Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

SKKN phạm ngân 2018

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.82 KB, 24 trang )

THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến“Dạy Luyện từ và câu cho học sinh lớp 2 thông qua phương
pháp trò chơi”.
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Môn Luyện từ và câu.
3. Tác giả:
Họ và tên: Phạm Thị Ngần

Nam(nữ)

Ngày tháng/năm sinh: 00/00/1969
Trình độ chuyên môn: CĐ SP TH
Chức vụ, đơn vị công tác: Giáo Viên, Trường Tiểu học Thanh Giang
Điện thoại: 0
4. Đồng tác giả: Không
5. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến : Trường Tiểu học Thanh Giang
6. Đơn vị áp dụng sáng kiến lần đầu
Lớp 2 - Trường Tiểu học Thanh Giang - huyện Thanh Miện - tỉnh Hải Dương
7 . Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
- Nhà trường tạo điều kiện tốt nhất cho việc dạy và học.
- Giáo viên phải có lòng yêu nghề, nhiệt tình, tâm huyết với công tác giảng dạy.
- Học sinh phải có ý thức ham học hỏi, tìm tòi, khám phá kiến thức.
- Phụ huynh học sinh quan tâm đến việc học tập của con em mình.
8. Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu: Sáng kiến kinh nghiệm được áp dụng
cho giáo viên dạy khối lớp 2 giảng dạy từ năm học 2017 – 2018 đến nay.
TÁC GIẢ

XÁC NHẬN CỦA ĐƠN VỊ ÁP DỤNG
SÁNG KIẾN

Phạm Thị Ngần
XÁC NHẬN CỦA PHÒNG GD VÀ ĐT



1


TÓM TẮT SÁNG KIẾN
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến:
Trong xu thế đổi mới của nền giáo dục Việt Nam nói chung, giáo dục Tiểu học nói
riêng, đang tạo ra những chuyển dịch định hướng có giá trị. Cùng với những môn học
khác, Tiếng Việt là môn học có nhiều sự đổi mới cả về mục đích, nội dung và quan niệm
dạy học. Bao gồm sáu phần, môn Tiếng Việt có một vị trí đặc biệt quan trọng. Nó là cơ sở
để tiếp thu và lĩnh hội tri thức các môn học khác.
Mỗi môn học có một sắc thái riêng. Phân môn luyện từ và câu tuy bản chất là
cung cấp vốn từ (từ ngữ) và học về câu (ngữ pháp) song trong sách giáo khoa không
đưa ra “những kiến thức đóng khung có sẵn” mà là “hệ thống các bài tập”. Học sinh
muốn lĩnh hội tri thức không thể khác là thực hành giải tất cả các bài tập trong sách
giáo khoa. Vậy một giờ Luyện từ và câu ở lớp 2 được tiến hành ra sao ?
Thực tế cho thấy mỗi giáo viên đều tích cực đổi mới phương pháp dạy học, song
giờ Luyện từ và câu ở lớp 2 diễn ra vẫn còn trầm lắng. Tục ngữ có câu “Phong ba bão
táp không bằng ngữ pháp Việt Nam” thực chẳng ngoa. Tuy chưa phải học những kiến thức
sâu rộng nhưng với hệ thống bài tập cũng dễ làm học sinh mệt mỏi nếu giáo viên không
có sự thay đổi linh hoạt các hình thức tổ chức dạy học.
Đối với hhọc sinh lớp 2, ở lứa tuổi này, các em còn mang đậm bản sắc hồn nhiên,
sự chú ý chưa cao. Bên cạnh học là hoạt động chủ đạo thì nhu cầu chơi, nhu cầu được
giao tiếp với bạn bè … vẫn tồn tại và cần thoả mãn. Nếu người giáo viên biết phối
hợp nhịp nhàng giữa học mà chơi, chơi mà học thì học sinh sẽ hăng hái, say mê học
tập và tất yếu kết quả của quá trình dạy học cũng đạt tới đỉnh điểm. Dạy học bằng
phương pháp trò chơi là đưa học sinh đến với các hoạt động vui chơi giải trí có nội
dung gắn liền với bài học. Trò chơi trong học tập có tác dụng giúp học sinh thay đổi
hhoạt động, chống mệt mỏi, tăng cường khả năng thực hành kiến thức của bài học,
phát huy hứng thú tạo thói quen độc lập, chủ động và sự sáng tạo của học sinh…

Xuất phát từ lý do trên, tôi đã đi sâu tìm hiểu, học hỏi và nghiên cứu : " Dạy Luyện từ
và câu cho học sinh lớp 2 thông qua phương pháp trò chơi”.
”.
2


