GIẢI PHẪU VÀ SINH LÝ VÙNG QUANH RĂNG
Mục tiêu
Sau khi học xong bài này, sinh viên có khả năng:
1. Trình bày được cấu tạo giải phẫu vùng quanh răng.
2. Trình bày được các đặc điểm sinh lý vùng quanh răng.
3. Vận dụng được kiến thức về giải phẫu, sinh lý vùng quanh răng trong chẩn
đoán và điều trị bệnh quanh răng.
Nội dung
Vùng quanh răng là tập hợp của các mô duy trì và nâng đỡ răng. Suốt thời gian tồn
tại của răng, vùng quanh răng chịu sự điều chỉnh nhất định do chức năng hoặc do hình
thái. Vùng quanh răng gồm: lợi, xương ổ răng, dây chằng quanh răng và xê-măng.
1. Lợi (nướu)
Lợi là phần tiếp nối của niêm mạc miệng che phủ xương ổ và bao quanh cổ của các
răng. Lợi lành mạnh thường có màu hồng nhạt so với màu đỏ hơn của niêm mạc
miệng do độ dầy và tình trạng sừng hóa ở bề mặt biểu mô lợi. Màu sắc của lợi có thể
thay đổi tùy thuộc sắc tố, mật độ và lưu lượng tuần hoàn ngang qua mô.
1.1. Cấu tạo
1.1.1. Lợi tự do (lợi rời)
Là phần lợi bao quanh cổ của các răng, không bám dính trực tiếp vào răng, và cùng
cổ răng tạo thành khe sâu 0,5 - 3mm gọi là khe lợi. Sau khi răng mọc hoàn toàn, lợi tự
do mặt ngoài, mặt trong và kẽ răng phủ lên men răng khoảng 0,5 - 3mm và uốn lượn
theo đường nối men – xê-măng. Lợi tự do gồm hai phần, đó là viền lợi và nhú lợi.
Viền lợi không dính vào răng mà ôm sát cổ răng, giới hạn từ bờ viền lợi tới rãnh lợi.
Nhú lợi (gai lợi) là phần lợi nằm giữa các răng kế cận nhau, lấp đầy khoảng trống
giữa các răng. Nhú lợi các răng trước có hình tháp, các răng sau dẹt hơn theo chiều
gần – xa.
1.1.2. Rãnh lợi là một lõm cạn phân chia lợi tự do và lợi dính. Vị trí của rãnh thường
tương ứng với vị trí đáy khe lợi. Trên lâm sàng, rãnh lợi chỉ thấy ở 30 - 40% người
trưởng thành, rõ nét ở mặt ngoài hơn mặt trong.
1.1.3. Khe lợi là khoảng giới hạn giữa răng và lợi tự do, có đáy là biểu mô kết nối.
Chiều cao khe lợi về mặt mô học thay đổi từ 0 – 0.5mm, về mặt lâm sàng dao động từ
0.5 – 3mm.
1.1.4. Yên lợi: Ở mỗi khoảng trống giữa hai răng kế cận, có hai nhú lợi là nhú lợi
ngoài và nhú lợi trong được nối liền nhau bởi yên lợi cong lõm theo chiều ngoài trong.
7
Từ răng cửa tới răng hàm, kích thước yên lợi thay đổi từ 2 – 6mm theo chiều ngoài
trong, từ 0,3 – 1,5mm theo chiều đứng.
Chiều cao lợi tự do
Khe lợi
Rãnh lợi
Biểu mô kết nối
Chiều cao lợi dính
Hình 1. Các thành phần của lợi
1.1.5. Lợi dính
Là phần lợi dính chặt vào xương ổ răng, giới hạn từ rãnh lợi (nếu không rõ rãnh
lợi, nhờ vào một đường tưởng tượng nằm trùng với đường nối men - xê măng) đến
đường tiếp nối lợi - niêm mạc. Trong trường hợp không có viêm, lợi dính được xác
định rõ ràng, ngoại trừ ở khẩu cái không có ranh giới giữa lợi dính và niêm mạc khẩu
cái. Lợi dính không có lớp mô liên kết lỏng lẻo, ít sợi collagen, nhiều sợi đàn hồi (sợi
chun). Bình thường, lợi có màu hồng nhạt (hồng san hô), tuy nhiên, màu sắc này có
thể thay đổi tùy theo lượng sắc tố melanin.
