Tải bản đầy đủ (.doc) (65 trang)

LUẬN văn TRAN THI TRINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (275.75 KB, 65 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Mọi vật đều sợ thời gian sẽ phủ mờ đi tất cả, nhưng bản thân thời gian
lại sợ các vĩ nhân, bởi sự trường tồn của các vĩ nhân là trường cửu.
Lớp thời gian càng dày lên bao nhiêu thì càng tôn cao hơn, rực rỡ hơn,
rõ nét hơn những con người bất tử của nhân loại. Nguyễn Tuân và những
sáng tác của ông chính là minh định cho những giá trị như thế.
Là một nhà văn luôn “đi tìm cái đẹp, cái thật” trong cuộc đời,
Nguyễn Tuân đã để lại những dấu ấn đậm nét, độc đáo, khó có thể lẫn lộn
với các nhà văn đương thời. Nếu Vang bóng một thời được đánh giá như
một tác phẩm “gần đạt đến độ toàn thiện, toàn mỹ” (Vũ Ngọc Phan) thì
Yêu ngôn là đỉnh cao của thế giới nghệ thuật đặc thù độc đáo của
Nguyễn Tuân. Yêu ngôn là cả một thế giới thần kỳ, ma quái mà ở đó nhà văn
có thể tìm ra cái đẹp, cái thật trong cuộc đời. Không chỉ vậy, thể tài Yêu ngôn
còn đưa nhà văn đến với dòng văn học mới, một dòng văn học

đậm chất kì

ảo. Và trong văn học yếu tố kì ảo, quái dị đã từng làm nên một dòng truyện
đặc sắc nửa đầu thế kỉ XX.
Yếu tố kì ảo không chỉ biểu hiện quan niệm về thế giới đa chiều và con
người tâm linh, sự hữu hình hóa cái ác và giấc mơ về chân – thiện – mỹ,
mà còn thể hiện cảm hứng nhận thức lại thực tại và chất triết lí. Yêu ngôn đã
và đang tiếp tục khẳng định giá trị trong dòng chảy văn học đương đại để làm
rõ những giá trị, những kinh nghiệm và truyền thống của loại “truyện kì ảo”
mà cây bút bậc thầy Nguyễn Tuân đã từng khai phá và sáng tạo. Tìm hiểu
Yếu tố kì ảo trong tập truyện ngắn Yêu ngôn của Nguyễn Tuân góp phần nhìn
nhận và đánh giá toàn diện hơn về thế giới nghệ thuật đặc thù trong sự nghiệp
văn chương Nguyễn Tuân, cùng với những đóng góp to lớn cho văn học kì ảo


Việt Nam.


2

2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Nguyễn Tuân là một hiện tượng văn học đặc biệt đã có rất nhiều
nhà nghiên cứu tìm hiểu về phong cách sáng tác cũng như sự nghiệp của ông.
Riêng với Yêu ngôn có thể kể đến một số bài viết, công trình nghiên cứu
như sau:
Trước hết, phải kể đến GS. Nguyễn Đăng Mạnh, ông là một trong số
các nhà nghiên cứu “tâm huyết” với nhà văn Nguyễn Tuân và đã có nhiều
bài viết nghiên cứu về Nguyễn Tuân khá toàn diện và sâu sắc từ thân thế
sự nghiệp đến quan điểm nghệ thuật, ngôn từ nghệ thuật… Đặc biệt, ông là
người đã thực hiện được điều mong muốn của Nguyễn Tuân khi sưu tầm
các truyện ngắn kì ảo thành một cuốn hoàn chỉnh là Yêu ngôn. Trong Lời giới
thiệu tập truyện, Nguyễn Đăng Mạnh cũng đã phác họa diện mạo cơ bản của
Yêu ngôn. Ông cho rằng những truyện Yêu ngôn được viết trong thời kỳ sáng
tác bế tắc nhất, khủng hoảng nhất của Nguyễn Tuân. Trong những truyện
quái đản ấy, Nguyễn Đăng Mạnh cũng nhìn thấy phảng phất những con
người tài hoa tài tử “Và dù là chuyện ma thì cũng là ma tài tử, ma của
Nguyễn Tuân” [22, tr. 8].
Ở bài viết Nguyễn Tuân trong tùy bút, Phong Lê nhận định những
tác phẩm trước Cách mạng tháng Tám của Nguyễn Tuân là thể hiện “một
sự thất vọng trước hiện tại, nhà văn đã quay về quá khứ để nhấm nháp
những hình ảnh “vang bóng một thời”, những thú vui được xem là thanh lịch
như ướp hương cuội, thả thơ…thậm chí có những ham muốn dã man, ma quái
như buổi “tiệc đầu lâu”, và cách “chém treo ngành”…Ông cho rằng
Yêu ngôn chính là sự “lạc bút” của Nguyễn Tuân, là sự đào bới mãi trong cái
tôi cô đơn, ích kỷ, mặc kệ cuộc đời, đi mãi vào chủ nghĩa cá nhân hưởng lạc,

thế giới Nguyễn Tuân hoàn toàn cách biệt với cuộc sống nhân dân. Rồi không
tránh khỏi có lúc, nhà văn đi lạc sang một thế giới khác, cái thế giới kinh dị,


3

ma quái như trong Trên đỉnh non Tản, Báo oán, Loạn âm…và sau này là
Chùa Đàn” [16, tr. 75]. Đi sâu vào thế giới Yêu ngôn Phong Lê còn cho rằng
“dù có muốn đi lên non Tản, hoặc xuống cõi âm, thế giới của Nguyễn Tuân
vẫn chỉ là một thế giới tù túng, chật hẹp, ngột ngạt, thiếu khí trời và thiếu khí
người” [16, tr. 75].
Tôn Thảo Miên cũng đánh giá mạch truyện Yêu ngôn là “một hướng
thoát ly khác là đi vào loại truyện thần kỳ, quái đản, thả tư tưởng của mình
vào cõi âm, tránh xa cuộc sống trần gian…Và phần lớn sáng tác của
Nguyễn Tuân thời kỳ này đã bộc lộ những phản ứng tiêu cực của ông đối với
xã hội, hoặc là đi tìm lại những vẻ đẹp trong dĩ vãng để rồi ngậm ngùi,
nuối tiếc, hoặc là buông thả mình trong cuộc sống bê tha trụy lạc, hoặc là
trốn tránh cuộc sống thực tại bằng cách sáng tác các loại truyện thần kỳ,
quái đản, truyện về một cõi âm mơ hồ nào đó” [16, tr. 20].
Nguyễn Thị Thanh Minh trong bài viết Một phong cách tự sự của
Nguyễn Tuân đã khẳng định: “Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Tuân đã
viết một loạt truyện gọi là Yêu ngôn. Đây cũng là một cuộc săn tìm những
cảm giác mới lạ, mãnh liệt. Ở đề tài này, Nguyễn Tuân có thể bộc lộ tất cả sức
mạnh của trí tưởng tượng, để diễn tả niềm khao khát cảm giác khác thường,
điều mà ông không thể tìm thấy trong cuộc sống thực tại” [20, tr. 331].
Thụy Khuê trong bài viết Thi pháp Nguyễn Tuân, đã nhấn mạnh “Yêu
ngôn lộ rõ chủ đích Nguyễn Tuân muốn tìm mối liên lạc siêu hình giữa sống,
chết, tình yêu và nghệ thuật, đưa ra quan niệm"Tài, Tử tương đố" như một đối
xứng với thuyết "Tài, Mệnh tương đố" của Nguyễn Du. Tài tử nào rồi cũng
chuốc lấy cái chết, cái chết của họ gần như tiền định bởi chữ tài đi liền với

chữ tử, chữ tử này lại đồng âm với tử chết, tức là trong tài tử đã có sự đồng
âm với cái chết” [30].