2 . Điều kiện, thời gian, đối tượng áp dụng sáng kiến
2.1. Điều kiện áp dụng sáng kiến
- Ban giám hiệu quan tâm, tạo mọi điều kiện tốt nhất cho việc dạy và học đặc
biệt là việc đổi mới phương pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng giáo dục
- Đa số học sinh có ý thức ham học hỏi, ngoan, biết vâng lời, có ý thức tìm tòi.
Phụ huynh học sinh rất quan tâm đến việc học tập của con em mình.
- Bản thân là giáo viên nhiều năm liền giảng dạy lớp 2, yêu nghề, nhiệt tình, tâm
huyết với nghề mà mình đã chọn.
2.2.Thời gian áp dụng sáng kiến:
Sáng kiến kinh nghiệm được áp dụng cho giáo viên dạy khối lớp 2 giảng dạy
từ năm học 2017 -2018 đến nay.
2.3.Đối tượng: - Học sinh lớp 2.
3.Nội dung sáng kiến :
Dựa trên thực trạng dạy và học môn Luyện từ và câu ở lớp 2 nói chung, dạy học
sinh làm thành thạo các dạng bài tập luyện từ và câu cho học sinh nói riêng, tôi muốn
đưa ra một số ý kiến đổi mới để giúp các em nắm chắc cách làm các dạng bài tập
thông qua phương pháp trò chơi một cách sâu sắc, tránh bị nhầm lẫn, nhàm chán,
giúp các em nắm vững bài học và yêu thích môn Luyện từ và câu hơn. Từ đó các em
hiểu được từ mới, phát triển kĩ năng, kỹ xảo sử dụng từ ngữ, nhận diện xác định các
dạng bài tập, phân tích kỹ, chính xác yêu cầu của đề bài, từ đó có hướng cho hoạt
động học tập của mình.
4.Khẳng định giá trị, kết quả đạt được của sáng kiến:
Tôi khẳng định rằng việc tôi áp dụng những biện pháp dạy học nêu trên vào
giảng dạy đã mang lại những kết quả đáng mừng cho giáo viên và học sinh lớp tôi

chủ nhiệm. Tôi luôn hi vọng với giải pháp nhỏ này không những được áp dụng ở lớp
tôi mà còn được nhiều anh, chị đồng nghiệp tham khảo. Tôi rất mong nhận được
những lời góp ý của các cấp lãnh đạo và bạn bè đồng nghiệp để giải pháp ngày càng
được hoàn thiện hơn.
3


MÔ TẢ SÁNG KIẾN
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến
Trò chơi học tập là hình thức học tập thông qua trò chơi. Trò chơi học tập
không chỉ nhằm chơi vui giải trí mà còn nhằm góp phần củng cố tri thức, kỹ năng học
tập của các em. Với các đặc điểm riêng, trò chơi mở ra cho học sinh tiểu học một khả
năng phát triển lớn. Các em được tiếp cận hoàn cảnh chơi, nhiệm vụ chơi, hoạt động
chơi … Từ đó các em lĩnh hội các tri thức sống động về thực tế cuộc sống xung quanh
và tri thức khoa học. Bởi “chơi” là được sống hết mình và khác với hoạt động học.
Các thành tích học tập cơ bản phụ thuộc vào bản thân các em còn sự thắng thua trong
trò chơi mang tính ngẫu nhiên. Các em tham gia chơi với hy vọng chiến thắng và để
khẳng định chính mình. Bên cạnh đó trò chơi tạo cho bản thân các em sự thư giãn
thoải mái, vui vẻ.
Áp dụng phương pháp trò chơi vào dạy phân môn Luyện từ và câu là đưa học
sinh vào hoạt động vận dụng. Học sinh phải thể hiện chủ động, sáng tạo để phát hiện
điều cần học. Nó làm bớt đi sự căng thẳng khô khan không còn sự tẻ nhạt; đem đến sự
sôi nổi, ham mê, hấp dẫn, say sưa tìm hiểu khám phá và lĩnh hội tri thức trong mỗi giờ
học. Thành công của việc sử dụng trò chơi trong học tập là góp phần đạt được mục
tiêu giờ học. Bởi vậy để đảm bảo cho sự thành công việc sử dụng trò chơi thì nội
dung trò chơi phải gắn với mục tiêu bài học, luật chơi rõ ràng đơn giản, dễ nhớ, dễ
thực hiện, điều kiện - phương tiện tổ chức trò chơi phong phú, chơi đúng lúc, đúng
chỗ, đồng thời phải kích thích sự thi đua giành phần thắng giữa các đội tham gia.
Việc áp dụng phương pháp trò chơi để gây hứng thú vào giờ dạy Luyện từ và
câu chính là việc giáo viên khơi dậy hứng thú, niềm say mê học tập tạo không khí sôi

nổi cho một giờ học. Điều đó đòi hỏi giáo viên phải xác định rõ yêu cầu đạt. Trên cơ
sở đó xác định cần đưa trò chơi vào lúc nào, bài tập nào ? Nếu giáo viên không tổ
chức tốt thì trò chơi không gặt hái được kết quả như mong muốn mà còn bị phản tác
dụng gây sự mất trật tự trong giờ học.

4


Thực tế ở trường tiểu học nơi tôi đang công tác có 3 lớp 2, trong quá trình dạy học
mỗi giáo viên đều tích cực đổi mới phương pháp để đạt hiệu quả giờ dạy cao nhất.
Song qua dự giờ, thăm lớp, tôi nhận thấy có giờ dạy đã tổ chức đến 3 hoạt động khác
nhau mà không khí giờ học vẫn trầm lắng. Học sinh ít tích cực, không sôi nổi chủ động tìm
tòi phát hiện kiến thức. Bên cạnh đó, có giờ dạy giáo viên lạm dụng ba trò chơi học
tập vào giảng dạy. Kết quả là cả một giờ học không khí lúc nào cũng tràn ngập tiếng
reo hò, tiếng cười, song vì chính trạng thái tâm lý bị kích thích quá ngưỡng làm cho
sự nhận thức của học sinh không đạt hiệu quả như mong muốn. Học sinh không nắm
được kiến thức trọng tâm của bài. Chính vì vậy việc giảng dạy các bài tập trong tiết
Luyện từ và câu ở lớp 2 được tiến hành ra sao để học sinh chủ động, hào hứng lĩnh hội tri