Bề mặt của lợi dính khi thổi khô có vẻ lấm tấm da cam (tuy nhiên chỉ quan sát
được ở khoảng 40% người trưởng thành có lợi lành mạnh). Đặc điểm bề mặt này có
liên quan với biểu hiện và mức độ sừng hóa của biểu mô. Phần lợi này được tạo ra để
chịu lực nhai, lực chải răng và các tải lực chức năng khác.
Chiều cao của lợi dính thay đổi từ 1 - 9 mm (trung bình là 4 - 6 mm) và có khuynh
hướng tăng theo tuổi. Lợi dính có chiều cao lớn nhất ở vùng răng cửa, chiều cao này
giảm dần ở vùng răng nanh và các răng sau. Vùng có lợi dính ngắn nhất là vùng răng
hàm nhỏ thứ nhất.
8
Khi không có lợi dính, cử động của môi hoặc má gây căng kéo trên viền lợi có thể
làm tăng khả năng hư hại mô lợi cụ thể là gây tụt lợi. Một mức chiều cao lợi dính
thích hợp có thể được xác định như là lượng mô sừng hóa cần thiết để giữ viền lợi ở vị
trí ổn định và trong trạng thái lành mạnh.
1.1.6. Đường tiếp nối lợi - niêm mạc:
Là đường lượn cong hình vỏ sò phân chia lợi và niêm mạc xương ổ. Đường này,
nhất là ở mặt ngoài, có thể dễ dàng xác định theo ba cách:
- Cơ năng: dùng tay kéo môi hoặc má thấy niêm mạc xương ổ có thể kéo lên được
khỏi bề mặt xương ổ răng.
- Giải phẫu: niêm mạc xương ổ có màu đỏ sậm hơn và bề mặt không có vẻ lấm tấm
da cam.
- Hóa mô: niêm mạc xương ổ nhuộm màu dung dịch iodine schiller do sự có mặt
của glycogen chứa sẵn trong biểu mô.
Về nguyên tắc, đường tiếp nối lợi – niêm mạc ở khoảng 3 - 5 mm về phía chóp tính
từ viền xương ổ răng.
Hình 2. Các thành phần của lợi và đường tiếp nối lợi – niêm mạc
1.1.7. Khoảng sinh học
Khoảng sinh học hay còn gọi là chiều cao sinh học được thể hiện bằng sự tiếp hợp
sinh lý lợi – răng, là khoảng cách giữa đáy khe lợi và đỉnh mào xương ổ răng. Khoảng
sinh học bao gồm bám dính biểu mô về phía thân răng (lớp biểu mô kết nối) và bám
dính liên kết về phía chóp (chỉ có mô liên kết). Khoảng sinh học luôn hiện hữu và có
chiều cao thay đổi tùy từng cá thể. Kích thước của khoảng sinh học (bám dính biểu mô
và bám dính liên kết) trung bình là 2,04mm.
9
Độ sâu khe lợi
Biểu mô kết nối
(JE)
Khoảng sinh học
Mô liên kết
(CT)
Hình 3. Khoảng sinh học thuộc vùng quanh răng
Ý nghĩa của khoảng sinh học
Khoảng sinh học đóng vai trò như một hàng rào ngăn cản sự xâm nhập của vi
khuẩn vào các thành phần quan trọng bên dưới khe lợi như xương ổ răng, dây chằng
quanh răng, xê-măng. Trên răng lành mạnh thường không phát hiện vi khuẩn trong
phạm vi 2,5mm tính từ mào xương ổ răng về phía chóp răng. Khi có yếu tố tác động
đến vùng quanh răng (sâu răng, nứt gãy răng, bờ phục hình …) đưa vi khuẩn đến gần
mào xương ổ răng ở khoảng cách < 2 mm, khoảng sinh học sẽ bị xâm phạm. Lúc này,
các phản ứng bảo vệ của cơ thể xảy ra và hậu quả là các cấu trúc quan trọng ở vùng
quanh răng (xương ổ răng, dây chằng) di chuyển về phía chóp răng để tái lập hàng rào
bảo vệ, mào xương ổ răng bị tiêu để tạo môi trường thuận lợi cho các sợi mô liên kết
của lợi hình thành. Trên lâm sàng, các biểu hiện thường gặp của hiện tượng xâm phạm
khoảng sinh học là tụt lợi, hình thành túi lợi bệnh lý hay viêm lợi dai dẳng mặc dù vệ
Sơ đồ
cắtmiệng
nhú lợi
theo chiều ngoài trong
sinh
răng
tốt.
