Tải bản đầy đủ (.doc) (136 trang)

QUẢN lý bồi DƯỠNG ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TRONG THIẾT kế TRÒ CHƠI học tập CHO GIÁO VIÊN các TRƯỜNG mầm NON HUYỆN HIỆP hòa bắc GIANG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.89 MB, 136 trang )

B GIO DC V O TO
TRNG I HC S PHM H NI
---------- ---------

HONG TH CC

QUảN Lý BồI DƯỡNG ứNG DụNG CÔNG NGHệ
THÔNG TIN TRONG THIếT Kế TRò CHƠI HọC
TậP CHO GIáO VIÊN CáC TRƯờNG MầM NON
HUYệN HIệP HòA - BắC GIANG

Chuyờn ngnh

: Qun lý giỏo dc

Mó s

: 60.14.01.14

LUN VN THC S KHOA HC GIO DC

Ngi hng dn khoa hc: PGS.TS Trn Kim

H NI 2016


DANH MỤC VIẾT TẮT
CBQL

Cán bộ quản lý


CBQLGD

Cán bộ quản lý giáo dục

CB, GV, NV

Cán bộ, giáo viên và nhân viên

CNTT

Công nghệ thông tin

TCHT

TCHT

TC

Trò chơi

CSVC

Cơ sở vật chất

GV

Giáo viên

HS


Học sinh

PPDH

Phương pháp dạy học

PMDH

Phần mềm dạy học

TBDH

Thiết bị dạy học

KH&CN

Khoa học và Công nghệ

TH

Tiểu học

THCS

Trung học cơ sở

THPT

Trung học phổ thông


UBND

Ủy ban nhân dân

XHH

Xã hội hóa

NXB

Nhà xuất bản

CNH-HĐH

Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa


MỤC LỤC
1.4.1. Chức năng, nhiệm vụ của Hiệu trưởng...............................................................29

PHỤ LỤC


DANH MỤC BẢNG
- Khảo sát thực trạng GV ứng dụng CNTT thiết kế TCHT cho trẻ mẫu giáo, gồm: Thực
trạng nhận thức của GV trong việc ứng dụng CNTT thiết kế TCHT cho trẻ mẫu giáo; Mức
độ sử dụng TCHT có ứng dụng CNTT vào giờ dạy của GV; Các phần mềm GV thường sử
dụng để thiết kế TCHT cho trẻ mẫu giáo; Mức độ kỹ năng đạt được về ứng dụng CNTT
trong thiết kế của GV; Các yếu tố ảnh hưởng tới việc ứng dụng CNTT trong thiết kế
TCHT; Nguyên nhân và những khó khăn trong việc ứng dụng CNTT trong thiết kế các

TCHT cho trẻ mẫu giáo ở các trường mầm non...................................................................44
Bảng 2.1: Sự cần thiết ứng dụng CNTT trong thiết kế TCHT cho trẻ mẫu giáo.................46
Bảng 2.2: Thống kê mức độ sử dụng TCHT có ứng dụng CNTT của GV...........................46
Bảng 2.3: Thực trạng sử dụng các phần mềm hỗ trợ thiết kế TCHT...................................48
cho trẻ mẫu giáo...................................................................................................................48
Bảng 2.4: Mức độ kỹ năng đạt được về ứng dụng CNTT....................................................49
trong thiết kế của GV...........................................................................................................49
Bảng 2.5: Những khó khăn của GV khi ứng dụng CNTT thiết kế TCHT dạy trẻ lứa tuổi
mẫu giáo...............................................................................................................................50
Bảng 2.6: Trình độ CNTT của giáo viên các trường mầm non huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc
Giang....................................................................................................................................52
Bảng 2.7: Thực trạng mức độ cần thiết của các nội dung bồi dưỡng về ứng dụng CNTT cho
GVMN..................................................................................................................................53
Bảng 2.8: Mức độ cần thiết của các hình thức tổ chức bồi dưỡng về ứng dụng CNTT trong
thiết kế và giảng dạy cho GVMN.........................................................................................54
Bảng 2.9: Nhu cầu bồi dưỡng của GVMN về sử dụng các phần mềm hỗ trợ thiết kế TCHT
cho trẻ lứa tuổi mẫu giáo......................................................................................................55
Bảng 2.10: Đánh giá về thực trạng quản lý bồi dưỡng ứng dụng CNTT trong thiết kế cho
GVMN..................................................................................................................................59
Bảng 2.11: Nguyên nhân ảnh hưởng đến công tác quản lý bồi dưỡng ứng dụng CNTT trong
thiết kế TCHT cho GVMN huyện Hiệp Hòa........................................................................65
Bảng 3.1: Đánh giá về mức độ cần thiết của các biện pháp quản lý đề xuất.....................105
Bảng 3.2: Đánh giá về mức độ khả thi của các biện pháp quản lý đề xuất........................107
Bảng 3.3: Mối tương quan giữa mức độ cần thiết và mức độ khả thi của các biện pháp đề
xuất.....................................................................................................................................109


DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 3.1: Mức độ cần thiết của các biện pháp quản lý đề xuất.....................................106
Biểu đồ 3.2: Mức độ khả thi của các biện pháp quản lý đề xuất........................................108

Biểu đồ 3.3: Mối tương quan giữa tính cần thiết và tính khả thi của các biện pháp bồi
dưỡng ứng dụng CNTT trong thiết kế TCHT cho GVMN huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang.
............................................................................................................................................111


