BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
LÊ THỊ THÚY TÌNH
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG TRIỆU CHỨNG LOẠN
THẦN Ở BỆNH NHÂN RỐI LOẠN CẢM XÚC
LƯỠNG CỰC, HIỆN GIAI ĐOẠN HƯNG CẢM
ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ Y HỌC
HÀ NỘI - 2019
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
LÊ THỊ THÚY TÌNH
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG TRIỆU CHỨNG LOẠN
THẦN Ở BỆNH NHÂN RỐI LOẠN CẢM XÚC
LƯỠNG CỰC, HIỆN GIAI ĐOẠN HƯNG CẢM
Chuyên ngành: Tâm thần
Mã số: 60720147
ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ Y HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
TS. Nguyễn Doãn Phương
HÀ NỘI - 2019
DANH MỤC VIẾT TẮT
RLCXLC
: Rối loạn cảm xúc lưỡng cực
CLT
: Chống loạn thần
CKS
: Chỉnh khí sắc
CTC
: Chống trầm cảm
CT
: Computerized Tomography (Chụp cắt lớp vi tính)
ICD- 10
: International classification of disease -10
(Phân loại bệnh quốc tế lần thứ 10)
DSM
: Diagnostic and statistical manual of mental disorders
MRI
: Magnetic Resonance Imaging (Chụp cộng hưởng từ)
MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ..................................................................................................1
Chương 1: TỔNG QUAN...............................................................................4
1.1. Rối loạn cảm xúc lưỡng cực................................................................4
1.1.1. Các số liệu thu thập được trong nghiên cứu này được xử lý bằng
phương pháp thống kê Y học, sử dụng phần mềm SPSS 20.0........4
1.1.2. Lịch sử nghiên cứu rối loạn cảm xúc lưỡng cực.............................5
1.1.3. Dịch tễ học RLCXLC......................................................................6
1.1.4. Bệnh nguyên và bệnh sinh của RLCXLC.......................................7
1.1.5. Tiến triển và tiên lượng.................................................................11
1.1.2. Một số hình thái lâm sàng của RLCXLC......................................13
1.2. Triệu chứng loạn thần........................................................................16
1.2.1. Khái niệm loạn thần......................................................................16
Chương 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU..............18
2.1. Đối tượng nghiên cứu........................................................................18
2.1.1. Tiêu chuẩn lựa chọn......................................................................18
2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ.........................................................................18
2.2. Phương pháp nghiên cứu....................................................................18
2.2.1. Thời gian và địa điểm nghiên cứu.................................................18
2.2.2. Thiết kế nghiên cứu......................................................................18
2.2.3. Cỡ mẫu nghiên cứu.......................................................................18
2.2.4. Các biến số, chỉ số của nghiên cứu...............................................19
2.2.5. Kỹ thuật thu thập thông tin...........................................................19
2.2.6. Xử lí và phân tích số liệu..............................................................20
2.2.7. Vấn đề đạo đức trong nghiên cứu.................................................20
Chương 3: DỰ KIẾN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU......................................21
3.1. Đặc điểm chung của nhóm bệnh nhân nghiên cứu............................21
3.1.1. Đặc điểm giới tính, hôn nhân, trình độ văn hoá, nghề nghiệp......21
3.1.2. Đặc điểm về tiền sử gia đình có người bị bệnh tâm thần..............22
3.1.3. Đặc điểm phân bố tuổi phát bệnh lần đầu.....................................22
3.2. Đặc điểm loạn thần ở RLCXLC.........................................................24
3.2.1. Đặc điểm chung về triệu chứng hoang tưởng, ảo giác ở bệnh nhân
RLCXLC, hiện giai đoạn hưng cảm.............................................24
3.2.4. Năm xuất hiện hoang tưởng, ảo giác sau khi biểu hiện bệnh........25
3.2.5. Đặc điểm nội dung của hoang tưởng vào ảo giác.........................25
3.2.6. Đặc điểm tính chất xuất hiện của hoang tưởng và ảo giác............27
3.2.7. Đặc điểm tính chất tái diễn của hoang tưởng, ảo giác..................27
3.2.8. Đặc điểm rối loạn hành vi.............................................................27
3.3. Nhận xét điều trị triệu chứng loạn thần ở bệnh nhân RLCXLC........28
3.3.1. Nhận xét về thuốc điều trị triệu chứng loạn thần ở bệnh nhân
RLCXLC, hiện giai đoạn hưng cảm.............................................28
3.3.2. Nhận xét về thời gian điều trị triệu chứng loạn thần ở bệnh
RLCXLC, hiện giai đoạn hưng cảm.............................................29
3.3.3. Nhận xét về diễn biến triệu chứng loạn thần và rối loạn tfâm thân
hành vi ở bệnh nhân RLCXLC, hiện giai đoạn hưng cảm............29
Chương 4: DỰ KIẾN BÀN LUẬN...............................................................30
DỰ KIẾN KẾT LUẬN..................................................................................31
DỰ KIẾN KHUYẾN NGHỊ.........................................................................31
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC BẢNG
Bảng 3.1:
Phân bố giới tính, tình trạng hôn nhân, trình độ văn hoá, nghề
nghiệp của nhóm bệnh nhân nghiên cứu.................................21
Bảng 3.2:
Đặc điểm về tiền sử gia đình có người bị bệnh tâm thần........22
Bảng 3.3:
Phân bố theo nhóm tuổi phát bệnh lần đầu.............................22
Bảng 3.4:
Tuổi khởi phát trung bình theo giới........................................22
Bảng 3.5.
Đặc điểm số giai đoạn bệnh trước đó......................................23
Bảng 3.6.
Đặc điểm nội dung ảo giác......................................................26
Bảng 3.7.
Đặc điểm tính chất xuất hiện của hoang tưởng và ảo giác......27
Bảng 3.8.
Đặc điểm tính chất tái diễn của hoang tưởng, ảo giác............27
Bảng 3.9.
Đặc điểm rối loạn hành vi theo mức độ hưng cảm.................27
Bảng 3.10.
Các phương thức điều trị ở bệnh nhân RLCXLC, hiện giai
đoạn hưng cảm có loạn thần...................................................28
Bảng 3.11.
Nhận xét về điều trị thuốc chống loạn thần............................28
Bảng 3.12.