Sơ đồ cắt nhú lợi theo chiều gần xa
Đám rối dưới biểu mô
Đám rối dưới biểu mô
Tiểu động mạch
Mạch trên màng xương
1.2. Tuần hoàn máu ở lợi
Mạch máu từ dây chằng quanh răngMạch máu từ dây chằng quanh răng
10
Hình 4. Sơ đồ tuần hoàn máu lợi
Xuất phát từ ba nguồn:
- Các mạch máu trên màng xương: là các nhánh tận của của động mạch lưỡi, động
mạch cằm, động mạch mặt, động mạch khẩu cái lớn, động mạch dưới ổ mắt và động
mạch răng sau trên. Các nhánh động mạch trên màng xương này chạy dọc theo màng
xương mặt ngoài và trong của xương ổ răng. Trên đường đi về phía lợi tự do, các
nhánh này tạo ra đám rối dưới biểu mô ở các phần của biểu mô lợi. Đám rối dưới biểu
mô này cho ra các vòng nối mao mạch vào trong mỗi nhú mô liên kết. Trong vùng yên
lợi, có hệ thống phức hợp các mao mạch nối thành mạng và các vòng nối mao mạch.
Dưới biểu mô kết nối, trong điều kiện bình thường, đám rối là một hệ thống không có
các vòng nối mao mạch. Ở lợi tự do, các mạch máu trên màng xương nối thành mạng
với các mạch máu đến từ dây chằng quanh răng và từ xương ổ răng. Một số nhánh của
động mạch trên màng xương xuyên qua xương ổ hướng về phía dây chằng quanh răng
hoặc về phía thân răng ở mào xương ổ.
- Các mạch máu của dây chằng quanh răng: nối thành mạng với một số nhánh mao
mạch trong khe lợi.
- Các tiểu động mạch (động mạch xương ổ) đến từ vách giữa răng tạo mạng nối với
các mạch máu của dây chằng quanh răng, với các mao mạch trong khe lợi và các
mạch máu đi xuyên vào xương ổ.
1.3. Tuần hoàn bạch huyết ở lợi
Sự dẫn lưu bạch huyết bắt đầu từ các mạch bạch huyết ở nhú mô liên kết lợi đưa
vào hệ thống thu hồi ngoài màng xương và kế đó vào các hạch vùng, đặc biệt là nhóm
hạch dưới hàm. Ngoài ra, các mạch bạch huyết ngay dưới biểu mô kết nối dẫn vào các
mạch ở dây chằng quanh răng. Lợi mặt ngoài và trong vùng răng cửa dưới dẫn lưu
11
vào hạch dưới cằm. Lợi mặt trong hàm trên dẫn về hạch cổ sâu. Các vùng lợi còn lại
(lợi mặt ngoài hàm trên, lợi hai mặt ngoài trong của răng hàm nhỏ và hàm lớn hàm
dưới) đều dẫn lưu vào hạch dưới hàm.
1.4. Phân bố thần kinh ở lợi
Thần kinh ở lợi là những sợi thần kinh thuộc các nhánh răng trên, khẩu cái, miệng,
lưỡi (dây thần kinh V2,V3) và một số ít hơn từ các sợi trong khoảng dây chằng quanh
răng. Phần lớn các sợi thần kinh của lợi đi kèm với các mạch máu trên màng xương
của xương ổ tạo ra đám rối sâu. Các sợi này khi đi xuyên qua mô liên kết tiếp tục
phân các nhánh tận vào lớp đệm (lamina propria) của nhú mô liên kết tạo ra đám rối
nông. Các sợi ở lợi giữa các răng là phần kéo dài về phía thân răng của đám rối thần
kinh dây chằng quanh răng và các nhánh trên mào xương của thần kinh giữa các răng.
Thần kinh ở lợi chi phối các cảm giác nhiệt, xúc giác.
Đối với hàm trên: các nhánh răng trên của thần kinh dưới ổ mắt phân phối cho lợi
mặt ngoài của răng cửa, răng nanh, răng hàm nhỏ hàm trên, còn lại lợi mặt ngoài răng
hàm lớn trên do thần kinh răng trên sau. Thần kinh khẩu cái lớn phân phối cho niêm
mạc khẩu cái trừ vùng sau răng cửa do thần kinh mũi - khẩu cái.
