Phong tục tang lễ của cư dân đạo Ông Trần ở Long Sơn
Phạm
Văn
Dục
I.
Lịch
sử
đạo
Ông
Trần
ở
Long
Sơn
Đạo Ông Trần, hay còn gọi là đạo Ông Nhà Lớn do ông Lê Văn Mưu
(1855 – 1935), tục gọi là ông Trần, quê ở Hà Tiên (nay là tỉnh Kiên
Giang) sáng lập. Khoảng năm 1885, Ông Trần đã tìm đến làng An Ðịnh,
nơi chân núi Tượng (nay thuộc xã Ba Chúc, huyện Tri Tôn, tỉnh An
Giang) để xin làm đệ tử ông Ngô Lợi (1831-1890), giáo chủ đạo Tứ Ân
Hiếu Nghĩa), và tham gia phong trào kháng Pháp cũng do ông này lãnh
đạo. Năm 1887, Pháp kéo quân về làng An Định đã đốt hết chùa chiền,
nhà cửa nên ông Trần phải chạy về quê lánh nạn. Ông được thầy ban cho
một cái bầu trời đất dùng để lập Giang Sơn và sửa Đạo Pháp. Mặc dù
không biết chữ nhưng ông thuộc nằm lòng nhiều câu sấm, vần vè bí hiểm
nên năm 1891, ông cùng gia quyến và khoảng 20 đồng đạo xuống 5 chiếc
ghe lớn từ Hà Tiên vượt biển tới Vũng Vằng (vùng biển phía Đông Bắc
thị xã Bà Rịa) tiếp tục để lánh nạn và phát triển đạo pháp. Tại đây, ông
làm nghề bốc thuốc, làm và bán muối. Do số người theo đạo ngày càng
tăng và ông không chịu nộp thuế cho chính quyền bảo hộ nên khi bị chính
quyền để ý, ông đã dẫn gia quyến lánh nạn sang ấp Rạch Dừa rồi sau đó
định cư tại phía Đông của cù lao núi Nứa (xã Long Sơn ngày nay) vào
năm
1900.
Tương truyền sinh thời ông Trần thường mặc quần cụt, để mình trần, búi
tóc, đầu đội nón lá trong khi làm việc. Ông lại thông thạo nghề nông nên
rất có uy tín trong việc qui tụ dân khai khẩn đất hoang. Thường ngày ông
không ăn cơm và chỉ ăn trái cây và đậu xanh (vì xái đậu thành binh). Về
thức ăn, không ăn thịt cá mà chỉ ăn cua (cho hết cái giống bò ngang), tôm
(là giống chỉ đi lui), ốc (là giống ăn ở miệng, tiêu ra miệng).
Sau khi đã khai phá được một số đất đai, để tính chuyện an cư lập nghiệp
lâu dài, ông Trần xin được quy dân lập ấp. Đặc biệt, trận bão năm Giáp
Thìn (1904) gây nên nạn lụt lội, thiệt hại lớn về nhà cửa, hoa màu cho
dân chúng vùng Tây Nam Bộ nên ông đã xuất 7 thiên lúa (7.000 giạ lúa)
cho những người thân tín mang về Gò Công, Cai Lậy, Mỹ Tho… cứu trợ
và đón người bị nạn lũ lụt về Long Sơn cư trú làm ăn. Tiếng lành đồn xa
về một “Người Trời” được Trời Phật phái xuống “cứu nhân độ khổ” đang
ở Long Sơn lan ra lục tỉnh. Các tầng lớp nhân dân nô nức bảo nhau về
đây xin lập nghiệp. Ông Trần thu nhận, giao đất khẩn hoang cho bất cứ ai,
không phân biệt giàu nghèo, sang hèn miễn là chịu tuân theo những điều
răn dạy của ông. Dưới sự hướng dẫn của ông Trần, những người dân theo
tín ngưỡng do ông sáng lập đã khai phá đất đai, hình thành các khu ruộng
phân theo cấu trúc địa lý. Dưới là sông, biển, kênh rạch làm đường giao
thông và đánh bắt hải sản, kế tiếp là đùng chứa nước biển làm muối và
nuôi trồng thủy sản. Cao hơn là khu ruộng mặn (ruộng muối), ruộng ngọt
(ruộng trồng lúa nước). Chân núi làm đất thổ cư, trên sườn núi được khai
phá thành nương rẫy trồng cây ăn quả lâu năm và hoa màu. Những người
theo ông Trần còn bỏ công sức xây dựng hệ thống thủy nông, đào kênh
Bến Kinh, nạo vét bùn đất mở rộng rạch Cá Đối, đắp đê ngăn nước mặn
tại khu vực đồng Bà Cúc, làm thêm ruộng muối, sắm ghe thuyền đánh bắt
hải sản và buôn bán, trao đổi hàng hóa với các vùng lân cận. Cư dân theo
ông Trần cư trú thành tập đoàn quần tụ trong khu vực phía Đông Núi
Nứa. Họ xây dựng nhà cửa theo những lớp vành khăn ôm lấy chân núi và
có
quan
hệ
thân
thuộc
với
nhau.