Nhận xét về điều trị nhóm thuốc chỉnh khí sắc.......................28
Bảng 3.13.
Thời gian điều trị.....................................................................29
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 3.1.
Đặc điểm mức độ hưng cảm theo chẩn đoán lâm sàng...........23
Biểu đồ 3.2.
Đặc điểm kích động tâm thần vận động..................................24
Biểu đồ 3.3.
Đặc điểm chung về triệu chứng hoang tưởng, ảo giác............24
Biểu đồ 3.4.
Năm xuất hiện hoang tưởng, ảo giác sau lần đầu biểu hiện
bệnh.........................................................................................25
Biểu đồ 3.5.
Đặc điểm nội dung hoang tưởng.............................................26
Biểu đồ 3.6.
Đặc điểm ảo giác theo giác quan............................................26
Biểu đồ 3.7.
Diễn biến điều trị của loạn thần và rối loạn tâm thần hành vi 29
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Rối loạn cảm xúc lưỡng cực (RLCXLC) là một rối loạn đặc trưng bởi
hai hay nhiều giai đoạn với khí sắc và mức độ hoạt động của bệnh nhân bị rối
loạn rõ rệt. Rối loạn này bao gồm những giai đoạn tăng khí sắc, tăng năng
lượng và tăng hoạt động (hưng cảm hoặc hưng cảm nhẹ) và những giai đoạn
khác là sự hạ thấp khí sắc, giảm năng lượng và giảm hoạt động (trầm cảm).
Sự lặp lại đơn thuần của các giai đoạn hưng cảm hoặc hưng cảm nhẹ cũng
được xếp loại là RLCXLC [1]. RLCXLC là một bệnh thường gặp. Theo Tổ
chức Y tế thế giới, tỉ lệ mắc trong 12 tháng của RLCXLC là 1,5% và tỉ lệ mắc
trong suốt cuộc đời của RLCXLC là 2,4% xét trên toàn thế giới [2].
RLCXLC là một gánh nặng bệnh tật lớn. Trong Báo cáo y tế thế giới
năm 2001, RLCXLC là một trong 6 nguyên nhân hàng đầu ở cấp độ toàn cầu
của YLDs (số năm sống khỏe mạnh bị mất đi do tàn tật), chiếm 2,5% tổng số
YLDs toàn thế giới [3]. RLCXLC là một trong những bệnh tốn kém nhất của
nhóm bệnh sức khoẻ tâm thần. Trong một nghiên cứu lớn ở Mỹ về chi trả của
bảo hiểm y tế cho lĩnh vực tâm thần vào năm 1996, RLCXLC với gần 1,7
triệu BN, chỉ chiếm 3% tổng số người bệnh, nhưng chiếm 12,4% trong tổng
số chi phí của chương trình [4].
Triệu chứng loạn thần là triệu chứng phổ biến trong bệnh tâm thần nói
chung và RLCXLC nói riêng. Hơn một nửa số bệnh nhân rối loạn lưỡng cực
sẽ gặp các triệu chứng loạn thần trong đời. Triệu chứng loạn thần có thể gặp
trên bệnh nhân RLCXLC hiện giai đoạn hưng cảm, trầm cảm hoặc hỗn hợp.
ICD – 10 phân loại triệu chứng loạn thần trên bệnh nhân RLCXLC là có hoặc
không phù hợp với khí sắc. Triệu chứng loạn thần phù hợp với khí sắc bao
gồm các hoang tưởng và ảo giác có nội dung trùng lặp về cảm xúc với giai
đoạn hưng cảm hoặc trầm cảm đang diễn ra, ví dụ như hoang tưởng tự cao
2
trong mã F31.2, F31.5 với hoang tưởng bị tội. Triệu chứng loạn thần không
phù hợp khí sắc được hiểu là gồm các hoang tưởng và ảo giác không trùng lặp
về cảm xúc như khi bệnh nhân đang trong một giai đoạn trầm cảm xuất hiện
hoang tưởng liên hệ không có nội dung tố cáo hoặc tội lỗi, ảo thanh có tiếng
nói nói với bệnh nhân về những sự việc nào đó không có ý nghĩa cảm xúc đặc
biệt.. Trong lý thuyết y học hiện đại về RLCXLC, triệu chứng loạn thần
không được yêu cầu cho tiêu chuẩn chẩn đoán. Nhưng nhóm triệu chứng này
có ý nghĩa quan trọng trong việc quyết định thái độ điều trị giai đoạn bệnh và
sự thay đổi diễn biến về tiên lượng – tiến triển của bệnh [36]. Phân biệt hưng
cảm với loạn thần ở các bệnh lí khác loạn thần có thể khó khăn. Do đó, việc
đánh giá cẩn thận về biểu hiện, quá trình bệnh, tiền sử gia đình và đáp ứng với
điều trị nên được thực hiện ở bất kỳ bệnh nhân nào có đặc điểm loạn thần, để
loại trừ chứng rối loạn lưỡng cực.
Xuất phát từ suy nghĩ về tầm quan trọng của việc có mặt hay không của các
triệu chứng loạn thần trong RLCXLC trong việc chẩn đoán xác định, chẩn
đoán phân biệt bệnh lí RLCXLC với các bệnh lí tâm thần có loạn thần khác
như TTPL cũng như lập kế hoạch điều trị và tiên lượng cho bệnh lí RLCXLC,
chũng tôi thực hiện nghiên cứu đặc điểm lâm sàng triệu chứng loạn thần trên
bệnh nhân RLCXLC, tập trung vào đối tượng RLCXLC giai đoạn hưng cảm
mang tên “Đặc điểm lâm sàng triệu chứng loạn thần trên bệnh nhân
RLCXLC hiện giai đoạn hưng cảm điều trị nội trú tại VSKTT từ tháng
9/2019 - tháng 6/2020”. Hiện nay ở nước ta, có một số nghiên cứu về
RLCXLC, tuy nhiên những nghiên cứu này chỉ tập trung đánh giá yếu tố liên
quan tái phát RLCXLC, triệu chứng trầm cảm, triệu chứng hưng cảm ở bệnh
nhân RLCXLC chứ chưa có nghiên cứu nào đi sâu vào nghiên cứu về triệu
chứng loạn thần trong RLCXLC và sự khác biệt giữa loạn thần trong
RLCXLC với triệu chứng loạn thần trong các bệnh có loạn thần khác như
3
TTPL ….. Vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu này với hi vọng sẽ làm sáng
tỏ hơn đặc điểm triệu chứng loạn thần trong bệnh lí RLCXL để phần nào hỗ
trợ các y bác sỹ làm tốt hơn công việc chẩn đoán và điều trị bệnh. Mục tiêu
nghiên cứu:
1. Mô tả đặc điểm lâm sàng của triệu chứng loạn thần ở bệnh nhân
RLCXLC, hiện giai đoạn hưng cảm có loạn thần điều trị nội trú tại
VSKTT từ tháng 9-2019 đến tháng 6-2020.