4

Trong bài viết Nguyễn Tuân – Người nhập vai, Vương Trí Nhàn cho
rằng “Yêu ngôn ra đời từ sự hết lòng làm nghề, nhập thân với nghề. Người ta
bắt gặp những khi Nguyễn Tuân như mê hoặc trong ma lực của ngôn ngữ,
ngòi bút như ốp dòng để rồi viết ra những áng văn rờn rợn một thứ chất kì
quái. Trước Cách mạng, cộng với những bế tắc trong tìm tòi nghệ thuật,
những giây phút tự mê hoặc này đã làm nảy sinh trong ông những trang “yêu
ngôn” như Xác ngọc lam, Đới roi, Rượu bệnh và đỉnh cao là Chùa Đàn” [17,
tr. 201].
Tiếp đó, trong các loạt bài viết Một số suy nghĩ về Nguyễn Tuân và Yêu
ngôn, Nguyễn Tuân và Một tư duy nghệ thuật kiểu Liêu Trai, Vương Trí Nhàn
đã giải thích về nhan đề của tập truyện ngắn Yêu ngôn: “Hai chữ yêu ngôn
dùng ở đây là nhằm để chỉ loại truyện ở đó cuộc đời rờn rợn một không khí
ma quái; nhiều chuyện xảy ra nhỡn tiền mà huyền hoặc như xưa nay chỉ có ở
cõi âm; nhân vật thì có người mà lại có ma, người và ma sống lẫn lộn để rồi
cùng nhau làm nên những chuyện ly kỳ quái đản, song suy cho cùng lại gợi ra
cho người đọc thấy cái tinh thần sâu xa của đời sống hiện thực” [35].
Trong bài viết Liêu trai hiện đại Việt Nam, Trần Lê Bảo đã cho rằng
“Và liêu trai hiện đại Việt Nam là lưu ý những truyện ngắn hiện đại Việt Nam
chẳng những có màu sắc kì ảo như liêu trai của Trung Quốc mà có sự cách tân
theo những yêu cầu mới của thời đại, của tâm hồn dân tộc Việt Nam. Và Yêu
ngôn là một trong những truyện đó. Yêu ngôn của Nguyễn Tuân với những
oan hồn xỏa tóc, non cao huyền bí trong văn học hiện đại như đã gặp đâu đây
những trang sách của Bồ Tùng Linh”. [13, tr. 308]. Từ đó, giúp ta nhận thấy
Yêu ngôn của Nguyễn Tuân được viết theo lối Liêu Trai của Bồ Tùng Linh

với những chuyện ma chuyện quỉ hết sức kì quái hoang đường.
Gần đây, trên Tạp chí Thế giới trong ta, số 418/2013 có bài viết Tình
huống truyện trong Yêu ngôn của Nguyễn Tuân, Nguyễn Hoàng Liêm đã nhận


5

định “loại truyện Yêu ngôn của Nguyễn Tuân bắt nguồn từ truyện truyền kì,
chí quái thời trung đại. Thông thường người xưa viết truyện hoang đường,
ma quái hay thần tiên với mục đích răn đời, tải đạo. hướng con người đến
chân – thiện – mỹ. Thế nhưng với Nguyễn Tuân “yêu ngôn trước hết phải là
yêu ngôn”. Cho nên, truyện của Nguyễn Tuân dù “yêu ngôn” thế nào đi chăng
nữa vẫn mang nội dung luân lý, đạo lý, quan niệm nhân sinh sâu sắc của
nhà văn” [10, tr. 25].
Qua việc khảo sát các bài viết, công trình nghiên cứu trên thì ta có thể
thấy với nhà văn Nguyễn Tuân đã có nhiều trang viết và phê bình về ông, về
con người và văn nghiệp. Tuy nhiên, đối với Yêu ngôn của Nguyễn Tuân cho
đến nay chưa được nghiên cứu một cách hệ thống và đầy đủ như một chỉnh
thể, một thể tài riêng biệt. Hầu hết các bài nghiên cứu chỉ điểm qua một số nét
chính về tác phẩm và xem đó là những tác phẩm viết trong thời kỳ khủng
hoảng, bế tắc của nhà văn. Nhưng đây chính là những định hướng để chúng
tôi tiếp cận tìm hiểu và tìm kiếm những giá trị ẩn chứa trong tập truyện ngắn
Yêu ngôn. Với đề tài yếu tố kì ảo trong tập truyện ngắn Yêu ngôn hi vọng sẽ
góp phần khẳng định tài năng, phong cách cũng như sự đóng góp của nhà văn
Nguyễn Tuân đối với dòng văn chương kì ảo nói riêng và văn học Việt Nam
nói chung.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Yếu tố kì ảo trong tập truyện ngắn Yêu ngôn
của Nguyễn Tuân thể hiện trên các bình diện nhân vật, không gian, thời gian.
- Phạm vi nghiên cứu: Chúng tôi khảo sát trong cuốn Yêu ngôn của

Nguyễn Tuân do Nguyễn Đăng Mạnh (sưu tầm và giới thiệu), Nxb Hội
văn, 1998.

nhà


6

4. Phương pháp nghiên cứu
Trong đề tài này, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu
chủ yếu sau đây:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Đây là phương pháp chính được
chúng tôi sử dụng khi triển khai đề tài này. Để từ đó giúp ta có một cách nhìn
sâu sắc, toàn diện và thấu đáo hơn về phong cách độc đáo cũng như nghệ
thuật đặc thù của ông.
- Phương pháp hệ thống: Chúng tôi tiếp cận sự nghiệp sáng tác,
đặc biệt là tập truyện ngắn Yêu ngôn theo một hệ thống gồm nhiều tác phẩm.
Nghiên cứu quan hệ tương tác giữa hệ thống các yếu tố nội dung và hình thức
của tác phẩm, để từ đó phát hiện yếu tố kì ảo sau những câu chuyện, những
cảnh đời ông đã sáng tạo trong tác phẩm và cách thức thể hiện yếu tố kì ảo đó.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu: Đây là phương pháp được chúng tôi
sử dụng xuyên suốt trong quá trình thực hiện luận văn. Để thấy rõ hơn nét độc
đáo, đặc thù của tài năng Nguyễn Tuân trong Yêu ngôn.
5. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Nội dung chính của luận văn được
triển khai qua 3 chương:
Chương 1. Nguyễn Tuân trong khuynh hướng văn học kì ảo.
Chương 2. Yêu ngôn – Thế giới nghệ thuật kì ảo.
Chương 3. Yêu ngôn – Một số phương thức nghệ thuật thể hiện yếu tố
kì ảo



7

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. NGUYỄN TUÂN TRONG KHUYNH HƯỚNG VĂN HỌC
KÌ ẢO
1.1. Yếu tố kì ảo trong văn chương
Cuộc sống là thế giới muôn hình muôn dạng và đa sắc màu, con người
dường như bị thu nhỏ trong thế giới ấy. Để có niềm tin yêu và lạc quan hơn
trong cuộc sống, con người có lúc cần đến trí tưởng tượng hư ảo. Trí tưởng
tượng giúp họ được thăng hoa và chiếm lĩnh đời sống hiện thực lẫn tinh thần.
Còn đối với người nghệ sĩ, họ cần đến sự tưởng tưởng để tạo nên những tác
phẩm nghệ thuật độc đáo. Có thể nói, trí tưởng tượng và sự hư cấu như một
chất mem xúc tác tạo ra những giá trị thẩm mỹ tích cực. Và “bằng cách dùng
một hình thức không có thực để phản ánh cái có thực nhà văn đã tạo nên một
thế giới hoàn toàn mới mẻ, sinh động và khác lạ” [4, tr. 7]. Đó là cách để
chạm tay vào cuộc sống, vào một thế giới không có thực nơi mà con người
chưa bao giờ được đến. Tất cả các sản phẩm của trí tưởng tượng được hư cấu
ấy gọi cách khác là “cái kì ảo”. Và không quá đề cao vai trò của cái kì ảo khi
cho rằng cái kì ảo đã phát huy hết khả năng góp phần làm nên diện mạo tinh
thần và vẻ đẹp riêng cho tác phẩm văn chương.
Yếu tố kì ảo ra đời từ rất lâu trong văn học nhân loại từ văn học dân
gian cổ đại đến văn học hiện đại. Nó đã trở thành một dòng chảy liên tục
trong dòng chảy của văn học nhân loại và thu hút được sự quan tâm của nhiều
nhà nghiên cứu. Mặc dù xuất hiện từ rất lâu nhưng bàn về khái niệm của
mảng văn học kì ảo cho đến nay vẫn chưa có một định nghĩa nào thống nhất
cả. Gần đây, trên nhiều sách báo, tạp chí ngoài thuật ngữ "truyện kì ảo" còn
xuất hiện một số thuật ngữ khác như "truyện kinh dị", "truyện kì lạ", "truyện
huyền ảo", "truyện ma"…Dù tên gọi khác nhau nhưng nội dung, hình thức

của nó đều mang yếu tố kì ảo.