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Đất nước ta đang đứng trước nhiều thay đổi lớn về mọi mặt của xã hội.
Điều này đã đặt nền giáo dục nước ta đứng trước những cơ hội và thách thức
mới, cố gắng tránh hiện tượng tụt hậu so với nước khác. Một trong những yếu
tố quyết định sự thành công hay thất bại của quá trình hội nhập đó là nguồn
nhân lực. Do đó, giáo dục đóng một vai trò hết sức quan trọng với yêu cầu
đào tạo ra những con người mới năng động, sáng tạo, có khả năng tự học tiếp
thu kiến thức mới, giải quyết mọi tình huống xảy ra. Để thực hiện được nhiệm
vụ này, nền giáo dục nước ta đang tiến hành đổi mới toàn diện từ mục tiêu,
nội dung đến phương pháp dạy học. Định hướng cơ bản của đổi mới phương
pháp dạy học đã được chỉ rõ trong các Nghị quyết của Trung ương Đảng về
giáo dục và đào tạo: ''Phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy
sáng tạo của người học, bồi dưỡng năng lực tự học, lòng say mê học tập và ý
chí vươn lên''.
Các nhà giáo dục cho rằng muốn đổi mới phương pháp dạy học một
cách có hiệu quả, ngoài việc đổi mới về nội dung chương trình, cần thiết phải
ứng dụng công nghệ thông tin và đưa các phương tiện dạy học hiện đại vào
quá trình dạy học. Để đạt được mục tiêu đó, những năm gần đây ở các trường
mầm non với việc sử dụng công nghệ thông tin để công nghệ hóa quá trình
dạy học đã trở thành một xu thế phát triển mạnh mẽ. Trong đó, việc ứng dụng
các phần mềm máy tính và các phương tiện hiện đại để thiết kế trò chơi trong
dạy học chiếm vị trí rất quan trọng. Đối với học sinh mầm non, ở lứa tuổi này
sự chú ý chưa cao. Bên cạnh hoạt động học là hoạt động chủ đạo thì nhu cầu
vui chơi giao lưu bạn bè vẫn còn cao và cần được thỏa mãn.

Trò chơi có một ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với trẻ mầm non bởi vì
ở lứa tuổi này đặc điểm tâm lý nổi bật của các em là: ''Học mà chơi, chơi mà
học", các em chưa thể tập trung chú ý quá lâu vào một hoạt động vì vậy đưa
1


trò chơi vào học tập vừa là món quà tinh thần trong mỗi tiết học là phương
tiện góp phần phát triển trí tuệ của trẻ. Trong quá trình chơi trẻ phải sử dụng
các giác quan để thực hiện các thao tác chơi, nhiệm vụ chơi, qua đó mà các
giác quan của các em trở lên tinh nhạy hơn, ngôn ngữ mạch lạc hơn và tư duy
trừu tượng cũng được phát triển. Ngoài ra, trò chơi học tập còn làm thay đổi
hình thức học tập, làm cho không khí lớp học được thoải mái và dễ chịu hơn,
học sinh thấy vui và cởi mở hơn, tinh thần đoàn kết được xây dựng và phát
triển. Đặc biệt hơn qua trò chơi học tập trẻ tiếp thu bài học tự giác và tích cực
hơn, học sinh được củng cố và hệ thống hóa kiến thức. Vì vậy, trò chơi học
tập trở thành phương tiện quan trọng hơn cả trong việc phát triển trí tuệ cho
trẻ mẫu giáo cũng như các mặt giáo dục khác. Hiệu quả của trò chơi học tập
phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó việc thiết kế và sử dụng trò chơi học tập
trong quá trình tổ chức hoạt động học tập cho trẻ giữ vai trò quan trọng. Nếu
thiết kế trò chơi phù hợp với nội dung giáo dục, kích thích được hứng thú của
trẻ sẽ góp phần phát triển cao trí tuệ, cũng như các mặt giáo dục khác, giúp trẻ
phát triển một cách toàn diện nhất.
Hiện nay các trường Mầm non có điều kiện đã được đầu tư, trang bị:
Tivi, đầu video, xây dựng phòng đa năng với hệ thống máy tính, nối mạng
Internet…tạo diều kiện cho người giáo viên mầm non ứng dụng Công nghệ
thông tin vào trong giảng dạy.
Tuy nhiên việc ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) vào phục vụ cho
việc thiết kế và giảng dạy của giáo viên còn nhiều hạn chế. Đặc biệt trong các
giờ dạy giáo viên vẫn chỉ sử dụng những trò chơi có sẵn và thường lặp đi lặp
lại nhiều lần, giáo viên chưa tự tìm tòi, thiết kế những trò chơi mới phù hợp.

Do đó, việc tổ chức trò chơi trong dạy học chưa đạt được hiệu quả cao và
chưa lôi cuốn được học sinh tham gia chơi một cách tích cực. Xuất phát từ
thực tiễn trên, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:

2


“Quản lí bồi dưỡng ứng dụng công nghệ thông tin trong thiết kế trò chơi
học tập cho giáo viên các trường mầm non huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc giang”
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu lý luận, thực tiễn của vấn đề nghiên cứu, trên cơ sở đó đề
xuất biện pháp quản lý bồi dưỡng ứng dụng CNTT trong thiết kế trò chơi học
tập cho giáo viên các trường mầm non huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu.
Quản lý bồi dưỡng giáo viên các trường mầm non
3.2. Đối tượng nghiên cứu.
Quản lý bồi dưỡng ứng dụng CNTT trong thiết kế trò chơi học tập cho
giáo viên mầm non.
4. Giả thuyết khoa học
Hiệu quả của trò chơi học tập phụ thuộc khá lớn vào công tác thiết kế
trò chơi. Nếu đề tài chọn lựa, đề xuất và áp dụng biện pháp quản lý bồi dưỡng
giáo viên ứng dụng CNTT trong thiết kế trò chơi học tập cho trẻ theo chức
năng quản lý phù hợp với thực tiễn sẽ nâng cao hiệu quả của trò chơi học tập,
trẻ hứng thú, tích cực chủ động tham gia vào trò chơi góp phần phát triển cao
trí tuệ, cũng như các mặt giáo dục khác.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về việc quản lý bồi dưỡng ứng dụng CNTT
trong thiết kế trò chơi học tập cho giáo viên mầm non
5.2. Khảo sát và đánh giá thực trạng về ứng dụng CNTT trong thiết kế

TCHT cũng như sử dụng các trò chơi học tập để dạy trẻ mẫu giáo của GV
một số trường mầm non huyện Hiệp Hòa và công tác quản lý bồi dưỡng giáo
viên ứng dụng CNTT trong thiết kế trò chơi học tập.

