Tải bản đầy đủ (.docx) (100 trang)

Điều trị bệnh ghẻ bằng uốngivermectin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.81 MB, 100 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh ghẻ là một bệnh lây nhiễm ngoài da do một loài trong nhóm ve
bét, thuộc ngành chân khớp ký sinh trên da, có tên khoa học là Sarcoptes
scabiei var. Hominisgây nên.Theo Tổ chức Y tế thế giới (TCYTTG), bệnh ghẻ
là một trong 17 căn bệnh nhiệt đới bị lãng quên (Neglected Tropical Diseases
– NTDs)do hiện nay hầu hết các ca bệnh xuất hiện lẻ tẻ hoặc chỉ xảy ra trên
một nhóm quy mô nhỏ, không thành dịch lớn nên bệnh bị lãng quên hoặc
vắng mặt trong các chương trình y tế toàn cầu.
Tuy nhiên, thực tếcho thấy bệnh ghẻ vẫn gặp ở nhiều nước trên thế
giới, ước tính có hơn 130 triệu người lây nhiễm hàng năm. Các tài liệu gần
đây chỉ ra rằng, tỷ lệ mắc ghẻ có sự thay đổi, giao động từ 0,3% đến 46% dân
số[1]. Bệnh có thể gặp ở tất cả các tầng lớp dân cư trong xã hội, đặc biệt hay
gặp ở những nơi tập trung đông đúc, điều kiện vệ sinh kém. Biểu hiện của
bệnh rất đa dạng với các triệu chứng điển hình là mụn nước, luống ghẻ, sẩn
cục do ghẻ ở các vị trí đặc hiệu như các nếp kẽ, vùng da mỏng, lòng bàn tay,
lòng bàn chân, vùng sinh dục… Ngoài ra, do phản ứng quá mẫn của cơ thể
với kháng nguyên ký sinh trùng (KST) ghẻ, bệnh còn có các biểu hiện khác
như ban đỏ, dát đỏ, mụn nước, vảy tiết, sẩn cục…Bệnh ghẻ rất ngứa, nhất
là vào ban đêm làm ảnh hưởng đến giấc ngủ, có thể gây ảnh hưởng chất
lượng cuộc sống, gây mặc cảm xã hội cho người bệnh. Nếu không được
điều trị, bệnh có thể đưa đến các biến chứng như nhiễm khuẩn da thứ phát,
viêm da mủ, viêm cầu thận do độc tố của vi khuẩn Streptococcus pyogenes,
thậm chí là tử vong[2], [3].
Có nhiều phương pháp điều trị ghẻ đã và đang áp dụng trên thế giới với
các mức độ hiệu quả khác nhau. Tại những nước phát triển như Mỹ, Úc, Anh…
phác đồ chọn lựa đầu tiên để điều trị ghẻ là bôi tại chỗ bằng Permethrin 2,5%


2



hoặc 5%, thuốc uống Ivermectin (IVM) liều duy nhất 200 µg/kg cho hiệu quả
cao, tỷ lệ khỏi bệnh dao động từ 70-98% [4].
Ở Việt Nam, thuốc điều trị ghẻ đầu tayđược áp dụng là bôi bằng dung
dịch Diethylphthalate (D.E.P) có tác dụng diệt KSTghẻ. Tuy nhiên, qua quan
sát cho thấyD.E.P dễ gây kích ứng, nhất là đối với những vùng da mỏng,
không có chỉ định sử dụng toàn thân nên tồn tại một số hạn chế trong quá
trình điều trị.
IVM là một thuốc kháng KST phổ rộng. Kết quả nghiên cứu của các
tác giả trên thế giới cho thấy thuốc có tác dụng điều trị bệnh ghẻ hiệu quả, an
toàn, đặc biệt có ưu điểm chỉ cần uống liều duy nhất. Tuy nhiên, cho đến nayở
Việt Nam,IVM chưa được sử dụng rộng rãi tại các bệnh viện chuyên khoa da
liễu. Qua tìm hiểu, chúng tôi cũng chưa tham khảo được tài liệu nào đánh giá
hiệu quả của thuốc IVM uống điều trị bệnh ghẻở Việt Nam. Nhằm góp phần
thêm lựa chọn điều trị bệnh ghẻ, cũng như giảm bớt gánh nặng bệnh tật, kinh
tế cho những vùng dân cư đông đúc, có điều kiện sinh hoạt khó khăn, chúng
tôi tiến hành thực hiện nghiên cứu đề tài “Điều trị bệnh ghẻ bằng uống
Ivermectin” với các mục tiêu sau:
1.

Khảo sát đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và một số yếu tố liên quan

2.

bệnh ghẻ tại Bệnh viện Da liễu Trung Ương.
Đánh giákết quả điều trị bệnh ghẻ bằng thuốc uốngIvermectin.


3


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN
1.1. Lịch sử bệnh ghẻ
Dựa trên các bằng chứng khảo cổ học, gồmnhững bản vẽ của người Ai
Cập mô tả người có triệu chứng giống với bệnh ghẻ, các nhà khoa học cho
rằng căn bệnh này có thể tồn tại cách đây ít nhất hơn 2500 năm về trước, bắt
đầu từ thời La Mã cổ đại (năm 384-322 trước Công nguyên). Vào thời điểm
đó, người La Mã sử dụng thuật ngữ bệnh ghẻ để ám chỉ một bệnh ngoài da
gây ngứa. Tên Sarcoptes scabiei bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp bằng ghép của
nhiều từ: “sarx” (the flesh) có nghĩa là thịt, “koptein” (to smite or cut) có
nghĩa là dập nát hoặc cắt, từ “scabere”(to scratch) có nghĩa là xây xước. Sau
này, bệnh ghẻ đã được nhiều nhà khoa học quan tâm tới, ví dụ bác sĩ người Ả
rập - Abu el Hasan Ahmed el Tabari (năm 970), Saint Hildegard (năm 10981179) và Moorish Avenzoar (năm 1091-1162) đã đề cập đến bệnh này, tuy
nhiên phải đến năm 1687, bác sĩ Giovanni Cosimo Bonomophối hợp cùng với
Dicanito Cestoni mới tìm ra nguyên nhân gây bệnh và mô tả chính xác loài kí
sinh trùng có tên là Sarcoptes scabiei - nguyên nhân gây nên bệnh ghẻ. Ngoài
ra, ông cònmô tả được đặc điểm lâm sàng chi tiết về triệu chứng của những
người mắc ghẻvào thời điểm đó[5-7].
1.2. Đặc điểm dịch tễ học bệnh ghẻ
1.2.1. Tình hình bệnh ghẻ trên thế giới
Bệnh ghẻ ảnh hưởng đến mọi người dân ở tất cả các quốc gia, mọi dân
tộc, mọi lứa tuổi cả nam và nữ. Tuy nhiên, theo TCYTTG thì nhóm người dễ
bị tổn thương nhất ở các quốc gia nghèo đói với bệnh ghẻ là trẻ nhỏ (tỷ lệ mắc
bệnh trung bình từ 5-10%) và người cao tuổi. Tỷ lệ nhiễm bệnh cao thường
xảy ra ở các nước có khí hậu nhiệt đới, nơi tồn tại nhiều mầm bệnh, vùng dân
cư đông đúc, nhà ở chật hẹp, thiếu vệ sinh, thiếu nước sinh hoạt.Ở một số