Đối với hàm dưới: nhánh tận dưới lưỡi của thần kinh lưỡi phân phối cho lợi mặt
trong hàm dưới. Thần kinh cằm phân phối cho lợi mặt ngoài của răng cửa và răng hàm
nhỏ dưới, còn lại lợi mặt ngoài răng hàm lớn do thần kinh miệng.
2. Xương ổ răng
Xương ổ răng là một phần của xương hàm trên và xương hàm dưới tạo thành các ổ
răng. Những mỏm xương ổ răng được hình thành đồng thời cùng với sự mọc răng và
khi răng mất sẽ tiêu dần đi. Cùng với xê-măng, dây chằng quanh răng, xương ổ răng
tạo thành một hệ thống bám dính cho răng. Chức năng chính của hệ thống này là phân
tán, hấp thu các lực thông thường do nhai và những tiếp xúc khác.
2.1. Cấu tạo
- Bản xương ngoài: Là phần xương vỏ ở mặt ngoài và mặt trong xương ổ răng, được
màng xương bao phủ.
- Bản xương trong (xương ổ chính danh): Là vách xương đặc, mỏng bao quanh chân
răng, có nhiều lỗ để mạch máu, mạch bạch huyết, dây thần kinh và dây chằng quanh
răng đi qua. Trên phim X quang, xương ổ chính danh xuất hiện dưới dạng một đường
cản quang rõ, liên tục gọi là phiến cứng hay lamina dura.
- Xương xốp: nằm giữa các bản xương trên.
12
Bản xương trong
Bản xương ngoài
Xương xốp
Bản xương trong
Bản xương ngoài
Hình 5. Cấu tạo xương ổ răng
2.2. Thành phần
Các phần của xương ổ răng gồm có:
- Mào xương ổ: Là nơi hợp nhất giữa bản xương ngoài và bản xương trong ở bờ ổ
răng. Nhìn từ mặt ngoài và mặt trong mào xương ổ đi theo một đường uốn cong dạng
vỏ sò, đi song song và giữ khoảng cách không đổi thường là 1 - 2mm về phía chóp so
với đường nối men – xê-măng.
- Xương vách răng: Là phần xương hàm nằm giữa hai ổ răng kế cận, phía cổ răng
mỏng hơn phía chóp chân răng. Ở phần giữa chứa nhiều xương xốp hơn ở phần xương
nâng đỡ phía ngoài và trong của ổ răng.
- Xương vách chân răng: Là phần xương nằm giữa các chân răng của răng có nhiều
chân.
Xương vách
răng
Xương vách
chân răng
Xương nền
Mào xương ổ răng
Hình 6. Các thành phần xương ổ răng
Nhìn từ phía nhai bề mặt xương ổ ở mặt ngoài và trong có dạng viền lượn sóng.
Những phần lõm ở xương kẽ răng và xương giữa các chân răng giúp cải thiện hình
dạng lợi và tạo lối vào để kiểm soát mảng bám.
13
- Xương nền: Là phần còn lại của xương hàm về phía chóp chân răng, là cấu trúc
không phụ thuộc răng.
2.3. Sinh lý của xương ổ răng
Xương ổ răng cũng tuân theo những quy luật sinh lý chung với những xương khác
trong cơ thể. Ở điều kiện bình thường, trong mô xương diễn ra sự thay đổi thường
xuyên. Sự tạo xương và sự tiêu xương diễn ra liên tục, nhưng có cân bằng sinh lý giữa
hai quá trình này. Xương ổ răng thay đổi nhờ vào hai quá trình rất khác nhau: điều
chỉnh (modelage) và tái cấu trúc (remodelage).
Điều chỉnh là tập hợp những cơ chế cho phép xương thích nghi với những tải lực cơ
học mà xương gánh chịu trong quá trình tăng trưởng hoặc hoạt động chức năng, là sự
bồi đắp xương trên những bề mặt đã có xương được thành lập từ trước. Hoạt động này
diễn ra nổi bật ở các bề mặt có màng xương, giảm dần từ tuổi trưởng thành và đảm
bảo sự thích nghi của các cấu trúc giải phẫu.
Tái cấu trúc là một chu kỳ liên tục cho phép thay thế xương cũ bằng xương mới.