3


5.3. Đề xuất biện pháp quản lý bồi dưỡng ứng dụng CNTT trong
thiết kế trò chơi học tập cho giáo viên các trường mầm non huyện Hiệp
Hòa, tỉnh Bắc Giang.
6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Biện pháp quản lý bồi dưỡng dành cho hiệu trưởng trường mầm non.
Trong khuôn khổ của đề tài này, chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu về
các biện pháp quản lý bồi dưỡng về ứng dụng CNTT trong thiết kế TCHT cho
giáo viên các trường mầm non huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang (Chú trọng
bồi dưỡng về kỹ năng ứng dụng CNTT).
7. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này chúng tôi sử dụng một số phương pháp sau:
7.1 Nhóm phương pháp nghiên cứu lí thuyết
Bằng việc đọc tài liệu, thu nhập thông tin có liên quan, phân tích, tổng
hợp, hệ thống hoá lí thuyết nhằm xây dựng cơ sở lí luận của đề tài.
7.2 Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Phương pháp phỏng vấn: Trò chuyện với giáo viên để thu thập thông
tin phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài.
Phương quan quan sát: Trực tiếp đi dự giờ dạy của giáo viên có ứng
dụng CNTT vào giảng dạy và tổ chức các trò chơi học tập; rút ra được những
nhận xét về công tác quản lý bồi dưỡng giáo viên ứng dụng CNTT trong thiết
kế trò chơi học tập và đưa chúng vào các hoạt động dạy trẻ mẫu giáo.
Phương pháp điều tra Anket: Thông qua các phiếu trưng cầu ý kiến để
thu thập thông tin về thực trạng quản lý, bồi dưỡng giáo viên ứng dụng CNTT

vào thiết kế trò chơi học tập cho trẻ mẫu giáo.
7.3. Phương pháp thống kê toán học
Nhằm xử lý số liệu các kết quả điều tra nghiên cứu.
8. Cấu trúc đề tài
Đề tài gồm: Ngoài phần mở đầu, kết luận, kiến nghị, phụ lục và tài liệu
tham khảo, nội dung chính của luận văn được trình bày trong 3 chương.
4


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ BỒI DƯỠNG ỨNG DỤNG CNTT
TRONG THIẾT KẾ TRÒ CHƠI HỌC TẬP
CHO GIÁO VIÊN MẦM NON
1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Nước ngoài
Nền kinh tế trên thế giới đang trong giai đoạn nền kinh tế tri thức. Vì
vậy việc nâng cao hiệu quả chất lượng GD&ĐT sẽ là yếu tố sống còn và
quyết định sự tồn tại, hưng thịnh và phát triển của mỗi đất nước. việc áp dụng
những công nghệ mới vào giáo dục trong đó có CNTT chính là một trong
những giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục. Điều này đặt ra vấn đề cho các
nhà quản lý giáo dục là: Làm thế nào để thúc đẩy việc ứng dụng CNTT trong
hoạt động dạy học? và trong quản lý giáo dục? Chính vì vậy vấn đề nghiên
cứu các biện pháp quản lý thúc đẩy ứng dụng CNTT trong giáo dục đã thực
sự phát triển rộng khắp trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng.
Trên thế giới, các nước có nền giáo dục phát triển đều chú trọng đến việc
ứng dụng CNTT như: Hoa kỳ, Úc, Canada, Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapo…Để
ứng dụng được CNTT như ngày nay các nước này đã trải qua rất nhiều các
chương trình quốc gia về tin học hoá cũng như ứng dụng CNTT vào lĩnh vực
khoa học kỹ thuật và trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là ứng
dụng vào khoa học công nghệ và giáo dục. Họ coi đây là vấn đề then chốt của

cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, là chìa khóa đề xây dựng, phát triển công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tăng trưởng nền kinh tế để xây dựng, phát
triển nền kinh tế tri thức, hội nhập với các nước trong khu vực và trên toàn thế
giới. Vì vậy, họ đã thu nhập được những thành tựu rất đáng kể.
Nhật Bản: Xây dựng chương trình quốc gia có tên “Kế hoạch một xã
hội thông tin - mục tiêu quốc gia đến năm 2000” đã được công bố từ những
năm 1972.
5


Autralia: Vào tháng 3 năm 2000, Hội đồng Bộ trưởng đã ủng hộ hướng
đi được trình bày trong tài liệu “Cơ cấu chiến lược cho nền kinh tế thông tin”,
tài liệu này bao gồm 2 mục tiêu giáo dục trường học bao quát cho nền kinh tế
thông tin:
Một là: Tất cả mọi học sinh sẽ rời trường học như những người sử
dụng tin cậy, sáng tạo và hiệu quả những công nghệ mới, bao gồm CNTT và
những học sinh này cũng có ý thức được tác động của những ngành công
nghệ này lên xã hội.
Hai là: Tất cả trường đều hướng tới việc kết hợp CNTT vào trong hệ
thống của họ, để cải thiện khả năng học tập của học sinh, để đem lại nhiều
cơ hội học tập hơn cho người học và tăng hiệu quả của việc thực tập kinh
doanh của họ.
Có thể nói ứng dụng CNTT có tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của
xã hội nói chung và giáo dục nói riêng. CNTT đã đang tạo ra một cuộc cách
mạng thực sự về giáo dục.
CNTT đã phát triển đã mở ra những hướng đi mới cho ngành giáo dục
trong việc đổi mới phương pháp và hình thức dạy học
Đối với bậc học học mầm non, giáo viên có thể ứng dụng CNTT đổi mới
phương pháp và hình thức dạy học bằng cách soạn giáo án điện tử, sưu tầm các
trò chơi, ứng dụng các phần mềm để thiết kế các trò chơi mới với phù hợp với

nguyên tắc vô cùng quan trọng là nguyên tắc “Dạy học trực quan”.
T.A Ilina trong cuốn “Giáo dục học” tập II, NXB giáo dục Hà Nội đã
đưa ra một số phương pháp sư phạm như: Phương pháp làm việc với Sách
giáo khoa, Phương pháp học tập ở phòng thí nghiệm, phương pháp luyện tập,
ôn tập …Đặc biệt là phương pháp phát huy tính tích cực của học sinh. Đồng
thời bà đưa ra một số nguyên tắc, theo bà nguyên tắc dạy học trực quan được
thể hiện ở chỗ giáo viên dùng những đồ dùng dạy học khác nhau và các
6


