BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ Y T Ế
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
TRẦN THỊ VÂN ANH
NỒNG ĐỘ KẼM HUYẾT THANH
TRÊN BỆNH NHÂN RỤNG TÓC TỪNG VÙNG
ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ Y HỌC
HÀ NỘI – 2017
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
B Ộ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
TRẦN THỊ VÂN ANH
NỒNG ĐỘ KẼM HUYẾT THANH
TRÊN BỆNH NHÂN RỤNG TÓC TỪNG VÙNG
Chuyên ngành: Da liễu
Mã số:60720152
ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ Y HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. Trần Lan Anh
HÀ NỘI – 2017
MỤC LỤC
PHỤ LỤC
DANH MỤC BẢNG
5
ĐẶT VẤN ĐỀ
Rụng tóc từng vùng là bệnh lý thường gặp trong da liễu với diễn biến
dai dẳng và hay tái phát. Bệnh được biết đến từ lâu nhưng cho tới nay căn
nguyên của bệnh chưa hoàn toàn sáng tỏ. Vì vậy, cơ chế bệnh sinh và
những yếu tố làm bệnh dai dẳng vẫn đang được nghiên cứu. Những năm
gần đây nhờ tiến bộ của khoa học kỹ thuật, nhiều tác giả đã chỉ ra rằng
nguyên nhân của rụng tóc từng vùng liên quan đến yếu tố gia đình, cơ địa,
miễn dịch, nội tiết, sang chấn hoặc nhiễm khuẩn [1],[2],[3].
Bệnh thường khởi phát âm thầm; đặc trưng bởi một, vài hoặc
nhiều đám rụng tóc ở đầu hình tròn, hình bầu dục nhẵn bóng, không vảy,
không ngứa, không đau. Các vùng có lông khác như râu, lông mày, lông mi,
lông mu cũng có thể rụng. Có nhiều loại rụng tóc, nếu phân loại theo hậu
quả rụng tóc có rụng tóc không sẹo và rụng tóc có sẹo, trong đó rụng tóc
từng vùng thuộc loại rụng tóc không sẹo [1],[2].
Bệnh tiến triển dai dẳng, hay tái phát; tuy không gây biến chứng nguy
hiểm tới tính mạng nhưng nếu không điều trị kịp thời về lâu dài sẽ ảnh hưởng
đến tâm lý, thẩm mỹ khiến người bệnh mất tự tin, mặc cảm, hoang mang lo
lắng làm ảnh hưởng tới chất lượng cuộc sống.
Việc điều trị bệnh rụng tóc từng vùng còn nan giải, có rất nhiều loại
thuốc, nhiều phương pháp được áp dụng, song chưa có loại nào chữa khỏi hẳn
được, mà chỉ làm giảm triệu chứng nhưng có nhiều tác dụng không mong
muốn, đắt tiền....[3],[4].
Bên cạnh cơ chế bệnh sinh còn chưa sáng tỏ, còn nhiều yếu tố khác
cũng được xem là liên quan đến sự khởi phát của bệnh, trong đó có nồng độ
kẽm huyết thanh người bệnh [5],[6]. Kẽm là một nguyên tố quan trọng cần
thiết cho sự biệt hóa của thượng bì và sự phát triển bình thường của tuyến
6
sinh dục. Không chỉ có ở trong máu mà kẽm còn hiện diện với nồng độ cao ở
da, đặc biệt là lớp thượng bì.
Trên thế giới, hiện nay có khá nhiều nghiên cứu đã chỉ ra sự khác biệt
có ý nghĩa thống kê về nồng độ kẽm trong huyết thanh người bệnh rụng tóc
từng vùng khi so sánh với người bình thường không mắc bệnh [6],[7],[11].
Bên cạnh những nghiên cứu trực tiếp định lượng nồng độ kẽm huyết thanh
trên bệnh nhân, còn có nhiều thử nghiệm lâm sàng về vai trò của kẽm trong
điều trị bệnh cũng đã được tiến hành [5],[8]. Kết quả cho thấy việc bổ sung
thêm kẽm trong phác đồ điều trị bệnh tạo ra cải thiện khác biệt.
Tại Việt Nam, chưa có một đề tài nào nghiên cứu sự liên quan giữa
nồng độ kẽm huyết thanh trên bệnh nhân rụng tóc từng vùng, nhưng trên một
số bệnh về da đã được nghiên cứu [9],[10] đều cho thấy nồng độ kẽm trên
người bệnh thấp hơn so với người khỏe mạnh và việc điều trị kẽm đều cho kết
quả khả quan.
Tuy nhiên vẫn còn những tranh cãi xung quanh vấn đề này khi một số
nghiên cứu khác lại chỉ ra không có sự khác biệt mang ý nghĩa thống kê về
nồng độ kẽm trong huyết thanh bệnh nhân rụng tóc từng vùng và người bình
thường không mắc bệnh [12].Chính vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu:
“Nồng độ kẽm huyết thanh trên bệnh nhân rụng tóc từng vùng” với các
mục tiêu sau:
1.
Khảo sát tình hình, đặc điểm lâm sàng và yếu tố liên quan trên bệnh
nhân rụng tóc từng vùng tại bệnh viện Da liễu Trung ương từ
8/2017-7/2018.
2.
Xác định nồng độ kẽm huyết thanh trên bệnh nhân rụng tóc từng vùng và
mối liên quan với lâm sàng.
7
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN
1.1. Một số hiểu biết chung về tóc và rụng tóc
1.1.1. Cấu tạo giải phẫu của tóc [1],[2],[13],[14]
Tóc được chia thành hai phần: phần thân tóc và phần chân tóc. Phần
chân tóc nằm dưới da đầu và kết nối với thân tóc qua eo nang tóc và phễu
nang tóc.
