Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Khái quát về làng xã Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (87.29 KB, 15 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Làng xã đóng một vai trò hết sức đặc biệt đối với lịch sử đất nước nói
chung và đối với cuộc sống của mỗi con người Việt Nam nói riêng.Ông Vũ Đình
Hòe - Bộ trưởng Quốc gia giáo dục Chính phủ nhân dân lâm thời của nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa cho biết : “ Muốn tìn hiểu lịch sử hình thành dân tộc
Việt Nam thì phải tìn hiểu cộng đồng làng xã và muốn xây dựng lại đất nước
Việt Nam thì cũng phải bắt đầu xây dựng lại cộng đồng làng xã. Vì không có
làng xã Việt Nam thì không có quốc gia Việt Nam.”
Làng xã Việt Nam vì thế là một đề tài vô cùng phong phú và rộng lớn,thu
hút sự quan tâm nghiên cứu của rất nhiều các nhà khoa học thuộc các chuyên
môm khác nhau ở cả trong nước và trên thế giới suốt nhiều thế kỷ qua và đã có
những thành tựu to lớn với khá nhiều công trình tiêu biểu. Đặc biệt từ đầu thế kỉ
XX đến đầu thế kỉ XXI là giai đoạn đánh dấu nhiều công trình, tác phẩm nghiên
cứu về đề tài làng xã Việt Nam được ra đời.
 Bố cục :
1. Phần I : Khái quát về làng xã Việt Nam
2. Phần II : Quá trình nghiên cứu về làng xã Việt Nam từ đầu thế kỉ XX- đầu thế kỉ
XXI và phương pháp nghiên cứu.
3. Phần III : Kết quả và ý nghĩa của việc nghiên cứu.

Phần 1
Khái quát về làng xã Việt Nam
Trong tiến trình lịch sử Việt Nam,làng xã lúc nào cũng đóng vai trò hết
sức quan trọng.
1


1. Khái niệm :
Theo giáo sư Phan đại Doãn thì làng xã thường được dùng như một khái
niệm chung nhưng thực ra làng và xã có nội hàm không đồng nhất.
Làng là cộng đồng tự nhiên được tập hợp theo quan hệ huyết thống,quan


hệ địa vực,nghề nghiệp.
Xã là từ Hán –Việt,về phương diện hành chính,xã là thiết chế có tính chất
pháp lý chỉ đơn vị hành chính cơ sở của nhà nước phong kiến ở vùng nông thôn
Việt Nam.
Làng vốn là đơn vị cư trú,đơn vị kinh tế,tín ngưỡng và sinh hoạt cộng
đồng của cư dân bản xã,xuất hiện từ thời Hùng Vương,còn xã chỉ mới xuất hiện
từ thời thuộc Đường và được khẳng định,củng cố một cách vững bền với tư cách
là một đơn vị hành chính cấp cơ sở trong hệ thống chính quyền của nhà nước
quân chủ độc lập từ thế kỷ thứ X,biến làng Việt truyền thống trở thành đơn vị
quản lý xã hội.Nhìn chung,trước cách mạng tháng 8/1945,trên vùng đồng bằng
trung du Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ phần lớn mỗi làng là một xã.Do vậy,người ta
thường ghép hai từ làng, xã làm một .
2. Vai trò :
Làng xã có một quá trình lịch sử lâu dài bền vững,từng giữ vai trò quan
trọng trong phát triển kinh tế: làm thủy lợi,di dân,khai hoang lập làng,chinh
phục những vùng đất mới gắn với công cuộc mở mang lãnh thổ
Tổ chức làng xã trước đây cũng đóng một vai trò to lớn trong công cuộc
trị thủy,chế ngự thiên tai,..Không có tổ chức làng xã thì trong điều kiện của chế
độ phong kiến và lao động thủ công không thể tiến hành xây dựng được một hệ
thống đê điều quy mô như thế,cùng với hệ thống sông ngòi,ao hồ,kênh rạch
chằng chịt khắp miền đồng bằng nước ta như vậy.
Trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm,làng xã với tổ chức chặt chẽ,với
tinh thần cố kết truyền thống,với ý thức tự lực và tinh thần chủ động cao,với
lòng yêu nước nồng nàn đã là những pháo đài kiên cố,chặn bước tiến của quân
địch khi chúng bình định nông thôn.Sự tham gia tích cực,đông đảo của nhân dân
các địa phương vào công cuộc chống giặc ngoại xâm trong lịch sử của dân tộc
2