phương tiện kỹ thuật nghe, nhìn để dạy học, đồ dùng trực quan được trình bày
rực rỡ, đẹp đẽ, rõ ràng. Việc sử dụng đồ dùng phải kèm theo lời nó, giúp học
sinh chú ý vào cái chính, cái bản chất. Bà phân nhóm các hình thức trực quan
như sau: Trực quan tự nhiên gồm các đối tượng thật như: Động vật, thực vật,
thiên nhiên…; Trực quan hình khối, nhằm đem lại hình ảnh của thế giới thực
tại (Các loại tranh ảnh); Trực quan âm thanh dùng các phương tiện âm thanh
để tái tạo những hình tượng âm thanh; Trực quan tượng trưng…Trong lí luận
dạy học của mình, bà chỉ ra cách sử dụng phương tiện trực quan phù hợp với
từng giai đoạn của quá trình học tập, bà chú ý đến khả năng nhận thức của lứa
tuổi, việc sử dụng trực quan cần phù hợp với đặc điểm phát triển tâm - sinh lý
của trẻ. Như vậy, T.A.Ilina đã đưa ra những yêu cầu đa dạng phong phú về thể
loại, chất lượng, mẫu mã, đồng thời bà đưa ra cách thức sử dụng đồ dùng dạy
học kèm theo những thủ thuật phát huy triệt để ý nghĩa của những đồ dùng
dạy học đó.
J.G.Petxtalozi (1746-1827) trong cuốn “Giáo dục học mầm non” tập
III, NXB Đại học sư phạm. Ông cho rằng đối với dạy học ở mẫu giáo điều
quan trọng nhất là phải phát triển khả năng quan sát các sự vật, khả năng
nghiên cứu của chúng một cách tỉ mỉ, đúng đắn và sâu sắc, quan sát sự vật,
hiện tượng có vai trò quan trọng đối với việc mở rộng vốn hiểu biết cho trẻ.
Ông cũng khẳng định vai trò của người thầy giáo. Thầy giáo không chỉ là

người có học vấn, có giáo dục mà còn phải biết giáo dục người khác. Người
thầy giáo cần hết lòng yêu thương trẻ em, coi mình như cha mẹ trẻ. Như vậy
không chỉ khẳng định vai trò của hiện thực khách quan, của yếu tố trực quan,
J.G.Petxtalozi còn khẳng định vai trò của người thầy giáo trong việc dẫn dắt
trẻ tiếp nhận những kiến thức trực quan sinh động ấy.

7


1.1.2. Trong nước
Đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong giáo dục là một trong những vấn đề
đã và đang được Bộ GD&ĐT rất quan tâm. Năm học 2008 – 2009 được Bộ
GD&ĐT lấy làm năm học CNTT.
Ngày 5/7/2006 Bộ trưởng Bộ GD&ĐT đã kí quyết định số 3382/QĐ- Bộ
GD&ĐT về phê duyệt dự án “Ứng dụng CNTT trong GDMN”. Thực hiện sự
chỉ đạo của lãnh đạo Bộ, cấp học mầm non đã chủ động, sáng tạo triển khai
nhiều hoạt động ứng dụng CNTT trong GDMN. Bộ GD&ĐT đã ra các văn bản
chỉ đạo, tổ chức các lớp tập huấn cho cán bộ quản lí (CBQL) và giáo viên cốt
cán ở tất cả các tỉnh thành về ứng dụng CNTT trong tổ chức các hoạt động
chăm sóc, giáo dục trẻ. Các địa phương đã triển khai tập huấn, mua sắm máy
tính, máy chiếu, các phần mềm vui học để thực hiện công tác quản lí, chỉ đạo
cũng như ứng dụng vào tổ chức các hoạt động giáo dục cho trẻ.
Năm 2010, Vụ giáo dục mầm non (GDMN), Bộ GD&ĐT đã tổ chức
tổng kết 5 năm ứng dụng CNTT trong GDMN. Qua những năm đầu triển khai
chỉ đạo thực hiện, cấp học mầm non đã có những kết quả đáng khích lệ trong
việc ứng dụng CNTT vào quản lí, chỉ đạo và tổ chức các hoạt động vui học
cho trẻ mầm non.
Tính đến năm 2010 – 2011, tổng số trường nối mạng Internet trên cả
nước là 11.771 trường, chiếm 90,7%; Số CBQL - GV biết ứng dụng CNTT là
164.794 người, chiếm 58,3%, có nhiều giáo án điện tử, trò chơi vui học có

chất lượng, đã được đội ngũ cán bộ, GV mầm non xây dựng và sử dụng một
cách có hiệu quả, góp phần nâng cao hiểu biết cho trẻ cũng như tạo niềm vui,
ham thích tham gia hoạt động của trẻ [26].
Để tiếp tục đẩy mạnh ứng dụng CNTT vào trong hoạt động dạy học của
cấp học mầm non. Năm 2011- 2012, Bộ GD&ĐT đã có văn bản số
5454/BGDĐT-GDMN về việc hướng dẫn tiếp tục thực hiện nhiệm vụ đẩy mạnh
ứng dụng công nghệ thông tin nhằm nâng cao chất lượng giáo dục mầm non:

8


* CNTT đã tạo nên sự biến đổi về chất trong giáo dục mầm non:
- CNTT giúp cho giáo viên đổi mới phương pháp dạy học
- Giúp giáo viên tìm kiếm thông tin tư liệu.
- Tăng khả năng tương tác trong giáo dục mầm non.
* CNTT mở ra những hướng đi mới cho ngành giáo dục trong việc đổi
mới phươg pháp, phương tiện dạy học: Sử dụng các phần mềm Bộ Office,
Lesson Editor/Violet, Flash, Photshop, Converter, ….
- Sử dụng các phương tiện dạy học hiện đại: Máy tính, máy chiếu,
mạng máy tính.
- Ứng dụng đa phương tiện trong dạy học.
* CNTT thay đổi phương thức quản lý
- Quản lý qua mạng Internet
- Sử dụng các phần mềm quản lý
Hiện nay các trường mầm non đã cài đặt, khai thác khá nhiều phần
mềm vui chơi, học tập đa dạng phong phú. Ngoài phần mềm vui học
Kidsmart đã được Vụ Giáo dục mầm non, Bộ GD&ĐT phối hợp với công ty
IBM Việt Nam triển khai trên diện rộng trong cả nước thì còn có các phần
mềm khác như Kixpix, Hapyykids, Powerpoint, Flash,…để hỗ trợ giáo viên
xây dựng, thiết kế TCHT phù hợp với các hoạt động dạy học cụ thể.

Qua nghiên cứu các tài liệu tác giả đã thấy có một số công trình nghiên
cứu về ứng dụng CNTT trong thiết kế TCHT; quản lý ứng dụng CNTT trong
hoạt động dạy học:
- Tác giả Đinh Thị Lan (2010): “Ứng dụng CNTT để thiết kế trò chơi
học tập phát triển vốn từ cho trẻ mẫu giáo bé” tác giả đã hệ thống hóa những
vấn đề lý luận cơ bản về CNTT; tìm hiểu thực trạng và ứng dụng CNTT thiết
kế một số trò chơi học tập phát triển vốn từ cho trẻ mẫu giáo bé.