4
Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. Rối loạn cảm xúc lưỡng cực
1.1.1. Các số liệu thu thập được trong nghiên cứu này được xử lý bằng
phương pháp thống kê Y học, sử dụng phần mềm SPSS 20.0.
Rối loạn cảm xúc lưỡng cực (RLCXLC) được biết đến và được mô tả từ
lâu, tuy nhiên bằng nhiều tên gọi khác nhau. Từ thời Hypocrate đã mô tả hai
trạng thái hưng cảm và trầm cảm. Kraepelin (Đức-1899) mô tả bệnh này và
gọi tên là loạn thần hưng trầm cảm [9]. Trong bảng phân loại Quốc tế lần thứ
10 (1992), rối loạn cảm xúc lưỡng cực được xác định là những giai đoạn lặp
đi lặp lại (ít nhất 2 lần), trong đó các mức độ khí sắc và hoạt động của bệnh
nhân bị rối loạn đáng kể, trong một số trường hợp rối loạn biểu hiện bằng
tăng khí sắc, tăng năng lượng và tăng hoạt động (hưng cảm nhẹ, vừa); trong
một số trường hợp khác lại hạ khí sắc, giảm năng lượng và giảm hoạt động
(trầm cảm)
RLCXLC được đặc trưng bởi các giai đoạn tái phát của các giai đoạn
hưng cảm và trầm cảm, đi kèm với những thay đổi trong hoạt động hoặc năng
lượng và liên quan đến các triệu chứng nhận thức, thể chất và hành vi đặc
trưng. Thuật ngữ hưng cảm được sử dụng khi tâm trạng tăng cao là nghiêm
trọng và duy trì hoặc liên quan đến các triệu chứng loạn thần, dẫn đến rối loạn
rõ rệt về hành vi và chức năng. Hưng cảm nhẹ giới thiệu mức độ ít nghiêm
trọng hơn trong cảm xúc, có thể khá nhẹ nhàng, với mức độ rối loạn thấp hơn
thường không đưa người bệnh tìm đến các cơ sở y tế; tuy nhiên, hưng cảm
nhẹ có thể tiến triển thành hưng cảm. RLCXLC được chia thành RLCXLC I
với các giai đoạn rối loạn hưng cảm và RLCXLC II, trong đó chỉ xảy ra các
đợt hưng cảm. Mặc dù theo truyền thống được xem là hai cực đối nghịch, các
triệu chứng hưng cảm và trầm cảm có thể xảy ra đồng thời, làm phát sinh các
5
trạng thái hỗn hợp. Khí sắc chu kì (cyclothymia) giới thiệu một tập hợp các
rối loạn nhẹ hơn với chu kỳ hypomania ngắn và tâm trạng hạ thấp nhẹ xảy ra
thường xuyên lặp đi lặp lại trong hai năm trở lên.
1.1.2. Lịch sử nghiên cứu rối loạn cảm xúc lưỡng cực
Từ TCN, RLCXLC đã được mô tả bởi người Ai-cập, người Rô-ma và
người Hy Lạp cổ [6], [7]. Hippocrates (460 đến 357 TCN) quan niệm bệnh tật
xuất hiện khi có sự mất cân bằng của bốn chất nước trong cơ thể: máu có
thuộc tính nóng, nước nhờn ở não có thuộc tính lạnh, nước mật vàng ở gan có
thuộc tính khô ráo và nước mật đen trong dạ dày có thuộc tính ấm ướt [8].
Máu khi chiếm ưu thế sẽ quy định tính khí hăng hái, nhưng khi nó quá dư
thừa sẽ gây ra tình trạng tăng hoạt động, tăng sự hòa nhã, dễ mạo hiểm. Tình
trạng này được mô tả tương tự trạng thái hưng cảm trong y học hiện đại. Tính
khí u sầu, bị thống trị bởi mật đen, có thể gây ra tình trạng thờ ơ, buồn rầu,
trầm ngâm, ngẫm nghĩ, giống như rối loạn trầm cảm trong phân loại DSM-V
[6]. Hippocrates đã sử dụng từ hưng cảm (mania) và u sầu (melancholia) để
mô tả những rối loạn tâm thần này và gọi RLCXLC ngày nay bằng cái tên là
rối loạn khí sắc.
Năm 1899, Emil Kraepelin (nhà tâm thần học người Đức) đã thống nhất
phân loại các rối loạn cảm xúc và đưa ra chẩn đoán cơn điên loạn hưng - trầm
cảm hay còn gọi là loạn thần hưng trầm cảm [9]. Năm 1957, Leonhard đặt ra
khái niệm "lưỡng cực" cho những bệnh nhân trầm cảm có trải qua giai đoạn
hưng cảm. Năm 1966, Angst và Perris đã chứng minh một cách độc lập rằng
trầm cảm đơn cực và rối loạn lưỡng cực có thể được phân biệt về đặc điểm
lâm sàng, sự tiến triển, lịch sử gia đình và sự đáp ứng điều trị. Các quan điểm
của họ sau này đã được thể hiện trong cả hai hệ thống phân loại chính để chẩn
đoán rối loạn tâm thần hiện nay đó là: sổ tay “Chẩn đoán và thống kê các rối
loạn tâm thần” (DSM) của Hiệp hội Tâm thần học Hoa Kỳ và “Phân loại
6
Bệnh học Quốc tế” (ICD) do Tổ chức Y tế Thế giới xuất bản. Năm 1980, tên
gọi rối loạn lưỡng cực đã được thông qua để thay thế cho khái niệm cũ –
chứng hưng trầm cảm trước đó. Các nhà khoa học cũng đã công nhận rằng:
không phải tất cả những bệnh nhân trải qua giai đoạn hưng cảm và trầm cảm
đều dẫn tới loạn thần [7]. Tới đây, các nhà khoa học đã hoàn thiện những lý
thuyết cơ bản về RLCXLC, phân biệt RLCXLC với rối loạn khí sắc chu kỳ,
trầm cảm và trầm cảm tái diễn [1], [10].