4


cộng đồng khu vực Nam Thái Bình Dương và phía bắc nước Úc, tỷ lệ này
chiếm khoảng 25% tổng số ca, đặc biệt có nơi lên đến 50%.Ở vùng nông thôn
tỷ lệghẻ khoảng 7,6% và thành thị là 5%.
Theo TCYTTG, bệnh ghẻ là một trong những bệnh phổ biến nhất trên
toàn cầu, nhất là ở các nước đang phát triển. Vào năm 1995, Orkin. M đã ước
tính có khoảng 300 triệu người trên toàn thế giới đã bị nhiễm KST ghẻ[9].
Hiện nay,hàng năm ước tính có hơn 130 triệu người trên thế giớibị lây
nhiễmghẻ. Các tài liệu gần đây chỉ ra rằng, tỷ lệ nhiễm ghẻ có sự thay đổi từ
0,3% đến 46% dân số. Ở các khu vực nhiệt đới, nguồn lực còn hạn chế, thì
gánh nặng của bệnh ghẻ, cũng như các biến chứng của chúng là một chi phí
lớn đối với hệ thống chăm sóc sức khoẻ[10]. Trong năm 2010, ước tính những
ảnh hưởng trực tiếp do sự lây lan của bệnh ghẻ đã dẫn đến hơn 1,5 triệu tỷ
YLDs (số năm sống với tàn tật) và những ảnh hưởng gián tiếp của các biến
chứng từ ghẻ, như nhiễm khuẩn huyết, bệnh tim mạch và bệnh thận mãn
tính[11].
Theo một nghiên cứu tổng quan hệ thống,tỷ lệ mắc bệnh ghẻ trên toàn
thế giới thực sự chưa có kết quả chính xác. Tỷ lệ người nhiễm ghẻ trên toàn
cầu dao động từ 0,2% đến 71,4%. Tất cả các khu vực ngoại trừ Châu Âu và
Trung Đông, thì đều cótỷ lệ nhiễm ở quần thể luôn cao hơn 10%. Nhìn chung, tỷ
lệ mắc bệnh ghẻ cao nhất ở khu vực Thái Bình Dương và Châu Mỹ Latinh;đối
tượng nguy cơ cao là thanh thiếu niên và người trưởng thành[12].
Một nghiên cứu tổng quan hệ thống khác thực hiện năm 2013 nhằm tìm
hiểu đặc điểm dịch tễ học của bệnh ghẻ ở các nước đang phát triển cho thấy:
tỷ suất nhiễm ghẻ là rất khác nhau, từ 2,71- 46 người trên 1000 dân[1]và tỷ lệ
hiện mắc bệnh ghẻ ở các khu vực nghèo đói chiếm từ 20% dân số [13].
Số liệu của TCYTTG năm 2005, tổng hợp từ 18 nghiên cứu về tỷ lệ
bệnh về da ở trẻ em thuộc 18 quốc gia đang phát triển cho thấy bệnh về da
của trẻ em chiếm tỷ lệ rất cao, từ 21-87%, trong đó các bệnh da do nhiễm



5

trùng gặp rất phổ biến, lần lượt là: viêm da mủ (6,9-35%), ghẻ (0,2-24%),
nấm nông ở da (1-19,7%) và bệnh da do virus (0,4-9%) [10].
1.2.2. Tình hình bệnh ghẻ tại Việt Nam
Ở nước ta, bệnh ghẻ vẫn còn lưu hành khắp các vùng trong cả nước,
ngay cả những thành phố lớn, bệnh hiện vẫn còn đang tồn tại [8].
Theo điều tra cơ cấu bệnh ngoài da của Bộ môn Da liễu, Học viện
Quân Y giai đoạn 1992-1994 trên 13 đơn vịcho thấy bệnh ghẻ là 1 trong 4
bệnh ngoài da phổ biến nhất trong quân đội bao gồm: nấm da, ghẻ, eczema
và viêm da mủ, chỉ đứng thứ 2 sau bệnh nấm da [14].
Khảo sát trên người nghiện ma túy tại Trung tâm Cai nghiện ma túy
Bình Triệu nhận thấy: hầu hết 90-100% bệnh nhân nhiễm HIV (vi rút gây suy
giảm miễn dịch ở người) có bệnh da phối hợp, trong đó bệnh ghẻ chiếm tỷ lệ
cao (49,6% ở người nhiễm HIV). Ngày nay, ghẻ Na Uy được xem là dấu hiệu
chỉ điểm của nhiễm HIV chuyển qua giai đoạn AIDS (hội chứng suy giảm
miễn dịch mắc phải)[15].
Theo nghiên cứu của Phạm Hoàng Khâm, tỷ lệ bệnh ghẻ chiếm 3,56%
tổng số người mắc bệnh da liễu, đứng hàng thứ 4 trong các bệnh da liễu
thường gặp trong quân đội[16].
Với kết quả nghiên cứu của Lê Bách Quang thì trong 293 bệnh nhân
tham gia thì có 36 trường hợp mắc ghẻ, chiếm 12,3% [17].Bệnh viện Da liễu
Thành phố Hồ Chí Minh đã thống kê được rằng: bệnh ghẻ chiếm tỷ lệ 3,9%
tổng số bệnh nhân đến khám[18].
1.3. Đặc điểm sinh học của kí sinh trùng ghẻ
Bệnh ghẻdo một loại côn trùng ký sinh trên da có tên khoa học là Sarcoptes
scabiei, Hominis (cái ghẻ), có nơi còn gọi là con mạt ngứa (Itch mite).