8

Trong Từ điển Tiếng Việt tác giả Hoàng Phê đã định nghĩa "kì ảo là có
vẻ đẹp là lạ, tựa như chỉ có trong tưởng tượng không có thật" [19, tr. 642]. Cái
kì ảo được chuyển dịch bằng thuật ngữ Fantastic nguyên là tiếng Pháp là
Fantastique, tiếng La Tinh là Phantasticus. Theo từ điển Pháp – Việt của các
nhà soạn giả khác nhau thì “cái kì ảo là sản phẩm của trí tưởng tượng, được
tạo ra nhờ khả năng suy tưởng, ở đó cái siêu nhiên chiếm ưu thế. Đó là những
cái không mang tính chân thực, chỉ tuân theo quy luật của tưởng tượng. Đó là
cái kì quặc, dị thường hư ảo, quái dị, siêu nhiên, khinh khủng huyễn hoặc” [2,
tr. 15]. Và trong công trình Cái kì ảo trong tác phẩm Balzac Lê Nguyên Cẩn
đưa ra công thức về cái kì ảo như sau:
Fantastic = normol + supranrmal
Cái kì ảo = bình thường + phi thường, siêu nhiên
Lê Nguyên Cẩn đã vạch ra những điểm khái quát nhất về cái kì ảo.
Ông đã dùng thuật ngữ Lefantastique từ tiếng Pháp để minh định thuật ngữ
cái kì ảo: “cái kì ảo là một phạm trù tư duy nghệ thuật, nó được tạo ra nhờ trí
tưởng tượng và được biểu hiện bằng các yếu tố siêu nhiên, khác lạ, phi
thường, độc đáo… Nó có mặt trong văn học dân gian, văn học viết qua các
thời đại. Nó tồn tại trên trục thực – ảo, và tồn tại độc lập, không hòa tan vào
các dạng thức khác của trí tưởng tượng” [2, tr.16]. Ông xem cái kì ảo như một
yếu tố nghệ thuật xuất phát từ trí tưởng tượng. Nó như một vết đứt gãy trong
hệ thống ý nghĩa, sự rung động của ý nghĩa từ đó làm mê hoặc con người. Cái
kì ảo "còn có thể sinh ra từ giấc mơ, từ sự kết thúc dục vọng, dễ dàng nắm bắt
ý nghĩa tượng trưng. Từ đó, nó tiếp nhận một sức mạnh bí hiểm" [2, tr. 27].
Ngoài ra, Lê Nguyên Cẩn đưa ra 11 đề tài kì ảo của Roger Caillois, sau
đó là 23 đề tài kì ảo của M.Schneider, chủ yếu tập trung vào các môtíp và

nhân vật. Theo đó, thuật ngữ Fantastique hay Fantastic, thì cái kì ảo chính là
“một phạm trù tư duy nghệ thuật, một sản phẩm của trí tưởng tượng, được


9

hiện diện dưới hình thức thần linh, ma quỉ, khác lạ, phi thường, siêu nhiên.
Tồn tại trong thực tế nghệ thuật đặc thù, cái kì ảo tạo ra “sự đứt gãy trong
chuỗi liên kết vũ trụ”, tạo nên “sự do dự, phân vân trong lòng độc giả. Là sự
xâm nhập của cái siêu nhiên trong cuộc sống đời thường, là sự xâm lấn của
yếu tố phi lôgic trong thế giới lôgic. Từ đó, nó trở thành một lăng kính thẩm
xét con người và cuộc đời, trở thành một phương tiện nghệ thuật được sử
dụng rộng rãi” [2, tr.29].
Còn với Todorov trong công trình Dẫn luận về văn chương kì ảo, cái kì
ảo là “sự kiện không thể giải thích được bằng những quy luật của chính cái
thế giới quen thuộc này… Người cảm nhận sự kiện phải lựa chọn một trong
hai giải pháp: hoặc đây chỉ là ảo ảnh của giác quan, một sản phẩm của tưởng
tượng và những quy luật của thế giới này vẫn vậy; hoặc quả thật sự kiện đã
diễn ra, nó là bộ phận của toàn bộ thực tế, nhưng bây giờ thực tế ấy lại được
điều hành bởi những quy luật mà chúng ta không biết… Cái kì ảo chiếm lĩnh
thời gian của sự mơ hồ ấy tới khi chọn lấy một trong hai giải đáp, ta đã rời bỏ
cái kì ảo để đi vào một thể loại cận kề, cái lạ hoặc cái thần tiên. Cái kì ảo đó
là sự lưỡng lự cảm nhận bởi một con người chỉ biết có các quy luật tự nhiên,
đối diện với một hiện tượng bên ngoài mang tính siêu nhiên [24, tr. 34].
Tác giả Ngô Tự Lập nhận định: “Kì ảo, đó chính là mê lộ nghệ thuật,
và cũng như trong những lĩnh vực khác, nó xuất hiện ở mọi nơi, khi trật tự đã
trở nên bó buộc, vừa đáng ghét vừa đáng sợ và tính hợp lý của trật tự ấy đã bị
đặt thành câu hỏi. Tuy nhiên, những thiết chế văn minh càng chặt chẽ, càng
ráo riết thì sự xuất hiện của nó càng kịch tính, như những gì chúng ta
chứng kiến ở phương Tây” [11, tr. 29].

Và Phùng Hữu Hải đưa ra định nghĩa: "Cái kì ảo là sản phẩm của trí
tưởng tượng được biểu hiện bằng những năng lực, yếu tố có tính siêu nhiên,
nằm ngoài tư duy lí tính của con người" [32].


10

Tác giả Lê Nguyên Long nhận xét: “Cái kì ảo là cái không thể cắt nghĩa
được bằng lí tính từ điểm nhìn của chúng ta với tầm nhận thức hiện tại. Chính
cái không thể cắt nghĩa bằng lí tính ấy đã tạo nên một “sự đứt gãy trong chuỗi
liên kết vũ trụ”, gây ra tâm trạng hoang mang cho những người nào đối diện
với nó, bởi theo Vax, khi con người không còn xem những mê tín của mình là
điều nghiêm túc nữa thì họ sử dụng chúng để sáng tạo nên nghệ thuật” [12].
Có thể thấy rằng, việc bàn luận về yếu tố kì ảo ta có thể khẳng định
rằng cái kì ảo dường như diễn ra trong trí tưởng tượng, cùng với sự hư cấu để
tạo nên sự lưỡng phân, mơ hồ. Và phải chăng cái kì ảo là một trong những thủ
pháp nghệ thuật hữu hiệu và độc đáo của kho tàng văn xuôi thế giới.
Từ nội hàm khái niệm "cái kì ảo" có thể thấy “văn học kì ảo là loại hình
văn học trong đó có các yếu tố ma quái, quái dị, những con người không có
thực” [2, tr.16]. Và văn học kì ảo đã trở thành “bộ phận văn học nhận thức
và phản ánh cuộc sống từ đặc trưng và thế mạnh của những yếu tố khác lạ,
phi thường, đôi khi vượt ra khỏi khả năng nhận thức thông thường của lí trí”
[27, tr.52]. Còn tác giả Todorov trong Dẫn luận về văn học kì ảo lại chỉ ra
rằng: “văn học kì ảo đặc biệt chú ý miêu tả các hình thức thái quá lẫn sự
chuyển hoá đặc biệt của chúng, hoặc là sự đồi bại. Chưa kể vị trí của cái tàn
nhẫn và bạo lực, ngay cả cái chết, cuộc sống sau chết, các xác chết mà ma
quái cũng đều gắn với đề tài tình yêu” [2, tr.21].
Như vậy, có thể thấy rằng văn học kì ảo là một dòng chảy liên tục từ
quá khứ đến hiện tại. Trong các tác phẩm văn học dân gian cổ đại, yếu tố kì
ảo, "nó phản ánh những mặt nhận thức còn “ngây thơ”, niềm tin lý tưởng của

người cổ đại về thế giới. Yếu tố kì ảo thành một dòng chảy liên tục trong
dòng chung của lịch sử văn học nhân loại từ thời cổ đại qua trung đại đến cận
đại" [12]…Còn đến văn học hiện đại yếu tố kì ảo còn được sử dụng để phản
ánh thái độ của con người về những ẩn ức xã hội, những điều kiêng kị trong