Các tiêu chuẩn được sử dụng rộng rãi nhất để chẩn đoán RLCXLC hiện
nay là DSM ấn bản lần thứ năm - năm 2013 (DSM-V) và ICD ấn bản lần thứ
10 – năm 1992 (ICD-10). Có sự không đồng nhất về tiêu chí chẩn đoán
RLCXLC ở hai hệ thống phân loại chẩn đoán này. ICD-10 yêu cầu hai giai
đoạn rối loạn cảm xúc riêng biệt, trong đó có ít nhất một giai đoạn là hưng
cảm, hưng cảm nhẹ hoặc hỗn hợp [1]. Trong DSM-V, chỉ một giai đoạn hưng
cảm đơn độc hay giai đoạn hỗn hợp (RLCXLC I) hoặc một giai đoạn hưng
cảm nhẹ đi kèm với một giai đoạn trầm cảm điển hình (RLCXLC II) là đảm
bảo cho chẩn đoán [10]. Phân loại ICD-10 được sử dụng thường xuyên trong
thực hành lâm sàng bên ngoài Mỹ. DSM-V được sử dụng thường xuyên trong
thực hành lâm sàng ở Mỹ. DSM-V cũng là phân loại phổ biến được dùng
trong các nghiên cứu trên toàn thế giới [7]. Do ICD-10 là phân loại chính thức
được dùng ở Việt Nam nên trong nghiên cứu này, chúng tôi xin được trình
bày RLCXLC theo hệ thống phân loại chẩn đoán ICD.Dịch tễ học RLCXLC
1.1.3. Dịch tễ học RLCXLC
Nhiều nghiên cứu lớn trên thế giới đã cung cấp số liệu về tỷ lệ hiện mắc
của RLCXLC. Đáng kể nhất trong số đó là các nghiên cứu của Tổ chức y tế
thế giới (WHO) và Sức khỏe tâm thần thế giới (WMH). Dữ liệu về RLCXLC
được thu thập từ 11 cuộc điều tra trên các quần thể dân cư chuẩn được thực
hiện ở Châu Mỹ (Mỹ, Brazil, Colombia, Mexico), Châu Âu (Bulgaria và
7
Romania), Châu Á (Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản), Lebanon và New
Zealand. Các nghiên cứu này đã chỉ ra rằng: trong vài thập kỷ qua, tỉ lệ hiện
mắc suốt đời của RLCXLC I gần như ổn định ở ngưỡng 1% [6]. Ước tính tỷ
lệ hiện mắc suốt đời của RLCXLC II có sự dao động nhiều hơn do sự thay đổi
về tiêu chuẩn chẩn đoán theo thời gian và có sự khác biệt giữa các vùng địa
lý. Một nghiên cứu ở Mỹ đã ước tính tỉ lệ RLCXLC II khoảng 0,6%
(Weissman và Myers, 1978) trong khi các nghiên cứu ở Châu Âu đã ước tính
tỷ lệ hiện mắc RLCXLC II thay đổi trong khoảng từ 0,2% đến 2,0% (Faravelli
năm 1990, Szadoczky năm 1998) [7]. Tại Việt Nam, theo nghiên cứu của Đào
Trần Thái năm 2005, tỉ lệ hiện mắc của RLCXLC I là 0,4-1,6%, RLCXLC II
là 0.5% và rối loạn khí sắc chu kỳ có tỉ lệ là 0,4 - 1% [9].
1.1.4. Bệnh nguyên và bệnh sinh của RLCXLC
1.1.4.1. Các yếu tố sinh học
- Yếu tố di truyền: Bằng chứng mạnh mẽ từ các nghiên cứu gia đình,
song sinh và nhận con nuôi cho thấy: các gen có vai trò quan trọng trong quá
trình sinh bệnh của RLCXLC. Một vài cá thể có thể tồn tại một gen duy nhất
có vai trò quan trọng trong quá trình cảm ứng và phát sinh bệnh. Nhưng đa số
các bệnh nhân RLCXLC liên quan đến cơ chế di truyền phức tạp hơn, như sự
tương tác của nhiều gen và các yếu tố môi trường [13]. Nhiều gen được cho là
làm tăng tính nhạy cảm của cơ thể với các bệnh tâm thần trong khi một số gen
khác được chỉ ra làm giảm nguy cơ phát triển RLCXLC. Chưa có một gen cụ
thể nào được xác định chắc chắn nhưng một số khu vực của bộ gen đã được
chứng minh có vai trò quan trọng trong quá trình phát sinh bệnh [7]. Nghiên
cứu của McGuffin trên 67 cặp song sinh (30 cặp cùng trứng và 37 cặp khác
trứng) đã chỉ ra: khả năng di truyền của RLCXLC trung bình là 85%. Tất cả
các RLCXLC có tính chất gia đình được hình thành bởi sự tác động của các
gen mà không cần đến sự đóng góp của yếu tố môi trường [14].
8
- Yếu tố nội tiết: Vai trò của các yếu tố nội tiết như các hormone:
cortisol, T3, T4, GH, Prolactin,… đang được làm sáng tỏ trong cơ chế bệnh
nguyên, bệnh sinh của RLCXLC. Các nghiên cứu gần đây tập trung vào 2 hệ
trục hormone của cơ thể: trục dưới đồi – tuyến yên – tuyến thượng thận và
trục dưới đồi – tuyến yên – tuyến giáp.
Trục dưới đồi – tuyến yên – tuyến thượng thận (HPA: hypothalamicpituitary-adrenal): Khi cơ thể trong tình trạng căng thẳng, vùng dưới đồi tiết
ra hormone CRH là hormone giải phóng ACTH. CRH kích thích tế bào thùy
trước tuyến yên tổng hợp và bài tiết ACTH. Sau đó, ACTH kích thích tuyến
thượng thận tạo ra cortisol. Cortisol là hormone có tác dụng chống viêm, ức
chế miễn dịch và là yếu tố điều hòa cơ bản về các đáp ứng sinh lý của cơ thể
với stress. Trục HPA chịu điều khiển của cơ chế feedback âm tính: nghĩa là
khi cortisol trong cơ thể tăng quá cao, nó sẽ kích thích vùng dưới đồi, tuyến
yên làm giảm tiết CRH, ACTH. Hai hormone này quay trở lại kích thích
tuyến thượng thận giảm bài tiết cortisol để đưa nồng độ cortisol trở về mức
bình thường. Điều ngược lại sẽ xảy ra khi nồng độ cortisol trong cơ thể giảm.