thức, đó là điều tôi đã nghiên cứu, nhận biết và tìm hiểu được một số kinh nghiệm về
“Dạy Luyện từ và câu cho học sinh lớp 2 thông qua phương pháp trò chơi”.
2. Cơ sở lý luận của vấn đề
2. 1. Vị trí vai trò của phân môn Luyện từ và câu.
Phân môn Luyện từ và câu là một môn học giữ vị trí quan trọng trong chương
trình Tiếng Việt lớp 2. Ngay từ đầu của hoạt động học tập ở trường, học sinh đã được
làm quen với lý thuyết của từ và câu. Sau đó chương trình được mở rộng thêm và
nâng cao dần để phục vụ cho nhu cầu ngày một tăng trong cuộc sống của các em cũng
như trong lao động, học tập và giao tiếp.
Vai trò quan trọng đặc biệt trong hệ thống ngôn ngữ là đơn vị trung tâm của
ngôn ngữ. Chính vì vậy, dạy Luyện từ và câu có vị trí rất quan trọng không có một

vốn từ đầy đủ thì không thể nắm được ngôn ngữ như một phương pháp giao tiếp. Việc
dạy từ và câu giúp học sinh nắm được tiếng mẹ đẻ, tạo điều kiện học tập phát triển
toàn diện. Khả năng giáo dục nhiều mặt của Luyện từ và câu là rất to lớn. Nó có nhiều
khả năng để phát triển ngôn ngữ, tư duy logíc và các năng lực trí tuệ như trừu tượng
hoá, khái quát hoá, phân tích tổng hợp...và các phẩm chất đạo đức như tính cẩn thận,
cần cù. Ngoài ra phân môn Luyện từ và câu còn có vai trò hướng dẫn cho học sinh kĩ
năng nói, đọc, viết.
5


Luyện từ và câu là môn học nền tảng để học sinh học các môn học khác trong
tất cả các cấp học sau cũng như trong lao động và giao tiếp trong cuộc
sống, bởi nó giúp học sinh có năng lực nói đúng. Từ đó sử dụng Tiếng Việt văn hoá
một cách thành thạo làm công cụ tư duy để học, giao tiếp và lao động.
2.2. Nhiệm vụ của phân môn Luyện từ và câu.
Dạy phân môn Luyện từ và câu ở trường Tiểu học nói chung và ở lớp 2 nói
riêng có nhiệm vụ cung cấp cho các em một số kiến thức cơ bản ban đầu và cần thiết
về từ, câu, các kiểu câu...nhưng phải vừa sức đối với lứa tuổi các em.
Dạy Luyện từ và câu có nhiệm vụ trang bị cho học sinh một số hệ thống khái
niệm, sự hiểu biết về cấu trúc ngôn ngữ và những quy luật của nó. Cụ thể là Luyện từ
và câu ở tiểu học giúp cho học sinh hiểu về cấu tạo của từ, khái niệm về từ và câu.
Những kĩ năng mà học sinh cần đạt trong giờ Luyện từ và câu: Biết dùng từ,
câu trong nói và viết, nói đúng, dễ hiểu và sử dụng các câu văn hay, nhận ra những từ
và câu không có văn hoá để loại ra khỏi vốn từ, ngoài ra học còn nắm được văn hoá
chuẩn của lời nói.
Hơn nữa phân môn Luyện từ và câu còn rèn cho học sinh khả năng tư duy logic
cao và khả năng thẩm mĩ.
Nhiệm vụ chủ yếu của việc dạy từ và câu giúp học sinh mở rộng, phát triển
vốn từ (phong phú hoá vốn từ), nắm được nghĩa của từ(chính xác hoá vốn từ), quản lí
phân loại vốn từ (hệ thống hoá vốn từ và luyện tập sử dụng từ), tích cực

hoá vốn từ.
2. 3. Tác dụng của phân môn luyện từ và câu .
Xuất phát từ nhiệm vụ của phân môn Luyện từ và câu đã được trình bày ở trên,
giúp học sinh phân biệt câu và từ, từ và tiếng, các kiểu câu...trong đó biết dùng từ đặt
câu, biết mở rộng vốn từ và giải nghĩa từ, biết dùng dấu câu phù hợp, góp phần bổ
sung kiến thức, rèn luyện tư duy và hình thành nhân cách cho học sinh( Thông qua
các kĩ năng các em dùng từ để đặt câu).
6


Qua phân môn Luyện từ và câu các em nắm được cấu tạo từ và mở rộng vốn từ,
giải nghĩa của từ, nắm được các kiểu câu, các dấu câu ( dấu chấm hỏi, dấu chấm than,
dấu hai chấm, dấu ngoặc kép, dấu ngoặc đơn), biết cách sử dụng từ và câu phù hợp
với ngữ cảnh và lời nói.
Ngoài ra, nội dung chương trình của phân môn Luyện từ và câu ở tiểu học được
xây dựng phù hợp với yêu cầu phát triển lời nói của học sinh, giúp các em mở rộng
thêm kiến thức trong quá trình học tập, lao động và giao tiếp ngày một tốt hơn, tiến bộ
hơn, đạt kết quả cao hơn. Như vậy phân môn Luyện từ và câu có tác dụng to lớn trong
quá trình phát triển tư duy ngôn ngữ cho học sinh.
3. Thực trạng của vấn đề
3.1. Đặc điểm nội dung sách giáo khoa phân môn Luyện từ và câu ở lớp 2:
Luyện từ và câu là tên mới của phân môn Từ ngữ ngữ pháp. Cách gọi này cũng
phản ánh một sự chuyển đổi khá căn bản của sách giáo khoa Tiếng việt. Đó là sự chú
trọng rèn kỹ năng, hơn là cung cấp cho học sinh những kiến thức, những khái niệm lý
thuyết. Ở lớp 2, toàn bộ chương trình sách giáo khoa không có một tiết lý thuyết nào,
học sinh tiếp thu kiến thức và rèn kỹ năng hoàn toàn thông qua hệ thống các bài tập.
Về mức độ yêu cầu của nội dung luyện từ trong sách; học khoảng 300 -> 350 từ
mới (kể cả thành ngữ và tục ngữ thuộc các chủ điểm: học sinh, bạn bè, trường học,
thầy cô ông bà, cha mẹ, anh em, các con vật nuôi, các mùa trong năm, chim chóc,
muông thú, sông biển, cây cối, Bác Hồ, nhân dân). Thực chất các từ này bổ sung cho

