiết kế, Phát triển, Sử dụng và Đánh giá – Analysis, Design, Development,
Implementation and Evaluation) [61].



24

5. Đánh giá dựa vào trải nghiệm của bệnh

1. Phân tích nhu cầu và các ứng dụng có sẵn

nhân

4. Chạy thử ứng dụng trên nền tảng

2. Thiết kế nội dung và chức năng

Android

3: Đánh giá ban đầu và phản hồi từ chuyên
gia

Hình1.2. Mô hình ADDIE trong thiết kế ứng dụng điện thoại
2.3.4. Giai đoạn phân tích và thiết kế
Để xây dựng các cấu phần nội dung cho ứng dụng, nhóm nghiên cứu tiến hành
tổng quan tài liệu và tiến hành điều tra thử trên 20 bệnh nhân nhằm khảo sát yêu cầu
của bệnh nhân đối với ứng dụng về mặt hình thức và nội dung. Bên cạnh đó, nhóm
nghiên cứu cũng tiến hành phân tích nội dung các ứng dụng đã có sẵn trên về chủ đề
này và tham khảo thêm ý kiến các chuyên gia trong lĩnh vực điều trị HIV và HCV.
Giai đoạn thiết kế nội dung và chức năng dựa vào giai đoạn phân tích. Ứng
dụng này sẽ bao gồm một bản đồ dựa trên hệ thống thông tin địa lý (geographic
information system – GIS) về các cơ sở y tế điều trị HIV và HCV, cũng như các
dịch vụ y tế giảm hại và chăm sóc tâm thần khác. eCARE - ID sẽ được phát triển

bao gồm các cấu phần nhằm đánh giá mức độ nghiêm trọng của việc đồng nhiễm
HIV và HCV, phát hiện các vấn đề về sức khỏe tâm thần, đánh giá mức độ tuân thủ
và khả năng tiếp cận dịch vụ y tế của bệnh nhân. Sau đó, nó sẽ thông báo các thông
điệp sức khỏe đặc trưng với từng người sử dụng thông qua nhiều công cụ truyền
thông, giúp họ phát triển các nhận thức, kỹ năng cần thiết, hình thành các hành vi
lành mạnh, và giúp họ lập kế hoạch về duy trì các hành vi lành mạnh đó. Trong quá


25

trình điều trị ART, viêm gan B, viêm gan C, ứng dụng này sẽ hỗ trợ các cá nhân
tuân thủ hoàn toàn bằng việc báo thức, lập kế hoạch và giám sát tuân thủ một cách
chủ động. Ứng dụng này có thể tương tác, cho phép người sử dụng lựa chọn vấn đề
sức khỏe mà họ muốn biết thêm thông tin hoặc muốn được tư vấn. Người sử dụng
có thể tùy chọn thiết lập thời gian và tần suất các thông điệp, và đăng tải các mối
quan tâm và bản ghi về hành vi của mình. Trong trường hợp khẩn cấp, ứng dụng có
khả năng giới thiệu người sử dụng tới cơ sở y tế gần nhất hoặc cung cấp tư vấn qua
điện thoại.
2.3.5. Giai đoạn phát triển
Dựa vào giai đoạn phân tích và thiết kế, ứng dụng sẽ được phát triển bằng việc
bố cục các thông tin cần thiết, chỉnh sửa câu chữ, thêm các hình ảnh minh họa phù
hợp. Phiên bản đầu tiên sẽ được thiết kế giả lập trên nền Web và được đánh giá bởi
các chuyên gia trong lĩnh vực điều trị HIV/AIDS, viêm gan C, cũng như một số
bệnh nhân trong đối tượng nghiên cứu. Sau khi sửa chữa các lỗi, bản cuối cùng (về
mặt nội dung) được phát triển và đưa vào giai đoạn thử nghiệm.
2.3.6. Giai đoạn thử nghiệm và đánh giá
Giai đoạn thử nghiệm bao gồm thử nghiệm tính ổn định trên nền iOS và
Android, thử nghiệm tính hiệu quả của ứng dụng. Giai đoạn thử nghiệm sẽ được
tiến hành trên các nhóm đối tượng đích.
2.4. Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu

- Cỡ mẫu được ước lượng theo công thức ước tính cỡ mẫu cho so sánh hai tỷ
lệ [62]:

Trong đó:
p1: tỷ lệ bệnh nhân tuân thủ điều trị ARV hoàn toàn ở Việt Nam = 74%[63]
p2: tỷ lệ bệnh nhân tuân thủ điều trị ARV hoàn toàn sau can thiệp dự kiến= 85%


×