Cơ chế này khiến ngoài các pha cấp tính, nồng độ cortisol trong cơ thể luôn
được giữ ở mức hằng định [15]. Trong mọi giai đoạn của RLCXLC bao gồm
cả giai đoạn thuyên giảm, người ta đã quan sát được tình trạng tăng cao mạn
tính của cortisol. Cơ chế feedback âm tính trên những đối tượng này bị suy
giảm: trục dưới đồi – tuyến yên – tuyến thượng thận giảm hoạt động [16],
[17], [18].
Trục dưới đồi – tuyến yên – tuyến giáp (HPT:hypothalamic-pituitarythyroid): Trục HPT bất thường được ghi nhận có liên quan đến sự khởi phát
RLCXLC quay vòng nhanh ( ≥ 4 giai đoạn RLCX trong một năm). Khoảng
25% bệnh nhân RLCXLC quay vòng nhanh phát hiện suy tuyến giáp. Các bất
thường về chức năng tuyến giáp được ghi nhận ở cả giai đoạn trầm cảm, hưng
9
cảm và hỗn hợp. Ở bệnh nhân RLCXLC hiện giai đoạn hưng cảm, người ta phát
hiện sự giảm đáp ứng của tuyến yên với hormon TRH (hormone giải phóng
Thyrotropin kích thích tuyến giáp) do vùng dưới đồi bài tiết ra [7]. Ở bệnh nhân
RLCXLC hiện giai đoạn trầm cảm hoặc hỗn hợp, một đánh giá hệ thống trên các
cơ sở dữ liệu lớn như Pubmeb, EMBASE và PsycINFO đã khẳng định: có sự gia
tăng tỉ lệ lưu hành của kháng thể tự miễn tuyến giáp trong máu [19].
- Yếu tố chất dẫn truyền thần kinh:
Dopamin là chất tiền thân của noradrenalin. Dopamin thể hiện tác động
thông qua các receptor dopaminergic. Có năm nhóm thụ thể của dopamine đã
được tìm thấy là D1, D2, D3, D4, D5, tùy thuộc vào chức năng sinh lý, dược
lý, vị trí phân bố và trình tự acid amin. Sự tác động của dopamin lên các
receptor khác nhau sẽ gây ra các đáp ứng khác nhau. Cơ chế hoạt động này
khiến dopamin không phải một chất dẫn truyền thần kinh cổ điển: chỉ có tác
dụng hoặc kích thích hoặc ức chế đơn thuần. Nó hoạt động như một chất điều
biến của sự dẫn truyền thần kinh [20]. Trong các thụ thể của dopamine, D1 là
nhóm thụ thể có mật độ và tính phong phú cao nhất. Khi nồng độ dopamine
trong máu tăng cao, nếu thụ thể D1 nhận được kích thích liên tục từ
dopamine, sẽ tăng giải phóng catecholamine từ tủy thượng thận. Sự tăng các
chất có tác dụng kích thích như catecholamine cùng với sự tăng dẫn truyền hệ
dopaminergic đã được ghi nhận trong giai đoạn hưng cảm. Ngoài ra, sau một
giai đoạn hệ dopaminergic hoạt động quá mức, hiện tưởng mỏi synap và cạn
kiệt các chất dẫn truyền thần kinh xảy ra. Giai đoạn giảm hoạt động hệ
dopaminergic này tương ứng với giai đoạn trầm cảm trên lâm sàng xuất hiện.
Các chu kỳ này có thể lặp lại tạo thành vòng xoắn bệnh lý và là một căn
nguyên gây ra RLCXLC [21].
Nhiều nghiên cứu đã mô tả một chức năng của hệ thống noradrenergic
trong RLCXLC. Sự
thiếu hụt noradrenaline và giảm nhạy cảm với α2
10
receptor xảy ra trong giai đoạn trầm cảm, trái ngược với xu hướng tăng hoạt
tính noradrenaline trong giai đoạn hưng cảm [22]. Glutamate tăng đáng kể ở
vị trí vỏ não vùng trán trước trái trong giai đoạn hưng cảm của RLCXLC và
trở lại bình thường sau khi hưng cảm kết thúc [23]. Nồng độ trong dịch não
tủy của acid 5-hydroxyindoleacetic (một sản phẩm chuyển hóa của serotonin)
là thấp hơn ở người bình thường đối với bệnh nhân RLCXLC cả ở giai đoạn
hưng cảm hoặc trầm cảm [24]. Nồng độ GABA huyết tương thấp ở cả giai
đoạn hưng cảm hoặc trầm cảm của RLCXLC [25].
- Sự khác biệt về cấu trúc não bộ:
Một số khác biệt về cấu trúc não bộ đã được ghi nhận nhưng người ta
chưa xác định được đó là căn nguyên hay là hậu quả của RLCXLC. Một
nghiên cứu về thần kinh đã ghi nhận các bất thường ở thùy trán và thùy thái
dương trên một nhóm bệnh nhân RLCXLC. Nhiều tổn thương chất trắng cũng
được tìm thấy trên các bệnh nhân. Nghiên cứu của McDonald năm 2004 cho
thấy: những người thân bậc một của bệnh nhân RLCXLC cho hình ảnh não bộ
có mức độ thâm hụt chất xám phù hợp với mức độ nguy cơ di truyền của sự
phát triển RLCXLC [7].