9


- Tác giả Nguyễn Thị Thanh Nga (2014) với đề tài: “Quản lý ứng
dụng CNTT góp phần đổi mới phương pháp dạy học ở các trường mầm non
huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội” đã nghiên cứu những vấn đề lí luận về
việc quản lí ứng dụng CNTT trong dạy học; tìm hiểu thực trạng việc quản
lý ứng dụng CNTT trong dạy học; đề xuất một số biện pháp quản lý ứng
dụng CNTT trong dạy học của hiệu trưởng các trường mầm non huyện Sóc
Sơn, thành phố Hà Nội.
Có thể khẳng định việc ứng dụng CNTT đổi mới phương pháp dạy học,
quản lý ứng dụng CNTT trong hoạt động dạy học của Hiệu trưởng nhằm nâng
cao hiệu quả giáo dục có ý nghĩa rất quan trọng và cần thiết. Tuy nhiên, thực
tế việc ứng dụng CNTT trong hoạt động dạy học, cũng như thiết kế TCHT
còn những hạn chế đáng kể, đặc biệt đối với bậc học mầm non:
Một số CBQL còn có những hạn chế về năng lực quản lí nói chung và
năng lực quản lí ứng dụng CNTT trong hoạt động dạy học nói riêng; việc xác
định tầm quan trọng của CNTT trong GDMN của các cấp, các ngành ở nhiều
địa phương chưa được quan tâm đúng mức; đội ngũ giáo viên còn yếu về
trình độ tin học, đặc biệt là về kỹ năng ứng dụng CNTT, sử dụng các phần
mềm để thiết kế TC, các bài giảng điện tử dạy trẻ mầm non.
Cho đến nay tỉnh Bắc Giang nói chung và huyện Hiệp Hòa nói riêng chưa

có công trình nghiên cứu nào đề cập vấn đề quản lý bồi dưỡng ứng dụng CNTT
trong thiết kế trò chơi học tập cho giáo viên các trường mầm non. Việc nghiên
cứu, đề xuất các biện pháp của đề tài đang là vấn đề mới và rất cần thiết.
Qua đó tác giả cũng đề xuất một số kiến nghị với các cấp lãnh đạo
trong việc nghiên cứu, triển khai một số biện pháp quản lý bối dưỡng ứng
dụng CNTT trong thiết kế TCHT cho GVMN trên địa bàn huyện.
Hy vọng của đề tài sẽ đề xuất được một số biện pháp quản lý bồi dưỡng
ứng dụng CNTT trong thiết kế TCHT cho GVMN, góp phần nâng cao hiệu quả
hoạt động dạy học ở các trường mầm non huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang.
10


1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Quản lý
1.2.1.1. Khái niệm
Có thể nói quản lý có nguồn gốc xa xưa như chính nguồn gốc của con
người. Ngay từ khi xuất hiện loài người, con người cần phải có sức mạnh của
tập thể để cùng nhau săn bắn, cùng nhau chống lại thú dữ…như thế cần phải
có những hoạt động chung mang tính tập thể để cùng nhau tồn tại, đây có thể
được coi là nguồn gốc của quản lý. Quản lý ban đầu xuất hiện một cách tự
phát với hình thức và qui mô đơn giản nhưng trải qua hoạt động thực tiễn,
cùng với sự phát triển của xã hội loài người, hoạt động quản lý cũng có sự
phát triển mạnh mẽ mà cho đến ngày nay nó đã trở thành một khoa học, thậm
chí là một trong những ngành khoa học quan trọng nhất, đem lại lợi ích to lớn
cho xã hội.
Trong quá trình hình thành lý luận về quản lý, các nhà nghiên cứu với
những cách tiếp cận khác nhau cũng đã đưa ra những định nghĩa khác nhau.
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý là tác động có mục đích,
có kế hoạch của chủ thể quản lý đến tập thể những người lao động (nói chung
là khách thể QL) nhằm thực hiện được những mục tiêu đặt ra và tiến đến các

trạng thái có tính chất lượng mới” [28; tr.9]
Theo tác giả Trần Quốc Thành: “Quản lý là một quá trình định hướng,
quá trình có mục tiêu; quản lý là quá trình tác động đến hệ thống nhằm đạt
được mục tiêu nhất định” [31; tr.6].
Từ những định nghĩa trên ta có thể hiểu: Quản lý là quá trình tác động
có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý lên khách thể quản lý bằng
việc vận dụng các chức năng quản lý, nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt
được mục đích của tổ chức.

11


* Chức năng quản lí
Khi phân loại về chức năng quản lý, các nhà nghiên cứu lý luận về
quản lý cũng có nhiều ý kiến khác nhau. Tuy nhiên, hầu hết các tác giả đều đề
cập tới bốn chức năng chủ yếu đó là: Lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra
và trong đó thông tin vừa là phương tiện, vừa là điều kiện để thực hiện chức
năng quản lý.
Chức năng lập kế hoạch: Đây là công việc đầu tiên mà mỗi người quản
lý phải làm khi tiến hành công việc quản lý của mình. Thực hiện chức năng
này có nghĩa là người quản lý phải xác định mục tiêu, mục đích đổi với thành
quả đạt được ở tương lai của tổ chức và các con đường cũng như cách thức để
đạt được mục tiêu, mục đích đó.
Chức năng tổ chức: Người quản lý sau khi lập xong kế hoạch cần phải
chuyển hóa những ý tưởng đó thành hiện thực, đó là tổ chức thực hiện. Chức
năng này bao gồm 2 nội dung:
- Tổ chức bộ máy: Sắp xếp, đáp ứng nhu cầu của mục tiêu và các nhiệm
vụ phải đảm nhận. Nói khác đi, tổ chức bộ máy phù hợp về cấu trúc, cơ chế
hoạt động đủ để khả năng đạt được mục tiêu, phân chia thành các bộ phận,
sau đó ràng buộc các bộ phận bằng các mối quan hệ.