6


Hình 1.1. Đặc điểm hình thái của cái ghẻ[19]
Tính chất sinh vật học của ghẻ là: thuộc giới động vật, ngành Arthropoda,
lớp Arachnida, bộAstigmata, họ Sarcoptidae, chi Sarcoptes, loàiSarcoptes
scabiei. Bệnh ghẻ chỉ do ghẻ cái gây nên, ghẻ đực không gây bệnh vì đã chết sau
khi giao hợp. Ghẻcái có hình bầu dục; kích thước từ 0,3-0,5 mm (mắt thường có
thể thấy như một điểm trắng di động), có 08 chân:2 đôi chân trước có ống giác, 2
đôi chân sau có lông tơ;lưng có gai xiên về phía sau; đầu có vòi hút thức ăn,
đồng thời để đào hầm trong da[8].
Ghẻ cái sống ký sinh ở lớp sừng của thượng bì, đào hang về ban đêm,
đẻ trứng về ban ngày. Mỗi ngày ghẻ cái đẻ 1-5 trứng và đẻ liên tục trong 4-6
tuần liền,sau 3-7 ngày trứng nở thành ấu trùng, ấu trùng lột xác nhiều lần (chỉ
trong vòng 3-4 ngày)thành ghẻ trưởng thành. Khoảng dưới 10% kết quả trứng
đậu thành cái ghẻ trưởng thành. Sau đó, cái ghẻ bò ra khỏi hang,di chuyển
lên bề mặt da và trưởng thành ở đó, tiếp tục quá trình giao hợp và đào hầm,
đẻ trứng mới. Ghẻ đực chết ngay sau khi giao hợp và ghẻ cái cũng chết sau
khi đã đẻ hết số trứng của mình. Số lượng trung bình cái ghẻ trên vật chủ
thường ít hơn 20 con, trừ trường hợp ghẻ vảy (ghẻ Na Uy) có thể có tới
hàng triệu cái ghẻ. Nhìn chung, ghẻ cái sinh sôi nảy nở rất nhanh, trong
điều kiện thuận lợi từ một con ghẻ cái, sau 3 tháng có thể lên tới 150 triệu
con[8, 20, 21].


7

1.4. Cơ chế bệnh sinh
Ghẻ cái không thể bay hay nhảy được, chu kỳ toàn bộ cuộc sống của
chúng kéo dài 30 ngày nếu cư trú ở trong và trên lớp thượng bì.

Hình 1.2. Chu kỳ vòng đời của cái ghẻ[22]

Cái ghẻ di chuyển qua các lớp trên cùng của da bằng cách tiết enzyme
proteases để làm suy giảm tầng lớp sừng, đào luống ở lớp sừng chỉ trong
vòng 20 phút, ăn các mô bị phân hủy nhưng không ăn máu. Cái ghẻ di
chuyển thông qua các lớp biểu bì, tạo ra các tổn thương hang và để lại sau
phân của chúng.
Ban đêm ghẻ cái bò ra khỏi hang tìm ghẻ đực, đây là thời điểm gây
ngứa nhất cho bệnh nhân và cũng là lúc dễ lây truyền bệnh nhất, bởi bệnh
nhân có triệu chứng ngứa phải gãi và làm vương vãi cái ghẻ ra quần áo,
giường chiếu... Cái ghẻ sẽ chết sau khi rời vật chủ (sống ngoài cơ thể) được 23 ngàyhoặc chết ở nhiệt độ từ 60oC trở lên [8, 13, 20].
Lây truyền: Bệnh ghẻ lây qua tiếp xúc trực tiếp với người bệnh, nằm
chung giường, mặc chung quần áo, dùng chung khăn tắm, tổn thương ghẻ
thường ở vùng da mỏng có nhiều nếp nhăn. Hầu hết sự lây truyền bệnh ghẻ
xảy ra mang tính chất gia đình, tập thể.Bệnh hay gặp vào mùa xuân hè và có


8

thể trở thành dịch lưu hành địa phương hoặc xảy ra tại ở các đơn vị tập thể
như doanh trại, trại giam, ký túc xá… [8].
Ngoài ra, ghẻ có thể lây truyền qua tiếp xúc da - da khi quan hệ tình
dục nên có thể xếp vào nhóm bệnh lây truyền qua đường tình dục(STDs).
1.5. Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng
1.5.1. Đặc điểm lâm sàng bệnh ghẻ[14], [23],[24]
Thời kỳ ủ bệnh thay đổi từ 2-40 ngày, trung bình từ 10-15 ngày.Tổn thương
đặc hiệu của bệnh ghẻ là luống ghẻ và mụn nước (còn gọi là mụn trai và đường
hang).
Mụn nước trên nền da lành, rải rác, riêng rẽ, thường ở vùng da mỏng
như ở kẽ ngón tay, mặt trước cổ tay, cẳng tay, vú, quanh thắt lưng, rốn, kẽ
mông, mặt trong đùi và bộ phận sinh dục. Ở trẻ sơ sinh mụn nước hay gặp ở
lòng bàn tay, chân. Tỷ lệ phát hiện tổn thương ghẻ ở các cơ quan là: kẽ ngón

90,6%; quanh rốn 67,2%; bộ phận sinh dục 76,6%; nách, đùi 71,9%.

Hình 1.3. Mụn nước trong bệnh ghẻ
Đường hang do cái ghẻ đào trong lớp sừng là 1 đường cong ngoằn ngoèo
hình chữ chi, dài 2-10 mm, gờ cao hơn mặt da, màu trắng đục hay trắng xám,
không khớp với hằn da, ở đầu đường hang có mụn nước 1-2 mm đường kính,


9

đó chính là nơi cư trú của cái ghẻ.Một ghẻ cái thường đào một hang.Luống
ghẻ hay hang:thường phân bố ở những khu vực ít hoặc không có lông, thường
là nơi lớp sừng mỏng và mềm, như kẽ giữa hai ngón tay > cổ tay > thân
dương vật > mặt trước khuỷu tay > chân > bộ phận sinh dục > mông > nách >
ở nơi khác. Ở trẻ sơ sinh, sự nhiễm ký sinh thường xuất hiện trên đầu và cổ.
Đường hầm thường hiếm thấy, nhưng khi thấy đường hầm thì có thể chẩn
đoán xác định bệnh ghẻ.