1.1.4.2. Các yếu tố tâm lý xã hội
Sự tương tác giữa yếu tố di truyền và yếu tố môi trường có vai trò quan
trọng trong sự hình thành và phát triển RLCXLC. Một đánh giá hệ thống trên
cơ sở dữ liệu Medline đã báo cáo: 30-50% bệnh nhân RLCXLC báo cáo
những trải nghiệm chấn thương hay bị lạm dụng về tình cảm, tình dục hoặc là
cơ thể trong thời thơ ấu. Những bệnh nhân này có tuổi trung bình khởi phát
bệnh sớm hơn, tỷ lệ tự tử cao hơn, tình trạng bệnh nặng nề hơn, lạm dụng chất
gây nghiện nhiều hơn và có nhiều rối loạn xảy ra đồng thời như rối loạn stress
sau sang chấn (PTSD) [26]. Những tình huống căng thẳng và thù địch trong
cuộc sống, những lời chỉ trích từ các thành viên trong gia đình có thể làm tăng
11
nguy cơ tái phát các giai đoạn hưng cảm và trầm cảm trên các bệnh nhân đã
được chẩn đoán RLCXLC. Các vấn đề căng thẳng tâm lý đặc trưng trên một
quần thể đã được chứng minh làm tăng tỉ lệ mắc RLCXLC của quần thể đó.
Nghiên cứu của Lloyd T. năm 2005 ở Anh đã chỉ ra: tỉ lệ mắc RLCXLC của
nhóm dân tộc thiểu số và nhóm người da đen cao hơn hẳn nhóm dân da trắng
[27]. Những căng thẳng về tâm lý xã hội do sự cô lập và thiếu hỗ trợ từ cộng
đồng đã làm tăng tỉ lệ mắc RLCXLC trên nhóm đối tượng này [7]
1.1.5. Tiến triển và tiên lượng
Đa số bệnh nhân RLCXLC phải đối mặt với một tình trạng bệnh mạn
tính và có tính tái phát. Tổng số giai đoạn hưng cảm nhẹ, hưng cảm, trầm cảm
nhẹ, trầm cảm vừa, trầm cảm nặng và hỗn hợp trên mỗi bệnh nhân RLCXLC
là khác nhau. Tuy nhiên, một nghiên cứu đã chỉ ra: số giai đoạn trung bình là
mười giai đoạn trong suốt cuộc đời một người bệnh (Mackin và Young,
2005). Các đợt hưng cảm và trầm cảm có xu hướng tiếp nối nhau. Một bệnh
nhân điển hình có thể trải qua một đợt các giai đoạn bệnh liền nhau, sau là
một khoảng thời gian bình phục (thường là hoàn toàn) và tiếp đó là một đợt
các giai đoạn bệnh khác. Mô hình này đặc biệt phổ biến ở RLCXLC II với các
đợt hưng cảm nhẹ và trầm cảm. Nguy cơ tái phát trong vòng một năm sau một
giai đoạn RLCX là đặc biệt cao: ước tính 50% trong năm đầu, 75% trong 4
năm tiếp theo và 10% cho mỗi năm sau đó. Nguy cơ tái phát của RLCXLC là
cao hơn so với các rối loạn tâm thần khác. So với trầm cảm đơn cực,
RLCXLC có sự biến thiên nhiều hơn về mức độ nghiêm trọng trong mỗi giai
đoạn rối loạn cảm xúc. Ở những bệnh nhân RLCXLC thường xuyên tái phát,
thời gian bình phục giữa các giai đoạn bệnh có thể ngắn dần đi (Kessing và
cộng sự, 2004). Thời gian mắc bệnh trong mỗi giai đoạn vẫn tương đối ổn
định cho từng cá nhân qua các năm, mặc dù các giai đoạn sau này có thể bắt
đầu một cách càng đột ngột [7].
12
Một nghiên cứu được tiến hành trên các bệnh nhân lần đầu khởi phát
một cơn hưng cảm hoặc hưng cảm nhẹ, đến gặp bác sĩ và đủ tiêu chuẩn chẩn
đoán RLCXLC. Các bệnh nhân này được theo dõi trong 2 đến 4 năm tiếp đó.
Sự bình phục của người bệnh được đo lường trên ba khía cạnh: không còn đủ
tiêu chuẩn chẩn đoán giai đoạn bệnh ban đầu , không còn triệu chứng bệnh
(Thang điểm chỉ số hưng cảm trên người trẻ 5 và thang điểm chỉ số trầm cảm
Hamilton ≤8) và sự phục hồi chức năng (đạt được tình trạng công việc và sinh
hoạt như trước khi khởi phát bệnh). Kết quả cho thấy 50% bệnh nhân thoát
khỏi tiêu chuẩn chẩn đoán sau 4-5 tuần và 98% bệnh nhân thoát khỏi sau 2
năm. 72% bệnh nhân RLCXLC không còn triệu chứng và chỉ 43% bệnh nhân
đạt được sự phục hồi về chức năng. Trong 2 năm theo dõi, đối với các bệnh nhân
đã thoát khỏi tiêu chuẩn chẩn đoán giai đoạn bệnh ban đầu, có 20% bệnh nhân
tái phát một giai đoạn hưng cảm mới, 20% tái phát một giai đoạn trầm cảm và
19% chuyển giai đoạn bệnh mà không có thời kỳ hồi phục. Xét chung trong 2
năm, 59% các bệnh nhân đã trải qua giai đoạn bệnh thứ hai [28].
Bệnh nhân RLCXLC phải đối mặt với bệnh tật, tình trạng nằm viện
kéo dài, giảm năng suất, mất việc làm và ảnh hưởng các mối quan hệ xã hội .
Có nhiều yếu tố làm bệnh diễn biến xấu hơn và tiên lượng nặng lên. Trong số
các loại phân nhóm của RLCXLC, RLCXLC quay vòng nhanh tỷ lệ tự tử và
tự làm hại bản thân cao có tiên lượng xấu nhất [29]. Các bệnh nhân có tiền sử
gia đình mắc RLCXLC có nguy cơ cao hơn trong việc tăng tần số mắc các
giai đoạn hưng cảm hoặc hưng cảm nhẹ [30]. RLCXLC khởi phát sớm (trước
18 tuổi) thường cho các kết quả tồi tệ hơn do triệu chứng rối loạn tâm thần đa
dạng, lạm dụng rượu và các chất gây nghiện, đáp ứng kém với lithium và là
lứa tuổi dễ tổn thương, dễ xuất hiện ý nghĩ tự tử [31]. Bệnh nhân lạm dụng
rượu và các chất gây nghiện cũng có thể tăng nguy cơ khởi phát các giai đoạn
bệnh và tăng thời gian điều trị mỗi giai đoạn bệnh [7].