- Tổ chức công việc: Sắp xếp công việc hợp lí, phân công công việc và
trách nhiệm rõ ràng để mọi người cùng hướng vào mục tiêu chung. Nhờ các
chức năng tổ chức mà người quản lí có thể kết hợp, điều phối tốt hơn các
nguồn vật lực, nhân lực một cách có hiệu quả. Có thể nói tổ chức được coi là
điều kiện, là công cụ của người quản lí. Nếu tổ chức tốt sẽ là khởi nguồn kích
thích các động lực. Ngược lại, nếu tổ chức không tốt, sẽ kìm hãm, triệt tiêu
các động lực làm giảm sút hiệu quả quản lí.
Chức năng điều hành (chỉ đạo): Lãnh đạo là một chức năng quản lý.
Thực hiện chức năng này đòi hỏi người quản lý phải dùng ảnh hưởng của

12


mình tác động đến mỗi thành viên trong tổ chức làm cho họ tự giác, nhiệt tình
và nỗ lực phấn đấu để giúp tổ chức đạt được mục tiêu. Ngoài ra, người quản
lý còn phải biết vận dụng một cách linh hoạt chức năng lãnh đạo để chuyển
được ý tưởng của mình vào nhận thức của các thành viên trong tổ chức,
hướng họ về với mục tiêu chung của tổ chức.
Chức năng kiểm tra: Kiểm tra là một chức năng quản lý, thông qua đó
một cá nhân, một nhóm hoặc một tổ chức theo dõi giám sát các thành quả
hoạt động và tiến hành những điều chỉnh, uốn nắn nếu cần thiết để tiếp tục
chu trình quản lý ngày càng hiệu quả hơn.
Để người quản lý có thể thực hiện được bốn chức năng trên thì yếu tố thông
tin là rất quan trọng. Thông tin chính xác, đầy đủ và kịp thời là căn cứ để hoạch
định kế hoạch. Thông tin có thể được xem như là chất liệu tạo nên mối quan hệ
giữa các bộ phận trong tổ chức, thông tin truyền tải mệnh lệnh chỉ đạo của người
quản lý và phản hồi diễn tiễn hoạt động của các cá nhân, các bộ phận trong tổ chức
giúp cho người quản lý xem xét mức độ đạt mục tiêu của họ từ đó có những điều
chỉnh cho phù hợp.
1.2.1.2. Quản lý giáo dục

Giáo dục là một chức năng của xã hội loài người và quản lý giáo dục là
một loại hình của quản lý xã hội. Có nhiều định nghĩa khác nhau về quản lý
giáo dục.
Theo tác giả Trần Kiểm: “Quản lí giáo dục thực chất là quản lí con người,
do đó quan hệ giữa con người với con người là nét nổi bật. Để mối quan hệ này tốt
đẹp, người cán bộ quản lí không chỉ có kinh nghiệm mà còn phải am hiểu khoa
học quản lí, đặc biệt là khoa học quản lí giáo dục” [18; tr37].
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành trung ương Đảng khoá
VIII cũng đã viết “Quản lý giáo dục là sự tác động của chủ thể quản lý tới
khách thể quản lý nhằm đưa hoạt động sư phạm của hệ thống giáo dục đạt tới
kết quả mong muốn bằng cách hiệu quả nhất” [25].

13


Cũng có thể định nghĩa quản lí giáo dục là hoạt động tự giác của chủ
thể quản lí nhằm huy động, tổ chức, điều phối, điều chỉnh, giám sát, một cách
có hiệu quả các nguồn lực giáo dục (nhân lực, vật lực tài lực) phục vụ cho
mục tiêu phát triển giáo dục, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
1.2.1.3. Quản lý nhà trường
Trường học là tổ chức giáo dục, là một đơn vị cấu trúc cơ sở của hệ
thống giáo dục quốc dân. Do đó, xét về bản chất, trường học là tổ chức mang
tính nhà nước - xã hội - sư phạm thể hiện bản chất giai cấp, bản chất xã hội
và bản chất sư phạm.
Theo tác giả Phạm Viết Vượng: “Quản lý trường học là hoạt động của
các cơ quan quản lý, về bản chất là huy động các nguồn lực để tổ chức các
hoạt động giáo dục trong nhà trường theo mục tiêu giáo dục” [33; tr.369].
Tác giả Trần Kiểm: “Quản lí trường học về bản chất là quản lí con
người. Điều đó tạo cho các chủ thể (người dạy và người học) trong nhà
trường một sự liên kết chặt chẽ không chỉ bởi cơ chế hoạt động theo những

quy luật/tính quy luật khách quan của một tổ chức xã hội - nhà trường, mà
còn bởi hoạt động chủ quan, hoạt động quản lí của chính bản thân giáo viên
và học sinh. Trong nhà trường, giáo viên và học sinh vừa là đối tượng, vừa là
chủ thể quản lí. Với tư cách là chủ thể quản lí, họ chịu sự tác động của chủ thể
quản lí (hiệu trưởng). Với tư cách là chủ thể quản lí, họ là người tham gia chủ
động tích cực vào hoạt động quản lí chung và biến nhà trường thành hệ tự
quản lí. Cho nên, quản lí nhà trường không chỉ là trách nhiệm chung của
người Hiệu trưởng mà là trách nhiệm chung của tất cả các thành viên trong
nhà trường” [17;tr.39].
Vậy bản chất của hoạt động quản lý nhà trường là quản lý hoạt động
dạy học để đưa hoạt động này phát triển đi lên theo xu thế tất yếu của thời đại
và đạt tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo. Có thể hiểu: Quản lý trường

14


học là hoạt động có ý thức, có kế hoạch, có định hướng của chủ thể quản lý
tác động tới các hoạt động của nhà trường nhằm thực hiện các chức năng,
nhiệm vụ mà trung tâm là hoạt động dạy và học trong nhà trường.
1.2.2. Bồi dưỡng
1.2.2.1. Khái niệm
Theo các tài liệu UNESCO: Bồi dưỡng là quá trình cập nhật, bổ sung
kiến thức, kỹ năng, thái độ, để nâng cao năng lực trình độ, phẩm chất của
người lao động về một lĩnh vực hoạt động mà người lao động đã có một trình
độ năng lực chuyên môn nhất định qua một hình thức đào tạo nào đó.
Bồi dưỡng là quá trình làm tăng thêm năng lực hoặc phẩm chất. Hiểu
theo nghĩa rộng thì bồi dưỡng là quá trình giáo dục, đào tạo nhằm hình thành
nhân cách theo mục đích đã chọn. Hiểu theo nghĩa hẹp, bồi dưỡng có thể coi
là quá trình cập nhật kiến thức, kỹ năng còn thiếu hoặc lạc hậu nhằm mục
đích nâng cao hoặc hoàn thiện năng lực hoạt động trong các lĩnh vực cụ thể