Hình 1.4. Đường hầm ghẻ còn gọi là “luống ghẻ” dài 3-5mm.
Sẩn cục hay sẩn huyết thanh. Các nốt sần hoặc sẩn viêm hang ghẻ đôi khi
được phát hiện trên bề mặt của tổn thương rất sớm. Tổn thương dạng sẩn xuất
hiện ở 7-10% bệnh nhân bị ghẻ.Sẩn có đường kính 5-20 mm, màu đỏ, hồng,
nâu vàng (màu rám nắng), hoặc màu nâu, mịn. Có thể rõ hơn sau điều trị, giống
như phát ban dạng eczema. Số lượng nốt thường đếm được.Có thể nhìn thấy
hang ghẻ ở bề mặt của các sẩn mới xuất hiện. Phân bố: dương vật, bìu, nách,
bẹn, thắt lưng, mông, quầng vú.


10


Hình 1.5.Sẩn ghẻ số lượng nhiều, đóng vảy tiết, một số sẩn có vảy da và hang
ghẻ ở thân dương vật.
Tổn thương thứ phát thường do ngứa gãi gây nên bao gồm vết xước
gãi, vết trợt, sẩn, vẩy tiết, mụn nước, mụn mủ, chốc nhọt…,sẹo thâm màu, bạc
màu, tạo nên hình ảnh được ví như bức tranh "khảm xà cừ", "hình hoa gấm".
Những tổn thương thứ phát như nhiễm khuẩn chủ yếu do nhiễm Streptococcus
pyogenes và Staphylococcus aureu, viêm da, eczema hóa thường che lấp, lu
mờ tổn thương đặc hiệu gây khó khăn cho chẩn đoán.
Triệu chứng cơ năng: ngứa nhiều nhất là về đêm. Ngứa gãi gây nhiễm
khuẩn và có thể có sốt.
Người bị nhiễm KST ghẻ lần đầu tiên trong vòng 02 tuần đầu hoàn toàn
có thể chưa biểu hiện ngứa do mới bị ghẻ xâm nhập, cơ thể chưa có sự phản
ứng nên chưa thấy ngứa. Điều này lý giải một số bệnh nhân có tổn thương ghẻ
thực sự mà hoàn toàn chưa thấy ngứa.
Những người bị tái nhiễm ghẻ thì xuất hiện ngứa dữ dội ngay từ khi cái
ghẻ xâm nhập vào da.
Có yếu tố dịch tễ như: gia đình, tập thể, đơn vị nhiều người bị ghẻ giúp cho
xác minh chẩn đoán [8, 15].
1.5.2. Các thể lâm sàng


11

Trên lâm sàng, bệnh ghẻ chia thành 5 thể như sau:

Hình1.6. Ghẻ giản đơn chỉ có đường hang và mụn nước, ít có tổn thương thứ phát

Hình 1.7. Ghẻ nhiễm khuẩn có tổn thương của ghẻ, mụn mủ do bội nhiễm liên
cầu, tụ cầu, có thể gặp biến chứng viêm cầu thận cấp


Hình 1.8. Ghẻ biến chứng viêm da, chàm hoá do chà xát cào gãi lâu ngày


12

Hình 1.9. Nốt sẩn sau ghẻ hay sẩn cục gặp 7-10% trường hợp.
Ghẻ Na Uy (Norwrgian) - Ghẻ vảy:
Nguyên nhân gây ra ghẻ vảy thường do bệnh nhân được điều trị bệnh lí
khác bằng glucocorticoid dài ngày, bị suy giảm miễn dịch (HIV/AIDS, nhiễm
HTLV-I, người được ghép tạng, dùng các thuốc ức chế miễn dịch, suy dinh
dưỡng, người già...). Người có ghẻ vảy thường bị hoặc có rối loạn hệ thần
kinh như hội chứng Down, bệnh mất trí nhớ, đột quỵ, tổn thương tủy sống,
bệnh thần kinh, bệnh phong...
Về lâm sàng, ghẻ vảy có thể khởi phát như ghẻ bình thường. Một số
trường hợp khác, biểu hiện lâm sàng là eczema mạn tính, viêm da dạng vảy
nến, viêm da tiết bã hoặc chứng đỏ có vảy.. Thương tổn cơ bản là các lớp vẩy
chồng chất lên nhau và lan toả gần như toàn thân (vì thế bệnh còn được gọi là
ghẻ vảy - crusted scabies). Có thể tìm thấy hàng nghìn cái ghẻ trong các vẩy
nhỏ này.Tại các khu vực bị nhiễm ghẻ vảy nặng, các mảng có ranh giới rõ
được bao phủ bởi một lớp vảy rất dày,dạng sừng hoá và/hoặc đóng vảy.Ở
tay/chân gây nên bệnh da dạng hạt cơm, với giường móng tăng sừng. Phản
ứng ban đỏ có vảy xuất hiện trên mặt, cổ, da đầu, thân mình.
Sự phân bố: toàn thể (đầu và cổ ở người lớn) hoặc cục bộ từng vùng chủ
yếu ở các khu vực hăm (vùng nếp kẽ...). Lớp vảy da/vảy tiết được tìm thấy


13

trên mặt duỗi bàn tay, cổ tay, ngón tay, khớp bàn ngón tay, lòng bàn tay, mặt
duỗi của khuỷu tay, da đầu, tai, lòng bàn chân và ngón chân.


Hình 1.10. Ghẻ Nauy
1.5.3. Đặc điểm cận lâm sàng
1.5.3.1.Soi tìm ký sinh trùng
- Soi tìm ký sinh trùngdưới kính hiển vi quang học: Vị trí: kẽ ngón
tay, vùng gấp cổ tay, và dương vật. Chẩn đoán là bệnh ghẻ nếu thấy 3 phát
hiện sau: trứng ghẻ, cái ghẻ và phân của chúng (hòn phân).
- Soi da bằng Dermoscopy:
Hình ảnh của KST ghẻ như đầu cái ghẻ hình tam giác, phân, trứng
ghẻ,luống ghẻ (Hình 1.11; 1.12; 1.13).


14

Hình 1.11. Hình tam giác hay hình delta - Đầu cái ghẻ [25]

Hình1.12. Luống ghẻ hình chữ "S"[25]
Đoạn trong suốt: thân con ghẻ

Hình1.13. Luống ghẻ hình chữ "Z” [26]Giải phẫu bệnh


15

- Hang ghẻ:tổn thương nằm trong lớp sừng; cái ghẻ nằm ở cuối hang.
Thân tròn, dài 400 μm. Mụn nước xuất hiện gần cái ghẻ. Trứng cũng được
nhìn thấy. Hạ bì bị xâm nhập bởi bạch cầu ái toan.
- Sẩn ghẻ: thâm nhiễm viêm mạn tính dày đặc bạch cầu ái toan. Trong
một số trường hợp, phản ứng với ghẻ dai dẳng như u lympho tế bào đơn nhân
không điển hình.