vốn từ về thế giới xung quanh gần với các em và vốn từ về chính bản thân các em;
Học sinh còn nhận biết được ý nghĩa chung của từng lớp từ (từ chỉ người, vật, sự vật,
từ chỉ hoạt động trạng thái, từ chỉ đặc điểm, tuy nhiên chưa yêu cầu học sinh hiểu các
khái niệm danh từ, động từ, tính từ). Ngoài ra học sinh được nhật biết nghĩa một số
thành ngữ tục ngữ, làm quen với cách giải nghĩa thông thường, nhận biết tên riêng và
cách viết hoa tên riêng.
Nội dung luyện câu chủ yếu yêu cầu học sinh nói viết thành câu trên cơ sở
những hiểu biết sơ giản. Thay vì học kiến thức lý thuyết các thành phần chính của
câu, các kiểu câu học sinh lớp 2 được hướng dẫn đặt câu theo kiểu Ai (con gì, cái gì)
7


là gì ? Ai (con gì, cái gì) làm gì ? Ai (con gì, cái gì) như thế nào ? Thay vì học các
kiến thức lý thuyết về trạng ngữ học sinh lớp 2 được học cách đặt câu và trả lời câu
hỏi khi nào ? ở đâu ? Vì sao ? Nhận biết các dấu kết thúc câu kể, câu hỏi, câu cầu
khiến, câu cảm (dấu chấm, dấu hỏi, dấu chấm than) và dấu phẩy đặt ở trong câu để
tách ý. Ở đây, sách không yêu cầu học sinh biết các khái niệm chủ ngữ, vị ngữ, trạng
ngữ, câu kể, câu hỏi, câu cầu khiến, câu cảm mà chỉ yêu cầu học sinh hiểu đó là các
bộ phận để tạo câu; hiểu ý nghĩa của câu như thế nào thì thích hợp với một dấu kết
thúc câu ấy.
Như vậy, kiến thức trong bài Luyện từ và câu chủ yếu là rèn kỹ năng dùng từ,
đặt câu. Bên cạnh đó, sách giáo khoa có cung cấp một số thuật ngữ như: từ trái nghĩa,
cụm từ, câu …. Nhưng không đòi hỏi học sinh phải nắm được định nghĩa, thông qua
hàng loạt hình ảnh biểu tượng ở các dạng bài tập khác nhau. Xét theo mục đích của
bài tập, sách có các loại bài tập Luyện từ và câu như sau:
+ Bài tập nhận diện từ và câu.
+ Bài tập tạo lập từ và câu.
+ Bài tập sử dụng dấu câu.
3. 2. Về phía giáo viên:
- Phân môn Luyện từ và câu là phần kiến thức khó nên một số giáo viên còn

lúng túng và gặp khó khăn trong khi hướng dẫn học sinh nắm được yêu cầu và vận
dụng vào việc làm các bài tập .
- Giáo viên chưa chịu đầu tư thời gian cho việc nghiên cứu để khai thác kiến
thức và tìm ra phương pháp phù hợp với học sinh còn lệ thuộc vào đáp án, gợi ý dẫn
đến học sinh ngại học phân môn này.
- Hình thức tổ chức dạy học của một số giáo viên còn đơn điệu, hầu như ít sáng
tạo, chưa thu hút lôi cuốn học sinh.
- Giáo viên còn chưa quan tâm đến việc mở rộng vốn từ, phát triển vốn từ cho
học sinh, giúp học sinh làm giàu vốn hiểu biết phong phú về Tiếng Việt.

8


- Giáo viên chưa coi trọng phương pháp trò chơi trong việc dạy phân môn
Luyện từ và câu. Bắt đầu vào giờ học, giáo viên thường yêu cầu các em làm việc như
một “cỗ máy” không có sự thư giãn.
- Cũng có trường hợp giáo viên quá làm dụng phương pháp trò chơi vào dạy
học dẫn đến cả một giờ, học sinh luôn trong tâm trạng phân kích thái quá. Mặt khác
do giáo viên tổ chức không “khéo” làm cho sự cổ vũ mạnh mẽ quá mức cần thiết. Tất
cả những điều đó sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến mạch kiến thức trong bài và những lớp ở
xung quanh.
- Giáo viên chưa nắm bắt được phương pháp tổ chức trò chơi học tập trong giờ
Luyện từ và câu có hiệu quả. Thông thường, giáo viên cho học sinh chơi theo hình
thức nhóm 4 - 5 học sinh, mà các học sinh được tham gia chơi đều là học sinh hoàn
thành tốt và hoàn thành xuất sắc môn học, còn học sinh ngồi ở dưới cổ vũ trò chơi
lại là những học sinh hoàn thành và chưa hoàn thành kiến thức kĩ năng môn học.
3.3. Về phía học sinh:
Do đặc điểm tâm lý của lứa tuổi nên khả năng chú ý, tập trung còn yếu, tính kỷ
luật chưa cao dễ mệt mỏi. Nếu phương pháp dạy học của giáo viên đơn điệu, bài
giảng khô khan sẽ tạo sức ì, sự mệt mỏi cho học sinh.