13
1.1.2. Một số hình thái lâm sàng của RLCXLC
1.1.2.1. RLCXLC theo phân loại ICD-10
F31: Rối loạn cảm xúc lưỡng cực, gồm:
F31.0: RLCXLC, hiện tại giai đoạn hưng cảm nhẹ
F31.1: RLCXLC, hiện tại giai đoạn hưng cảm không có các triệu chứng
loạn thần
F31.2: RLCXLC, hiện tại giai đoạn hưng cảm có triệu chứng loạn thần
F31.3: RLCXLC, hiện tại giai đoạn trầm cảm nhẹ hoặc vừa
F31.4: RLCXLC, hiện tại giai đoạn trầm cảm nặng không có các triệu
chứng loạn thần
F31.5: RLCXLC, hiện tại giai đoạn trầm cảm nặng có các triệu chứng
loạn thần
F31.6: RLCXLC, hiện tại giai đoạn hỗn hợp
F31.7: RLCXLC, hiện tại thuyên giảm
F31.8: RLCXLC khác
F31.9: RLCXLC, không biệt định.
Như thế, để hiểu về RLCXLC, chúng ta phải hiểu về các giai đoạn rối
loạn cảm xúc: hưng cảm, trầm cảm và hỗn hợp. Tương ứng trên lâm sàng
cũng như trong nghiên cứu, RLCXLC cũng thường được đánh giá dưới 3 hình
thái chính: RLCXLC hiện giai đoạn hưng cảm (F31.0-2), RLCXLC hiện giai
đoạn trầm cảm (F31.3-5) và RLCXLC hiện giai đoạn hỗn hợp (F31.6).
1.1.2.2. Các giai đoạn rối loạn cảm xúc của RLCXLC
Giai đoạn hưng cảm
A. Bệnh nhân có một thời kỳ với khí sắc tăng rõ rệt, trở nên suồng sã hay dễ
cáu gắt một cách bất thường.
B. Các triệu chứng trong thời kỳ rối loạn khí sắc:
14
- Tăng hoạt động hoặc đứng ngồi không yên
- Nói nhiều (tư duy dồn dập)
- Các ý nghĩ thay đổi rất nhanh hoặc tư duy phi tán
- Mất kiềm chế về mặt xã hội có các hành vi không phù hợp với hoàn cảnh
- Giảm nhu cầu ngủ
- Tự cao hoặc có ý tưởng khuyếch đại
- Phân tán hoặc thay đổi liên tục trong các kế hoạch, hoạt động
- Có các hành vi ngông cuồng hoặc liều lĩnh mà bệnh nhân không nhận
thấy có các nguy cơ của chúng ví dụ : tiêu pha hoang phí, đầu tư bừa bãi, lái
xe liều lĩnh.
- Tăng hoạt động tình dục hoặc phô trương tình dục
C. Đặc điểm của thời kỳ rối loạn khí sắc
- Tồn tại dai dẳng, thường kéo dài ít nhất một tuần.
- Đủ nặng để gây ra suy giảm rõ rệt trong hoạt động nghề nghiệp hoặc các
hoạt động xã hội thường ngày hoặc các mối quan hệ với những người khác.
- Cần phải nhập viện để ngăn ngừa sự thiệt hại cho bản thân hay những
người khác.
- Không phải do tác động sinh lý trực tiếp của một chất hoặc một bệnh
cơ thể.
D. Bệnh nhân có thể có các biểu hiện loạn thần phù hợp khí sắc (hoang tưởng
tự cao, ảo thanh nói về những quyền lực siêu nhiên,…) hoặc loạn thần không
phù hợp khí sắc (hoang tưởng liên hệ, hoang tưởng bị truy hại, hoang tưởng
có nội dung tình dục, ảo thanh bình luận,…).
1.1.2.2.2. Giai đoạn trầm cảm
A. Ba triệu chứng chính
- Khí sắc trầm
- Mất mọi quan tâm thích thú trong các hoạt động
15
- Giảm năng lượng và tăng sự mệt mỏi
B. Bảy triệu chứng phổ biến khác
- Giảm sự tập trung chú ý
- Giảm tính tự trọng và lòng tự tin, khó khăn trong việc quyết định
- Ý tưởng bị tội và không xứng đáng
- Nhìn vào tương lai ảm đạm và bi quan
- Ý tưởng và hành vi tự huỷ hoại hoặc tự sát
- Rối loạn giấc ngủ
- Thay đổi cảm giác ngon miệng (tăng hoặc giảm) với sự thay đổi trọng
lượng cơ thể tương ứng
C. Tám triệu chứng cơ thể (sinh học)
- Mất những quan tâm thích thú trong những hoạt động thường ngày
gây thích thú
- Mất phản ứng cảm xúc với với những sự kiện và môi trường xung
quanh thường làm vui thích
- Buổi sáng thức giấc sớm hai giờ trước thường ngày
- Trạng thái trầm cảm nặng hơn vào buổi sáng
- Có bằng chứng khách quan về sự chậm chạp tâm thần vận động hoặc
kích động (được người khác nhận thấy hoặc kể lại).
- Giảm những cảm giác ngon miệng
- Sút cân (5% hoặc nhiều hơn trọng lượng cơ thể) so với tháng trước
- Mất hoặc giảm hưng phấn tình dục rõ rệt.
D. Đặc điểm của các triệu chứng trên
- Thường phải kéo dài trên hai tuần
- Đủ nặng để gây ra nỗi đau khổ đáng kể về mặt lâm sàng
- Làm suy giảm rõ các hoạt động nghề nghiệp, xã hội hoặc các lĩnh vực
quan trọng khác
- Không phải do tác động sinh lý trực tiếp của một chất hoặc một bệnh
cơ thể
16
- Không phải là sự đau buồn do tang tóc.
1.1.2.2.3. Giai đoạn hỗn hợp
Một giai đoạn cảm xúc kéo dài ít nhất hai tuần, có đặc tính là các triệu
chứng hưng cảm và trầm cảm hoặc xảy ra hỗn hợp hoặc xen kẽ nhau nhanh
(thường trong vòng vài giờ). Các giai đoạn cảm xúc hỗn hợp được coi là nguy
cơ cao đối với hành vi tự tử vì những cảm xúc trầm cảm như là sự tuyệt vọng
kết hợp với sự biến thiên liên tục của cảm xúc khiến người bệnh khó kiểm
soát được bản thân. Việc lạm dụng chất gây nghiện cũng có xu hướng tăng
lên, khiến giai đoạn này vừa có thể là nguyên nhân vừa có thể là hậu quả của
việc lạm dụng chất gây nghiện [34].