thể hiện rõ nét vai trò chiến lược của làng xã,mà lòng cốt là lực lượng dân

binh.Đó là tổ chức quân sự tự nguyện và bán vũ trang ở làng xã,góp phần trọng
yếu trong sự nghiệp giữ nước,giữ làng.Lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta
cho hay,mỗi khi quân giặc tràn đến ,làng xã đều biến thành “làng chiến
đấu”.Mọi người trong làng dựa vào cấu trúc của làng để chiến đấu đến cùng.
Làng xã cũng đóng một vai trò đặc thù trong việc xây dựng và phát triển nền
văn hóa dân tộc.Mỗi làng hầu như đều có đình và chùa của mình,có chợ làng,có văn
nghệ dân gian,có ca dao,tục ngữ,.. Làng là nơi bảo tồn nền văn hóa dân tộc,đánh bại
mọi âm mưu đồng hóa của kẻ thù ngoại bang.Đây cũng là nơi nuôi dưỡng, là cái nôi
phát triển văn hóa dân gian – sản phẩm của những người lao động
Làng xã còn là nơi sinh thành,là trường hoạt động,là nơi mà mỗi người dân
Việt Nam gắn bó cả cuộc đời.Tâm lý chung của người dân Việt Nam là không
muốn rời bỏ làng quê mình.Được sống taki làng,được chết tại làng,đấy là ước mơ
chân chính của mỗi người dân Việt Nam.Nó được thể hiện rõ qua câu ca dao :
“ Ta về ta tắm ao ta
Dù trong dù đục,ao nhà vẫn hơn”
3. Phân loại làng xã :
Làng xã Việt trải qua một quá trình tồn tại và phát triển lâu dài theo sự mở
mang bờ cõi đất nước và những biến động của tự nhiên và xã hội. Người ta có
thể phân loại làng xã theo các loại hình sau đây :





4.

Theo thời gian hình thành
Theo vùng địa lý
Theo nghề nghiệp
Theo phương thức thành lập

Theo tôn giáo
Đôi nét về quá trình nghiên cứu làng xã trước thế kỷ XX :
Làng xã là một thực thể xã hội,một đối tượng khoa học mà
từ hàng trăm năm qua đã được nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước
quan tâm.
Dưới xã hội phong kiến,Quốc sử quán cũng như các sử gia

3


chưa đặt vấn đề nghiên cứu làng xã,chưa coi đó là công việc cần làm của
sử học. Tuy nhiên, trên từng khía cạnh của lịch sử làng xã như : tổ chức xã
thôn,vấn đề ruộng đất,nhất là phong tục tập quán đã được rải rác ghi chép lại
trong nhiều tác phầm dưới các dạng,phần nhiều là dư địa chí như : An Nam chí
lược của Cao Hùng Trưng,Đại Nam phong hóa khảo lược ( thế kỷ XIV),Dư địa
chí của Nguyễn Trãi (thế kỷ XV),Ô châu cận lục của Dương Văn An (thế kỷ
XVI),Nhất thống dư địa chí của Lê Quang Định,Hoàng Việt dư địa chí của Phan
Huy Chú ,Đại Việt địa dư toàn biên của Phương Đình,Nguyễn Văn Siêu , Đại
Nam nhất thống chí,Đồng Khánh địa dư chí của Quốc sử quán triều Nguyễn,
Quảng Ngãi tỉnh chí của Nguyễn Bá Trác,hưng Yên tỉnh chí của Trịnh Như Tấu,
…đã cung cấp nhiều tư liệu quý để có cái nhìn cụ thể về tình hình chính trị xã
hội ở các địa phương và nhất là các làng cụ thể.
Sang thế kỷ XVIII và XIX xuất hiện nhiều hơn các sách như :Phủ biên
tạp lục của Lê Quý Đôn,Hoan châu phong thổ,Hải dương chí lược,Hải dương
phong tục ký lược, Nghệ an ký của Bùi Dương Lịch, Cao bằng lục,Vũ trung tùy
bút , Lịch triều hiến chương loại chí của Phan huy Chú,… Đây là những tác
phẩm viết bằng chữ Hán,nội dung chủ yếu ghi lại ghi lại tổ chức xã thôn các
vùng,giới thiệu những di tích lịch sử,những địa danh,phong cảnh đẹp và nhất là
những nét sơ lược về phong tục tập quán, bosbng dáng cuộc sống kinh tế, chính
trị của các vùng của nước ta thuở ấy. Người đọc có thể cảm nhận Vũ trung tùy

bút như một cuốn sách riêng viết về làng Đan Loan, huyện Bình Giang,tỉnh Hải
Dương thế kỉ XVIII,Phủ biên tạp lục là một đặc khảo về làng xã vùng Thuận
Quảng từ thế kỉ XVIII trở về trước.
Tờ Chiếu định điều lệ hương đảng cho các xã dân Bắc Hà của vua Gia
Long năm 1804 được chép trong Đại Nam thực lục( Chính biên,đệ nhất
kỷ,Quyển XXIII) không chỉ cho biết rõ vị trí,vai trò của làng xã trong công cuộc
tái thiết đất nước của Gia Long mà còn phản ánh thực trạng của làng Bắc Hà đầu
thế kỷ XIX : “ Nước là họp các làng mà thành.Từ làng đến nước,dạy dân nên
tục,vương chính lấy làng làm trước.Gần đây giáo dục trễ nải, chính trị suy đồi,
làng không tục hay, noi theo đã lâu, đắm chìm quá đỗi. Phàm tiết ăn uống, lễ
4