* Nang tóc: là phần có cấu trúc hình túi bao lấy chân tóc. Ở mỗi người
trung bình có khoảng 100.000 đến 150.000 nang tóc trên da đầu. Số lượng
này không thay đổi kể từ khi mới sinh ra cho đến khi về già và mật độ tóc phụ
thuộc vào số nang tóc, chủng tộc, tuổi. Trẻ em có khoảng 1000 nang tóc/cm2
da đầu, đến tuổi trưởng thành giảm đi còn khoảng 600 nang tóc/cm 2 da đầu và
đến khi về già mật độ tóc chỉ còn khoảng 300/cm2 da đầu
- Phần đáy của chân tóc nằm trong một bầu gọi là hành tóc. Hành tóc là
nơi nhận hoormon; chuyển các tín hiệu đến tế bào tạo sừng; hấp thụ các chất
dinh dưỡng. Mao mạch và các sợi dây thần kinh đi vào trong hành tóc. Khi hệ
vi tuần hoàn trong gai chân tóc hoạt động tốt, sợi tóc sẽ tăng trưởng nhanh và
ngược lại nếu gai chân tóc bị teo đi, sợi tóc sẽ không được cung cấp dinh
dưỡng và sẽ rụng đi. Phá hủy gai chân tóc sẽ làm tóc rụng hẳn, không mọc lại
được nữa.Trong suốt cuộc đời, mỗi nang tóc mọc khoảng 20 sợi tóc mới.
- Các tế bào ở trung tâm của hành tóc gọi là mầm tóc. Mầm tóc là vùng
phân chia tế bào hoạt động; mầm tóc tiếp tục sản xuất tế bào xếp thành chồng
và hóa sừng sinh ra thân tóc. Những tế bào tóc mới đẩy tế bào tóc trước đó
lên. Những tế bào di chuyển ra phía ngoài sẽ dần dần chết để tạo thành phần
thân tóc cứng.
8
- Trong phần eo nang tóc, có hai bộ phận rất quan trọng. Một là các tuyến
bã nhờn có chức năng tiết ra những chất giúp tóc mềm mại, bóng mượt và
không thấm nước. Thay đổi hoạt động của tuyến bã là nguyên nhân gây nên
tình trạng tóc dầu hay tóc khô. Bộ phận quan trọng thứ hai là các sợi cơ rất nhỏ
để cố định sợi tóc vào da đầu gọi là cơ vận lông. Khi trời lạnh hoặc hoảng sợ,
ta thấy có hiện tượng” dựng tóc gáy” chính là do các sợi cơ này co lại.
* Thân tóc: là phần mọc ra ngoài nhìn thấy được. Thành phần chủ yếu là
một loại protein gọi là lớp sừng, chiếm 70%. Còn lại là một tỷ lệ nhỏ là nước
cùng một số chất béo, chất dầu có tác dụng gắn kết các phần keratin lại với nhau.
Thân tóc gồm 3 phần: lớp biểu bì, lớp giữa và lớp tủy.
-
Lớp tủy: là phần trong cùng của sợi tóc, chứa các hạt chất béo và không khí.
Nếu sợi tóc quá mỏng sẽ không có lớp tủy.
-
Lớp giữa gồm nhiều sợi keratin cuộn lại với nhau như dây thừng. Tóc thẳng
hay tóc quăn là do phần lõi này quyết định. Đây cũng là nơi chứa sắc tố, các
chất tạo nên màu cho sợi tóc, còn gọi là melanin. Các melanin hoạt động do tế
bào hắc tố nằm ở vùng da gần nang tóc tiết ra. Chính chất melanin trong lõi
tóc sẽ quyết định sợi tóc mang màu gì. Có hai loại melanin là eumelanin cho
tóc sẫm màu và pheomelanin cho tóc nhạt màu. Tùy theo số lượng melanin
nhiều hay ít mà tóc con người có nhiều màu sắc khác nhau. Khi về già, mọi
hoạt động của cơ thể đều suy giảm, kể cả tế bào hắc tố. Lượng melanin tiết ra
quá ít sẽ khiến sợi tóc trở nên bạc trắng. Lo lắng, mất ngủ, stress nặng có thể
ảnh hưởng đến việc nuôi dưỡng và hoạt động của các tế bào hắc tố, làm thay
đổi lượng melanin tiết ra.
-
Lớp biểu bì là phần ngoài cùng của thân tóc, gồm 5-10 lớp keratin trong suốt
xếp chồng lên nhau như vảy cá có tác dụng bảo vệ sợi tóc khỏi các hóa chất
hoặc ảnh hưởng bên ngoài. Giữa các vảy keratin có một chất kết dính gọi là
KIT. Lớp biểu bì còn được bao phủ bởi một màng mỡ mỏng để tóc không
thấm nước.
9
Sợi tóc bóng mượt hay không là nhờ lớp biểu bì. Các hóa chất trong
thuốc nhuộm, dầu gội, tia tử ngoại mặt trời, nhiệt từ máy sấy, chất clo trong
nước hồ bơi...đều có thể làm mất chất kết dính KIT khiến cho các vảy keratin
bị bong ra, tóc bị hư tổn, xơ xác, dễ rối, không còn mượt mà. Bản thân sợi tóc
(phần thân tóc) là một cấu trúc “chết” nên không tự phục hồi được.
* Quá trình sinh trưởng của tóc: Vòng đời của tóc tuân theo một chu
trình gồm 3 giai đoạn:
-
Giai đoạn tăng triển: 85% số tóc ở giai đoạn tăng triển. Giai đoạn này kéo dài
từ 2-3 năm đối với nam giới, 6-8 năm đối với phụ nữ.
-
Giai đoạn ngừng triển: 1% số tóc ở giai đoạn ngừng triển. Giai đoạn này kéo
dài từ 2 đến 3 tuần.
-
Giai đoạn thoái triển: 14% số tóc ở giai đoạn thoái triển. Giai đoạn này kéo
dài khoảng 2-3 tháng. Sau thời kỳ nghỉ ngơi thì tóc sẽ bị rụng đi. Mỗi ngày
một người rụng khoảng từ 50 tới 100 sợi tóc là bình thường. Sau khi tóc rụng,
tóc mới sẽ mọc ra từ chân tóc và chu kỳ tăng trưởng sẽ bắt đầu trở lại.