Hoạt động này trước tiên đảm bảo thay thế xương nguyên phát bằng xương trưởng
thành, sau đó nó kéo dài và trở thành nổi trội. Chu kỳ tái cấu trúc bắt đầu bằng sự mất
xương , tiếp theo sau là giai đoạn thành lập xương để thay thế có thể là hoàn toàn phần
xương đã bị hủy trước đó. Hoạt động này diễn ra ở cả trên màng xương và trong
xương. Tái cấu trúc của xương được điều hòa bởi các ảnh hưởng tại chỗ và toàn thân.
Các ảnh hưởng tại chỗ bao gồm các đòi hỏi chức năng của răng, những thay đổi liên
quan với tuổi tác ở các tế bào xương. Các ảnh hưởng toàn thân là các hoóc-môn
(hoóc-môn cận giáp, calcitonin, vitamin D3). Tái cấu trúc xương có tác động đến
chiều cao, hình dạng và độ đậm đặc của xương.
Giống như các xương khác trong cơ thể, trạng thái sinh lý của xương ổ cũng tùy
thuộc vào tuổi tác và chức năng. Theo tuổi cấu trúc xương trở nên xốp hơn và số
lượng tế bào ở màng xương giảm. Các tế bào xương trở nên nhỏ hơn, có dạng hình
thoi và sự tạo khung ngừng. Hiện tượng loãng xương ở tuổi già là do giảm tạo xương
khác với bệnh lý là tăng phá hủy xương.
Chuyển hóa của xương ổ răng trái ngược với những xương khác. Tốc độ chuyển
hóa nhanh của xương hàm so với những xương khác trong cơ thể có thể là một yếu tố
tạo ra sự phá hủy xương rõ rệt trong những trường hợp bệnh quanh răng có yếu tố
bệnh căn tại chỗ rất nhỏ.
Vậy xương ổ răng là mô quanh răng ít ổn định nhất, rất nhạy cảm với các kích
thích bên trong và bên ngoài.
14
3. Dây chằng quanh răng
Dây chằng quanh răng là lớp mô liên kết chặt chẽ gồm nhiều tế bào, nhiều sợi nằm
giữa bề mặt xê-măng và xương ổ răng bao quanh chân răng, nối răng vào xương ổ. Nó
liên tục với mô liên kết của lợi và thông thương với tủy xương thông qua những kênh
mạch máu trong xương.
Dây chằng chiếm một khoảng hẹp giữa hai bề mặt canxi hóa là xê-măng và xương
ổ răng. Khoảng hẹp này gọi là khoảng dây chằng quanh răng hay khe khớp. Trên phim
X quang khoảng dây chằng quanh răng có dạng đường thấu quang song song với bề
mặt chân răng. Bề dầy của khoảng này thay đổi từ 0,1 đến 0,25mm tùy thuộc tuổi, giai
đoạn mọc răng, đặc điểm chức năng của răng hay lực đặt lên răng. Khoảng dây chằng
quanh răng giãn rộng tối đa khi răng chịu lực quá mức và mỏng hơn ở răng chưa mọc
hay khi răng không còn răng đối kháng.
3.1. Đặc điểm cấu tạo
Dây chằng được cấu tạo từ các thành phần: sợi, tế bào, chất căn bản. Các sợi chính
chia thành 6 nhóm phát triển tuần tự theo sự phát triển của chân răng. Tên gọi của mỗi
nhóm tùy thuộc vào vị trí giải phẫu và chiều hướng của chúng.
- Nhóm đỉnh xương ổ - răng chạy chéo từ xê-măng ngay dưới biểu mô kết nối về
phía mào xương ổ và cũng đến lớp sợi trên màng xương. Các sợi này có tác dụng ngăn
sự trồi răng và khi bị cắt đứt không ảnh hưởng làm lung lay răng.
- Nhóm ngang chạy từ xê-măng dưới mào xương ổ theo hướng ngang vuông góc
với trục dài của răng.
- Nhóm chéo hay nhóm nghiêng chiếm nhiều nhất (2/3 tổng số sợi), phân bố ở khoảng
giữa chân răng, tạo góc nghiêng 45º với trục dài của răng. Các sợi này giúp răng chống
chịu các lực theo hướng dọc và chuyển chúng thành sự căng trong xương ổ.
- Nhóm chóp răng gồm những sợi ngang và dọc, không thấy có ở những răng chưa
thành lập chân răng hoàn toàn.