cưới xin, việc ma chay và thờ thần phật, nhiều việc quá trớn lấn lễ, bọn hào mục
nhân đó mà đục khoét, người cùng dân đến nỗi dạt xiêu, thực là bởi cớ đấy. Nay
tham chước thêm bớt , xén chỗ quá đáng, để chỗ vừa phải, lập định lệ cho hương
đảng, là muốn sửa đổi nguồn tệ để cùng về nguồn chính vậy.”
Đặc biệt vào thế kỉ XVIII.XIX đã có nhiều tác giả là người địa phương
viết sách chuyên khảo về làng mình đã cung cấp nhiều thông tin phong phú và
xác thực về các làng xã đó như : Thiện Đình xã chí của Đặng Xuân Viện,Trà Lũ
xã chí của Lê Nhưng,…
Làng Việt là đối tượng nghiên cứu của các thương nhân và giáo sĩ Phương
Tây từ thế kỉ XVII. Hiện nay, trong các kho tư liệu của công ty Đông Ấn Anh,
Hà Lan, Pháp ,… còn lưu trữ khá nhiều tư liệu , trong đó có những tư liệu nói về
làng Việt Nam thế kỉ XVII,XVIII như các cuốn sách : Mô tả vương quốc Đàng
Ngoài của S.Baron, Lịch sử Đàng Ngoài của Richard,Vương quốc Đàng Ngoài,
Hành trình và truyền giáo của A.De Rhodes.Những ghi chép của thương nhân và
giáo sĩ phương Tây có ưu điểm là khá cụn thể , chi tiết với những số liệu chính
xác. Tuy nhiên, số lượng các ghi chép này lại không nhiều, lại chưa khai thác
được bao nhiêu. Những ghi chép của thương nhân Hà Lan bằng chữ Hà Lan cổ

chẳng hạn, được lưu trữ trong kho lưu trữ quốc gia Hà Lan ở Den Haag cho đến
nay vẫn chưa có mấy người Việt Nam trục tiế[ khai thác vì chữ Hà Lan cổ là rào
cản không chỉ nhà nghiên cứu Việt Nam mà ngay cả các chuyên gia Hà Lan.
Sau khi thực dân Pháp chiếm được Việt Nam, số lượng các tài liệu ghi chép
về làng xã, tình hình kinh tế, chính trị, xã hội các làng xã của các viên quan đô hộ và
các tác giả người Pháp tăng lên rất nhiều như : Làng xã An Nam ở Bắc Kỳ của P.Ory
( Paris, 1894), Thành bang An Nam của C.Briffaut (Paris,1909),…
Phần 2
Quá trình nghiên cứu làng xã Việt nam từ đầu thế kỉ XX- đầu thế kỉ XXI và
phương pháp nghiên cứu

5


1. Quá trình nghiên cứu về làng xã Việt Nam từ đầu thế kỉ XX- đầu thế kỉ
XXI:
Làng xã đóng một vai trò hết sức quan trọng đối với lịch sử đất nước.
Nghiên cứu làng xã để vạch ra quá trình phát sinh, phát triển, những đóng góp
cụ thể và vai trò, vị trí của nó trong lịch sử sẽ góp phần làm sáng tỏ không chỉ
lịch sử ( nhất là mảng lịch sử do nhân dân lao động sáng tạo ra nhưng không
được sử cũ ghi chép lại ) mà còn góp phần lý giải cuộc sống hiện tại và cả những
vấn đề tương lai phát triển của đất nước, của con người Việt Nam. Thật hoàn
toàn có lý khi cho rằng “ Làng Việt Nam là cái chìa khóa để giải mã bí mật Việt
Nam,thần kỳ Việt Nam”.
Làng xã là một đối tượng nghiên cứu của khoa học lịch sử, vừa phong
phú, vừa phức tạp.
Những năm nửa đầu thế kỉ XX, trong giới sử học, xã hội học, dân tộc học,
địa lý học ,.. người Việt, người Pháp đã có nhiều người quan tâm tìm hiểu về
làng xã Việt Nam. Cũng từ đó xuất hiện những công trình khảo cứu sâu và toàn
diện hơn về làng xã Việt Nam, bằng tiếng Việt và cả bằng tiếng Pháp, nhưng chủ

yếu tập trung tìm hiểu làng quê trên địa bàn vùng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ.
Cuốn sách đầu tiên nghiên cứu làng xã Việt Nam theo quan điểm Mác xít
là cuốn Vấn đề dân cày của Qua Ninh và Vân Đình ( tức Trường Chinh và Võ
Nguyên Giáp ) do Đức Cường xuất bản năm 1937 đã nêu lên cái “ mục nát phải
tẩy uế” của chế độ làng xã.
Nổi trội là công trình Việt Nam phong tục của Phan Kế Bính ( 1945), một
số bài viết của Nguyễn Văn Huyên và của một số người trong viện Viễn Đông
Bác Cổ. Bên cạnh đó, cũng cần phải nhắc đến những tác phẩm như : Việc làng
của Ngô Tất Tố, những bài báo của Hoàng Đạo đăng trong tập Bùn lầy nước
đọng, tạp chí Phong hóa, Sở hữu làng xã ở Bắc Kỳ của Vũ Văn Hiền, nghề thủ
công nghiệp gia đình ở Hà Đông của Hoàng Trọng Phu…
Một số học giả người Pháp như Y.Hangrri, P.Guru,..đáng chú ý là cuốn
Nông dân vùng đồng bằng Bắc Kỳ ( Paris,1936) của P.Guru.