Trung bình một đời người, mỗi nang tóc trải qua 25 chu trình. Mỗi ngày
tóc mọc dài thêm 0,35mm, mỗi sợi tóc mọc khoảng 1 cm mỗi tháng, khoảng
12,8cm mỗi năm. Đời sống trung bình của sợi tóc khoảng 2- 6 năm; mùa xuân
và hè tóc mọc nhanh hơn mùa thu và đông; ban ngày tóc mọc nhanh hơn ban
đêm [14].
1.1.2. Phân loại rụng tóc
Tùy theo các cách phân loại, rụng tóc có thể được chia làm các loại khác
nhau [1],[2],[13]
1.1.2.1. Phân loại theo hậu quả
- Rụng tóc không sẹo (non scaring alopecia)
+ Rụng tóc androgen di truyền (Androgenetic alopecia). Đây là loại rụng
tóc phổ biến nhất, thường rụng tóc trên đỉnh đầu và gọi là hói.
+ Rụng tóc thành đám/vùng hay rụng tóc từng vùng (Alopecia areata).
10
+ Rụng tóc telogen (Telogen effluvium). Thường rụng tóc do hóa chất và
các tia xạ.
+ Rụng tóc anagen (Anagen effluvium). Rụng tóc đột ngột và thường
liên quan đến sang chấn nặng.
+ Rụng tóc kết hợp bị bệnh toàn thân hoặc hệ thống.
+ Rụng tóc Giang mai thời kỳ II (syphilis).
+ Rụng tóc nội tiết.
+ Tật nhổ tóc (trichotillomania).
- Rụng tóc có sẹo (scarring alopecia, cicatricial alopecia)
Rụng tóc có sẹo ít gặp hơn, nguyên nhân là do nang tóc bị phá hủy. Rụng
tóc có sẹo thường kèm theo ngứa, đau hoặc nóng rát, tiến triển rất nhanh. Tuy
nhiên nhiều trường hợp tóc mất từ từ và không có triệu chứng, tiến triển kéo
dài. Rụng tóc có sẹo thường gặp trong các trường hợp sau
+ U tân sản (neoplasms), u sắc tố.
+ Bệnh da nguồn gốc miễn dịch, di truyền.
+ Khuyết tật di truyền hoặc phát triển.
+ Nhiễm vi sinh vật: Vi khuẩn: vi khuẩn gây mủ, lao; Nấm: nấm kerion;
Vi rút: Zona; Protozoa: Leishmania (đơn bào).
+ Tổn thương do lý, hoá học, bỏng và rụng tóc do các chấn thương khác.
1.1.2.2. Phân loại theo căn nguyên [1],[2],[13]
- Rụng tóc thành đám/rụng tóc từng vùng (alopecia areata- AA).
- Rụng tóc androgen di truyền (androgenetic alopecia- AGA).
- Rụng tóc telogen (telogen effluvium).
- Rụng tóc anagen (anagen effluvium).
- Rụng tóc do vi sinhvật (nấm, đơn bào, vi khuẩn, vi rus).
- Rụng tóc do giang mai.
- Rụng tóc do tác nhân lý hóa: tật nhổ tóc, hoá học, bỏng và rụng tóc do
các chấn thương khác.
11
1.2. Bệnh rụng tóc từng vùng
1.2.1. Nguyên nhân và các yếu tố liên quan đến bệnh rụng tóc từng vùng
Nguyên nhân của rụng tóc từng vùng hiện nay chưa rõ ràng, nhiều tác
giả cho rằngnguyên nhân liên quan đến yếu tố gia đình, cơ địa, miễn dịch, nội
tiết, sang chấn hoặc nhiễm khuẩn. Tuy nhiên hiện nay người ta cho rằng rụng
tóc từng vùng là một bệnh tự miễn [16],[17] [18],[19],[20].
1.2.1.1. Yếu tố miễn dịch
Hiện nay rất nhiều bằng chứng chỉ ra rằng rụng tóc từng vùng là bệnh tự
miễn và các nghiên cứu cũng chỉ ra mối liên quan giữa rụng tóc từng vùng với
các bệnh tự miễn bao gồm miễn dịch dịch thể và miễn dịch trung gian tế bào.
Nghiên cứu của Thomas và cộng sự [22] nghiên cứu 71 bệnh nhân được
chẩn đoán rụng tóc từng vùng nhận thấy trong những bệnh lý về da liên quan
đến rụng tóc vùng là viêm da cơ địa có tần suất cao với tỷ suất nguy cơ là 2,5;
tương đương với viêm da cơ địa có nguy cơ cao hơn bệnh nhân bị rụng tóc
từng vùng từ 2-3 lần. Các bệnh về tuyến giáp có tỷ số nguy cơ cao nhất là 3,2
và trong các bệnh về tuyến giáp thì suy giáp có liên quan cao nhất 14,1%.
Một nghiên cứu khác của Ito [21] cũng cho thấy bệnh rụng tóc từng vùng
liên quan đến bệnh tự miễn khác đặc biệt bệnh tự miễn dịch tuyến giáp như
viêm tuyến giáp Hashimoto và bệnh Basedow, bạch biến..
Ngoài ra còn có các bệnh liên quan tới rụng tóc từng vùng như lupus đỏ
hệ thống, viêm khớp dạng thấp, nhược cơ nặng, lichen phẳng, bệnh nội tiết,
viêm loét ruột kết, bệnh thiếu máu ác tính...[21],[23],[46].
- Miễn dịch dịch thể
Mặc dù nghiên cứu về kháng thể đặc hiệu trong rụng tóc từng vùng còn
có những kết quả khác nhau, nhưng người ta cũng thấy vai trò của miễn dịch
dịch thể với rụng tóc từng vùng [24],[25]. Tobin DJ, Orentreich và cộng sự
[24] nghiên cứu huyết thanh của 30 bệnh nhân rụng tóc từng vùng và 27 bệnh
12
nhân nhóm chứng tìm kháng thể dịch thể tại nang tóc của da đầu trong giai
đoạn phát triển cho thấy 100% bệnh nhân rụng tóc từng vùng có kháng thể
với các kháng nguyên nang tóc có trọng lượng phân tử 57, 52, 50, 47, hoặc 44
kD, tỷ lệ này cao hơn gấp 7 lần trong nhóm đối chứng và nồng độ kháng thể
cũng cao hơn gấp 13 lần so với nhóm chứng.