11

xã hội không được phép nói đến. Một trong những mục đích của việc sử dụng
yếu tố kỳ ảo chính là để “thoả mãn cái lý tưởng đạo đức đang mâu thuẫn với
một môi trường xã hội nhất định” [36]. Và đến tận ngày hôm nay, dù đã đi sâu
vào khám phá thì thế giới vẫn còn ẩn chứa nhiều điều bí mật mà con người
chưa thể lí giải hết. Vậy nên, ở thời kỳ nào giai đoạn nào, văn học kì ảo vẫn
luôn được xem là phương tiện để đi vào thế giới muôn hình muôn vẻ của cuộc
sống. Mặt khác, yếu tố kì ảo còn được sử dụng để phản ánh thái độ của con
người về cuộc sống xã hội, về thế giới tâm linh. Đây cũng là phương tiện để
nhà văn khám phá cuộc sống và chuyển tải tư tưởng thẩm mỹ, quan niệm
nhân sinh quan của mình đến với người đọc.
1.2. Nguyễn Tuân và cuộc hành trình đến với văn học kì ảo
Văn học là một loại hình nghệ thuật, một hình thái ý thức xã hội
đặc thù luôn vận động, biến chuyển. Diễn tiến của văn học như một hệ thống
chỉnh thể với sự hình thành, tồn tại, phát triển qua các thời kỳ lịch sử. Vì vậy
có thể nói văn học là “đứa con tinh thần” của cuộc sống, mang nhịp đập,
dáng dấp và hơi thở của thời đại.
Trong giai đoạn 1930 – 1945 đã xảy ra biết bao sự kiện của lịch sử, xã
hội thay đổi dẫn đến sự biến đổi sâu sắc trong ý thức và tâm lý con người. Sau
nhiều phong trào cách mạng không thành, một không khí chán nản, u hoài
bao trùm lên đời sống. Xã hội phong kiến đã chà đạp lên cuộc sống của con
người, họ bị đẩy vào con đường bế tắc cùng quẫn. Với các nhà văn nhà thơ,
họ tìm đến văn chương như một thủ pháp để đào sâu “cái tôi” nội cảm, diễn tả

những ước mơ, khát vọng của cá nhân. Đối với hiện thực xã hội, thái độ của
nhà văn là thái độ chủ quan, họ nhìn đời qua lăng kính của mình, qua những
khát vọng, qua sức tưởng tượng của mình. “Để thoát khỏi hiện thực cuộc sống
chật chội tù túng ấy, các nhà văn đã dùng nhiều yếu tố để thoát ly. Có một con
đường giúp người ta thỏa mãn mong muốn ấy đó chính là thoát ly vào thế giới


12

kì ảo. Thoát vào thế giới kì ảo chính là cách để nhà văn thỏa mãn được những
khát khao giải phóng tự do cá nhân của con người. Thoát vào thế giới kì ảo
còn là nơi để nhà văn cân bằng lại trạng thái đời sống tinh thần” [25]. Ta có
thể bắt gặp trong văn học Việt Nam kì ảo 1930 – 1945 một Xuân Diệu trốn
chạy trong tình yêu với ngập tràn hương sắc, một Huy Cận đắm chìm trong
mối sầu vạn kí với cái mênh mông không cùng, một Chế Lan Viên u uẩn rên
rỉ tìm về một thời hoàng kim của vương quốc Chiêm Thành nay đã mất, một
Lưu Trọng Lư ru mình trong thế giới mộng tưởng bằng cả tâm hồn sầu
mộng”. Rồi những nhà văn với tôn chỉ “tươi trẻ, yêu đời”, “có chí phấn đấu
và tin vào sự tiến bộ”, “tôn trọng tự do cá nhân” trong các tiểu thuyết như
Nhất Linh, Hoàng Đạo, Khải Hưng. Họ đã tạo nên một trường sáng tạo mới,
những đóng góp mới cho văn chương truyền kì. Chính họ dám “phủ nhận cái
hủ lậu để khai phá những miền đất mà trước đây không dành cho hai từ bản
ngã” [34, tr. 3]. Nhưng khó có thể tưởng tượng nổi nếu trong bức tranh văn
xuôi “truyền kỳ” thời hiện đại lại thiếu vắng khuôn mặt của một trong những
cây bút lớn nhất và tài hoa nhất của văn học Việt Nam hiện đại: Nguyễn Tuân.
Quả thật “với một cá tính, một vốn hiểu biết về phương Đông rộng, sâu và kỹ
tính như Nguyễn Tuân thì lối viết truyện huyền bí, chứa đựng nhiều chất “kì”
kiểu liêu trai, truyền kì rất hợp với cái “tạng” của cây bút này” [5, tr. 642].
Nguyễn Tuân khởi nghiệp từ đầu những năm 30 đầu thế kỷ XX. Với
ông, nghề viết văn, làm báo luôn luôn gắn bó với nhau. Ông viết bài cho tờ

Trung Bắc Tân văn, vừa gửi đăng một số bài thơ, truyện ngắn, bút ký trên các
tờ Đông Tây, An Nam tạp chí, Tiểu thuyết thứ bảy… và cả những bài phê bình
của ông về văn học và hội họa. Những truyện ngắn, bút ký và thơ ở thời kỳ
này của ông ký nhiều tên Ngột Lôi Quất, Thanh Hà, Nhất Lang, Tuân,
Nguyễn Tuân, Ân Ngũ Tuyên, Tuấn Thừa Sắc. Nguyễn Tuân không phải là
nhà văn thành công ngay từ những tác phẩm đầu tay. Ông đã thử bút qua


13

nhiều thể loại: thơ, bút kí, truyện ngắn hiện thực trào phúng. Nhưng mãi đến
đầu năm 1938, ông mới nhận ra sở trường của mình và thành công xuất sắc
với các tác phẩm: Một chuyến đi (1938), Vang bóng một thời (1939), Thiếu
quê hương (1940), Chiếc lư đồng mắt cua (1941),…
Tác phẩm Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám chủ yếu
xoay quanh ba đề tài: “chủ nghĩa xê dịch”, vẻ đẹp “Vang bóng một thời” và
đời sống trụy lạc. Mỗi đề tài đều tạo một dấu ấn cho nhà văn Nguyễn Tuân.
Riêng với Vang bóng một thời “tác phẩm đầu tay của ông là một văn phẩm
gần tới sự hoàn thiện, toàn mỹ” (Vũ Ngọc Phan). Nguyễn Tuân đã đi tìm
những cái đẹp, cái thật trong cuộc đời để ca ngợi cái đẹp của nghệ thuật
“chém treo ngành” (Bữa rượu máu), cái đẹp của nghệ thuật “ném bút chì”
(Một đám bất đắc chí)… Với tác phẩm Chiếc lư đồng mắt cua, ngọn đèn dầu
lạc, Tàn đèn dầu lạc, Nguyễn Tuân đã ghi lại khá đầy đủ và chân thực cuộc
sống bê tha, trụy lạc. Ở những tác phẩm này, người ta thường thấy có một
nhân vật “tôi” hoang mang bế tắc, tìm cách thoát ly trong đàn hát, trong rượu
và thuốc phiện. Trong tình trạng khủng hoảng tinh thần ấy, người ta thấy đôi
khi vút lên từ cuộc đời nhem nhuốc, phàm tục, niềm khao khát một thế giới
tinh khiết, thanh cao được nâng đỡ trên đôi cánh của nghệ thuật (Chiếc lư
đồng mắt cua). Lòng yêu nước và thái độ bất mãn với xã hội có lẽ đã đưa ông
đến với khuynh hướng văn học kì ảo. Nguyễn Tuân đã trốn thực tại bằng cách

thoát li vào loại truyện thần kì quái đản, thả tư tưởng của mình vào cõi âm,
tránh xa cuộc sống trần gian… Nói như Bồ Tùng Linh “con người không có
sự ngăn cách tuyệt đối giữa “cõi sống” và “cõi chết”, chỉ có một chiều hướng
duy nhất nhận ra mình là quay nhìn lại quá khứ, hoá thân vào quá khứ mà nảy
sinh nhu cầu sáng tác, thưởng thức, truyền bá những câu chuyện li kì ma
quái” [7]. Nguyễn Tuân đã sử dụng yếu tố kì ảo như một chất men có tác
dụng kích thích năng lực tưởng tượng của nhà văn. Yếu tố kì ảo như một phép