- Hầu hết học sinh chưa hiểu hết vị trí, tầm quan trọng, tác dụng của phân môn
Luyện từ và câu nên ít có hứng thú học tập, chưa dành nhiều thời gian để học môn
này.
- Nhiều học sinh chưa nắm rõ khái niệm của từ, câu...Từ đó việc nhận diện
phân loại, xác định hướng làm bài lệch lạc. Việc xác định còn nhầm lẫn .
- Học sinh chưa có thói quen phân tích dữ kiện của đầu bài, thường hay bỏ sót,
làm sai hoặc không làm hết yêu cầu của đề bài.
- Học sinh thường nắm kiến thức một cách máy móc, thụ động và tỏ ra yếu kém
thiếu chắc chắn.
* Chính vì một số nguyên nhân trên, vào 2 tuần đầu của năm học 2017 -2018, tôi đã
khảo sát chất lượng làm các bài tập Luyện từ và câu của học sinh hai lớp 2 : lớp 2A
(đối chứng) và lớp 2C (thực nghiệm) để làm cơ sở kiểm chứng thực nghiệm sau này.
9


Đề bài (thời gian 6 phút):
Bài 1: (6 điểm): Viết 2 từ chỉ người, 2 từ chỉ con vật, 2 từ chỉ đồ vật
Bài 2: (4 điểm): Xếp các từ sau thành câu hợp nghĩa:
Em, ngoan, là, học sinh
- Kết quả thu được như sau :
Tổng

Điểm 9- 10

Điểm 7- 8

Điểm 5 - 6

Điểm dưới 5


số HS

SL

TL%

SL

TL%

SL

TL%

SL

TL%

2C

27

2

7,4

7

30


13

48

5

14,6

2A

29

2

6,9

6

20,7

15

51,7

6

20,7

Lớp


Từ kết quả trên tôi thấy chất lượng học sinh hai lớp là tương đương bởi tỉ lệ
học sinh đạt điểm 9 -10 , điểm 7 -8 , điểm 5- 6, điểm dưới 5 luôn ngang nhau, tôi
quyết định lựa chọn một số giải pháp để ứng dụng, thực nghiệm mong muốn có kết
quả tốt để cải tiến cách dạy, cách học cho cá nhân và học sinh và có thể là giải pháp
cho đồng nghiệp.
4.Các giải pháp, biện pháp thực hiện
4.1. Về nhận thức của giáo viên:
Giáo viên cần nhận thức rõ vai trò của việc tạo hứng thú hiệu quả trong giờ dạy
bằng phương pháp trò chơi trong quá trình dạy học ở Tiểu học nói chung và dạy
Luyện từ và câu ở lớp 2 nói riêng. Phải nắm bắt được đặc điểm tâm sinh lý của học
sinh. Hiểu rõ mục tiêu của từng bài, từng đơn vị học và toàn bộ chương trình phân
môn Luyện từ và câu ở lớp 2.
4.2. Về nội dung:
Mỗi tiết Luyện từ và câu có từ 3 đến 4 bài tập với các yêu cầu khác nhau. Giáo
viên cần xác định rõ mục đích yêu cầu cần đạt của mỗi bài là gì ? Kiến thức trọng tâm
của bài ? Từ đó giáo viên có thể chọn trò chơi thích hợp với nội dung bài và thiết kế
các hình thức dạy học hài hoà, sinh động.

10


Sau đây là một số trò chơi có thể áp dụng để tổ chức cho học sinh giải các bài
tập trong tiết Luyện từ và câu một cách hào hứng, hiệu quả đồng thời gây hứng thú
trong giờ học.
4.2.1.Nhóm 1: Các trò chơi được vận dụng vào giải các bài tập trong giờLuyện từ
và câu:
(1). Trò chơi: Tìm nhanh các từ cùng chủ đề:
- Mục đích: Mở rộng vốn từ, phát huy óc liên tưởng, so sánh và rèn tác phong
nhanh nhẹn, luyện trí thông minh.
- Cách chơi:

+ Giáo viên chia lớp thành 2 nhóm (A - B) (học sinh bằng nhau).
+ Sau khi giải thích nghĩa từ dùng để gọi tên chủ đề (giáo viên hoặc học sinh
giải thích), giáo viên nêu yêu cầu: Tìm nhanh các từ cùng chủ đề.
+ Luật chơi: Giáo viên chỉ định một học sinh ở nhóm A nói được từ theo yêu
cầu. Rồi học sinh A1 chỉ 1 bạn bất kỳ B1, học sinh B1 nói nhanh từ tìm được rồi chỉ
bất kỳ A2 nêu tiếp … Cứ như vậy cho tới hết lớp.
Trường hợp bạn bị chỉ định không nêu được từ theo yêu cầu hoặc nói từ trùng
lặp sẽ nói “chuyện” để bạn khác cùng nhóm (đứng cạnh) tiếp sức, mỗi lần như vậy
nhóm nào có học sinh nói “chuyển” thì nhóm đó bị (trừ) 1 điểm phạt, nhóm nào nhiều
điểm phạt là nhóm bị thua.
- Trò chơi được áp dụng ở các bài:
+ Bài 1: (Tuần 7 - 59/TV2 - I). Kể tên các môn học ở lớp 2
+ Bài 2 (Tuần 10 - trang 82). Kể thêm các từ chỉ người trong gia đình họ hàng
mà em biết.
+ Bài 1 (Tuần 13 - trang 108). Kể tên những việc em đã làm ở nhà giúp cha mẹ.
+ Bài 2 (Tuần 15 - trang 122). Tìm những từ chỉ đặc điểm của người và vật.
+ Bài 2 (Tuần 26 - trang 74). Kể tên các con vật sống ở dưới nước. Mẫu: tôm,
sứa, ba ba …
+ Bài 1 (Tuần 28 - trang 87). Kể tên các loài cây mà em biết theo nhóm:
a. Cây lương thực, thực phẩm

Mẫu: lúa
11


b. Cây ăn quả

Mẫu: cam

c. Cây lấy gỗ


Mẫu: xoan

d. Cây bóng mát

Mẫu: bàng

đ. Cây hoa

Mẫu: cúc

+ Bài 1 (Tuần 30 trang 104). Tìm những từ ngữ:
a. Nói lên tình cảm của Bác Hồ với thiếu nhi.
Mẫu: thương yêu.
b. Nói lên tình cảm của thiếu nhi với Bác Hồ.
Mẫu: biết ơn
+ Bài 2 (tuần 33 - trang 129). Tìm thêm những từ ngữ chỉ nghề nghiệp khác
nhau mà em biết.
Mẫu: thợ may.
(2). Trò chơi: Ghép nhanh tên cho sự vật
- Mục đích: + Ghép nhanh từ với đồ vật, hình vẽ tương ứng
+ Có biểu tượng về nghĩa của từ
- Chuẩn bị: + Tranh ảnh, đồ vật thật theo yêu cầu bài: 3 bộ
+ Thẻ ghi tên các tranh ảnh, đồ vật thật: 3 bộ.
+ Nam châm hoặc băng dính
- Cách chơi:
+ 3 nhóm chơi/lần (mỗi nhóm 4 - 8 h/s tuỳ vào số lượng tranh ảnh có
trong bài).
+ Các tranh (ảnh, đồ vật) xếp thành 3 nhóm
+ Luật chơi: Khi giáo viên nêu yêu cầu: Ghép nhanh tên cho các sự vật thì h/s

cùng tiếp sức thi đua gắn thẻ vào đồ vật (ảnh, tranh) tương ứng. Nếu nhóm nào gắn
đúng, nhanh nhất là nhóm thắng cuộc.
- Trò chơi được vận dụng ở các bài:
+ Bài 1 (Tuần - trang 8). Chọn tên gọi cho mỗi người, mỗi vật, mỗi việc được
vẽ dưới đây:
(học sinh, nhà, xe đạp, múa, trường, chạy, hoa hồng, cô giáo)
12


Mẫu 1: 1. trường học

5. hoa hồng

+ Bài 1 (Tuần 3 - trang 26). Tìm những từ chỉ sự vật (người, đồ vật, con vật,
cây cối …) được vẽ dưới đây.
+ Bài 1 (Tuần 17 trang 142). Chọn cho mỗi con vật dưới đây mỗi từ chỉ đúng
đặc điểm của nó: nhanh, chậm, khoẻ, trung thành.
+ Bài 1 (Tuần 22 - trang 35). Nói tên các loài chim trong những tranh sau:
(đại bàng, cú mèo, chim sẻ, sáo sậu, cò, chào mào, vẹt).
+Bài 1 (Tuần 24 - trang 55). Chọn cho mỗi con vật trong tranh vẽ bên một từ
chỉ đúng đặc điểm của chúng: tò mò, nhút nhát, dữ tợn, tinh ranh, hiền lành, nhanh
nhẹn.
(3). Trò chơi: Kẻ giấu mặt là ai ?
- Mục đích: + Mở rộng vốn từ, gọi tên được sự vật ẩn trong tranh
+ Luyện kỹ năng quan sát, óc tưởng tượng
- Chuẩn bị: + Tranh phóng to trong bài
+ 3 giấy tô ki khổ to, bút dạ, nam châm (băng dính).
- Cách chơi: chia lớp thành 3 nhóm
+ Nêu yêu cầu: Kẻ giấu mặt trong mỗi bức tranh là đồ vật ẩn chứa trong bức tranh
đó. Nhiệm vụ của các em là tìm ra những đồ vật đó, số lượng là bao nhiêu ?