- Miễn dịch trung gian qua tế bào[16],[17],[18],[26]
Ngoài sự xuất hiện của kháng thể dịch thể, người ta còn thấy xuất hiện
của lympho bào T tăng lên ở các nang tóc trong những bệnh nhân rụng tóc
từng vùng so với những nhóm chứng. Khi sinh thiết tổn thương trong rụng tóc
từng vùng, người ta phát hiện thấy có sự xâm nhập của Lympho bào ở nang
tóc giai đoạn phát triển. Sự xâm nhập chủ yếu là tế bào CD4; tế bào CD8 có
sự gia tăng nhưng ít hơn. Rối loạn về miễn dịch trung gian tế bào ở bệnh nhân
rụng tóc từng vùng cũng còn nhiều tranh luận khác nhau. Theo Todes Taylor
[26] số lượng CD4 tăng nhiều hơn CD8 ở tất cả các bệnh nhân, dẫn đến gia
tăng tỉ lệ CD4/CD8 = 2.6-19.8, đều có liên quan đến số lượng tóc bị rụng.
Trong rụng tóc từng vùng việc tìm thấy sự xâm nhập của tế bào lympho ở
xung quanh nang tóc và việc điều trị thành công bằng các thuốc điều hoà
miễn dịch như uống corticoid toàn thân, cyclosporin đã chứng minh cho giả
thuyết cơ chế bệnh sinh của rụng tóc từng vùng có liên quan đến rối loạn
miễn dịch trung gian tế bào.
1.2.1.2. Các cytokin
Một số tác giả cho rằng các cytokin cũng có vai trò quan trọng trong rụng
tóc từng vùng. Các cytokin là tác nhân điều biến miễn dịch quá trình viêm và
điều hoà sự tăng sinh tế bào. Nghiên cứu ở trong ống nghiệm cho thấy
Interleukin-1 alpha, Interleukin-1 beta và yếu tố hoại tử khối u alpha (TNF-α)
là những thành phần ngăn cản sự phát triển của nang tóc bằng cách làm thay
đổi hình thái của nang tóc tương tự như trong rụng tóc từng vùng [18].
13
1.2.1.3.Yếu tố cơ địa
Mối liên quan giữa bệnh rụng tóc từng vùng với cơ địa dị ứng đã được
Robinson và Tasker ghi nhận. Nhiều nghiên cứu khác cũng thừa nhận mối liên
quan rụng tóc từng vùng ở những người có cơ địa dị ứng thường khởi phát ở
tuổi trẻ, bệnh thường có xu hướng lan tỏa và kháng lại các phương pháp điều
trị.
1.2.1.4. Yếu tố di truyền
- Yếu tố gen
Nhiều nghiên cứu cũng đã chỉ ra yếu tố gia đình liên quan đến bệnh rụng
tóc từng vùng. Van der Steen [27] đã nghiên cứu 348 bệnh nhân bị bệnh rụng
tóc từng vùng nhận thấy khoảng 7% cha mẹ cũng bị rụng tóc từng vùng và có
3% anh, chị em ruột của cha mẹ cũng đã từng bị rụng tóc từng vùng. Người ta
cũng đã tính toán nguy cơ một đứa trẻ sinh ra từ cha mẹ rụng tóc từng vùng
có nguy cơ vào khoảng 6% trong cuộc đời bị bệnh rụng tóc từng vùng [28].
- Hệ thống HLA (Human leukocyte antigen)
Hiện nay có rất nhiều nghiên cứu về hệ thống HLA trong rụng tóc từng
vùng [16],[17],[29],[30],[31]. Patricia (2006) đã nghiên cứu trong một nhóm
161 bệnh nhân rụng tóc từng vùng với nhóm chứng 165 bệnh nhân tại Bỉ và
Đức cho thấy có mối liên quan giữa các nhóm có kiểu gen HLA-DRB1*0301
có nguy cơ bị bệnh rụng tóc từng vùng cao hơn một cách có ý nghĩa thống kê
so với nhóm chứng (6.8% so với 11.2%, p = 0.048), Nhóm có kiểu gen
DRB1*04 có nguy cơ bị bệnh cao nhất (13.4% đối với 7.3%, p = 0.014).
Ngoài ra các nghiên cứu đã cho thấy có sự xuất hiện của HLA- DQ3
(DQB1*03) ở trên 80% bệnh nhân rụng tóc từng vùng.
- Hệ thống non-HLA (non-Human leukocyte antigen)
Du Vivier và Munro đã phát hiện 60 trường hợp bị rụng tóc từng vùng
trong số 1.000 bệnh nhân có hội chứng Down, trong đó 25 trong số 60
14
trường hợp là rụng tóc toàn phần hoặc rụng tóc toàn bộ. Những bệnh nhân
có hội chứng Down được biết là rất dễ mắc các bệnh tự miễn. Điều này gợi
ý có sự liên quan của gen nằm trên NST 21 trong sự mẫn cảm với rụng tóc
từng vùng.
1.2.1.5. Yếu tố nhiễm trùng
Một số giả thiết khác cho rằng nhiễm trùng cũng là một trong các nguyên
nhân gây ra rụng tóc từng vùng nhưng chưa có bất cứ tác nhân vi sinh vật nào
được phân lập ở những bệnh nhân này. Nhiều nỗ lực nhằm hướng đến phân
lập Cytomegalovirus (CMV) trong rụng tóc từng vùng nhưng kết quả đều âm
tính [32],[33].
1.2.1.6. Sang chấn tâm lý
Khi cơ thể trải qua sang chấn tâm lý hoặc do phẫu thuật, chấn thương hay bị
bệnh, rụng tóc từng vùng có thể xảy ra. Khi đó các nang tóc do không được nuôi
dưỡng đầy đủ và đi vào giai đoạn ngừng phát triển rồi sớm rụng khỏi da đầu.