6


Trong tổng thể nghiên cứu về làng xã Việt nam thời kỳ này của người Việt
và người nước ngoài với những quan điểm và cách nhìn nhận rất khác
nhau,những đã có những đóng góp nhất định về tìm hiểu thiết chế xã hội,chính
trị và tư tưởng của làng xã.Lĩnh vực đạt được nhiều kết quả hơn cả là tìm hiểu
về phong tục của người Việt xưa.Tựu chung có hai khuynh hướng trái ngược
nhau khi đánh giá về làng Việt cổ truyền.
Một là ,lý tưởng hóa tổ chức làng xã cổ truyền,thổi phồng những tàn dư
đã lỗi thời, những mặt đã bị phong kiến hóa, thực dân lợi dụng, làm mờ đi quan
hệ giai cấp và đấu tranh giai cấp vốn là nội dung thực sự của làng xã thời phong
kiến phát triển và thời thực dân nửa phong kiến, làm cho người ta ảo tưởng về
cái gọi là dân chủ, bình đẳng ở nơi làng xã cũ.
Hai là, nhìn nông thôn nước ta thời Pháp thuộc với con mắt bi quan, chỉ
thấy toàn mặt đen tối, bùn lầy nước động, mê tín dị đoan, với nạn cường hào,

phe phái và hương ẩm,… mà không thấy được truyền thống tốt đẹp, những di
sản tinh thần quý giá được hun đúc từ ngàn xưa làm nên vẻ đẹp của người Việt
mà vẫn được nông dân lao động gìn giữ.
Sau cách mạng tháng 8/1945 thành công, trong vùng kiểm soát của thực
dân Pháp và sau đó là chính quyền Việt Nam Cộng Hòa ở miền Nam , công việc
nghiên cứu về làng xã tiếp tục được mở rộng. Bên cạnh thế hệ các tác giả theo
quan điểm khoa học Mác – Lê nin và lập trường của Đảng cộng sản để nghiên
cứu về làng xã, còn có lớp người cũ như Vũ Quốc Thúc với công trình Kinh tế
làng xã Việt Nam ( Hà Nội , 1951) , là một công trình nghiên cứu khá công
phu ,có nhiều giá trị tham khảo.
Nhưng vấn đề làng xã chỉ thực sự được giới sử học Việt Nam ở miền Bắc
đặc biệt quan tâm kể từ sau cải cách ruộng đất và phong trào tập thể hóa ở nông
thôn, trong đó tiêu biểu nhất là cuốn Xã thôn Việt Nam của Nguyễn Hồng
Phong ( Hà Nội,1959). Tập sách được coi là công trình “ sơ kết những thành
tựu nghiên cứu về làng xã Việt Nam” , cho đến cuối những năm 1970 là hai tập
kỷ yếu Nông thôn Việt Nam trong lịch sử của Viện sử học ( Tập 1: Hà Nội,1977;
tập 2: Hà Nội, 1978). Hai tập kỷ yếu đã đem lại một hướng nhìn, một cách nghĩ
7


suy đánh giá đúng đắn về vai trò của làng xã, của nông dân trong tiến trình lịch
sử Việt Nam, cũng như cách tiếp cận về tất cả cắc mặt hạ tầng và thượng tầng,
kinh tế và chính trị, văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần, hệ tư tưởng.Nếu so
sánh với hầu hết các công trình trước đó thì hai tập kỷ yếu này có bước tiến vượt
bậc, giúp cho nhiều người có cái nhìn sâu sắc hơn, toàn diện hơn về xã hội Việt
Nam cổ truyền trong quá trình dựng nước và giữ nước.
Cuốn sách nghiên cứu về làng xã Việt Nam một cách cơ bản và được coi
là sâu sắc nhất cho đến trước đổi mới là cuốn : “ Cơ cấu tổ chức của làng Việt cổ
truyền ở Bắc Bộ” của Trần Từ( Hà Nội, 1984) nghiên cứu về tổ chức xã thôn và
sự vận hành của nó. Ngoài ra trong khoảng thời gian này cũng có một số tác

phẩm khác như : Bùi Xuân Đính có Lệ làng phép nước nghiên cứu về bản chất
của lệ làng. Và một số địa phương đã cho xuất bản địa chí của tỉnh như Địa chí
Hà Bắc (1982), Địa chí Vĩnh Phú, Văn hóa dân gian vùng đất Tổ (1986).
Ở miền Nam cũng có một số nhà nghiên cứu như Toan Ánh, Cử Long
Giang với các công trình Tín ngưỡng Việt Nam ( 1967),Hội hè đình đám (1969)
ghi lại không ít những phong tục tập quán của làng xã Việt Nam.
Thời kỳ đổi mới tính từ năm 1986 cho đến nay là thời kỳ nở rộ của những
công trình nghiên cứu về làng xã.Mở đầu được tính bằng Hội thảo khoa học
Làng xã và vấn đề xây dựng nông thôn mới của Trường Đại học Tổng hợp Hà
Nội,1986. Nét mới của hội thảo này là chương trình nghiên cứu và đào tạo về
làng xã Việt Nam ở một trường khoa học cơ bản đã được đề ra và thảo luận
chung giữa các chuyên gia nghiên cứu cơ bản với các chỉ đạo thực tiễn. Những
công trình khoa học được tổ chức quy mô, huy động trí tuệ và sức lực của nhiều
người là Nghiên cứu tổng kết phong trào hợp tác hóa nông nghiệp của Ban nông
nghiệp trung ương và Bộ nông nghiệp, chương trình khoa học cấp nhà nước về
Phát triển toàn diện kinh tế - xã hội nông thôn (KX08) . Năm 1998, Đại học
Quốc gia Hà Nội và Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn Quốc gia dưới sự
chỉ đạocủa Thủ tướng Chính phủ đã tổ chức Hội thảo Quốc tế về Việt Nam học
lần thứ nhất, trong đó tiểu ban Làng xã, nông thôn và nông nghiệp đã giới thiệu
và công bố nhiều công trình có giá trị về làng xã Việt Nam của học giả trong
8