- Nhóm giữa các chân răng phân bố ở vùng chẽ của răng nhiều chân, cũng gồm
những sợi ngang và dọc.
- Nhóm xuyên vách nối liền xê-măng trên mào xương ổ giữa hai răng kế cận,
thường được tìm thấy và tái lập ngay cả trong trường hợp có hủy xương do bệnh
quanh răng. Các sợi này có thể xem là sợi của mô liên kết lợi vì không bám dính vào
xương.
15
Nhóm xuyên vách
Nhóm đỉnh xương ổ - răng
Nhóm giữa các chân răng
Nhóm ngang
Nhóm chéo
Nhóm chóp răng
Hình 7. Các nhóm dây chằng quanh răng
Giữa các nhóm sợi có sự đan xen, chuyển tiếp hướng dần dần từ nhóm sợi này
sang nhóm sợi kia. Sự đa dạng về hướng sắp xếp của các nhóm sợi giúp răng chống
lại lực xoay.
3.2. Sinh lý dây chằng quanh răng
Thành phần sợi, tế bào và độ rộng của khe khớp thay đổi theo tuổi và chức năng.
Tương tự xương ổ răng, dây chằng quanh răng có hoạt động tái cấu trúc liên tục. Dây
chằng quanh răng là nơi có sự tổng hợp và thay thế sợi collagen nhanh gấp 2 lần lợi,
gấp 4 - 6 lần da. Các phần sợi ở giữa dây chằng quanh răng và ở phía xương thay thế
nhanh hơn phía xê-măng. Khi tuổi gia tăng có sự thay đổi rõ về độ sâu của phần sợi
thâm nhập vào xương.
Các thay đổi trong vận động và tăng trưởng của răng có liên quan với sự tái cấu
trúc của dây chằng quanh răng và xương. Ví dụ khi răng di gần sinh lý thấy xương ổ
phía xa có các sợi Sharpey dài, xương ổ phía gần có tiêu xương xen lẫn với những chu
kỳ tạo xương ngắn và những sợi Sharpey ngắn trong lớp xương mới tạo.
Ở người trẻ mật độ tế bào nhiều hơn ở người cao tuổi. Mật độ này cũng thay đổi
theo chức năng: tăng khi chức năng tăng và ngược lại.
Lực nhai đặt lên răng là một yếu tố kích thích cho quá trình tái cấu trúc của dây
chằng quanh răng. Kích thích nhẹ không gây chấn thương làm tăng tốc độ phân bào
dẫn đến tăng số lượng nguyên bào sợi và nguyên bào xương. Khi răng mất một phần
hoặc toàn bộ chức năng sẽ dẫn đến thiểu dưỡng toàn bộ hệ thống nâng đỡ răng do mất
quá trình tái cấu trúc sợi và tăng phân hủy.
3.3. Chức năng của dây chằng quanh răng
3.3.1. Duy trì tương quan giữa răng với mô cứng và mô mềm
16
Dây chằng đảm bảo sự cố định của răng trong xương ổ qua những sợi canxi hóa
cắm vào lưới collagen của xương và xê-măng.
3.3.2. Duy trì hoạt động sinh học của xương, xê-măng (chức năng thành lập và tái
cấu trúc)
Thành phần tế bào của dây chằng quanh răng tham gia vào sự thành lập và sự tiêu
xương, xê-măng trong các vận động sinh lý của răng, cũng như trong sự thích nghi
của mô quanh răng với lực cắn và trong sửa chữa các tổn thương. Sự tái cấu trúc của
thành phần sợi cùng với xương tạo ra những vận động sinh lý của răng (hiện tượng
trồi ở răng mòn và di gần). Tốc độ thành lập và biệt hóa của các tế bào có ảnh hưởng
đến tốc độ thành lập xương, collagen và xê-măng. Các biến đổi về hoạt động của tế
bào dưới tác động của enzym có ảnh hưởng đến quá trình tái cấu trúc.
3.3.3. Vô hiệu hóa lực va chạm và truyền lực nhai đến xương
Dây chằng đóng vai trò làm giảm bớt áp lực cắn, nhai.