Coslon và cộng sự [34] đã nghiên cứu 30 bệnh nhân được chẩn đoán
rụng tóc từng vùng. Tất cả người tham gia nghiên cứu đều hoàn thành bộ câu
hỏi tập trung vào các khía cạnh dân số, xã hội, tâm lý và lâm sàng cũng như
tần suất và loại sang chấn mà họ trải qua. Kết quả chỉ ra rằng, 74% bệnh nhân
đã bị một hoặc nhiều lần sang chấn tâm lý trong đời, đặc biệt đáng chú ý là tỷ
lệ hiện mắc cao của chứng trầm cảm (39%) và rối loạn lo âu lan tỏa (39%).
Nghiên cứu cho thấy những bệnh nhân rụng tóc từng vùng có nguy cơ mắc
bệnh tâm thần cao, cần chú ý đánh giá về tâm lý trong nhóm này.
Một số nghiên cứu khác cũng cho thấy trên 90% bệnh nhân rụng tóc từng
vùng từng trải qua những biến đổi tâm lý không bình thường và trên 29% có
yếu tố tâm lý và hoàn cảnh gia đình ảnh hưởng đến sự khởi phát bệnh hoặc
diễn biến của bệnh. Sang chấn tâm lý được gợi ý là yếu tố liên quan làm thúc
đẩy nhanh bệnh rụng tóc từng vùng [35],[36],[37].
15
1.2.1.7. Tuổi và giới tính
- Tuổi: rụng tóc từng vùng gặp ở bất cứ lứa tuổi nào từ trẻ đến già, đặc
biệt hay gặp nhất là lứa tuổi trẻ và trung niên. Bệnh khởi phát ở lứa tuổi 15-40
chiếm 70-80% trường hợp, nhưng bệnh cũng có thể bắt đầu ở trẻ sơ sinh và ở
người cao tuổi. Một nghiên cứu đã chỉ ra có tới 44% xuất hiện rụng tóc từng
vùng trước tuổi 20 và xuất hiện bệnh trên 40 tuổi chiếm khoảng 30% [38].
- Giới tính: Các nghiên cứu khác nhau chỉ ra có sự khác nhau về tỷ số
giới tính trong bệnh rụng tóc từng vùng. Một nghiên cứu do Muller SA và
Winkelmann [39] tiến hành trên 736 bệnh nhân cho thấy tỷ số giới tính giữa
nam và nữ là 1/1. Trong một số nghiên cứu khác thì tỷ lệ nữ bị rụng tóc từng
vùng cao hơn nam [17].
1.2.2. Triệu chứng lâm sàng
1.2.2.1. Lâm sàng của rụng tóc từng vùng
- Tổn thương ban đầu của rụng tóc từng vùng là đám trụi tóc hình tròn
hoặc hình oval hoặc nhiều đám trụi tóc kết hợp lại tạo thành một mảng lớn,
giới hạn rõ, nhẵn và không ngứa [1],[2],[13].
- Sợi tóc "dấu chấm than" là dấu hiệu đặc trưng của bệnh rụng tóc
từng vùng, thường có ở rìa của đám rụng tóc n ơi có các s ợi tóc bình
thường và có thể nhổ ra dễ dàng. Đó là các sợi tóc bị gẫy, chiều dài không
quá 10-15mm, mảnh và nhạt màu ở đầu dưới và phình thành hình chuỳ,
màu sắc ở đầu trên bình thường.
- Thử nghiệm kéo tóc (pull test): có thể dương tính ở rìa đám rụng tóc.
- Số lượng và kích thước của rụng tóc từng vùng thường thay đổi từ một
đám đến nhiều đám rụng tóc, có khi toàn bộ da đầu và các vùng lông khác.
- Vị trí thường gặp ở vùng đầu. Ngoài ra còn gặp ở lông mày, lông mi,
râu và các vùng lông khác.
- Tiến triển của rụng tóc từng vùng thể từng đám rất khác nhau, đám
rụng tóc có thể mọc lại sau vài tháng, lúc đầu có thể các sợi tóc nhỏ mịn và
16
không có sắc tố sau dần dần trở về bình thường về màu sắc cũng như kích
thước. Hoặc xuất hiện thêm các đám rụng tóc khác và các đám rụng tóc này
có thể hợp lại gây rụng tóc rộng hơn.
- Các tổn thương phối hợp trong rụng tóc từng vùng
Tổn thương móng: theo Frankel, David hình thái tổn thương móng hay
gặp trong rụng tóc từng vùng là loạn dưỡng móng, chiếm từ 7% đến 66%.
Ngoài ra là tổn thương rỗ móng, thường gặp ở móng tay, có khi ở móng chân.
Tổn thương có thể ở toàn bộ móng hoặc ở một vài móng và cũng có khi chỉ
xuất hiện đơn độc ở 1 móng. Toàn bộ móng bị tổn thương có sự tương quan với
mức độ tóc rụng. Loạn dưỡng móng có thể có trước, hoặc xuất hiện đồng thời
hoặc xuất hiện sau khi lui bệnh. Các hình thái khác gặp trong rụng tóc từng
vùng như khía dọc, vàng mủn, bong móng từng lớp, móng có đốm trắng,...
1.2.2.2. Các thể lâm sàng của rụng tóc từng vùng
* Rụng tóc từng vùng thể từng đám (Alopecia areata): rụng tóc từ một
đến nhiều đám trụi tóc to nhỏ khác. Đây là thể hay gặp nhất.
* Rụng tóc từng vùng thể hình dải kiểu rắn bò (ophiasis): kết quả của sự
hợp nhất nhiều đám rụng tóc ở vùng chẩm và lan rộng thành một dải dọc da
đầu. Thể này hay gặp ở trẻ em.
* Rụng tóc toàn phần (alopecia totalis): rụng tóc toàn bộ da đầu hoặc gần
hết diện tích da đầu.