14

nhiệm màu đưa người đọc đến với thế giới diệu kì, đa chiều đa sắc màu lung
linh huyền ảo. Chính vì thế, Nguyễn Tuân đã viết khá nhiều những truyện
mang màu sắc kì ảo. Ngoài một số truyện trong Vang bóng một thời như
Khoa thi cuối cùng (trong bản in lần đầu truyện này có tên là Báo oán), Trên
đỉnh non Tản…Nguyễn Tuân còn in rải rác trên các báo, tạp chí như Thanh
Nghị với các truyện Đới roi (số 29/1943), và trên Trung bắc tân văn có các
truyện: Lửa nến trong tranh (số 156/1943), Loạn âm (161/1943)… Và sau
này, nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh đã sưu tầm và biên soạn thành một
cuốn Yêu ngôn hoàn chỉnh. Giá trị về mặt nội dung, nghệ thuật và tư tưởng,
quan niệm nhân sinh của nhà văn đều được kết tinh trong tập truyện ngắn Yêu
ngôn này.
Trong Yêu ngôn, “Nguyễn Tuân đi tìm những vẻ đẹp trong dĩ vãng để
rồi ngậm ngùi, nuối tiếc, hoặc là buông thả mình trong cuộc sống bê tha trụy
lạc, hoặc là trốn tránh cuộc sống thực tại bằng cách sáng tác các loại truyện
thần kỳ, quái đản, truyện về một cõi âm mơ hồ nào đó…” [16, tr. 20]. Phải
chăng vì lẽ đó, mà nhà văn đã tạo ra cho mình một cõi riêng trong dòng văn
học kì ảo 1930 – 1945.
1.3. Yêu ngôn – một cõi riêng kì ảo Nguyễn Tuân
Từ xa xưa, trong những câu chuyện cổ tích, thần thoại đã xuất hiện

yếu tố kì ảo. Và có thể nói ngay từ lúc mới hiện diện, văn học Việt Nam đã
mang yếu tố kì ảo. Yếu tố kì ảo được xem là những đặc trưng của truyện
dân gian, nếu không có kì ảo thì không thể có những câu chuyện cổ tích hay
thần thoại. Phải chăng vì điều này, mà trong văn học đương đại Việt Nam và
cho tới bây giờ các tác phẩm đều mang dấu ấn của cái kì ảo.
Giai đoạn 1930 – 1945 Văn học Việt Nam vẫn tiếp tục dòng chảy ấy và
đã có sự phát triển cùng với những thành tựu đáng kể. Không thể không nhắc
đến Truyện ngắn đường rừng kì ảo (Lan Khai); Thần hổ, Ai hát giữa rừng


15

khuya (Tchya – Đái Đức Tuấn); Vàng và máu, Trại Bồ Tùng Linh (Thế Lữ);
Trên đỉnh non tản, Xác ngọc lam, Loạn âm, Khoa thi cuối cùng…(Nguyễn
Tuân); Lan rừng (Nhất Linh); Ngậm ngãi tìm trầm (Thanh Tịnh)… Bằng tài
năng, sự tìm tòi, sáng tạo của mình họ đã làm nên sự đa màu sắc cho thể tài
truyện kì ảo trong văn học.
Truyện của Lan Khai chủ yếu hấp dẫn người đọc bằng màu sắc xứ lạ
phương xa, tạo cảm giác mê đắm lòng người trong không gian huyễn hoặc để
rồi “đưa người ta vào tận rừng thẳm, dắt người ta một cách thân mật vào các
gia đình Thổ Mán, và cho người ta được thấy những tâm tính kì dị” [18,

tr.

298]. Với Thế Lữ, nhiều tác phẩm của ông vừa phủ lên nó sự rùng rợn,
huyền bí, lại vừa lý luận để giải thích những hiện tượng trên một cách
khoa học. Trong đó, Vàng và máu (1934) là tác phẩm tiêu biểu và thành công
nhất của ông ở thể loại kinh dị, đã trở thành một hiện tượng mới lạ ngay từ
khi ra đời và để lại dư âm đến nhiều năm sau. Với tác phẩm này,
Phan Trọng Thưởng đánh giá Thế Lữ là “tác giả đạt đến đỉnh cao nghệ thuật”

của loại truyện ly kỳ rùng rợn, Lê Huy Oanh gọi đây là “một trong những
tác phẩm thuộc loại truyện rùng rợn có giá trị lớn trong kho tàng tiểu thuyết
Việt Nam”. Tập truyện này được đánh giá cao ở lối kể chuyện hấp dẫn, li kỳ,
gây tò mò và xúc động cho độc giả, xây dựng giản dị, có kết giải, lối văn gọn
gàng, thanh thoát, trí tưởng tượng và khiếu phân tích phong phú, những đoạn
tả cảnh vừa tỷ mỉ lại rùng rợn mà có thi vị.
Khác với các nhà văn khác, Nguyễn Tuân là con người luôn thèm khát
những cảm giác mới lạ và mãnh liệt “Tôi muốn mỗi ngày trong cuộc sống của
tôi phải cho tôi cái say của rượu tối tân hôn”, những cảm giác ấy
“Nguyễn Tuân không thể tìm được trong cái môi trường vẫn vây bọc lấy ông
trong cuộc sống hằng ngày, phải đi tìm một thế giới khác để được sống mãnh
liệt, nồng nàn, cuồng nhiệt, phát huy tận độ cá tính của mình” [22,

tr. 9].


16

Đến với một thế giới khác, thế giới của cõi âm, cõi ma, thế giới

yêu

ngôn, Nguyễn Tuân lại cuốn hút độc giả bằng những nét lãng mạn riêng, giàu
chất thẩm mĩ, chất văn hóa, nhân bản . “Ông là một nhà văn đứng hẳn ra một
phái riêng, cả về lối văn lẫn về tư tưởng” [18, tr. 415]. Có lẽ, Yêu ngôn đã
làm nên những giá trị riêng biệt như thế.
Mạch truyện Yêu ngôn xuất hiện khá sớm: “Vào khoảng năm 1943,
người ta thấy xuất hiện trên tờ Thanh Nghị và Trung Bắc Chủ Nhật một số
đoản thiên của Nguyễn Tuân viết theo lối Liêu Trai của Bồ Tùng Linh. Toàn
là những chuyện ma chuyện quỉ hết sức kì quái hoang đường. Cùng một lúc,

cũng trên những tờ báo ấy, người ta thấy quảng cáo một đầu sách của
Nguyễn Tuân có tên là Yêu ngôn” [22, tr. 6]. Có thể nói đây là một thể tài
đặc biệt và định danh thể tài này cho nhà văn, ông đã tạo ra “một cõi riêng”
trong dòng văn học kì ảo. “Và dù là chuyện ma thì cũng là ma tài hoa, tài tử,
ma của Nguyễn Tuân” [22, tr. 7]. Nhà văn Nguyễn Tuân đã dự định làm từ
mấy năm 1942-1943 rồi bỏ đấy chưa kịp hoàn thành và sau một thời gian dài
những truyện này ít được nhắc tới. Qua nhiều năm, sau khi Nguyễn Tuân
qua đời, Yêu ngôn có dịp trở lại như một tác phẩm trọn vẹn hoàn chỉnh với
công sưu tầm, biên soạn và giới thiệu của nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng
Mạnh, được xuất bản bởi Hội nhà văn, năm 1998. Tập truyện ngắn Yêu ngôn
gồm các tác phẩm: Khoa Thi Cuối Cùng, Trên Ðỉnh Non Tản, Ðới Roi,
Xác Ngọc Lam, Rượu Bệnh, Lửa Nến trong tranh, Loạn âm, Tâm sự của nước
độc (tức Chùa Ðàn). Giải thích về sự ra đời của tập truyện ngắn Yêu ngôn,
Nguyễn Mạnh Ðăng có nhận xét: “Nhưng Nguyễn Tuân tìm vào thế giới yêu
ma có lẽ còn do một yêu cầu khác. Con người này luôn thèm khát những cảm
giác mới lạ và mãnh liệt…những cảm giác ấy, Nguyễn Tuân không thể tìm
được trong cái môi trường vẫn vây bọc lấy ông trong cuộc sống hàng ngày mà
ông chỉ thấy là lèm nhèm, lẹt đẹt và xám xịt” [22, tr. 9].