Ông Trần đối xử với dân bình đẳng và khiêm nhường. Ông tự xưng là
“người này”, gọi người khác là “người lớn” hoặc “người nhỏ” tuỳ theo
tuổi tác của họ. Buổi tối sau những giờ lao động mệt nhọc, khi việc nhà
đã được lo liệu xong, ông thường tập trung dân tại nhà thánh để nghe đọc
truyện hoặc kể truyện về những gương trung hiếu, tiết nghĩa trong lịch sử
Việt Nam và lịch sử Trung Quốc. Mỗi khi nghe xong một câu chuyện,
ông Trần thường cắt nghĩa cặn kẽ cho người nghe. Những buổi tập trung
sinh hoạt văn hóa tại nhà thánh còn là dịp để ông Trần đứng ra phân xử,
hòa giải những mâu thuẫn, va chạm xích mích của những người theo ông.
Đồng thời ông khuyên bảo họ ăn hiền ở lành, làm việc thiện, tránh việc
ác khơi gợi cho họ lòng yêu nước, tự hào dân tộc. Giữ gìn những phong
tục tập quán của cha ông, không hợp tác với thực dân xâm lược. Ông
Trần còn làm thuốc để chữa trị bệnh cho dân rất được tín nhiệm. Những
người từ nơi khác đến đều được ông thu nhận, cho ở trong những dãy nhà
dành cho bá tánh (dãy phố) và khoanh đất, cấp dụng cụ, vốn liếng cho họ
làm ăn trong vài ba năm. Chừng nào đã đủ sống thì cất nhà ra ở riêng.
Mọi người dân theo ông đều sinh hoạt bình đẳng, không phân chia ngôi
thứ, tầng lớp. Họ sống tự giác và hòa thuận theo những qui ước chung do
ông
Trần
đặt
ra.
II. Phong tục tang lễ của cư dân theo đạo Ông Trần ở Long Sơn
Do chịu ảnh hưởng từ đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa, kế thừa tư tưởng của Nho,
Phật và đạo giáo, lại tồn tại trong một không gian tách biệt với đất liền
nên đạo Ông Trần còn giữ được nhiều phong tục cổ xưa trong ứng xử, ăn
uống… có giá trị nhân văn sâu sắc. Điểm nổi bật trong lối sống của đạo
Ông Trần chính là “Sống đồng tịch đồng sàng – chết đồng quan đồng
quách”. Không chỉ sống tương thân tương ái mà ngay cả khi chết cũng
dùng
chung
một
chiếc
bao
quan
(áo
quan
).