Sự truyền lực đến xương: các sợi chính của dây chằng quanh răng sắp xếp theo
dạng cầu treo hay võng. Khi có lực tác động theo hướng trục lên răng, các bó sợi
nghiêng bị kéo căng hết chiều dài và tiếp nhận hầu hết lực này. Khi có lực ngang hoặc
nghiêng tác động lên răng, răng có hai giai đoạn dịch chuyển. Dịch chuyển thứ nhất là
giới hạn trong khoảng dây chằng quanh răng, và dịch chuyển thứ hai là do sự biến
dạng của các bản xương. Răng xoay quanh một trục thay đổi theo cường độ lực. Phần
chóp chân răng di chuyển ngược hướng với phần thân. Ở răng một chân, trục xoay ở
giữa một phần ba giữa và một phần ba chóp của chân răng. Ở răng nhiều chân, trục
xoay ở xương giữa các chân răng. Khi răng xoay dây chằng quanh răng có dạng như
đồng hồ cát. Vùng có lực căng các bó sợi dây chằng quanh răng bị kéo căng, ngược lại
ở vùng có lực nén các bó sợi bị nén ép, và có sự vặn vẹo của xương tương ứng với
hướng dịch chuyển của răng.
3.3.4. Dinh dưỡng và cảm giác
Mạch máu và dẫn lưu lympho trong dây chằng quanh răng nuôi dưỡng xê-măng,
xương ổ răng và lợi. Dây chằng quanh răng chứa nhiều sợi thần kinh cảm giác dẫn
truyền những xung động thần kinh tạo ra từ lực cắn và nhai (cảm giác xúc giác, áp lực
và đau) về trung tâm thần kinh nơi tạo ra các xung động thích hợp truyền đến nhóm cơ
tác động để có những phản ứng bảo vệ (theo đường đi của dây thần kinh sinh ba).
Các sợi hướng tâm là các nhánh của thần kinh răng xuyên qua những lỗ ở phiến
cứng đi vào dây chằng quanh răng trước khi vào răng, và các sợi trong xương ổ khi
chạy trên mào xương ổ cho các nhánh bên xuyên qua phiến cứng. Trong phần dây
17
chằng quanh răng phía xương ổ, hai nhóm nối thành mạng và phân ra những nhánh đi
về phía chóp và về phía nhai tạo thành một đám rối song song với trục dài của răng.
Từ đám rối này cho ra những đầu tận ở trong mô liên kết.
Các dây thần kinh lớn đi kèm với mạch máu, trong khi các dây thần kinh nhỏ có
thể không. Các thần kinh trong vách cung cấp phần lớn thần kinh cho dây chằng
quanh răng nên phẫu thuật ở vùng chóp hoặc tình trạng viêm phá hủy mô ở vùng này
không ảnh hưởng nhiều đến chức năng cảm giác ở phần còn lại của dây chằng quanh
răng. Cảm giác định vị được chi phối bởi những đầu tận cảm thụ.
4. Xê-măng: Là phần mô liên kết khoáng hóa, không mạch máu, tạo thành một lớp
bao phủ quanh chân răng giải phẫu.
4.1. Đặc điểm cấu tạo: Xê-măng là mô ít khoáng hóa nhất trong số ba thành phần mô
cứng của răng. Thành phần cấu tạo tương tự xương và các mô khoáng hóa khác gồm:
- Sợi collagen tạo nên khung hữu cơ (chiếm 23% trọng lượng ướt).
- Muối khoáng (chiếm 65% trọng lượng ướt) chủ yếu là canxi, phốt-pho, ma-giê, flo.
- Nước (chiếm 12% trọng lượng ướt).
Về mô học, người ta phân biệt hai loại chính là xê-măng không có tế bào (xê-măng
nguyên phát) và xê-măng có tế bào (xê-măng thứ phát). Ở người, răng có ba loại xêmăng khác nhau: xê-măng không sợi không tế bào, xê-măng sợi ngoại sinh không tế
bào, xê-măng sợi nội sinh có tế bào. Các loại này có sự khác biệt về vị trí phân bố, cấu
trúc, mức khoáng hoá, tốc độ thành lập và chức năng.
Đường nối men – xê-măng
Tương quan giữa xê-măng và men răng ở đường nối men – xê-măng có ý nghĩa lâm
sàng. Có 3 loại tương quan: xê-măng phủ lên men (60 - 65%), có một điểm nối nghĩa
là men răng tiếp xúc với xê-măng (25 - 30%), không tiếp xúc với nhau (5 - 15%).