+ Luật chơi: Trong một khoảng thời gian nhất định, khi có hiệu lệnh của giáo
viên, học sinh quan sát tranh và ghi ra giấy tên các đồ vật đã quan sát được và số
lượng mỗi loại. Hết thời gian, các nhóm đính kết quả lên bảng, một bạn đại diện nhóm
đọc to kết quả. Giáo viên là trọng tài phân xử nhóm thắng cuộc dựa vào kết quả đồ vật
mà các nhóm gọi tên được.
- Trò chơi vận dụng được vào các bài tập:
+ Bài 3 (Tuần 6 - trang 52). Tìm các đồ dùng học tập ẩn trong các tranh sau.
Cho biết mỗi đồ vật ấy được dùng để làm gì.
+ Bài 1 (Tuần 11 - trang 90). Tìm các đồ vật được vẽ ẩn trong bức tranh sau và
cho biết mỗi vật dùng để làm gì.
(4): Trò chơi: Tìm nhanh từ có tiếng giống nhau
13


- Mục đích: + Mở rộng vốn từ bằng cách tạo “từ” từ một “tiếng” cho trướ
+ Rèn khả năng huy động nhanh vốn từ.
- Chuẩn bị: Phấn, bảng con
- Cách chơi: + Giáo viên nêu yêu cầu: Thi tìm nhanh các từ chứa tiếng cho trước.
+ Luật chơi: Dựa vào tiếng đã cho ở đầu bài, h/s cố gắng ghi nhanh các
từ vào bảng con. Trong khoảng thời gian quy định, ai tìm được nhiều từ nhất là người
thắng cuộc.
- Trò chơi này sử dụng ë các bài tập:
Bài 1 (Tuần 2 - trang 17). Tìm các từ
- Có tiếng học

Mẫu: học hành

- Có tiếng tập

Mẫu: tập đọc


Bài 1 (Tuần 25 - trang 64). Tìm các từ ngữ có tiếng biển.
Mẫu: tàu biển
(5). Trò chơi: Phân nhanh các nhóm từ
- Mục đích: + Nhận biết nghĩa của từ bằng cách tìm ra các đặc điểm giống nhau của
sự vật mà từ đó gọi tên.
+ Rèn trí thông minh, khả năng phân tích.
- Chuẩn bị: + Viết sẵn các từ trong bài tập lên bảng
+ Hoa có dán sẵn băng dính (Số lượng tuỳ theo số từ có trong bài và số
hoa phải có 2 màu khác nhau, gấp 2 lần số từ).
- Cách chơi: + Giáo viên chia lớp thành 2 nhóm và nêu yêu cầu: Phân nhanh các
nhóm từ.
+ Luật chơi: Trong khoảng thời gian quy định (có thể là 2 phút), học sinh của các
nhóm tiếp sức nhau dán hoa dưới các từ giáo viên đã viết sẵn lên bảng, dán hoa màu
xanh vào nhóm 1, dán hoa màu đỏ vào nhóm 2. Nhóm nào đúng và nhanh hơn là
thắng cuộc.
- Trò chơi vận dụng được ở các bài tập sau:
+ Bài 1 (Tuần 23 - trang 45). Xếp tên các con vật dưới đây vào nhóm thích hợp.
a. Thú dữ, nguy hiểm

Mẫu: hổ
14


b. Thú không nguy hiểm

Mẫu: thỏ

(hổ, báo, gấu, lơn nòi, chó sói, sư tử, ngựa vằn, bò rừng, khỉ, vượn, tê giác, sóc,
chồn, cáo, hươu).

+ Bài 1 (Tuần 26 - trang 73). Hãy xếp tên các loài cá vẽ dưới đây vào nhóm thích
hợp:
a. Cá nước mặn (cá biển)

Mẫu: cá nục

b. Cá nước ngọt (cá ở sông, hồ, ao)

Mẫu: cá chép

(6). Trò chơi: Tìm nhanh từ trái nghĩa
- Mục đích: + Nhận biết nhanh từ trái nghĩa
+Mở rộng vốn từ, luyện trí thông minh, tính nhanh nhẹn.
- Chuẩn bị: Giáo viên viết sẵn các cặp từ trái nghĩa vào 2 mặt của các bảng con.
- Cách chơi: + Giáo viên yêu cầu: Tìm nhanh từ trái nghĩa
- Luật chơi: Giáo viên giơ từng bảng con có từ trong đề bài. Gõ tín hiệu thước để
học sinh xung phong giơ tay chơi. Những học sinh giơ tay trước hiệu lệnh bị phạm
quy không được dự chơi.
Giáo viên gọi bất kỳ 1 học sinh giơ tay nêu từ trái nghĩa tìm được khi học sinh
đọc xong, giáo viên quay đáp án ở mặt sau bảng. Nếu đúng thì học sinh đó được lớp
khen, nếu sai thì thôi.
- Trò chơi vận dụng ở các bài tập:
+ Bài 1 (Tuần 16 - trang 133). Tìm từ trái nghĩa với mỗi từ sau: tốt, ngoan,
nhanh, trắng, cao, khoẻ.
Mẫu: tốt - xấu
+ Bài 1 (Tuần 32 - trang 120). Xếp các từ dưới đây thành những từng cặp có
nghĩa trái ngược nhau.
a. Đẹp, ngắn, nóng, thấp, lành, xấu, cao, dài
b. Lên, yêu, xuống, chê, ghét, khen
c. Trời, trên, đất, ngày, dưới, đêm

Mẫu: nóng - lạnh
15


+ Bài 2 (Tuần 34 - trang 137). Hãy giải nghĩa từng từ dưới đây bằng từ trái
nghĩa với nó:
a. trẻ con