- Bệnh ghẻ vảy: lớp sừng dầy bị làm thủng bởi vô số cái ghẻ.
1.5.3.2.Huyết học: Tăng bạch cầu ái toan trong ghẻ vảy.
1.5.3.3. Nuôi cấy: Tụ cầu vàng và GAS là nguyên nhân gây nhiễm trùng thứ phát.
Các xét nghiệm cận lâm sàng bổ sung chẩn đoán:miễn dịch IgE và kỹ thuật
PCR để khẳng định.Tuy nhiên chi phí các phương pháp này khá cao nên hiện
nay vẫn chưa được áp dụng nhiều tại Việt Nam. Mặt khác, không phải lúc nào
xét nghiệm cũng tìm thấy cái ghẻ và trứng. Vì vậy, chẩn đoán bệnh chủ yếu sẽ
dựa vào các đặc điểm lâm sàng và tính chất dịch tễ bệnh[8, 27, 28].
1.6. Chẩn đoán bệnh ghẻ
1.6.1. Chẩn đoán xác định
Chẩn đoán bệnh ghẻ dựa vào tiêu chuẩn vàng là tìm thấy cái ghẻ tuy
nhiên trên thực tế nhiều trường hợp không tìm thấy cái ghẻ.
Vì vậy chẩn đoán bệnh ghẻ dựa vào:
- Chủ yếu triệu chứng lâm sàng
- Dịch tễ: người ở cùng cũng bị.
- Cận lâm sàng: + Soi tươi dưới kính hiển vi hoặc Dermoscopy
1.6.2. Chẩn đoán phân biệt
Ghẻ có những đặc điểm gần giống với một số bệnh về da khác như tổ
đỉa, sẩn ngứa, viêm da cơ địa, nấm da, săng giang mai... Nên cần phải chẩn
đoán phân biệt, cụ thể như sau[8]:
- Tổ đỉatổn thương là do các mụn nước nhỏ sâu, tập trung rìa cụm,
không có đường hang, chỉ có ở lòng bàn tay, đầu ngón, mặt dưới ngón, rìa
ngón bàn tay chân, tiến triển dai dẳng.


16

- Sẩn ngứa là sẩn huyết thanh rải rác khắp cơ thể, rất ngứa, vị trí hay gặp
ở vùng da hở. Có thể do nhiều nguyên nhân như dị ứng với cây cỏ, lá ngứa, do
nước suối, do hoá chất... nhưng không có mụn nước ở lòng bàn tay, kẽ tay, quy

đầu... không có tính chất dịch tễ lây lan người này sang người khác.
- Viêm da cơ địathương tổn sẩn, mụn nước tập trung thành từng đám,
rất ngứa, tiến triển dai dẳng.
- Nấm damảng da đỏ, các mụn nước và vảy da ở rìa thương tổn, bờ hình
vòng cung, có xu hướng lành ở giữa. Ngứa nhiều, xét nghiệm thấy sợi nấm.
- Săng giang mailà một vết trợt nông, nền cứng, không ngứa, không
đau, hay gặp ở vùng hậu môn sinh dục. Kèm hạch bẹn to, thuờng có hạch
chúa. Xét nghiệm trực tiếp soi tươi tìm thấy xoắn khuẩn giang mai tại thương
tổn và hạch vùng, xét nghiệm huyết thanh giang mai dương tính.
Ngoài ra, cần phân biệt với các bệnh khác như rận mu, bệnh thuỷ đậu,
viêm da dạng Herpes, viêm nang lông…
1.7. Biến chứng của bệnh ghẻ
1.7.1. Ghẻ chàm hoá
Ghẻ chàm hoá là tình trạng có thể nhiễm ghẻ lâu ngày gây ngứa gãi mụn
nước trên da.Bệnh hay gặp ở người có cơ địa dị ứng, xảy ra ở những khu vực bị
trầy da, hay gặp nhất ở bàn tay, kẽ ngón tay, cổ tay, nách, quầng vú, thắt lưng,
mông, dương vật và bìu. Ở người lớn, da đầu, mặt và lưng thường không bị
nhưng ở trẻ nhỏ, da đầu, mặt, lòng bàn tay và lòng bàn chân đều có thể bị.
1.7.2. Bội nhiễm
- Tác nhân gây bệnh thường do S.aureus: S.aureus nhạy cảm
Methicillin(MSSA) và S.aureus kháng Methicillin(MRSA); nhiễm trùng GAS
(group A streptococcal).
- Các mụn nước xen kẽ các mụn mủ, có thể phù nề. Có thể biểu hiện
chốc (bong vảy da, vảy tiết, ban đỏ nhạy cảm xung quanh), chốc loét, viêm


17

nang lông, tạo thành áp xe; viêm mạch bạch huyết, viêm hạch; viêm mô bào;
nhiễm khuẩn huyết, nhiễm trùng huyết.

- MRSA là nguyên nhân chính gây nhiễm trùng thứ phát ở những người bị ghẻ.
1.7.3. Lichen hoá ngứa nên người bệnh gãi nhiều gây dầy da, thâm da.
1.7.4. Viêm cầu thận cấp: ở trẻ bị ghẻ bội nhiễm, không được điều trị hoặc
điều trị không khỏi thì có thể gây biến chứng viêm cầu thận cấp[8].
1.8. Điều trị bệnh ghẻ[14],[23],[24]
1.8.1. Nguyên tắc chung
Cần phải điều trị cho tất cả những người sống cùng trong gia đình, tập
thể hay nhà trẻ... nếu phát hiện có trường hợp bị ghẻ[8].
Nên tầm soát các bệnh lây qua đường tình dục với những người bệnh
trên 18 tuổi[8].
Các vật dụng như quần áo, chăn màn đệm, vỏ gối, đồ dùng… giặt sạch,
phơi khô, là kỹ để tránh mắc bệnh ghẻ[8].
1.8.2. Điều trị cụ thể
1.8.2.1. Phương pháp Đông y
Sử dụng lá cây ba chạc đenvà lá đào đun nước tắm, kèm theotinh dầu hạt
cây máu chó bôi tại chỗngày một lần vào buổi tối, kèm tắm nước muối hoặc
tắm biển khoảng 1 tuần. Giặt sạch, phơi khô quần áo, chăn màn[8].
1.8.2.2. Phương pháp Tây y
Ở người lớn, các thuốc diệt ghẻ tại chỗ được sử dụng khắp bề mặt da, trừ
vùng mặt, da đầu và chú ý các vùng nếp kẽ, vùng sinh dục, quanh móng, sau
tai. Ở trẻ em, các trường hợp ghẻ vảy (ghẻ Na Uy), cần điều trị vùng mặt và
da đầu. Bệnh nhân cần được tư vấn: khi đã điều trị đầy đủ, cảm giác rát và
ngứa có thể kéo dài sau đó 4 tuần. Ngoài ra có thể sử dụng corticoid tại chỗ,
kháng histamin để chống viêm và giảm ngứa cho bệnh nhân.
Các thuốc diệt ghẻ chủ yếu là loại thuốc bôi tại chỗ hiện đang được áp
dụng[8], bao gồm:


18


 Gamma benzen 1% (tên gọi khác là Kwell, Lindane): xịt thuốc vào toàn
bộ da từ cổ xuống chân. Sau 8-12 giờ, người bệnh tắm rửa thay quần áo, xịt
thuốc 2 lần/1 tuần. Thuốc chữa ghẻ nhanh nhưng độc với thần kinh nên không
dùng cho trẻ nhỏ và phụ nữ có thai.
 Benzoat benzyl 25% (tên gọi khác là Ascabiol, Scabitox, Zylate) là
thuốc rất tốt, có độ an toàn cao. Bôi, xịt ngày 2 lần, mỗi lần cách nhau 15
phút. Sau 24 giờ, bệnh nhân tắm gội, giặt lại quần áo.
 D.E.P: là thuốc chống muỗi vắt đốt, nhưng lại có tác dụng diệt cái ghẻ
nhanh và rẻ tiền, ít độc tính. Bôi ngày 2-3 lần. Thuốc không nên dùng cho trẻ
sơ sinh và không bôi vào bộ phận sinh dục.
 Permethrin cream 5% (tên gọi khác Elimite) là thuốc chữa ghẻ ít độc
tính, có thể dùng cho cả trẻ em và phụ nữ có thai.
 Mỡ lưu huỳnh 5-10%, sử dụng cho trẻ em và người lớn, đặc biệt là trẻ
nhỏ dưới 2 tháng tuổi, phụ nữ có thai và cho con bú. Thuốc rất an toàn, tuy
nhiên nhược điểm có mùi hôi.
 Crotaminton 10% (tên gọi khác Eurax) là thuốc bôi có tác dụng chống
ngứa và diệt cái ghẻ. Cứ 6-10 giờ bôi 1 lần, thuốc an toàn có thể bôi vào bộ
phận sinh dục và dùng cho trẻ sơ sinh.
Ngoài sử dụng thuốc bôi, trong những trường hợp cụ thể, người ta có
thể dùng thêm một số loại thuốc kết hợp khác, như: thuốc kháng sinh,
thuốc IVM, kem chứa Corticoid (bôi trong 1-2 tuần); kháng Histamin tổng
hợp; vitamin B1 và C; oxit kẽm; mỡ kháng sinh Salicylé; hồ nước; dung
dịch Milian hoặcCastellani; tím Methyl 1% nếu có bội nhiễm hoặc chàm
hoá tùy từng trường hợp.
Ở Việt Nam, các thuốc điều trị ghẻ chủ yếu vẫn là dung dịch D.E.P, kem
Crotamiton, thuốc xịt chứa permethrin. Ngoài thuốc điều trị, vấn đề vệ sinh
thân thể, vệ sinh môi trường, cách ly, điều trị cho những người sống gần
nguồn bệnh đóng vai trò quan trọng, quyết định kết quả điều trị bệnh ghẻ.
1.9. Phòng bệnh ghẻ



19

Các biện pháp phòng bệnh ghẻ chủ yếu là vệ sinh cá nhân hàng ngày
sạch sẽ.Điều trị bệnh sớm, tránh tiếp xúc và dùng chung các đồ dùng của
người bị bệnh. Tuyên truyền trong cộng đồng để tránh lây lan thành dịch, tổ
chức khám phát hiện bệnh tại các cơ sở sống tập trung như: nhà trẻ, doanh
trại, ký túc xá, viện dưỡng lão…[8, 13].
1.10. Chiến lược trong điều trị và kiểm soát bệnh ghẻ[29], [30], [31].
Hiện tại quản lý bệnh ghẻ tập trung vào việc xác định và điều trị các ca
bệnh liên quan đến lây truyền trong hộ gia đình, nhưng dữ liệu về vấn đề này rất
ít để có thể hỗ trợ. Cách quản lý này được xem như một chiến lược hiệu quả để
giảm tỷ lệ mắc bệnh trong cộng đồng. Chẩn đoán có thể khó khăn và phụ thuộc
vào việc xác định lâm sàng ở hầu hết các khu vực nhiệt đới. Phương pháp điều
trị tại chỗ có hiệu quả, nhưng hóa chất hiệu quả nhất trong số này là Permethrin,
có thể tốn kém và đôi khi không có sẵn ở nhiều vùng với tỷ lệ mắc bệnh cao.
Phương pháp điều trị thay thế có thể ít hiệu quả, dung nạp kém, hoặc có tác dụng
phụ đáng kể. Phác đồ điều trị tại chỗ là bất tiện và số người trong hộ gia đình
tuân thủ đúng pháp đồ điều trị là thấp, điều này có thể làm giảm hiệu quả điều trị
và là nguyên nhân dẫn đến tái nhiễm[32], [33], [34], [35], [36].
Kiểm soát và phòng chống bệnh ghẻ trên quy mô toàn cầu có thể đạt
được mục tiêu mặc dù gặp một số trở ngại. Ưu tiên ban đầu bao gồm:
(1) Nâng cao nhận thức về bệnh ghẻ và tranh thủ sự tham gia các cá nhân, tổ
chức ủng hộ tài chính thông qua truyền thông;
(2) Tăng cường nghiên cứu lâm sàng và dịch tễ học để hiểu rõ hơn về gánh
nặng bệnh tật;
(3) Phát triển và thiết lập các chiến lược kiểm soát véc tơ hiệu quả. Một
chương trình nghiên cứu tăng cường và phối hợp có liên quan đến sự hợp
tác tích cực giữa một nhóm các bệnh liên quan là rất quan trọng để củng cố
ở tất cả các khu vực.