2.1. Đặc điểm tang lễ của cư dân theo đạo Ông Trần ở Long Sơn
Cư dân theo đạo ông Trần luôn lấy Nhân – Lễ – Nghĩa – Trí – Tín làm
triết lý sống của mình. Những dấu mốc quan trọng trong nghi lễ vòng đời
dù gia đình có kinh tế khá, giàu sang hay nghèo hèn thì dấu ấn mang tính
cộng đồng vẫn luôn rất đậm nét. Đặc biệt, trong nghi lễ vòng đời thì nghi
thức an táng được xem là một trong những nghi thức quan trọng nhất,
cuối cùng và đậm dấu ấn cộng đồng nhất. Đối với các tôn giáo khác,
người quá cố luôn được thân nhân sắm riêng cho mình 1 chiếc áo quan
nhằm để gìn giữ lâu dài phần xương cốt nhưng ở đạo ông Trần, tất cả
người quá cố đều dùng chung 1 chiếc bao quan. Chiếc bao quan chung
này có cấu tạo hết sức đặc biệt. Bao quan là một cái quan tài giả, gồm có
hai phần. Phần dưới là một tấm ván gỗ, dài gần 2m, rộng chừng 0,5m, gọi
là “Liệt”. Phần trên như cái áo quan, được đan bằng tre (do đó không có
góc cạnh như quan tài gỗ), tương tự và được gọi là “lồng” hay “Lồng
Nguyệt”. “Lồng” được phủ sơn đỏ, hai đầu vẽ những bông sen vàng. Có
thể hình dung “liệt” dùng để đặt xác chết, còn “lồng” dùng để che xác
chết. Bao quan là quan tài tạm, dùng chung cho người chết trong họ đạo.
Tương truyền khi còn sống, ông Trần nói những anh em trẻ tuổi lên núi
Nứa chặt 2 cây thân thẳng để về làm đòn khiêng bao quan nhưng khi anh
em lên núi đốn hạ thì không tìm được như ý. Anh em thấy 1 cây có 2
nhánh thẳng và to tương đương nhau nên đã đốn hạ mang về. Sau đó anh
em có trình với Ông Trần là đã đốn hạ như vậy, Ông đã nhìn anh em và
nói rằng “từ giờ trong bổn đạo luôn có cảnh chết cặp như 2 nhánh cây
này”. Nghĩa là khi có 1 người qua đời thì ít lâu sau sẽ có người khác trong
bổn đạo chết. Số người chết trong thời gian ngắn luôn là số chẵn. Chẳng
may có người thứ 3 chết thì sẽ có người thứ 4…Những ghi chép này là do
các bậc cao niên trong bổn đạo kể lại. Thực hư lời nói chưa thể kiểm
chứng vì những giai thoại này chỉ được truyền miệng qua các thế hệ mà
không có sách vở nào ghi chép. Tuy nhiên, qua quá trình quan sát hàng
chục đám tang của bổn đạo trong suốt 2 năm 2013 và 2014 chúng tôi
nhận thấy đúng là luôn có hiện tượng chết trùng này. Để lý giải nguyên
nhân, rất cần thời gian và các nhà khoa học vào cuộc trong thời gian tới.
2.2. Quy trình tổ chức tang lễ của cư dân đạo Ông Trần ở Long Sơn
Theo phong tục cổ truyền của người Việt, khi thân nhân sắp qua đời thì
những người làm ăn xa thường được thông báo để về nhìn mặt người quá
cố lần cuối. Đặc biệt ở đạo ông Trần, người quá cố sẽ được chôn cất trong
12 giờ kể từ khi mất nên thân nhân ở xa được thông báo ngay khi gia đình
có người bệnh nặng. Ngày xưa, khi giao thông và phương tiện liên lạc
còn hạn chế thì sau khi tổ chức tang lễ cho người quá cố xong, gia đình
mới viết thư thông báo cho thân nhân ở xa biết.
Khi thấy thân nhân có khả năng không qua khỏi thì gia đình cử người vô
Nhà Lớn xin nước sen về cho dùng. Nước sen được đặt trên bàn Ông, mỗi
lần dùng phải vái 10 cái xong mới được lấy. Người bệnh được thân nhân
di chuyển lên nhà trên ở phía dễ dàng ra vào, dễ di chuyển, đầu quay vào
trong nhà để thuận tiện cho thăm viếng cũng như lo hậu sự (Đạo ông Trần
kiêng không khiêng người mất qua gian thờ giữa – nơi đặt bàn Ông).