để làm tốt hơn công việc đang tiến hành. Từ góc độ khác bồi dưỡng có ý
nghĩa nâng cao năng lực nghề nghiệp. Quá trình này diễn ra khi cá nhân và tổ
chức có nhu cầu nâng cao kiến thức hoặc kỹ năng về chuyên môn nghiệp vụ
của bản thân nhằm đáp ứng yêu cầu đặt ra.
Bồi dưỡng là nâng cao năng lực trình độ hiện có về kiến thức, kỹ năng,
kinh nghiệm để làm tốt hơn việc đang làm [12].
Vậy, mục đích của bồi dưỡng là nâng cao năng lực, phẩm chất và năng
lực chuyên môn để người lao động có cơ hội củng cố, mở rộng và nâng cao
hệ thống tri thức, kỹ năng, kỹ xảo chuyên môn, nghiệp vụ.
Từ khái niệm trên có thể nói:
Bồi dưỡng là quá trình bổ sung tri thức, cập nhật kiến thức và kỹ năng
còn thiếu hụt hoặc lạc hậu để nâng cao trình độ phát triển thêm năng lực
trong một lĩnh vực hoạt động chuyên môn dưới một hình thức phù hợp. Mục

15


đích bồi dưỡng nhằm nâng cao phẩm chất và năng lực chuyên môn để người
lao động có cơ hội củng cố, mở mang hoặc nâng cao hệ thống tri thức, kỹ
năng, kỹ xảo, chuyên môn, nghiệp vụ đã sẵn có, giúp cho hiệu quả công việc
đang làm được tốt hơn.
Trong Giáo dục và Đào tạo theo nghĩa rộng: Bồi dưỡng được hiểu là
một dạng đào đào phi chính quy, về bản chất thì bồi dưỡng là một con
đường của đào tạo và người được bồi dưỡng của chương trình bồi dưỡng
được hiểu là người đang đương nhiệm trong các cơ quan giáo dục hay
trong các nhà trường.
* Bồi dưỡng giáo viên
Theo tác giả Đỗ Tiến Đạt đã khẳng định: “Bồi dưỡng giáo viên là đào
tạo lại, đổi mới, cập nhật kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp nhằm nâng cao chất
lượng, hiệu quả công việc đang làm. Đó là một dạng đào tạo đặc biệt, là giai

đoạn tất yếu tiếp theo của quá trình đào tạo liên tục, nối tiếp, thường xuyên
trong cuộc đời nghề nghiệp của giáo viên [12]. Muốn trò giỏi thì thầy phải
giỏi, điều này đặt ra một yêu cầu với người giáo viên là phải luôn cập nhật
kiến thức mới có thể đáp ứng được yêu cầu của xã hội.
Bồi dưỡng đội ngũ giáo viên là yêu cầu thường xuyên, liên tục đối với
nghề dạy học. Nó có ý nghĩa quyết định đối với chất lượng giảng dạy của nhà
trường và với bản thân giáo viên. Để công tác bồi dưỡng giáo viên có hiệu
quả, cần đánh giá đúng tình hình thực trạng đội ngũ giáo viên, giáo viên xác
định yêu cầu bồi dưỡng của bản thân về nội dung, mức độ cần đạt. Trên có sở
đó, xây dựng kế hoạch bồi dưỡng về nội dung, thơi gian, đối tượng.
Như vậy: Bồi dưỡng giáo viên có thể được hiểu là việc cập nhật, nâng
cao, hoàn thiện trình độ chính trị, chuyên môn, năng lực và nghiệp vụ cho
giáo viên đang dạy học.

16


1.2.2.2. Bồi dưỡng giáo viên mầm non
Bồi dưỡng giáo viên mầm non thực chất là quá trình bổ sung tri thức,
cập nhật kiến thức và kỹ năng còn thiếu hụt hoặc lạc hậu để nâng cao trình
độ, phát triển thêm năng lực cho giáo viên mầm non trong lĩnh vực nuôi
dưỡng, chăm sóc giáo dục trẻ mầm non dưới một hình thức phù hợp.
* Bồi dưỡng CNTT cho giáo viên mầm non là một quá trình cần thực
hiện liên tục để có thể giúp cho người giáo viên bổ sung tri thức, cập nhật
kiến thức và kỹ năng còn thiếu hoặc lạc hậu để nâng cao trình độ, phát triển
thêm năng lực đáp ứng được với xu thế phát triển của thời đại.
Chương trình bồi dưỡng CNTT cho giáo viên mầm non cần:
- Bồi dưỡng theo nhu cầu: Cần tìm hiểu về những điểm mạnh yếu về
CNTT của giáo viên mầm non trên địa bàn để có chương trình bồi dưỡng phù
hợp với nhu cầu thực tế của giáo viên.

- Lấy chuẩn CNTT là căn cứ để lựa chọn các nội dung, mức độ cần đạt
khi tham gia bồi dưỡng. Vậy thế nào là chuẩn CNTT?
Chuẩn CNTT: Là hệ thống các yêu cầu cơ bản về CNTT mà người giáo
viên cần phải đạt được nhằm đáp ứng mục tiêu đào tạo [13].
Giáo viên tham gia bồi dưỡng sẽ đạt được ở mức độ nào đó so với tiêu
chí đề ra trong chuẩn, đối chiếu để đưa ra yêu cầu bồi dưỡng thêm.
- Phương thức bồi dưỡng:
+ Tổ chức các khóa học bồi dưỡng, các hội thảo, hội nghị về ứng dụng
CNTT vào thiết kế bài giảng, trò chơi;
+ Bồi dưỡng tại chỗ: Tại trường, tại cụm theo chuyên đề;
+ Bồi dưỡng thường xuyên;
+ Bồi dưỡng thông qua tự học, tự bồi dưỡng cá nhân.
1.2.3. CNTT và trò chơi học tập (TCHT)
1.2.3.1. Khái niệm về CNTT