nước và quốc tế. đặc biệt, hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương đảng
cộng sản Việt Nam (Khóa IX) vào tháng 3/2002 đã ra các Nghị quyết về : “ Đẩy
mạnh công nghiệp hóa,hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001-2010
và đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị
trấn”, vừa huy động cao độ sự đóng góp của giới nghiên cứu , vừa thúc đẩy các
nhà khoa học triển khai nghiên cứu chuyên sâu về làng xã Việt Nam với những
di sản của nó trong công cuộc xây dựng nông thôn mới.

Chỉ tính riêng các Nhà xuất bản ở Trung ương như : Chính trị quốc gia,
Khoa học xã hội, Thế giới, Nông nghiệp, Văn hóa – thông tin, Thanh niên,…
cũng đã có đến hàng chục cuốn sách chuyên khảo về kinh tế - xã hội làng xã, về
king nghiệm tổ chức và quản lý làng xã , về văn hóa dân gian, văn hóa xóm
làng, về tâm lý làng xã, về các loại hình làng xã ở khắp ba miền Bắc, Trung,
Nam. Đây cũng là thời kỳ xuất hiện hàng loạt các công trình nghiên cứu khoa
học về làng xã được đăng trên các tạp chí Nghiên cứu lịch sử, Dân tộc học,Văn
hóa nghệ thuật, Khoa học, Vietnamese Studies … Số nghiên cứu sinh, học viên
cao học chọn đề tài làng xã làm đề tài luận án , luận văn thực sự là những công
trình khoa học có giá trị và được xuất bản thành nhiều sách chuyên khảo.. Ngoài
ra, còn có những khảo tả về từng làng cụ thể hay từng mặt nổi bật của đời sống
nông thôn của các tác giả ở các địa phương như Hà Nội, Hà Bắc ( Bắc Ninh,
Bắc Giang ), Thái Bình, Nghệ an, Quảng Bình,.. không chỉ cung cấp những tư
liệu mới về nông thôn, làng xã Việt Nam truyền thống và hiện đại.
Nhắc đến quá trình nghiên cứu về làng xã Việt Nam từ đầu thế kỉ XX- đầu
thế kỉ XXI, không thể không kể đến hai tác giả xuất sắc đó là Nguyễn Quang
Ngọc và Phan Đại Doãn.
Nguyễn Quang Ngọc được mệnh danh là nhà sử học của làng quê. Bởi
trong các nghiên cứu của ông, mảng đề tài làng xã, nông thôn và nông dân Việt
Nam được ông tâm huyết nhất, dành thời gian và công sức nhiều nhất. Trong
mảng này ông quan tâm nhiều hơn đến kinh tế làng xã cổ truyền ở đồng bằng
sông Hồng dưới góc độ kinh tế. Nghiên cứu về làng xã theo hướng tiếp cận tổng
hợp, ông đặc biệt đi sâu nghiên cứu về các vấn đề tổ chức, quản lý làng xã, cấp
9


thôn và hương ước. Ông đã tranh thủ một số cơ hội trình bày kết quả nghiên cứu
về làng xã ở các hội thảo quốc tế hay các diễn đàn khoa học ở Anh,Hoa Kỳ,
Úc,.. Các tác phẩm về làng xã của ông tạo được tiếng vang lớn như :
• Một số vấn đề về làng xã Việt nam, NXB đại học quốc gia Hà Nội,2009 .