Người lớn tuổi có uy tín dặn dò thân nhân người sắp mất chuẩn bị tiền lẻ,
quần áo, cách tẩm niệm… Những người thân thay nhau túc trực bên
người bệnh để nghe di nguyện cũng như có thể thông báo kịp thời cho
những người khác. Tất cả thân nhân tập trung bên người bệnh để cầu
nguyện trong giờ phút lâm chung. Trong giây phút này, thân nhân cần
kiềm nén cảm xúc, không được khóc để người ra đi được thanh thản.
Người quá cố được thân nhân chuẩn bị cho một bộ áo dài đen, quần trắng
mới, không đính khuy cài mà thay vào đó là dây cột. Đối với người lớn
tuổi thì khăn xếp được đội trên đầu, còn người ít tuổi thì khăn xếp để bên
cạnh khi mất. Đạo ông Trần không dùng từ “mất”, “thác” hay “quá cố”
đối với người qua đời mà thay vào đó là các từ: “già rồi”, “đi gặp Ông
Nhà Lớn”, ‘đi gặp ông bà” hay đối với người còn trẻ mà qua đời có thể
nói là đã “đi bán muối” rồi. Thân nhân không tắm rửa vệ sinh cho người
quá cố trước khi mất mà chỉ thay quần áo và cắt bỏ khuy áo mặc trên
người với ý nghĩa là để lại nhân đức cho con cháu. Xung quanh nơi
giường được che kín, không để ánh sáng bên ngoài lọt vào để linh hồn
khi xuất khỏi xác không bị thiêu đốt. Bốn góc giường nơi người mất nằm
được thắp 4 cây nến, gọi là đèn chiếu huyệt. Nến này không được để tắt
cho tới khi tẩm liệm. Ngay khi mới qua đời, thân nhân giữ cho miệng
người quá cố được ngay ngắn, không để răng cắn vào lưỡi và sau đó để
một đồng tiền xu và 7 hoặc 9 hạt gạo nếp (tùy theo giới tính) vào trong
miệng rồi cắm 1 bông điệp vào miệng. Ở phía trên bụng đặt một nải chuối
xanh. Hai tay đặt 2 bông Điệp. Mặt người mất được phủ kín bằng một
chiếc khăn trắng. Sau đó thân nhân sắp một mâm đồ cúng gồm 3 chén
cơm, 3 quả trứng, 3 đôi đũa đặt trong 1 mâm để phía đầu người mất.
Trong thời gian chờ tẩm liệm, thân nhân cắt cử nhau ngồi cạnh người quá
cố để không cho mèo hay con gì nhảy qua xác người mất.
Sau đó, gia chủ cử người sắp lễ vào Nhà Lớn để trình việc thân nhân qua
đời. Lễ vật vào trình Nhà Lớn gồm có 1 kg đường và 1 kg đậu xanh gói
thành 2 cây. Ngoài ra, việc sắm lễ vật như trên còn được gia chủ mang 1
lần nữa vào trình Nhà Lớn khi xin phép mang bao quan về nhà để tẩm
liệm người quá cố cũng như báo cáo giờ di quan cho ban hương chức biết
để họ tới phúng viếng và giúp đỡ. Cũng trong lần mang lễ vật lần thứ 2
vào trình Nhà Lớn, gia chủ xin 3 lá bùa, 1 lá dùng để đốt trong lễ tam sên
(lễ động thổ), 1 lá dùng để đốt khi hạ huyệt và 1 lá dùng để tẩy uế cho
thân
nhân
khi
tham
gia
an
táng
về.
Do đời sống đạo mang nặng tính cộng đồng nên khi gia chủ có tang gia,
mọi người trong bổn đạo đều tập trung tới để cùng chung tay lo hậu sự.
Chị em phụ nữ thì lo trà nước và nấu cơm, xôi (dẻo), chè (ngọt) để cúng
(kỉnh) còn nam giới lo sắp xếp dựng rạp, mượn bàn ghế phụ giúp gia chủ.