* Rụng tóc toàn bộ (alopecia universalis): rụng tóc ở da đầu kết hợp với
rụng lông ở các vùng khác như lông mày, lông mi, râu, lông nách, lông sinh dục
1.2.3. Mô bệnh học
Rụng tóc từng vùng có sự bất thường của chu trình tóc ở giai đoạn sớm,
ở vùng tổn thương các nang lông vội vã đi vào giai đoạn ngừng phát triển
hoặc ở khoảng cuối của giai đoạn phát triển. Tỷ lệ sợi tóc anagen/telogen thay
đổi theo từng thời kỳ và thời gian của quá trình bệnh, phần lớn các nang lông
17
ở giai đoạn ngừng phát triển hoặc ở khoảng cuối của giai đoạn phát triển.
Trong rụng tóc từng vùng các nang tóc bị chẹn lại ở giai đoạn phát triển, lớp
bao rễ trong được hình thành nhưng chỉ có sự biệt hoá sớm chứ không có
sừng hoá lớp vỏ và không có sự giảm sút về số lượng nang tóc.
Sợi tóc "dấu chấm than" là dấu hiệu quan trọng, sợi tóc ở đầu bị xơ và
chẻ nhưng ở phía dưới có xu hướng nhỏ dần không giống như sợi tóc bình
thường khác [1],[2].
Có sự xâm nhập viêm của tế bào lympho ở xung quanh hành tóc và
quanh nang lông, trong những tổn thương mới sự xâm nhập viêm thường dầy
đặc được mô tả như những "đám ong". Các tế bào xâm nhập viêm bao gồm số
lượng lớn các tế bào lympho T cùng với số lượng tế bào Langerhans. Xâm
nhập viêm sẽ biến mất sau khi tóc mọc trở lại.
1.2.4. Chẩn đoán và đánh giá mức độ rụng tóc
1.2.4.1. Chẩn đoán xác định
Chẩn đoán rụng tóc từng vùng có thể dựa vào triệu chứng lâm sàng và
mô bệnh học nhưng chủ yếu dựa vào lâm sàng [1],[2].
- Triệu chứng lâm sàng
+ Mảng rụng tóc hình tròn, giới hạn rõ, nhẵn, không ngứa.
+ Sợi tóc “dấu chấm than".
- Mô bệnh học
+ Các nang tóc vẫn còn và không bị tổn thương.
+ Có sự xâm nhập viêm của tế bào lympho ở xung quanh nang tóc.
1.2.4.2. Chẩn đoán phân biệt
- Rụng tóc ở pha ngừng phát triển (Telogen effluvium)
Tóc rụng rải rác khắp cả đầu và xảy ra ở giai đoạn ngừng phát triển.
Rụng tóc từng vùng thường rụng thành đám và xảy ra ở giai đoạn ngừng phát
triển hoặc khoảng cuối của giai đoạn phát triển.
18
- Rụng tóc do Androgen
Rụng tóc do giai đoạn phát triển ngắn lại nên sợi tóc nhỏ, ngắn, mịn và
thưa. Những trường hợp nặng có vành tóc mỏng trước trán. Thử nghiệm kéo
tóc thường âm tính.
- Tật nhổ tóc
Bệnh thường gặp ở phụ nữ và trẻ em, bệnh nhân thường không nhận
thức được hành động của mình. Tổn thương là đám rụng tóc với những sợi tóc
xoăn và gẫy.
- Rụng tóc do bệnh giang mai
Gặp ở giang mai giai đoạn II. Rụng tóc kiểu rừng thưa, bệnh nhân có
tiền sử quan hệ tình dục với người bị bệnh. Các xét nghiệm huyết thanh về
bệnh giang mai dương tính.
1.2.4.3. Đánh giá mức độ rụng tóc: đánh giá lâm sàng mức độ rụng tóc từng
vùng được dựa vào Bộ công cụ đánh giá mức độ rụng tóc SALT (Severity of
Alopecia Tool) của Hoa kỳ, bao gồm các tiêu chí sau:
- Diện tích rụng tóc
+ Bên trái đầu 18%.
+ Bên phải đầu 18%.
+ Đỉnh đầu 40%.
+ Phía sau gáy 24%.
Bên trái đầu:
18%
19
Bên phải đầu: 18%
Đỉnh đầu: 40%
Phía sau gáy: 24%
- Đánh giá mức độ rụng tóc
+ S0 = không mất tóc
+ S1 (nhẹ) = mất < 25% tóc.
+ S2 (trung bình) = mất từ 25-49% tóc.
+ S3 (nặng) = mất từ 50-74% tóc.
+ S4 (rất nặng) = mất từ 75-99% tóc và chia ra 2 mức:
a = mất từ 75-95% tóc.
b = mất từ 96-99% tóc.
+ S5 (mất toàn bộ) = mất 100% tóc.
- Đánh giá tổn thương loạn dưỡng móng
+ N0 = không có tổn thương móng.
+ N1 = Một số móng tổn thương.
+ N1a = Loạn dưỡng cả 20 móng.
1.2.5. Điều trị
20
Tất cả các thuốc điều trị rụng tóc từng vùng đều có tác dụng kích thích
sự phát triển của sợi tóc nhưng không ngăn ngừa được sự rụng tóc trở lại. Bất
kỳ một phương pháp điều trị nào đều cần sử dụng trong một thời gian dài và
điều trị càng sớm thì hiệu quả càng tốt. Việc lựa chọn điều trị phụ thuộc vào
tuổi của bệnh nhân và diện tích của vùng rụng tóc và phối hợp việc tư vấn
người bệnh [1],[2],[13].
Các thuốc điều trị bao gồm
- Corticoid
+ Bôi corticoid: bôi 2lần/ngày. Thường dùng loại corticoide có hoạt
tính vừa. Có thể kết hợp bôi corticoide tại chỗ với các phương pháp điều trị
khác như bôi Minoxidil, Anthralin.
+ Tiêm tại tổn thương: một số corticoid được sử dụng để tiêm tại chỗ
như hydrocortison, dexamethason, prednisolon, triamcinolon...khác nhau về
cấu trúc và thời gian tác dụng. Triamcinolone acetonide là thuốc được sử
dụng rộng rãi nhất và thời gian tác dụng kéo dài 4-6 tuần [38].