1.2. Triệu chứng loạn thần
1.2.1. Khái niệm loạn thần
Loạn thần là biểu hiện của sự mất tính thống nhất, tính toàn vẹn của các
hoạt động tâm thần, gây rối loạn nặng nề sự phản ánh thực tại, làm người
bệnh khó khăn hay không đáp ứng thỏa đáng các đòi hỏi của môi trường, cuộc
sống, thực tại. Loạn thần được biểu hiện ở tất cả cá lĩnh vực hoạt động tâm
thần, trong đó hoang tưởng và ảo giác là hai triệu chứng chính, cốt lõi chi
phối cảm xúc, hành vi của bệnh nhân.
Triệu chứng loạn thần là phổ biến trong cả hai giai đoạn hưng cảm và
trầm cảm của rối loạn cảm xúc lưỡng cực. Hơn một nửa số bệnh nhân rối loạn
lưỡng cực sẽ gặp các triệu chứng loạn thần trong đời. Hoang tưởng tự cao là
loại triệu chứng loạn thần phổ biến nhất, nhưng bất kỳ loại triệu chứng loạn
thần nào, bao gồm rối loạn tư duy, ảo giác, triệu chứng loạn thần không phù
hợp và căng trương lực đều có thể là một phần của giai đoạn hưng cảm. Các
triệu chứng loạn thần gợi ý tiên lượng xấu khi chúng xảy ra trong trường hợp
không có rối loạn cảm xúc. Tuy nhiên, các triệu chứng loạn thần có thể che
dấu các rối loạn cảm xúc và làm cho sự khác biệt giữa bệnh hưng trầm cảm và
các rối loạn loạn thần khác trở nên khó khăn. Đánh giá cẩn thận về tiền sử
tâm thần, tiền sử gia đình và đáp ứng điều trị có thể giúp phân biệt các rối
17
loạn cảm xúc với các đặc điểm tâm thần từ các rối loạn tâm thần. [32]
Năm 1896, Emil Kraepelin [33] đã đề xuất chia bệnh loạn thần thành hai
nhóm, bệnh loạn thần và bệnh hưng trầm cảm. Tuy nhiên, sự khác biệt giữa
hai loại này thường rất khó khăn và chứng hưng cảm loạn thần đã và đang
tiếp tục bị chẩn đoán nhầm là tâm thần phân liệt hoặc các bệnh loạn thần khác
[34], [35]. Thật vậy, các triệu chứng loạn thần là đặc điểm chung của cả giai
đoạn hưng cảm và trầm cảm của rối loạn lưỡng cực. Khi xem xét 26 nghiên
cứu về các triệu chứng loạn thần ở hưng cảm, Goodwin và Jamison [36] đã
kết luận rằng khoảng 58% bệnh nhân mắc chứng rối loạn lưỡng cực có tiền sử
suốt đời với ít nhất một triệu chứng loạn thần, thường là khi hưng cảm. Trung
bình, 48% bệnh nhân có ít nhất một hoang tưởng, 15% một ảo giác và 19%
có rối loạn tư duy khác [36]. Trong một cuộc khảo sát gần đây về các triệu
chứng bằng cách tự báo cáo, có tới 90% bệnh nhân chỉ ra rằng họ trải qua ít
nhất một triệu chứng loạn thần trong đời (Keck PE: Stanley Foundation
Bipolar Network, 1998). Tất cả các loại triệu chứng loạn thần có thể xảy ra
trong hưng cảm [36]. Tuy nhiên, một số loại triệu chứng, chẳng hạn như
hoang tưởng tự cao (và ý tưởng tự cao), đã được coi là đặc trưng hơn của
chứng hưng cảm, trong khi các triệu chứng Schneiderian hạng nhất có liên
quan đến tâm thần phân liệt. Trong DSM-III [37], các hoang tưởng kì quái là
một phần của tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh tâm thần phân liệt. Hiện tại người ta
nhận ra rằng tâm trạng không phù hợp hoặc hoang tưởng kỳ quái, ảo giác
thính giác dai dẳng, rối loạn tư duy và căng trương lực có thể là biểu hiện của
rối loạn cảm xúc có loạn thần [35][36][38]. Trong bài báo này, chúng tôi xem
xét loại và tỷ lệ mắc các triệu chứng loạn thần trong hưng cảm, cũng như các
yếu tố nguy cơ cho sự phát triển của rối loạn loạn thần trong giai đoạn hưng
cảm và ý nghĩa tiên lượng của chúng.
18
CHƯƠNG 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu.
2.1.1. Tiêu chuẩn lựa chọn.
Bệnh nhân điều trị nội trí tại VSKTT, với chẩn đoán bao gồm Rối loạn
cảm xúc lưỡng cực, hiện giai đoạn hưng cảm có loạn thần, mã F31.3 theo
ICD-10.
Bệnh nhân và/hoặc người nhà nắm được tình trạng của bệnh nhân hợp
tác tham gia nghiên cứu và cung cấp thông tin đáng tin cậy.
2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ
Chẩn đoán không bao gồm RLCXLC.
Được chẩn đoán RLCX có liên quan yếu tố stress nghiêm trọng hoặc
liên quan bệnh thực tổn, nghiện chất
Các chẩn đoán rối loạn cảm xúc trong bệnh cảnh của Rối loạn phân liệt
cảm xúc loại trầ cảm/hưng cảm hay hỗn hợp
Bệnh nhân và người nhà không đồng ý tham gia hoặc hợp tác cung cấp
thông tin nghiên cứu.
2.2. Phương pháp nghiên cứu.
2.2.1. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Thời gian nghiên cứu: từ ngày 01/09/2019 đến ngày 31/07/2020.
Địa điểm nghiên cứu: Viện sức khỏe tâm thần – Bệnh viện Bạch Mai
2.2.2. Thiết kế nghiên cứu
Sử dụng nghiên cứu mô tả cắt ngang, tiến cứu để quan sát, mô tả các
triệu chứng trầm cảm phù hợp với mục tiêu nghiên cứu.
2.2.3. Cỡ mẫu nghiên cứu