Việc tẩm liệm người quá cố diễn ra rất nhanh chóng. Những chén cơm,
trứng và nải chuối được đưa ra ngoài, dùng dao băm nát và gói trong bịch
nilong cho thật kín rồi chôn thật kỹ, không cho con gì ăn. Cùng lúc đó
bao quan được khiêng vào để tẩm liệm. Các cửa xung quanh nhà được
đóng kín. Người được phân công tẩm liệm nhanh chóng đặt tấm Liệt
xuống dưới, trải 5 sợi dây cột màu trắng theo chiều dọc của tấm Liệt rồi
phủ tấm vải đỏ dài 5m, rộng khoảng 70 cm lên trên. Tiếp theo đến đôi
chiếu rồi đến tấm vải trắng dài như tấm vải đỏ được đặt tiếp lên trên trước
khi đặt người quá cố vào giữa tấm Liệt. Sau đó, tiền vàng được nhét vào
trong các ống tay áo, ống quần người mất với ý nghĩa để họ chi dùng tiền
đường, tiền đò khi tới nơi ở mới. Tay chân người mất được bao lại. Sau
đó thân nhân được nhìn mặt lần cuối. Công việc tẩm liệm tiếp tục được
tiến hành. Tấm vải trắng được quấn gọn gàng từ đầu tới chân người mất
rồi được bó tiếp bởi cặp chiếu rồi đến lớp vải đỏ trước khi thi thể người
mất được cột bởi 5 sợi dây trắng tượng trưng cho Nhân – Lễ – Nghĩa –
Trí – Tín. Rất nhanh sau đó, những đồ cá nhân của người quá cố được gói
lại để đem đi cùng khi an táng. Tấm Lồng được đưa vào để đậy lại. Sau
đó, trên lắp tấm Lồng có thắp 5 cây nến cũng là biểu tượng cho Nhân –
Lễ – Nghĩa – Trí – Tín. Việc tẩm liệm như vậy là xong.
Bàn thờ tạm được đặt phía trước bao quan. Trên bàn thờ tạm có di ảnh
người quá cố, nhang đèn, cơm, trái cây, xôi, chè và rượu. Gia quyến và
thân hữu lần lượt tới bàn thờ tạm, mỗi người đốt 1 cây nhang và xá 2 xá.
Từ đó tới giờ di quan, nhang đèn luôn được thắp sáng trên bàn thờ tạm và
trên nắp bao quan (Nhang đèn chỉ không thắp vào giờ dần, tức là lúc
chuyển giao ngày mới từ 11 giờ khuya tới 1 giờ sáng). Đồ cúng chay
được bày biện lên các tran thờ. Cơm, xôi, chè, nước mỗi ban 5 chén.
Ngoài ra, rượu, hoa quả, nhang đèn là những vật không thể thiếu. Sau khi
đốt nhang, lên đèn tại tất cả các ban xong, gia chủ lần lượt đi từng ban, từ
bàn thờ Ông rồi đến bàn thờ khác để kỉnh. Mỗi ban gia chủ đều vái 9 vái,
riêng ban Ông vái đầu tiên 10 vái. Ở bàn thiên, gia chủ vái 4 hướng Đông
– Tây – Nam – Bắc, mỗi hướng 9 vái. Việc đốt nhang kỉnh tại các ban
được diễn ra 3 lần trong ngày trước giờ cơm và kỉnh lần cuối cùng trang
trọng
nhất
là
lúc
trước
giờ
di
quan…
Sau khi phát tang, đại diện Nhà Lớn là các hương chức tới viếng. Lễ họ
mang tới là phong bì bên trong có 50 ngàn đồng gọi là tiền Nhân nghĩa.
Tiền này được hương chức dặn gia chủ dùng để mua nhang đèn thắp cho
người quá cố trong 100 ngày. Ngoài ra, gia chủ không nhận tiền phúng
viếng của bất kỳ ai. Thân nhân tự đóng góp để lo liệu hậu sự cho người
quá
cố.