17

Có thể nói, mỗi truyện của Nguyễn Tuân là một công trình tuyệt mỹ
của thế giới yêu ngôn, kì ảo với những hình tượng nghệ thuật độc đáo. Đó
chính là “sự kết hợp ở mức độ nhuần nhuyễn những tinh hoa của nghệ thuật
Đông – Tây. Nếu Thế Lữ là người mở đầu cho xu hướng kết hợp chất truyền
kì, chí dị phương Đông với cái kinh dị của phương Tây thì Nguyễn Tuân
chính là người hoàn thiện sự kết hợp đó” [5, tr. 643]. Với dòng máu vị dân
tộc, nghiêng về thế giới cổ xưa huyền bí luôn rạo rực chảy trong huyết quản
và sự hấp thụ những tinh hoa văn hóa phương Tây. Nguyễn Tuân đã tự tạo ra

một thứ văn phong yêu ngôn kì ảo của riêng mình, rất giàu hương vị dân tộc
với một thế giới nhân vật vừa quen lại vừa lạ, không thể trộn lẫn với quá khứ.
Yêu ngôn – một kiểu truyện ma quái được chắt lọc, ẩn chứa những điều ma
lực. Bước vào thế giới yêu ngôn, nhà văn như đắm mình vào những câu
chuyện ma quái, nơi có sự pha trộn, hòa lẫn thực và ảo, cõi âm và cõi dương
đan xen, người và ma sống lẫn lộn để rồi khó mà phân biệt được là âm hay
dương, là ma hay người. Đó là truyện ma của thuở vang bóng một thời, ma tài
tử, tài hoa, kết hợp những vẻ đẹp riêng của truyền thống văn hóa dân tộc với
trí tưởng tượng mạnh mẽ, những cảm giác mới lạ. Nhưng vẻ đẹp huyền bí, ma
quái ấy vẫn thuộc thế giới nghệ thuật của Nguyễn Tuân và có lẽ đó là những
trang kiệt tác của văn xuôi truyền kì. “Và có lẽ cũng là những trang dễ nhận ra
cái bản sắc Việt Nam của nó nhất nếu để lẫn lộn vào các trang viết của các
bậc thầy văn xuôi khác. Các nhân vật của ông mỗi người một tính cách, dù đó
là anh khóa bị ma ám mỗi khi vào trường thi, người thợ mộc được Sơn thần
Tản Viên gọi lên sửa đền trên đỉnh Ba Vì, chàng Đới roi thà chết làm ma tài tử
chứ không chịu nhận tình thương “bố thí” của một đào nương hay Bá Nhỡ,
một người đầy tớ quyết đem mạng sống của mình để đổi lấy mấy giây phút
chói ngời của cảm hứng nghệ thuật…đều là những nhân vật 100% Nguyễn
Tuân, 100% Việt Nam, không thể nhầm lẫn họ với các nhân vật ẩn sĩ hay hồn


18

ma của Nguyễn Dữ, với những hồ ly tinh của Bồ Tùng Linh, hay các nhân vật
hồn ma trong các truyện kinh dị của Edgar Allan Poe (Mỹ), Prosper Mérimée,
Viller der L’isle Ađam” [5, tr. 644].
Như vậy, có thể nói Yêu ngôn là con đường để giúp nhà văn trình bày
quan niệm của mình về thế giới thực và cái đẹp trên đời này. Cái đẹp nhiều
khi phải đi đến cái tận cùng của nó thì người ta mới tìm thấy những giá trị
đích thực bên trong. Do vậy, truyện của Nguyễn Tuân dù yêu ngôn thế nào đi

chăng nữa và đọc Yêu ngôn có những lúc tạo cảm giác lo sợ, rờn rợn ma quái
nhưng ẩn đằng sau ấy là cả một nội dung luân lý, đạo lý sâu sắc gợi ra cho
người đọc thấy cái tinh thần sâu xa của đời sống hiện thực. Chình vì điều này
mà Yêu ngôn của Nguyễn Tuân đã tạo ra một cõi đi riêng trong dòng văn học
kì ảo.


19

CHƯƠNG 2. YÊU NGÔN – THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT KÌ ẢO
Tập truyện ngắn Yêu ngôn hấp dẫn và lôi cuốn người đọc bởi thế giới
hình tượng nghệ thuật độc đáo. Bằng trí tưởng tượng phong phú và tài năng
sáng tạo, Nguyễn Tuân đã tạo ra một thế giới hình tượng với những chi tiết
huyễn hoặc, kì ảo. Thế giới ấy lẫn lộn thực thực ảo ảo đã để từ đó nhà văn thể
hiện những quan niệm nhân sinh và triết lý về cuộc sống.
Thế giới hiện thực mang màu sắc kì ảo ấy được nhà văn sáng tạo
đặc sắc qua các nhân vật kì ảo, yếu tố không – thời gian kì ảo…Tất cả
đậm chất yêu ngôn Nguyễn Tuân. Nó mở ra một thế giới riêng, một cõi riêng
của Nguyễn Tuân mà trong đó ẩn chứa những cái đẹp, cái thật trong cuộc đời.
2.1. Nhân vật kì ảo
“Văn học là nhân học”, là mảnh đất màu mỡ cho sự sáng tạo của người
nghệ sĩ. Với Nguyễn Tuân, ông đã tạo dựng một lối đi riêng qua việc xây
dựng thế giới nhân vật rất đa dạng và phong phú với nhiều kiểu loại khác
nhau. Đó có thể là con người bình thường có tính cách và tài năng đặc biệt,
những hồn ma hiện hình trên dương gian, và cũng có thể là những hiện tượng,
đồ vật kì lạ…Tất cả được Nguyễn Tuân phủ lên một lớp kì ảo với độ đậm
nhạt khác nhau để tạo nên sự đa màu sắc trong thế giới Yêu ngôn.
Qua việc khảo sát Yêu ngôn, chúng tôi chia nhân vật kì ảo ra làm hai
kiểu: Đó là thế giới nhân vật hồn ma và thế giới những kì nhân, kì vật. Mỗi
kiểu loại dù mang những nét đặc trưng riêng nhưng đều ẩn chứa những tư

tưởng, quan niệm nhân sinh quan sâu sắc của nhà văn.
2.1.1. Thế giới nhân vật hồn ma
Trên mảnh đất kì ảo, Nguyễn Tuân đã thả sức tưởng tượng vào thế giới
nhân vật hồn ma. “Hồn ma – gợi ý niệm về một quyền năng vô hình…một
bản nguyên của sự sống” [3, tr. 448]. Trong Yêu ngôn, thế giới nhân vật hồn
ma hầu hết những con ma tài tử, tài hoa, chết đi mà hồn phách vẫn còn nặng