17


Theo bách khoa toàn thư Wikipedia: “CNTT (Infromation Technology)
là ngành ứng dụng công nghệ quản lí và xử lý thông tin, là ngành sử dụng
máy tính và phần mềm máy tính để chuyển đổi, lưu trữ, bảo vệ, xử lý, truyền
và thu thập thông tin” [3].
Ở Việt Nam, khái niệm CNTT được hiểu và định nghĩa trong nghị
quyết số 49/CP của chính phủ kí ngày 04/08/1993 về phát triển CNTT ở nước
ta trong những năm 90: “CNTT là tập hợp các phương pháp khoa học, các
phương tiện và công cụ kỹ thuật hiện đại – chủ yếu là kỹ thuật máy tính và
viễn thông nhằm tổ chức, khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài
nguyên thông tin rất phong phú và tiềm tàng trong mọi lĩnh vực hoạt động
của con người và xã hội” [10].
Theo luật CNTT số 67/2006/QH 11 ngày 29/6/2006 (Điều 4): “CNTT

là tập hợp các phương pháp khoa học, công nghệ và công cụ kỹ thuật hiện
đại để sản xuất, truyền đưa, thu thập, xử lý, lưu trữ và trao đổi thông tin số”
[22].
Có thể nói, sự phát triển nhanh chóng của CNTT và đặc biệt là của
mạng Internet hiện nay vừa tạo ra một điều kiện hết sức thuận lợi đồng thời
cũng là một đòi hỏi cấp thiết đối với ngành GD&ĐT, phương pháp dạy học
trong mỗi nhà trường, của mỗi thầy cô giáo phải đổi mới mạnh mẽ và sử dụng
triệt để những thế mạnh của CNTT vào giảng dạy.
* Khái niệm ứng dụng CNTT
Ứng dụng CNTT là việc sử dụng CNTT vào các hoạt động thuộc lĩnh
vực kinh tế - xã , đối ngoại, quốc phòng, an ninh và các hoạt động khác nhằm
nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả của các hoạt động này (Mục 5, điều
5, Luật CNTT 2006) [22].
1.2.3.2. Khái niệm trò chơi học tập

18


Nhà giáo dục nổi tiếng Macarenco đã viết: “TC có một ý nghĩa rất quan
trọng trong cuộc sống của đứa trẻ chẳng khác gì sự làm việc, sự phục vụ của
người lớn...”. Không chơi trẻ không thể phát triển, không chơi đứa trẻ chỉ tồn
tại chứ không phải đang sống.
TC thoả mãn nhu cầu, xúc cảm nên trẻ tự do tham gia, trên cơ sở đó
hành vi của trẻ được điều khiển theo vai chơi và luật chơi. Đây là bản chất cốt
lõi và là cái làm cho TC trở thành dạng đặc biệt thu hút trẻ, trở thành hoạt
động có suy nghĩ, có nội dung, là nơi để hình thành và hoàn thiện năng lực
nhận thức nói riêng và nhân cách trẻ nói chung [14].
TCHT chủ yếu hướng vào việc giáo dục và phát triển hoạt động
nhận thức của trẻ. Tuy nhiên, trong TCHT thì các nhiệm vụ giáo dục và
nhiệm vụ nhận thức được đặt ra cho trẻ không trực tiếp mà nó được đặt

một cách gián tiếp thông qua nhiệm vụ chơi. TCHT được coi như là một
dạng hoạt động thực hành, trong đó, trẻ vận dụng vốn hiểu biết và khả
năng tư duy của mình để giải quyết nhiệm vụ nhận thức, dưới dạng hoạt
động chơi hấp dẫn, không bị gò bó.
TCHT có nội dung và luật chơi cho trước do người lớn sáng tác và đưa
vào cuộc sống của trẻ. TCHT được người lớn hướng dẫn và kiểm soát quá
trình chơi tuy nhiên vẫn đảm bảo tính tự do, độc lập của trẻ.
Như vậy, TCHT là loại TC có luật và nội dung chơi do người lớn nghĩ
ra, hướng dẫn, tổ chức cho trẻ nhằm cung cấp và củng cố hệ thống kiến thức,
kĩ năng, và phát triển các thao tác tư duy cho trẻ.
1.3. Ứng dụng CNTT trong thiết kế trò chơi học tập
1.3.1. Các quan điểm chỉ đạo thiết kế TCHT
- Quan điểm hoạt động: TC thiết kế phải kích thích được hứng thú hoạt
động của trẻ, hấp dẫn đối với trẻ, lôi cuốn trẻ tham gia ngay từ tên gọi cho
đến cách thức chơi, đồ chơi...

19


- Quan điểm phát triển: Các TC phải góp phần phát triển nhân cách của
trẻ nói chung và phát triển BTTHSĐ cho trẻ nói riêng.
- Quan điểm phát huy tính tích cực, độc lập sáng tạo của trẻ trong khi
chơi: Điều này được thể hiện trong luật chơi và cách thức tổ chức TC. Luật
chơi không quá gò bó và giáo viên không can thiệp quá nhiều vào TC của trẻ
trong quá trình hướng dẫn, tổ chức cho trẻ chơi.
1.3.2. Những nguyên tắc thiết kế TCHT
- Đảm bảo tính mục đích
Việc thiết kế TCHT phải hướng tới mục đích làm phong phú, chính xác
các biểu tượng, giúp trẻ luyện tập, nhận biết, phân biệt, so sánh, khái quát hoá
theo dấu hiệu, mối quan hệ giữa các sự vật. Vì vậy, nhiệm vụ chơi, hành động

chơi và luật chơi của TC phải hấp dẫn, tạo cho trẻ sự hứng thú, tập trung và
đòi hỏi trẻ phải vận dụng các kiến thức, kĩ năng, các thao tác tư duy (so sánh,
phân tích, tổng hợp, khái quát hoá), trẻ phải nỗ lực tìm kiếm phương thức giải
quyết nhiệm vụ nhận thức mà TC đặt ra cho trẻ.
- Đảm bảo tính hấp dẫn
Việc thiết kế và sử dụng TCHT nhằm phát triển BT số lượng và BT hình
dạng cho trẻ 5 – 6 tuổi phải thực sự hấp dẫn, lôi cuốn, kích thích hứng thú của
trẻ để trẻ tự nguyện tham gia vào TC, tích cực, cố gắng nỗ lực để thực hiện
nhiệm vụ đặt ra trong TC. Muốn vậy, TCHT phải hấp dẫn trẻ từ tên gọi của
TC, cách chơi, nội dung chơi phải phù hợp với khả năng của trẻ, không quá
khó cũng không quá dễ.
- Đảm bảo tính hệ thống và tính phát triển
Các TC được sắp xếp từ đơn giản đến phức tạp, từ dễ đến khó. Nhiệm
vụ nhận thức, hành động chơi, luật chơi phải được phức tạp hoá dần từ dễ đến
khó, từ đơn giản đến phức tạp. Những kiến thức mới phải dựa trên những kiến
thức trẻ đã học, đồng thời làm cơ sở cho trẻ tiếp thu những kiến thức sau.

20


×