Những người được cử đi đào huyệt để an táng người quá cố mang theo lễ
vật để cúng sơn thần, thổ địa tại nơi an táng. Lễ vật gồm có 1 con cua
chín. 1 thỏi thịt heo, 3 con tôm, 1 đĩa muối, gạo và đốt 1 lá bùa mà đại
diện Nhà Lớn đưa để xin động thổ. Đất bề mặt được hốt để trong 3 bịch
rồi sau mới đào sâu xuống. Nơi an táng thường được gia chủ chọn mua là
đất nơi chân núi Nứa, gần với nơi cư trú. Đặc điểm đất ở đây có rất nhiều
đá tảng. Vậy nên trong nhiều trường hợp gia chủ phải thuê thợ chẻ đá
khiến cho thời gian an táng bị trì hoãn thời gian.
Gần tới giờ di quan, các hương chức, gia chủ, bà con xóm làng tề tựu
đông đủ thì gia chủ dâng lễ trà rượu, trình ban hương chức để xin di quan
vào giờ đã chọn. Sau khi đại diện gia chủ hoặc người có uy tín trong cộng
đồng lên đọc điếu văn xong thì việc di quan được chuẩn bị. Đòn khiêng
bao quan là 2 đòn tre được cột với nhau bởi 2 chiếc dây thừng dài. Giữa 2
đòn tre, dây thừng đủ rộng để đặt bao quan lên trên. Sau đó, 4 người
khiêng 4 góc bao quan đặt vào giữa 2 đòn tre do 4 người khác đã chịu lực
để
khiêng
đi.
Việc di quan được tiến hành vào giờ đã định. Đi đầu tiên là 1 người cầm
đuốc soi đường rồi đến gia chủ bưng lư nhang và di ảnh. Tiếp sau là
những người di quan và sau cùng là thân nhân, xóm làng bưng những đồ
tùy táng theo. Quá trình di quan thì chân người quá cố luôn đi trước
nhưng khi tới huyệt mộ thì bao quan được quay ngược lại để đầu quay về
núi. Trong quá trình di quan cũng như khi an táng luôn có 1 người cầm dù
dể che cho lư nhang không bị ánh nắng mặt trời chiếu vào. Gần tới huyệt
mộ, đoàn hộ táng dừng lại để sửa soạn lại bao quan cho ngay ngắn. Trong
khi đó, những người bưng đồ tùy táng đi lên trước để chuẩn bị an táng.
Huyệt mộ được đào khá nông, chỉ độ 80 cm đến 1 mét độ sâu. Người ta
trải 3 tấm lá Buông xuống dưới rồi trải tấm đệm lên trên thay cho chiếu.
Sau đó Lồng được gỡ ra. 5 dây buộc trên người quá cố cũng được gỡ ra.
Mỗi bên trái phải 5 người giữ 5 đâu dây rồi rút tấm Liệt ra để đưa về trả
lại Nhà Lớn. Người quá cố được đưa từ từ xuống huyệt. Khi người quá cố
đã nằm ngay ngắn, dây cột được thả xuôi theo người. Tiền vàng được rải
xuống quanh huyệt mộ. Sau đó thân nhân vái 9 vái lần cuối để tiễn biệt
người quá cố rồi xả tang ngay tại huyệt. Khăn tang được xếp xuôi theo
người, bên trái đặt khăn tang của nam và bên phải là khăn tang của nữ. Lá
bùa thứ 2 được đốt và rải xuống huyệt mộ. Tấm đệm được đậy lại rồi xếp
3 chiếc lá Buông lên trên. Thân nhân rải những nắm đất đầu tiên xuống
để tiễn biệt người quá cố sau đó huyệt mộ được lấp lại. Đất sau khi san
phẳng, người ta đổ 3 bịch đất lúc động thổ ở vị trí đầu, bụng và chân rồi
tiếp tục hoàn thiện việc an táng. Những vật dụng tùy táng được hỏa táng
ngay trong buổi chiều cùng ngày. Củi được chuẩn bị đốt cạnh mộ trong 3
ngày 3 đêm liên tục giúp người quá cố cảm thấy ấm áp. Sau khi an táng
xong, mọi người trở lại gia chủ để tẩy uế. Nước tẩy uế là chén nước trắng
hòa chung với lá bùa đã được đốt được đặt ngay ngắn trên bàn Ông. Việc
xả uế được dùng bằng cách dùng cành bông Điệp nhúng vào chén nước
rồi vẩy lên đầu. Cư dân ở đây quan niệm sau khi tẩy uế xong cơ thể sẽ
được
thanh
tảy
sạch
sẽ…
Trong 49 ngày đầu, gia chủ kỉnh cơm chay 3 lần mỗi ngày cho người quá
cố. Sau 49 ngày thì không còn kỉnh riêng nữa mà sẽ kỉnh chung như các
ban
thờ
khác.