20

nợ với dương gian, ma hiện hình trong hình dạng con người bình thường, ma
chung sống, tâm tình với người. Ma biết yêu biết ghét, biết oán trách người
đời… Đó là hồn ma của cậu Ấm Đái (Đới roi), hồn ma người thiếu phụ báo
oán (Khoa thi cuối cùng), hồn ma Vị Quan Ôn báo ân (Loạn âm), hồn ma tài
tử ông Chánh Thú (Chùa Đàn) và hồn ma yêu – cô Dó (Xác ngọc lam).
Nhưng dù là “ma yêu”, “ma báo oán” hay “ma báo ân” thì cũng là ma tài hoa,
ma tài tử, ma của thế giới Yêu ngôn Nguyễn Tuân.
Trước hết là hồn ma tài tử cậu ấm Đái (Đới roi). Lúc còn sống trong
dương gian, Cậu Đái lừng danh một thời trong chốn ăn chơi tài tử ấy, ham mê
tiếng tơ, tiếng trúc, cậu tiêu cả cơ nghiệp vào giọng hát tiếng đàn. Khi sa cơ lỡ
vận không thể sống nhờ lòng thương hại của giáo phường, cậu đã chọn cái
chết âm thế và “cái người trai không vợ ấy đã trở thành một ông mãnh rất
thiêng thường hiện ra để quấy những nhà chủ cô đào ở Khâm Thiên dám vô lễ
với vong hồn mình mà vẫn oán kết gần quanh kỹ viện” [22, tr 76]. Là một con
người rất tài hoa, nhưng khi rơi vào hoàn cảnh bần cùng Đới Roi quyết định
treo cổ làm một con ma tài tử đêm đêm hiện về đánh trống chầu trên mái nhà
nơi hàng viện chứ nhất định không nhận một thứ tình yêu mà anh cho là “bố
thí”, ban ơn. Phải chăng với Đới roi, Nguyễn Tuân muốn gửi gắm đến người
đọc một nhân cách, một lối sống cao đẹp và khác thường qua hình tượng nhân
vật cậu ấm Đái. Đây cũng chính là khí tiết, lối sống cao đẹp một thời còn sót

lại giữa bề bộn ngổn ngang cuộc đời.
Cũng là hồn ma tài tử, trong Chùa Đàn Nguyễn Tuân để cho nhân vật
ông Chánh Thú hiện về trong giấc mơ của Cô Tơ và nói chuyện với cô về
chuyện đàn hát dưới âm phủ, rồi muốn được đầu thai làm người. Vào một
đêm nọ gần về sáng, Cô Tơ nửa thức nửa chờn nghe thấy tiếng người rón ren
trong buồng, cô quay mặt lại phía sau màn thì thấy ông Chánh Thú – hồn của
người chồng hiện về. Cái hồn mặc đồ vải trắng bệch phào phào với vợ: “Một


21

ngày rất gần đây, sẽ có một người tìm đến để nghe mình hát. Cứ để cho người
ấy đàn vào cái đàn dựng ở bàn thờ tôi…Đàn xong thì người ấy lăn ra chết.
Thế nghĩa là người ấy sẽ thế mạng tôi ở dưới cung Thủy Tinh này” [22, tr.
196]. Hồn ma xuất hiện trên dương gian, người và hồn ma nói chuyện bình
thường như trong cuộc sống hằng ngày. Thật rùng rợn! Phải chăng Nguyễn
Tuân đã sống thật sự với hồn ma, với các nhân vật quái đản của ông để đưa
người đọc vào một thế giới ma quái cho đến khi tấn thảm kịch đã kết thúc, ta
vẫn tưởng như đang sống trong cơn ác mộng không biết đâu là hư đâu là thực,
đâu là dương gian đâu là âm phủ.
Trong tác phẩm Khoa thi cuối cùng hiện lên với nhân vật ma báo oán.
Hồn ma xuất hiện ngay giữa trường thi: “Một người đàn bà trẻ, xỏa tóc, ẵm
con, hiện ngay lên dưới lều, ngay chỗ đầu chõng, kêu gào giữ rịt lấy tay
không cho viết quyển nữa. Gào khóc chán, người đàn bà ấy lấy mớ tóc xõa
quất vào mặt ông cứ bỏng rát lên” [22, tr. 23]. Oan hồn của người phụ nữ trẻ
cố phá không cho ông Đầu Xứ Anh và Đầu Xứ Em thi cử: “người đàn bà ấy
lấy mớ tóc xõa quất vào mặt ông cứ bỏng rát lên. Lại cười sằng sặc, lấy
nghiên mực hắt vào quyển của ông. Lần ấy ông xin đổi quyển đến hai ba lần.
Vẫn người đàn bà ấy quấy nhiễu không tha để quyển ông cứ tỳ ố mãi” [22, tr.
23]. Rồi oan hồn làm cho hai anh em ông những cơn đau bụng thất hồn, đau

quằn quại tựa chứng hắc loạn cứ như dùi vào từng miếng tì vị làm cho các
ông phải mơ hoảng, thiếp đi. Mặc dù, trước mỗi kì thi Quan Chánh Chủ khảo
trường Hà Nam cúng tế trời đất, thánh thần:
“ – Báo oán giả, tiên nhập; – Báo ân giả, thứ nhập; – Sĩ tử thứ thứ nhập”
Nhưng oan hồn vẫn hiện ra để báo oán. Bởi việc làm thất đức của ông
Huấn (người cha) lúc sinh thời cho nên đời sau phải gánh chịu. “Hồi còn mồ
ma cụ Huấn, cụ đã mang lấy trách nhiệm tinh thần về cái chết của một nàng
hầu tài hoa nổi tiếng một thời. Người thiếp đó, lúc tự ải đã có mang được sáu


22

bảy tháng” [22, tr. 24 – 25]. Cái oán sinh tử ấy còn theo đuổi họ, nếu họ cứ
còn lều chiếu ở trường thi “Nó còn đi thi, cô còn báo mãi. Các người hỏi cô
muốn những gì ấy à ! Cô muốn, cô muốn nó phạm húy, cho nó bị tội cả nhà
kia. Nhưng nhà nó cũng có một ông mãnh thiêng lắm, cô không tàn hại nó
được như lòng cô muốn” [22, tr. 25]. Chính vì sự báo oán này mà hai anh em
Đầu Xứ đều gặp trắc trở trong các khóa thi và ngay cả khoa thi cuối cùng
cũng phải trải qua sự thất bại ê chề. Ân oán giữa oan hồn với những người
còn sống làm cho khoa danh dang dở mặc cho họ có tài đến đâu chăng nữa.
Viết Khoa thi cuối cùng, Nguyễn Tuân phần nào giải thích lý do vì sao các sĩ
tử ngày xưa đi thi đều thất bại không thành danh. Đồng thời, Nguyễn Tuân
muốn gửi gắm đến một triết lý sâu xa mà dân gian vẫn thường nhắc đến
“đời cha ăn mặn, đời con khát nước”. Cho nên, sống trong cuộc đời cần phải
biết tạo phúc, phải biết sống hòa hợp, không làm điều gì ẩn khuất nên tội để
hậu thế phải gánh chịu.
Cuộc sống luôn có hai mặt hữu hạn, có âm có dương, có sáng có tối, có
đẹp có xấu… thì trong Yêu ngôn nhân vật ma cũng như vậy. Nếu như trong
Khoa thi cuối cùng hiện lên ma báo oán thì trong Loạn âm có ma báo ân. Vị
Quan Ôn là người của âm thế, được Diêm Vương cho làm quan trong coi việc

kiều lương đạo lộ và công việc ông làm năm nay là phải bắt cho đủ một nghìn
phu để đắp đường nơi địa phủ. Nhưng khi qua vùng Hải Dương, Vị Quan Ôn
đã gặp lại người bạn học cũ – ông Kinh Trịnh. Muốn trả cái ơn xưa với thầy
học cũ, Quan Ôn đã tiết lộ danh sách nạn nhân và tỏ ý xem Kinh Trịnh có
muốn cứu vớt thân tính nào trong số họ thì sẽ chiếu cố. Không chỉ vậy, Vị
Quan Ôn còn xin Diêm Vương ban phẩm hàm cho Kinh Trịnh: “em đã tâu với
Diêm Vương. Diêm Vương cảm cái đức lớn của anh, định để anh làm Chánh
Tuyển Quan và em làm Phó Tuyển, mỗi kỳ có việc tuyển phu trên này” [22, tr.
161]. Kinh Trịnh được tại thế mà đương nhiệm chức Chánh Tuyển Quan,