+ Uống corticoid: có hiệu quả trong điều trị rụng tóc từng vùng, sử
dụng cần phải cân nhắc vì có nhiều tác dụng phụ. Trong trường hợp rụng tóc
từng vùng lan rộng nhanh, hoạt tính, liều khuyến cáo đối với người lớn
> 60kg là Prednisolon 40mg/ngày x 7 ngày, sau đó giảm 5mg mỗi 5 ngày
trong 6 tuần. Có thể kết hợp corticoide uống với bôi hoặc tiêm tại chỗ
corticoid hoặc bôi minoxidil [40].
- Điều trị tại chỗ
Có nhiều phương pháp điều trị tại chỗ, mỗi phương pháp đều có tác
dụng kích thích mọc tóc.
+ Minoxidil 5%: bôi tổn thương rụng tóc ngày 2 lần [13]. Thuốc tác
dụng lên nang tóc bằng 3 cách:
* Làm tăng thời gian phát triển của nang tóc.
21
* Đánh thức nang tóc trong giai đoạn chuyển tiếp.
* Làm rộng nang tóc thật sự.
+ Athralin: là thuốc điều hoà miễn dịch không chuyên biệt, có hiệu quả
trong kháng tế bào Langerhans. Thuốc thường được lựa chọn dùng cho trẻ em
và người lớn với mảng rụng tóc rộng.
* Kem anthralin 0,1%; 0,25%; 0,5%; 1%: Thời gian lưu thuốc trên da
đầu tăng dần lên: khởi đầu 5 phút sau đó tăng dần đến 1 giờ. Sau mỗi lần bôi
thuốc phải xả sạch tóc và gội sạch bằng xà phòng.
- Ngoài các thuốc trên người ta còn sử dụng một số thuốc như
dinitrochlobenzene, squaric aciddibutyl ester, diphenylclopropenone, PUVA,
cyclosporine, methotrexate ....
1.3. Kẽm và vai trò của nguyên tố kẽm trong bệnh rụng tóc từng vùng
1.3.1. Kẽm
Những năm cuối thế kỷ XIX, nhu cầu dinh dưỡng của kẽm đối với sự
sống đã được ghi nhận. Sau đó vai trò của kẽm trong hoạt động của hàng loạt
enzym ở người và động vật đã được phát hiện. Ngày nay, vai trò sinh học của
kẽm còn đang được tiếp tục khám phá, nhất là trong y học.
Trong bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học, kẽm có thể tìm thấy trong
nhóm II B cùng với hai kim loại độc cadmium và thủy ngân. Tuy nhiên, kẽm
được coi là tương đối không độc đối với con người [41].
Cation Zn ở dạng oxy hóa Zn2+, ổn định về tính sinh hóa.
Kẽm trong cơ thể được nhận vào từ thực phẩm có nguồn gốc động vật có
tính dễ hấp thu hơn kẽm có nguồn gốc thực vật.
Thức ăn có chứa nhiều kẽm nhất là những động vật thủy sinh như hàu,
trai, sò tiếp đó là đến gan lợn, thịt cóc, gạo nếp, đậu nành...
1.3.2. Vai trò và chuyển hóa của kẽm trong cơ thể
22
1.3.2.1. Nhu cầu kẽm hàng ngày
Trái ngược với hai kim loại trong nhóm không có vai trò sinh học nào
được biết, kẽm là nguyên tố thiết yếu không chỉ cho người mà còn cho tất cả
sinh vật, cho dù kẽm chỉ chiếm một phần rất nhỏ trọng lượng của cơ thể.
Theo các nhà khoa học lượng kẽm cần cho người trưởng thành hàng
ngày là 10-15 mg. Nhưng nhu cầu về kẽm còn tùy thuộc vào tuổi và trạng thái
sinh lý của cơ thể. Dưới đây là bảng nhu cầu kẽm hàng ngày cho từng đối
tượng [41]:
Đối tượng
Trẻ sơ sinh
Trẻ em
Phụ nữ
Nam giới
Phụ nữ mang thai
Phụ nữ cho con bú
Nhu cầu kẽm (mg/ngày)
2- 3
5- 9
8
11
11-12
12-13
1.3.2.2. Sự phân bố và chuyển hóa kẽm trong cơ thể
Cơ thể con người chứa 2- 3 g kẽm và gần 90% kẽm được tìm thấy trong
cơ và xương [42]. Các cơ quan khác có chứa kẽm bao gồm tuyến tiền liệt,
gan, đường tiêu hóa, thận, da, phổi, não, tim và tụy [43],[44]. Ở da, kẽm tập
trung ở thượng bì nhiều hơn gấp 5- 6 lần so với hạ bì. Sự hấp thu kẽm trong
miệng dẫn đến sự hấp thu trong ruột non và sự phân bố sau đó xảy ra thông
qua huyết thanh, nơi nó tồn tại chủ yếu với một số protein như albumin, α
globulin và transferrin [45]. Ở cấp độ tế bào, 30- 40% kẽm tập trung trong
nhân, 50% trong cytosol và phần còn lại có liên quan tới màng.
Kẽm được đưa vào cơ thể chủ yếu qua đường tiêu hóa, được hấp thụ
phần lớn ở ruột non. Vì vậy những người có bệnh đường tiêu hóa thường
thiếu kẽm. Kẽm được thải ra ngoài với một lượng lớn qua dịch ruột, dịch tụy
(2-5 mg), còn lại qua nước tiểu (0,5-0,8 mg) và mồ hôi (0,5mg). Khi vào cơ
thể, phần lớn kẽm tập trung trong tế bào, chỉ một lượng nhỏ trong huyết
23
tương, dạng gắn kết với protein.Lượng kẽm trong cơ thể có liên quan chặt chẽ
với môi trường sống và chế độ dinh dưỡng.Thiếu kẽm sẽ gây ảnh hưởng tới
sự phát triển bình thường của cơ thể và hơn nữa có thể là nguyên nhân gây
nên nhiều bệnh nguy hiểm, ảnh hưởng lâu dài tới cuộc sống của con người.