Khi thân nhân qua đời, việc ăn uống tất cả đều làm chay. Không tổ chức
ăn uống linh đình như những tôn giáo khac. Chỉ những người tới phụ đám
mới được gia chủ sắp cơm chay mời. Tất cả những người khác chỉ viếng
rồi về. Tới 100 ngày, gia chủ mới làm cơm mời những người giúp đỡ
trong khi tang gia bối rối. Vào ngày này, tất cả thành viên trong gia đình
sẽ lần lượt đi mời rượu từng người để tạ ơn. Và tới lúc này công việc an
táng
được
xem
như
kết
thúc.
III. Một vài suy nghĩ về tang lễ của cư dân đạo Ông Trần ở Long
Sơn
Phong tục an táng của cư dân theo đạo Ông Trần có nhiều điểm tiến bộ.
Những nghi thức tang lễ từ khi đạo ra đời cho tới nay đã trải qua hơn 100
năm nhưng vẫn không lạc hậu. Cư dân sống tách biệt ngoài đảo, đời sống
nặng về tự cấp tự túc khiến cho ngày nay bổn đạo còn lưu giữ nhiều
phong tục cổ truyền. Ngoài ra, với triết lý “sống đồng tịch đồng sàng,
chết đồng quan đồng quách” gần gũi với thiên nhiên đã tạo ra những giá
trị tốt đẹp. Tang lễ được diễn ra nhanh gọn, nhẹ nhàng ngay cả lúc trở về
với
đất
Mẹ.
Tuy nhiên, cư dân trên đảo ngày nay đã khá đông. Năm 2012, dân cư toàn
đảo đã lên tới hơn 13 ngàn người nên việc an táng cần đảm bảo vệ sinh
hơn. Xét kỹ, việc gìn giữ những nét văn hóa truyền thống của bổn đạo là
cần thiết nhưng cũng không nên xem nhẹ ô nhiễm môi trường. Hiện tại,
phần lớn cư dân trên đảo vẫn dùng nước mưa và sử dụng nước giếng đào
nên việc bảo vệ nguồn nước ngầm và môi trường là cần thiết. Thiết nghĩ,
ngoài việc tang lễ vẫn được cử hành theo truyền thống thì cần đổ bê tông
huyệt mộ hoặc xây thành bằng gạch để giảm thiểu việc ô nhiễm nguồn
nước ngầm là điều cần làm.
Tài
liệu
tham
khảo
chính
Phan Kế Bính (2012), Việt Nam phong tục, Nxb Hồng Đức.
Đinh Văn Hạnh (1994), Nhà lớn Long Sơn, Sở KHCN & MT tỉnh Bà Rịa
–
Vũng
Tàu.
Huỳnh Minh – Thạch Phương (2005) Địa chí tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, Sở
KHCN
&
MT
tỉnh
Bà
Rịa
–
Vũng
Tàu.
Đức Quang (2012), Tang sự xưa và nay, Nxb Văn hóa – Văn nghệ.
Ông Ba Gò Găng, những tư liệu ghi chép, sưu tập về phong tục, tín
ngưỡng
đạo
Ông
chưa
công
bố.
Phạm Văn Dục (2013, 2014) tư liệu ghi chép điền dã, phỏng vấn sâu của
cá nhân.