• Tìm hiểu làng Việt ( đồng chủ biên) NXB Khoa học Xã hội 1990; Kinh nghiệm
quản lý nông thôn Việt Nam trong lịch sử ( đồng chủ biên ) NXB Chính trị Quốc
Gia,1994 .
• Quản lý xã hội nông thôn nước ta hiện nay – một số vấn đề và giải pháp ( đồng
chủ biên )NXB Chính trị Quốc gia,1996.
Phan Đại Doãn cũng là một nhà nghiên cứu xuất sắc trong lĩnh vực tìm
hiểu về làng xã Việt Nam. Đây cũng chính là mảng đề tài ông tâm huyết nhất, đưa
tên tuổi của ông được giới Sử học trong và ngoài nước biết đến rộng rãi. Ông đã
dành gần 20 năm để nghiên cứu về làng xã, nông thôn và nông nghiệp nước ta.Từ
những năm 1990, nhiều công trình của giáo sư Phan Đại Doãn không chỉ có tính
tổng kết khoa học cao mà còn có khả năng dẫn dắt nghiên cứu ứng dụng phục vụ
cho nhu cầu của cuộc sống thực tiễn,..Ông chính là người khai mào, thúc đẩy, góp
phần tạo nên sự phát triển vượt bậc của môn học về làng xã Việt Nam ở trong
nước và nhiều nước trên thế giới.Ông đã từng hướng dãn 60 cử nhân, 20 thạc sĩ,
tiến sĩ trong đó có gần 50 cử nhân và 12 thạc sĩ đã bảo vệ thành công luận văn,
luận án về đề tài làng xã. Các tác phẩm xuất sắc mà ông là tác giả hoặc đồng tác
giả được giới thiệu đến bạn đọc về chủ đề làng xã bao gồm :
• Làng Việt Nam một số vấn đề kinh tế- xã hội,NXB Khoa học Xã hội,1992.
• Kinh nghiệm tổ chức quả lý nông thôn tgrong lịch sử ( đồng chủ biên),NXB
Chính trị Quốc gia, 1994.
• Quản lý xã hội nông thôn nước ta hiện nay : Một số vấn đề và giải pháp( đồng
chủ biên ),NXB Chính trị Quốc gia ,1996.
• Làng xã Việt Nam : Một số vấn đề về kinh tế- văn hóa –xã hội, NXB Chính trị
Quốc gia , 2001.
• Mấy vấn đề về văn hóa làng xã Việt Nam trong lịch sử ,NXB Chính trị Quốc
gia, 2004
• Làng Việt Nam đa nguyên và chặt ,NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2006.
Trong đó tác phẩm Làng xã Việt Nam : Một số vấn đề về kinh
10



tế - văn hóa- xã hội là tác phẩm tiêu biểu nhất của ông, được tặng giải
thưởng Nhà nước về Khoa học – Công nghệ năm 2005. Cuốn sách có ý nghĩa
quan trọng đối với việc nghiên cứu đặc điểm kinh tế - xã hội của làng xã Việt
Nam cổ truyền. Nội dung cuốn sách cần thiết để phát huy truyền thống tốt đẹp
của làng xã Việt Nam, đồng thời khắc phục mặt hạn chế của nó trong quá trình
đổi mới đất nước.
Tuy không trực tiếp nghiên cứu về làng xã nhưng các công trình nghiên
cứu về ruộng đất của các GS Phan Huy Lê, Trương Hữu Quýnh, Nguyễn Đức
Nghinh, Vũ Minh Giang… trước đây cùng với chương gtrifnh Nghiên cứu địa
bạ triều Nguyễn của nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đàu ở Thành phố Hồ Chí
Minh và dự án Hệ thống tư liệu địa bạ Việt Nam do GS. Phan Huy Lê và GS .
Philippe Langlet chủ trì đã cung cấp một nguồn tư liệu phong phú và xác thực
để nhận diện làng xã Việt Nam.
Tính từ năm 1960 trở lại đây ngày càng có nhiều tác giả nước ngoài quan
tâm nghiên cứu làng xã Việt Nam như :
- Hickey. Gerald.C : Village in Viet Nam,Newhaven Yale University Press,1964
- James C.Cott : The Moral Economy ò Peasant, Newhaven Yale University
Press, 1976
- Samuel L. Popkin : The Rational Peasant : The Political economy ò Rural
Society in Vietnam, University of California Press, 1978.
- Luong Van Hy : Revolution in the Village, University of Hawaii Press, 1992.
- Neil Jamieson : The traddition Village in Vietnam, Vietnam Forum 1980
- Ben Kerkvliet : Village – State Relation in Vietnam : The Effect of Everyday
Politics onDecollrctivization, Journal of Asian Studies 54 , May, 1995
- Insun Yu : Law and Society in Seventeenth and Eighteenth Century Vietnam,
Korea University 1990
- Chương trình hợp tác nghiên cứu Biến đổi của làng Việt Nam từ sau thời kỳ Đổi
mới và cuốn sách Vietnamese Villages in Transition của Đại học Pasau ( Cộng
hòa Liên bang Đức ) do Bernhard Dahm and Vincent J. Houben chủ biên , Pasau

University, 1999
- Chương trình hợp tác Việt Pháp Nghiên cứu về làng xã Việt Nam vùng đồng
bằng sông Hồng (1996-1999) dưới sự chỉ đạo của GS. Nguyễn Duy Quý, Lê Bá
Thảo và Philippe Papin, đã được xuất bản thành sách Làng ở vùng châu thổ sông
11