23

trông coi việc điểm phu và soát sổ bộ. Không phải ngẫu nhiên hồn ma Vị
Quan Ôn xuất hiện như một con người bình thường vậy. Phải chăng Nguyễn
Tuân muốn xóa mờ ranh giới cõi âm – dương để hồn ma và người có thể
chung sống với nhau một cách bình thường nhất.
Thế giới nhân vật ma trong Yêu ngôn còn là kiểu ma yêu, Cô Dó –
Người con của chốn Ngàn Thiêng. Cô sống trong Góc Dó Thần, cô là hồn
sống của cây ấy. Giọng hát của cô mà mỗi khi cất lên lan khắp cả nương.
Nhưng cô trót yêu cậu Năm nhà họ Chu nên cô đã bỏ rừng xanh về làng giấy
Hồ Khẩu với chồng. Từ khi cô Dó đi, chốn non cao không được nghe tiếng
hát của cô Dó nữa và Góc Dó nơi cô ở cũng đã ngã xuống. Về sống trong nhà
họ Chu, Cô Dó ẩn mình trong phiến đá ghè giấy để đêm đêm hiện ra giúp
chồng ghè giấy. Nàng đã thổi cho giấy dó một linh hồn, cho nên “từ đấy, lò
chế giấy nhà Cậu Năm họ Chu làng Hồ Khẩu biết một kỷ nguyên mới – giấy
tự nhiên thơm đẹp lên và bỏ xa sự cạnh tranh của nghìn vạn người sống bằng
vỏ dó” [22, tr. 92]. Cho đến khi lưu lạc cô Dó chết và biến thành một khối
ngọc lam toàn bích.
Như vậy, với việc xây dựng nhân vật ma nhà văn cho hồn ma sống hữu

hình trong dương gian để xóa nhòa ranh giới âm – dương, người đọc khó
nhận ra đâu là ma, đâu là người, người và ma, ma và người tuy hai mà một.
Ma cũng như người có tình cảm biết căm ghét, biết yêu thương. Thế giới
nhân vật ma, cõi âm mà Nguyễn Tuân phác họa nên thực chất cũng chính là
“âm bản” của thế giới trần tục. Ma Nguyễn Tuân không gợi sự rùng rợn, li kì
mà nó như chiếc cầu nối hai thế giới thực – ảo, dương gian – âm thế. Cũng từ
đó, nhà văn đã gửi gắm quan niệm nhân sinh quan sâu sắc, những trăn trở, suy
tư về cuộc đời. Mặt khác, xây dựng thế giới nhân vật hồn ma còn biểu hiện
văn hóa tâm linh, tín ngưỡng của con người. Nó gợi cho người đọc những
cảm xúc thẩm mĩ, những trăn trở về thế giới khác nơi mà con người phải đến.


24

“Yêu ngôn suy cho cùng nó cũng chỉ là một cách để tác giả trình bày
quan niệm của mình về thế giới thực và cái đẹp trên cuộc đời này. Nói một
cách đơn giản cái thực bao giờ cũng lung linh ẩn hiện, mà cái đẹp cũng vậy
nhiều khi phải đi đến cùng của sự kỳ quái, người ta mới gặp được cái đẹp”
(Vương Trí Nhàn).
2.1.2. Thế giới kì nhân, kì vật
Trong Yêu ngôn thế giới kì ảo không chỉ có ở nhân vật ma mà cả những
kì nhân, kì vật. Đó là một ông lão “rượu bệnh” Bố Ô, một tài tử Bá Nhỡ vì
nghệ thuật mà không sợ chết để đánh được cây đàn ma quái. Rồi những tửu
phần, huyệt rượu, tờ giấy dó, ngọn lửa trong tranh…đều kì lạ, khác thường.
Chính những kì nhân, kì vật này càng góp phần tạo nên bức tranh sinh động
lôi cuốn và hấp dẫn đối với người đọc.
Trước hết, đó là nhân vật Bố Ô với một số phận dị biệt,và thói quen
khác thường “cái người lạ ấy không bao giờ thấy đói và chỉ có biết khát thôi”.
Lão uống rượu một cách “tàn bạo”: “Một chén. Bốn năm chén. Mười chén.
Ba mươi chén. Chén nào Bố Ô cũng chỉ làm có một hơi. Nhanh và ngon như

kẻ khát đường vớ được nước suối rừng, vục nón xuống mà múc lấy múc để.
Và rượu vào đến đâu, là chân lông ông già lại đẫm tuôn mồ hôi ra đến đấy,
làm dầm dề cả vải gối. Nhiều dòng nước trắng cứ theo mỗi chân tóc mà tuôn
mạnh ra” [22, tr. 116]. Và Bố Ô thực là một nhân vật độc nhất vô nhị trên đời
này trong cách uống rượu: lão nhắm rượu với một cái đinh “Cái đinh đóng
thuyền chấm vào chén rượu mút đánh chụt một cái rất gọn và làm tiếp mãi
như thế. Trông rất ngon lành” [22, tr. 108]. Bố Ô sống trong cơn men như vậy
cho nên thói quen ấy trở thành “bệnh rượu ghê thực”. Rượu bệnh làm “đổi
được cả diện mạo và thân hình Bố Ô…Mặt Bố Ô bị rượu chuốt theo hình một
cái hũ – cái cầm dài ra đúng đường lượn của cổ hũ, bụng chửa uốn lên như
dáng chóe và hai cái chân thời thật là một đôi nậm: bắp đùi thu ngắn và bạnh


25

phồng lên, ống chân thì thót ngẵng dài mãi ra. Những đường cong nơi thân
thể con rượu là đều dập đúng những đường lượn của những đồ vật bằng sứ
bằng thủy tinh vốn dùng vào việc đựng rượu xưa nay” [24, tr. 120]. Và Bố Ô
càng quái dị hơn khi nhà văn miêu tả những thứ ung thư khắp người đến nỗi
đứa cháu được một dịp lấy ngón tay gẫy lũ trùng ấy ra. Thật là ghê rợn !. Chỉ
có trang văn Nguyễn Tuân mới miêu tả một “rượu bệnh” chân thật, ghê gớm
đến thế. Con người kì dị này uống rượu đến mức toàn thân như một khối men,
khi bắt lửa toàn thân bốc cháy không gì dập tắt được. Có thể nói, viết
Rượu bệnh, Nguyễn Tuân xây dựng thành công một nhân vật độc nhất vô nhị
trong cách uống rượu, nhà văn nhắc đến thói rượu bệnh nhưng cũng gắn với
nghệ thuật thưởng thức cao sang. Đồng thời, Nguyễn Tuân sáng tác Rượu
bệnh để kính viếng vong linh người bạn rượu Tản Đà – Nguyễn Khắc Hiếu.
Dưới ngòi bút tài tình, Nguyễn Tuân đã tạo ra “một độ nhòe của hình tượng
nhân vật chập chờn giữa hư và thực, tiên hiện hình và kẻ phàm tục, nghèo hèn
và cao sang” [28] để có một nhân vật Bố Ô độc đáo, kì dị trong thế giới kì

nhân của Yêu ngôn.
Tiếp đến là các nhân vật khác thường trong Chùa Đàn. Dường như
Nguyễn Tuân xây dựng những nét kỳ quái để cho phù hợp với không khí ma
quỉ của tác phẩm: Lãnh Út, một chủ đồn điền còn trẻ, vợ chết trong một tai
nạn xe lửa lật xuống vực khiến y trở nên thù oán máy móc. Cậu giằn dỗi với
cả những vật dụng không cần thiết hằng ngày,bán rẻ đi những đồ đạc do nền
văn minh cơ khí sản xuất ra như ô tô xe đạp, máy bơm nước, máy chữ. . . để
trở về thời trung cổ chỉ vì quá thương yêu vợ, cậu đã trở thành kẻ thù của nền
văn minh cơ khí. Cậu Út đã không nguôi sầu mà ngày càng đau khổ hơn, ngày
giỗ vợ cậu uống rượu liên tu bất tận hết bình này sang bình khác đến phát
điên phát cuồng, cậu khóc ầm lên trong ngày giỗ vợ khiến cho chim cú cũng
phải tắc tiếng cầm canh. Dân trong ấp bắt đầu lo sợ. Cậu ngày càng hoá rồ,


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×