1.3.2.3. Vai trò của kẽm trong cơ thể
-
Trên các enzyme:
+ Kẽm có trong thành phần của hơn 300 loại enzym khác nhau, đặc biệt có
trong hệ thống enzym vận chuyển, thủy phân, đồng hóa, xúc tác phản ứng gắn kết
các chuỗi trong phân tử AND, xúc tác phản ứng oxy hóa cung cấp năng lượng.
+ Vai trò của kẽm được xác định bởi ba chức năng chính: xúc tác, cấu
trúc và điều hòa các phản ứng sinh học trong cơ thể.
-
Trên hệ gen: kẽm có vai trò sinh học rất quan trọng là tác động chọn lọc lên
quá trình tổng hợp, phân giải acid nucleic và protein- những thành phần quan
trọng nhất của sự sống.
-
Đối với hệ miễn dịch:
+ Trên thực nghiệm: thiếu hụt kẽm gây tổn hại lớn cho hệ miễn dịch:
giảm sản xuất lymphokin, giảm bài tiết thymulin và các kháng thể.
+ Nhiễm trùng thứ phát có xu hướng phát sinh sau thiếu kẽm nhẹ. Các
bệnh miễn dịch có liên quan tới thiếu kẽm: teo lách, teo tuyến ức, giảm tế bào
lympho,…
+ Thiếu kẽm cũng có thể xảy ra trên bệnh nhân AIDS giai đoạnmuộn
do tiêu chảy.
+ Khả năng miễn dịch của cơ thể được tăng cường nhờ kẽm, bởi nó hoạt
hóa hệ thống này thông qua cơ chế kích thích các đại thực bào, tăng các lympho
T…Vì vậy, khi thiếu kẽm, nguy cơ nhiễm khuẩn ở bệnh nhân sẽ tăng lên.
24
-
Trên hệ thần kinh trung ương: trong mô não, kẽm có nồng độ tương đối cao.
Mất kẽm làm giảm sự tăng trưởng của não; thiếu kẽm làm giảm trí nhớ và
nhận thức bị rối loạn.
-
Với các giác quan:
+ Vị giác: thiếu kẽm có thể giảm hoặc mất cảm giác thèm ăn.
+ Thị giác: thiếu kẽm có thể gây quáng gà, phù giác mạc.
+ Khứu giác: thiếu kẽm gây giảm khứu giác.
-
Trong sinh lý da:
+ Kẽm tạo thuận lợi cho sự tăng sinh và biệt hóa tế bào sừng.
+ Vai trò của kẽm trong hoại tử các tế bào sừng cũng quan trọng. Kẽm
là một đối kháng của calcium, ngăn chặn sự hoạt hóa của endonucleaza đặc
hiệu của hiện tượng hoại tử tế bào sừng. Kẽm cũng có hoạt tính kháng viêm
đặc hiệu ở da.
-
Trên hệ nội tiết: vai trò hết sức quan trọng của kẽm là nó tham gia điều hòa
chức năng của hệ thống nội tiết và có trong thành phần các hormon (tuyến yên,
tuyến thượng thận, tuyến sinh dục…). Hệ thống này có vai trò quan trọng trong
việc phối hợp với hệ thần kinh trung ương, điều hòa hoạt động sống trong và
ngoài cơ thể, phản ứng với các kích thích từ môi trường và xã hội, làm cho con
người phát triển và thích nghi với từng giai đoạn và các tình huống phong phú
của cuộc sống. Vì thế thiếu kẽm có thể ảnh hưởng tới quá trình thích nghi và
phát triển của con người.
-
Ngoài ra, các công trình nghiên cứu còn cho thấy kẽm có vai trò làm giảm
độc tính của các kim loại độc như nhôm(Al), asen (As), candimi (Cad)…
Góp phần vào quá trình giảm lão hóa, thông qua việc ức chế sự oxy hóa và
ổn định màng tế bào.
-
Cũng cần nói thêm rằng, kẽm không chỉ quan trọng trong hoạt động sống
với vai trò độc lập, mà còn quan trọng hơn khi sự có mặt của kẽm sẽ giúp
cho quá trình hấp thu và chuyển hóa các nguyên tố khác cần thiết cho sự
25
sống như đồng (Cu), mangan (Mn), magnesium (Mg)…Do vậy, khi cơ thể
thiếu kẽm sẽ kéo theo sự thiếu hụt hoặc rối loạn chuyển hóa của nhiều yếu
tố, ảnh hưởng rất lớn đến tình trạng sức khỏe.
1.3.2.4. Những nguyên nhân gây thiếu kẽm
-
Giảm hấp thu kẽm trong chế độ ăn: gặp ở những người ăn chay, người được
nuôi ăn kéo dài bằng đường tĩnh mạch, quá trình chế biến thức ăn không hợp
lý gây mất kẽm…
-
Kém hấp thu kẽm:
+ Bẩm sinh (rất hiếm) như bệnh khuyết tật bẩm sinh tuyến ức
+ Mắc phải: do một số chất gây ức chế hấp thu kẽm (acid phytic,
EDTA, penicillamin) hoặc hội chứng kém hấp thu (suy giảm chức năng gan,
suy giảm chức năng thận, bệnh Bowel…)
-
Tăng đào thải:
+ Mất kẽm qua đường tiêu hóa: tiêu chảy kéo dài, lỗ dò đường tiêu hóa,
bệnh lý dạ dày - ruột gây tiêu chảy…
+ Mất kẽm qua đường tiết niệu: xơ gan, đái tháo đường, bệnh thận,
thiếu máu tán huyết, tăng dị hóa kẽm (phẫu thuật, chấn thương, nhiễm
trùng…), sử dụng thuốc lợi tiểu, natri polyphotphate.
+ Trường hợp khác: bệnh nhân bỏng, chạy thận nhân tạo, bệnh nhân
điều trị ung thư…
+ Tăng nhu cầu kẽm: Phụ nữ mang thai, trẻ đẻ non…
1.3.2.5. Những dấu hiệu và triệu chứng của thiếu kẽm trong cơ thể
-
Mất cảm giác thèm ăn
-
Chức năng của hệ miễn dịch bị suy yếu
-
Rụng tóc
-
Tiêu chảy
-
Chứng bất lực
-
Tổn thương mắt và da