Hồng : Vấn đề còn bỏ ngỏ do Phillippe Papin và Oliver Tesier ( chủ biên ), Hà
Nội, 2002.
- Chương trình hợp tác nghiên cứu Nông thôn, nông nghiệp và làng xã Châu thổ
sông Hồng qua trường hợp làng Bách Cốc ( Vụ Bản, Nam Định ) của các nhà khoa
học trong Hội nghiên cứu Việt Nam của Nhật Bản và Hội thảo quốc tế về Làng xã
Việt Nam : Mối quan hệ tương tác giữ văn hóa và môi trường tự nhiên do Chương
trình này chủ trì tổ chức tại Đại học Leiden Hà Lan 8-2002
Trong những năm gần đây,có nhiều nghiên cứu sinh và các nhà nghiên
cứu trẻ của nhiều nước đã đến Việt Nam học tiếng Việt và đi sâu tìm hiểu vào
cuộc sống làng quê của Việt Nam để hoàn thành các công tgrifnh nghiên cứu
hay các luận văn, luận án của mình bằng nhiều các tiếng khác nhau như : Anh,
Pháp, Đức, Hà Lan, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc,..
2. Phương pháp nghiên cứu :
Có thể kể đến một số phương pháp tiêu biểu trong quá trình nghiên cứu
làng xã Việt Nam như : Phương pháp hồi cố, Phương pháp sử học truyền miệng,
Phương pháp lọc nhiễu, Phương pháp hệ thống- cấu trúc, Phương pháp Khu vực
học,Phương pháp nghiên cứu liên ngành,…
- Phương pháp hồi cố :
Khi nghiên cứu về làng xã, một tài liệu tham khảo quan trọng đó là tài
liệu lịch đại chủ yếu là thư tịch cổ của nhà nước, tư nhân, thương nhân và giáo sĩ
phương Tây , tư liệu các cơ quan lưu trữ,.. Điều đáng nói những tư liệu này
thường không sớm hơn thế kỉ XVII . Vì thiếu tài liệu đương đại nên trong các
công trình nghiên cứu làng xã Việt Nam trong lịch sử lâu nay chủ yếu vẫn sử

dụng phương pháp hồi cố. Sử dụng phương pháp hồi cố là hết sức cần thiết và
có hiệu quả cao, nhưng phải tuyệt đối tránh những suy diễn quá xa mà bản thân
tư liệu không cho phép.
- Phương pháp truyền miệng, Phương pháp lọc nhiễu :
Tư liệu điều tra thực địa tại các làng xã là vô cùng phong phú nhưng lại
hết sức phức tạp. Không ít tư liệu loại này phản ánh một cách khách quan, trung
thực cuộc sống lafdng xã, nhưng nhìn chung chúng mang tính ước leek, thiếu
chính xác, thậm chí có nhiều sự kiện bị giải thích sai lạc hay bị gán ghép với
12


nhau một cách tùy tiện dễ làm cho người bsuwr dụng nhầm lẫn. Người sử dụng
nguồn tư liệu này buộc phải so sánh, đối chiếu với các nguồn tư liệu khác, giám
định tư liệu một cách chặt chẽ, nghiêm túc. Vì vậy, mà hiện nay người ta có thể
sử dụng phương pháp sử học truyền miệng hay phương pháp lọc nhiễu để xử lúy
các nguồn thông tin này.
- Phương pháp hệ thống- cấu trúc :
Theo phương pháp này, làng được xem như một hệ thống riêng gồm
những yếu tố hợp thành. Tùy theo đối tượng nghiên cứu của mình mà người
nghiên cứu chọn lựa các yếu tố hợp thành khác nhau của hệ thống. Nếu nghiên
cứu làng như một hệ thống xã hội, nó bao gồm các nhóm xã hội, các đẳng cấp,
các nhóm tuổi ,.. còn nghiên cứu làng như một hệ thống kinh tế thì nó bao gồm
các nhóm, các ngành hoạt động sản xuất, nghề nghiệp.Điểm chủ yếu mà người
nghiên cứu hướng tới là vạch ra mối liên hệ tương tác giữa các yếu tố bên trong
của hệ thống , nêu lên cơ chế vận hành của hệ thống.Bởi vì bản thân làng xã là
một hệ thống tương đối riêng biệt nên việc sử dụng phương pháp hệ thống – cấu
trúc để nghiên cứu làng xã là một phương pháp phù hợp và có hiệu quả cao.
Nhgieefu công trình nghiên cứu của học giả Việt Nam lâu nay chưa gọi tên ra
phương pháp này, nhưng trong thực tế ở mức độ nhất địnhcũng đã vận dụng
nguyên tắc của phương pháp hệ thống – cấu trúc .

- Phương pháp Khu vực học :
Phương pháp Khu vực học lấy không gian xã hội – văn hóa, bao gồm các
lĩnh vực hoạt động của con người và quan hệ tương tác giữa con người với điều
kiện tự nhiên làm đối tượng nghiên cứu. Mục đích của Khu vực học nhằm đạt tới
những nhận thức tổng hợp về không gian xã hội văn hóa , tìm ra những đặc điểm tự
nhiên và đi sống con người trong không gian xã hội – văn hóa đó. Vận dụng
phương pháp khu vực học trong nghiên cứu làng xã Việt nam , nhà nghiên cứu cần
quan niệm làng xã là không gian xã hội – văn hóa nhỏ nhất của Khu vực học và
Khu vực học nghiên cứu làng xã là phải nghiên cứu làng như một hệ thống tổng thể
để có thể xác định được các giá trị đặc trưng của không gian xã hội – văn hóa này.
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành :
Phương pháp nghiên cứu liên ngành là phương pháp sử dụng đồng thời, hiệu
quả và bình đẳng từ hai phương pháp chuyên ngành trở lên để nhận thức về một sự
13