20

Ngày nay, trên thế giới đã thành lập ra Liên minh quốc tế về kiểm soát
bệnh ghẻ (The International Alliance for the Control of Scabies - IACS). Đó
là một tổ chức mới được hình thành từ các quốc gia trên toàn cầu,để thúc đẩy
chương trình kiểm soát bệnh ghẻ. Mục tiêu của liên minh là cam kết kiểm
soát bệnh ghẻ tấn công con người và tăng cường sức khỏe, hạnh phúc của tất
cả người sống ở những cộng đồng bị ảnh hưởng [37], [38], [39].
1.11. Ivermectin trong điều trị bệnh ghẻ
1.11.1. Thông tin về thuốc Ivermectin
Trong thập kỷ qua, cộng đồng khoa học trên toàn cầu bắt đầu nhận ra giá
trị chưa từng có của một loại thuốc mới -Ivermectin. Lịch sử của thuốc
ivermectinbắt nguồn từ một vi khuẩn trong đất ở Nhật Bản. Ivermectin được tìm
thấy lần đầu trong những năm 1970 trên môi trường nuôi cấy của một loài nấm
actinomycete là Streptomyces avermitilis. IVM có cấu trúc tương tự như kháng
sinh nhóm macrolid nhưng không có hoạt tính kháng khuẩn [40]. Nghiên cứu
của Satoshi Ōmura, Học viện Kitasato, Tokyo đã phát hiện ra vi khuẩn
Streptomyces avermectinius và công trình này đã nhận được giải thưởng
Gairdner Global Health năm 2014 và giải Nobel về Sinh lý học năm 2015.

Hình 1.14. Satoshi Ōmura thu thập mẫu vi khuẩn từ đất [41]


21

Hình 1.15. Hình ảnh vi khuẩn Streptomyces avermectinius[42]
Ivermectin được biết đến với hiệu quả điều trị kháng khuẩn, kháng vi
rút và chống ung thư, điều trị giun sán và gần đây là điều trị ghẻ[43].

Dược động học
Ivermectin là dẫn chất bán tổng hợp của một trong số avermectin,
nhóm chất có cấu trúc lacton vòng lớn, phân lập từ sự lên men Streptomyces
avermitilis.

Hình 1.16. Cấu trúc hóa học của Ivermectin[44]
Nhóm dược lý: Thuốc trị KST, chống nhiễm khuẩn.
Tên biệt dược: Pizar, Stromectol, Mectizan, Ivomec.
Dạng bào chế: Viên nén.
Thành phần:Ivermectin.


22

Ivermectin có phổ hoạt tính rộng trên các giun tròn và tiết túc. Thuốc lần
đầu tiên được dùng cho người vào năm 1981. Ivermectin có hiệu quả trên
nhiều loại giun tròn như giun lươn, giun tóc, giun kim, giun đũa, giun móc và
giun chỉ Wuchereria bancrofti. Tuy nhiên, thuốc không có tác dụng trên sán lá
gan và sán dây.
Hiện nay, Ivermectinlà thuốc được chọn điều trị bệnh giun chỉ Onchocerca
volvulus và là thuốc diệt ấu trùng giun chỉ rất mạnh, nhưng ít tác dụng trên
KST trưởng thành. Tác dụng của thuốc có thể kéo dài đến 12 tháng. Một
tháng sau khi dùng, ấu trùng tại tử cung giun chỉ trưởng thành không thoát ra
được, rồi bị thoái hóa và tiêu đi. Tác dụng kéo dài trên ấu trùng rất có ích
trong việc ngăn chặn con đường lây lan của bệnh. Ivermectinkhông dễ dàng
xâm nhập vào hệ thống thần kinh trung ương của các loài động vật có vú, vì
vậy không ảnh hưởng đến sự dẫn truyền thần kinh phụ thuộc GABA của các
loài này.
Các nghiên cứu dược lý học hiện nay còn chưa biết rõ khả dụng sinh
học tuyệt đối của thuốc sau khi uống. Nói chung, không thấy có sự khác nhau

về nồng độ đỉnh trong huyết tương giữa dạng viên nén và dạng viên nang (46
so với 50 µg/lít). Tuy nhiên, khi dùng Ivermectin trong một dung dịch nước
có rượu, nồng độ đỉnh tăng gấp đôi và sinh khả dụng tương đối của viên nén
chỉ bằng 60% sinh khả dụng của dạng dung dịch. Thời gian đạt tới nồng độ
đỉnh trong huyết tương khoảng 4 giờ và không khác nhau giữa các dạng bào
chế. Ivermectin có thể tích phân bố biểu kiến khoảng 48 lít và độ thanh thải
rất thấp (khoảng 1,2 lít/giờ). Thời gian bán thải sau khi uống dạng dung dịch
khoảng 28 giờ. Khoảng 93%thuốc liên kết với protein huyết tương. Chuyển
hóa của thuốc chưađược nghiên cứu kỹ, tuy nhiên đã thấy thuốc bị thủy phân
và bị khử methyl ở gan. Ivermectin bài tiết qua mật và thải trừ gần như chỉ
qua phân. Dưới 1% liều dùng được thải qua nước tiểu.
Cơ chế


23

Ivermectin có ái lực cao với các ion chlorid ở hệ thần kinh ngoại vi của
động vật không xương sống, chặn các kênh dẫn truyền qua synap thần kinh
[45], hoạt động bằng cách ràng buộc có chọn lọc với các thụ thể
neurotransmitter cụ thể, có chức năng trong các khớp thần kinh ngoại biên
của ký sinh trùng. Thuốc có tác dụng “endectocidal” (đồng thời chống lại
endo và ectoparasites) gây tê liệt của ký sinh trùng, động vật chân đốt và côn
trùng bằng cách ức chế các dẫn truyền xung thần kinh trong (tế bào thần kinh
trung gian) các khớp thần kinh thần kinh-cơ của động vật chân đốt. Cụ thể,
Ivermectin khóa các đường dẫn truyền hóa học thông qua synapse thần kinh
bằng cách sử dụng các kênh anion glutamate-gated hoặc các kênh clorua
acidgated γ-aminobutyric. Sự kích thích của γ-aminobutiric axit (GABA) xuất
phát từ dây thần kinh trước synap và tăng cường sự liên kết với các thụ thể
sau synap. Bằng cách này xung động thần kinh dẫn truyền bị chấm dứt và tê
liệt vàký sinh trùng bị chết ngay sau đó[46].