Trong trường hợp men và xê-măng không có tiếp xúc, ngà răng bị để lộ. Người có ngà
răng bị lộ có thể có biểu hiện quá cảm ngà với nhiệt và tiếp xúc khi tụt lợi. Khiếm
khuyết này cũng làm dễ tích tụ mảng bám và cao răng. Cao răng hiện diện ở vùng ngà
bị lộ rất khó loại bỏ.
18
Hình 8. Ba dạng đường nối men – xê-măng
A: Xê-măng và men không tiếp xúc với nhau
B: Men răng tiếp xúc với xê-măng
C: Xê-măng phủ lên men
4.2. Sinh lý của xê-măng
Xê-măng có độ khoáng hóa cao hơn xương. Khác với xương ổ răng, xê-măng
không chứa mạch máu, mạch lympho hay thần kinh và không chịu bất kỳ sự tái cấu
trúc hay sự tiêu sinh lý nào.
Xê-măng đặc trưng bởi sự tăng trưởng liên tục về bề dày do sự bồi đắp liên tục các
lớp liên tiếp nhau trong suốt đời sống trừ khi có bệnh quanh răng. Sự bồi đắp liên tục
này là chìa khóa trong sự tái tạo mô quanh răng. Tuy nhiên, sự tạo xê-măng về quan
điểm sinh học và tế bào vẫn còn chưa biết rõ.
Sự bồi đắp ở vùng chóp nhiều hơn ở vùng cổ, do vậy bề dày của lớp xê-măng tăng
dần về phía chóp và có thể lan một phần vào lỗ chóp chân răng. Ở vùng cổ lớp xêmăng dày khoảng 25 - 50µm, trong khi ở vùng chóp dày 150 - 250µm.
Sự bồi đắp trong điều kiện bình thường cho phép bù trừ rất yếu với sự mòn do ăn
nhai và không đủ bù trừ cho những trường hợp tiêu ngót chân răng nặng. Sự bồi đắp
diễn ra chậm sau tuổi trưởng thành (chỉ có một số ít tương đối các lớp bồi đắp) và các
thay đổi về chức năng của răng có ảnh hưởng lớn đến hoạt động tăng trưởng này của
xê-măng. Đáp ứng sinh học của các nguyên bào xê-măng với các kích thích làm thay
đổi vị trí răng có thể ảnh hưởng đến thời hạn và cách thức bồi đắp xê-măng.
Các răng không chức năng và răng ngầm có lớp xê-măng dày hơn các răng có chức
năng và cấu trúc của chúng khác nhau. Trong xê-măng của các răng ngầm, có thể
19
hoàn toàn không có các sợi Sharpey và chủ yếu là các sợi nội sinh xếp song song với
bề mặt chân răng.
Sự tiêu và sự sửa chữa xê-măng
Ở răng sữa sự tiêu chân răng là hiện tượng sinh lý bình thường nhưng răng vĩnh
viễn thì không có sự tiêu sinh lý này. Tiêu xê-măng có thể do nguyên nhân tại chỗ,
toàn thân hay không rõ nguyên nhân. Các nguyên nhân tại chỗ bao gồm chấn thương
khớp cắn; lực chỉnh hình; sức ép từ răng mọc lệch, nang hay u; răng ngầm; răng
không có chức năng đối kháng; răng tái cắm ghép, cấy chuyển vị; bệnh quanh chóp;
viêm quanh răng. Các nguyên nhân toàn thân được xem là yếu tố mở đường hay dẫn
đến tiêu xê-măng bao gồm thiếu canxi, suy tuyến giáp, loạn sản sợi di truyền và bệnh
Paget.
Hiện tượng dính khớp (Ankylosis): Là sự hợp nhất giữa xê-măng và xương ổ
răng. Dính khớp có thể xảy ra ở răng có tiêu xê-măng và có thể xem nó là một dạng
sửa chữa bất thường. Dính khớp có thể xảy ra sau tình trạng viêm quanh cuống mạn,
cắm lại răng, chấn thương khớp cắn và quanh răng ngầm. Trong dính khớp có sự tiêu
chân răng và thay thế dần bằng mô xương. Vì lý do này, răng được cắm lại sẽ bị mất
chân răng sau 4 - 5 năm.
Tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Bích Vân và cộng sự (2015). Nha chu học. Nhà xuất bản Y học.
2. Trịnh Đình Hải và cộng sự (2013). Bệnh học quanh răng. Nhà xuất bản Giáo
dục Việt Nam.
3. Caranza N (2012). Clinical Periodontology. Elsevier Saunders, 12th edition.
20