vật hay hiện tượng. Chẳng hạn khi tiến hành điều tra điền dã ở một làng cụ thể, nhà
nghiên cứu có thể sử dụng các phương pháp khác nhau như : Sử học, Dân tộc học,
Kinh tế học, Địa lý học,… với điều kiện không có phương pháp nào là chính,
phương pháp nào là phụ. Phương thức tổ chức hiệu quả nhất cho nghiên cứu liên
ngành trong nghiên cứu làng xã Việt Nam là tổ chức nhóm nghiên cứu bao gồm
chuyên gia của nhiều ngành chuyên môn khác nhau , cùng nhau tiến hành điều tgra
khảo sát thực địa, nghiên cứu tổng hợp, hỗn hợp, trao đổi, thảo luận, hội thảo khoa
học ngay tại làng xã khảo sát. Ví dụ như chương tyrifnh nghiên cứu Bách Cốc đã tập
hợp được khoảng trên 200 chuyên gia Việt Nam và Nhật Bản, bao gồm các nhà Sử
học, Dân tộc học, Văn hóa học,…. Kéo dài liên tục từ năm 1993- 2008 .
Trên đây là các phương pháp chủ yếu được sử dụng trong
nghiên cứu làng xã Việt Nam. Phương pháp được xem có hiệu quả cao
nhất là phương pháp liên ngành. Tuy nhiên, trong nghiên cứu chúng ta nên sử
dụng các phương pháp nghiên cứu liên ngành phối hợp với các phương pháp

nghiên cứu chuyên ngành trong mối quan hệ tổng thể và bình đẳng.
Chương 3
Kết quả và ý nghĩa của việc nghiên cứu
1. Kết quả :
Lịch sử nghiên cứu làng xã Việt Nam từ đầu thế kỉ XX- đầu thế kỉ
XXI đã được nhiều thành tựu to lớn.Mặc dù có những mục đích và quan
niệm không giống nhau nhưng các nhà nghiên cứu đã cung cấp thêm nhiều tư
liệu mới ,đưa ra nhiều nhận định mới, nâng cao nhận thức về thực thể làng xã và
xã hội Việt Nam truyền thống và hiện đại.
Các tác giả đã phân tích về mối quan hệ kinh tế cổ truyền mà chủ yếu là ruộng
đất, nông nghiệp như vấn đè sở hữu ruộng đất , vấn đề khai hoang, phát triển kinh tế
nông nghiệp nông nghiệp trồng lúa nước… Bên cạnh đó, những vấn đề về thương
nghiệp, thủ công nghiệp làng xã cũng đã được nghiên cứu tổng kết.
Các tác giả đã bàn nhiều đến mối quan hệ làng xã và quốc phòng, trong
đó có một số chuyện luận về làng kháng chiến, làng chiến đấu chống quân xâm

14


lược Mông- Nguyên, chống Minh, chống Thanh, Chống thực dân Pháp và đế
quốc Mỹ…
Văn hóa xóm làng xưa và nay là đề tài được nhiều tác giả quan tâm hơn
cả. Có tác giả đã công bố hàng loạt công trình về hội làng ,về hương ước, về nếp
sống, phong tục, tôn giáo, tín ngưỡng làng xã. Cũng có những tác giả chuyên
chú về văn hóa dân gian ,văn học nghệ thuật, sân khấu dân gian ở các làng quê
Hầu hết các công trình đều quan tâm nhận xét, lý giải về di sản làng xã,về
các mặt kinh tế,xã hội và văn hóa,nêu lên những mặt mạnh, mặt yếu, những điểm
tích cực và những mặt hạn chế của làng xã trong lịch sử dựng nước và giữ nước.
2. Ý nghĩa :
Việc nghiên cứu làng xã Việt Nam giúp cho chúng ta có cái

nhìn, nhận thức đúng đắn vị trí, vai trò của làng xã không chỉ có ý nghĩa
truyền thống mà còn là một trong vấn đề thực tiễn rất quan trọng của cách mạng
nước ta. Nói cách khác tìm hiểu về làng xã Việt Nam không chỉ để giải quyết
các vấn đề thuộc về quá khứ mà còn góp phần quan trọng trong công cuộc xây
dựng và cải tạo nông thôn mới, bảo đảm kết hợp hài hòa giữa văn minh hiện đại
với bản sắc văn hóa truyền thống xóm làng, nâng cao nhận thức về thực thể làng
xã và xã hội Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại.Một số bài học kinh nghiệm
trong quản lý nông thôn cũng đã được đúc rút, có ý nghĩa lớn đối với hệ thống
chính trị làng xã hiện nay.
Làng xã Việt Nam với những nét độc đáo của nó, mà nếu không hiểu
được, người ta sẽ không thể hiểu được kết cấu Việt Nam cũ, văn hóa và văn
minh Việt Nam, không hiểu được lịch sử Việt Nam và những truyền thống lịch
sử của Việt Nam. Vì vậy mà việc tìm hiểu làng xã Việt Nam giúp chúng ta làm
sáng tỏ những điều trên.

15



×