Khả năng tác động
 Khả năng phân bố: khoảng 93% thành phần thuốc liên kết với protein
huyết tương.
 Khả năng chuyển hóa: thuốc bị thủy phân và khử bởi methyl ở gan.
 Khả năng thải trừ: IVM bài tiết qua mật và thải trừ gần như chỉ qua
phân. Dưới 1% liều dùng được thải qua nước tiểu.
Chỉ định:Người lớn: IVM dùng để điều trị bệnh nhiễm các loại KST, là
thuốc được lựa chọn dùng để điều trị các tổn thương cơ quan như: da, phổi,
mắt, hệ thần kinh trung ương, gan, cơ tim. Kèm theo sự gia tăng Eosin và IgE.
Chống chỉ định:Người có mẫn cảm với IVM hoặc một thành phần nào
đó của thuốc. Những bệnh có kèm theo rối loạn hàng rào mạch máu não, bệnh
viêm màng não.
Thận trọng:Tránh dùng cho trẻ dưới 5 tuổi hoặc trẻ dưới 15 kg; phụ nữ
có thai hoặc đang cho con bú. Hiện nay, thuốc không dùng cho mục đích
phòng bệnh.


24

Tác dụng không mong muốn:IVM là thuốc an toàn. Hầu hết các tác
dụng không mong muốn của thuốc là do các phản ứng miễn dịch đối với ấu
trùng bị chết. Mức độ nặng nhẹ của tác dụng này có liên quan đến mật độ ấu
trùng trên da. Các tác dụng không mong muốn gồm: sốt, ngứa, hoa mắt,
chóng mặt, đau cơ, sưng khớp, hạ huyết áp thế đứng. Tác dụng không mong
muốn thường xảy ra trong 3 ngày đầu sau khi điều trị và phụ thuộc cơ thể của
người dùng.
Tương tác thuốc:Hiện chưa thấy thông tin về tương tác thuốc có hại,
nhưng về mặt lý thuyết, thuốc có thể làm tăng tác dụng của các thuốc kích
thích thụ thể GABA.
Quá liều và xử trí:Các biểu hiện chính do tác dụng phụ của IVM là: ban

da, phù, nhức đầu, hoa mắt, chóng mặt, suy nhược, buồn nôn, nôn, ỉa chảy.
Các tác dụng không mong muốn khác gồm: xuất hiện cơn động kinh, mất
điều hòa, khó thở, đau bụng, dị cảm và mày đay. Khi bị tác dụng phụ, cần
truyền dịch và các chất điện giải, trợ hô hấp (oxygen và hô hấp nhân tạo nếu
cần). Dùng thuốc tăng huyết áp nếu bị hạ huyết áp. Gây nôn hoặc rửa dạ dày
càng sớm càng tốt. Sau đó, dùng thuốc tẩy và các biện pháp chống độc khác
nếu cần để ngăn cản sự hấp thu thêm thuốc vào cơ thể.
1.11.2. Một số nghiên cứu về điều trị ghẻ với Ivermectin
Nghiên cứu của Fernando và cộng sự về điều trị bệnh ghẻ trên 123 tù
nhân sống trong môi trường bị hạn chế và bị ô nhiễm với Ivermectin dạng
uống (200 - 300 mrg/kg liều đơn, lặp lại sau 7 ngày). Quần áo và môi trường
được khử trùng. Kết quả: trước điều trị 78% số tù nhân bị ghẻ khi đánh giá ở
thời điểm ban đầu, sau điều trị 2 tuần tỷ lệ khỏi bệnh là 91,05%. Dự phòng
cũng có hiệu quả cao, 93,2% không bị nhiễm bệnh và gần như toàn bộ nhân
viên không bị bệnh trong suốt thời gian nghiên cứu. Ivermectin uống với liều
duy nhất 300mrg/kg, lặp lại sau 7 ngày có hiệu quả trong điều trị và dự phòng
ghẻ ở môi trường thể nhiễm [47].


25

Nghiên cứu đối chứng so sánh tạiBệnh viện Đại học Nigeriađánh giá
hiệu quả và sự an toàn của thuốc ivermectin trong điều trịghẻ. 58 bệnh nhân
bị ghẻđược chia 2 nhóm được chọn để nghiên cứu; trong đó nhóm 1 uống
Ivermectin liều duy nhất 200 [microg/kg thể trọng). Nhóm chứng còn lại được
điều trị với benzyl benzoate 25% dạng nhũ tương. Kết quả, sau 4 tuần điều trị có
96% không còn ngứa khi điều trị với Ivermectin và 48% ca có tác dụng tương tự
khi điều trị với benzyl benzoat. Không có tác dụng phụ nào khác được quan sát
thấy với Ivermectin [48].
Nghiên cứu hiệu quả điều trị và các phản ứng không mong muốn của

thuốc uống Ivermectin với bệnh nhân ghẻ củaDourmishev A và công sự với
10 bệnh nhân ngoại trú ghẻ đơn thuần, 9 bệnh nhân nội trú bị ghẻ và đồng
nhiễm một bệnh da liễu được điều trị bằng ivermectin, liều uống 0.2 mg/kg
cân nặng (dạng dung dịch 1%) vào ngày 1 và 8. Kết quả không còn phát hiện
cái ghẻ sau khi dùng liều thứ hai của ivermectin. 7 bệnh nhân có tăng ngứa
trong 24 - 72 giờ sau khi dùng Iremectin liều đầu tiên. 3 bệnh nhân biểu hiện
da, ban-mụn mủ tăng lên giữa ngày thứ hai và thứ tư[49].
Nghiên cứu điều trị hàng hoạt bệnh nhân mắc ghẻ, được thực hiện ở
Panama và miền bắc Australia đã chỉ ra Permethrin làm giảm đáng kể tỷ lệ
mắc bệnh ghẻ, chốc lở. Điều trị hàng loạt với IVM bằng đường uống tại quần
đảo Solomon đã giảm tỷ lệ bệnh ghẻ từ 25% xuống còn 1%, với mức giảm
đồng thời ở các bệnh chốc lở và đái ra máu [8].
Theo tác giả Mohamad Goldust và cộng sự, tiến hành nghiên cứu về
hiệu quả của thuốc điều trị ghẻ tại chỗ IVM trên 190 bệnh nhân nhiễm ghẻ. Đối
tượng tham gia được sử dụng liều IVM 1% và uống nhắc lại 1 tuần sau đó. Đánh
giá hiệu quả của thuốc sau 2 và 4 tuần sử dụng, thì kết quả đem lại tích cực: tỷ lệ
chữa khỏi bệnh ghẻ tại chỗ, sau 2 tuần là 63,1% bệnh nhân được điều trị và sau 4
tuần thì hiệu quả tăng lên 84,2% người được chữa khỏi[50].
Nghiên cứu hiệu quả điều trị của thuốc IVM đối với bệnh ghẻ, 8 bệnh nhân
người Ai Cập được uống 1 liều duy nhất IVM với hàm lượng 200 µg/kg cân


×