b. cuối cùng

c. xuất hiện d. bình tĩnh

Mẫu: Trẻ con trái nghĩa với người lớn
(7). Trò chơi: Thi đặt câu theo mẫu
- Mục đích: + Rèn kỹ năng nói viết đúng các mẫu câu Ai là gì ? (Ai làm gì ? Ai thế
nào ?); có sự tương hợp về nghĩa giữa hai thành phần của câu.
+ Luyện óc so sánh liên tưởng nhanh, tác phong nhanh.
- Cách chơi: + Giáo viên nêu yêu cầu: Đặt câu theo mẫu Ai là gì ? (Ai làm gì ? Ai thế
nào ?).
+ Luật chơi: Giáo viên hô Ai ? (Hoặc cái gì ? con gì ? cây gì ?) rồi chỉ định h/s một.
Nếu học sinh 1 trả lời đúng, giáo viên lại hô tiếp là gì ? (hoặc làm gì ? như thế nào ?)
tuỳ theo yêu cầu của bài rồi chỉ học sinh 2. Học sinh 2 trả lời câu hỏi của giáo viên
nhưng nội dung phải phù hợp với nội dung từ ngữ h/s 1 đã đưa ra. Ai trả lời đúng,
nhanh sẽ được tuyên dương, ai không trả lời được sẽ phải đứng nguyên, được ngồi khi
trò chơi kết thúc.
- Trò chơi có thể vận dụng ở các bài tập:
+ Bài 3 (Tuần 3 - trang 26). Đặt câu theo mẫu dưới đây:
Ai (hoặc con gì, cái gì)
Bạn Vân Anh


Là gì ?
Là học sinh lớp 2A

+ Bài 3 (Tuần 15 - trang 122). Chọn từ thích hợp rổi đặt câu với từ ấy để tả:
a. Mái tóc của ông (hoặc bà) em: Bạc trắng, đen nhánh, hoa râm.
b. Tính tình của bố (hoặc mẹ) em: hiền hậu, vui vẻ, điềm đạm.
c. Bàn tay em bé: mũm mĩm, trắng hồng, xinh xắn.
d. Nụ cười của anh (chị) em: tươi tắn, rạng rỡ, hiền lành.
Ai (cái gì, con gì)
Mẫu: Mái tóc ông em

Thế nào?
bạc trắng.
16


+ Bài 2 (tuần 16 tr 133)
Chọn một cặp từ trái nghĩa ở bài tập 1, đặt câu với mỗi từ trong cặp từ trái
nghĩa đó.
Ai (cái gì, con gì)
Mẫu: Chú mèo ấy

Thế nào?
rất ngoan.

4.2.2 .Nhóm 2: Các trò chơi mang tính chất củng cố nội dung bài, mở rộng vốn
từ (các từ không có trong sách giáo khoa)
(1)Trò chơi: Nhìn hình đoán chữ
- Mục đích:
+ Luyện sử dụng từ ngữ bằng cách tạo nhanh các cụm từ có hình ảnh so sánh

đúng. Có biểu tượng về hình ảnh so sánh.
+ Luyện phản ứng nhanh, óc liên tưởng, trí tưởng tượng.
- Chuẩn bị: Tranh vẽ các hình ảnh dùng để so sánh.
- Cách chơi:
+ Giáo viên nêu yêu cầu: Nhìn hình đoán chữ
+ Luật chơi: Giáo viên treo tranh có hình ảnh so sánh. Học sinh nhận biết các
sự vật có trong tranh từ đó liên tưởng tới hình ảnh so sánh. Học sinh nêu được so sánh
đúng thì giáo viên cất hình ảnh đó đi treo hình ảnh khác. Nếu học sinh không nêu
được thì giáo viên tiếp tục gợi ý để học sinh đoán.
- Trò chơi vận dụng trong các bài tập:
+ Bài 2 (tuần 17 tr 143). Thêm hình ảnh so sánh vào sau mỗi từ dưới đây.
- Đẹp, cao, khoẻ.
- Nhanh, chậm, hiền.
- Trắng, xanh, đỏ.
Mẫu: đẹp →đẹp như tiên.
+ Bài 2 (tuần 24 tr 55). Hãy chọn tên con vật thích hợp với mỗi chỗ trống dưới đây.
a. Dữ như….

b. Nhát như…..

c. Khoẻ như….. d. Nhanh như…

(Thỏ, voi, hổ (cọp), sóc)
17


(2) Trò chơi: Tìm nhanh từ trong các câu thơ (văn)
- Mục đích:
+ Mở rộng vốn từ và củng cố cách sử dụng từ hợp nghĩa.
+ Luyện khả năng phản xạ nhanh.

- Chuẩn bị: Một số câu thơ (văn, ca dao) có từ ngữ thuộc chủ đề bài học.
- Cách chơi:
+ Giáo nêu yêu cầu : Tìm từ chỉ sự vật (hoạt động, trạng thái, đặc điểm, tính
chất…) có trong các câu thơ (văn, ca dao) sau
+ Luật chơi: Khi nghe giáo viên đọc xong câu thơ (văn, ca dao), học sinh xung
phong nói từ có trong đoạn thơ (văn,ca dao). Học sinh nói đúng, giáo viên yêu cầu lớp
khen bạn. Học sinh nói sai, giáo viên yêu cầu học sinh khác chơi tiếp. Tiếp tục cho
đến hết số câu thơ (văn, ca dao) mà giáo viên đã chuẩn bị.
- Trò chơi này có thể sử dụng được ở tất cả các tiết Luyện từ và câu. Có thể tổ
chức cuối bài tập, có mục đích cung cấp vốn từ hoặc tổ chức cuối tiết học.
(3) Trò chơi: Đoán từ sau hoa
- Mục đích:
+ Củng cố nghĩa, chủ đề hoặc thể loại từ
+ Rèn sự liên tưởng nhanh.
- Chuẩn bị:
+ Chép sẵn nhóm từ cần đoán lên bảng lớp, dùng bông hoa che lại.
- Cách chơi:
+ Giáo viên nêu yêu cầu: Đoán từ sau hoa.
+ Luật chơi: Giáo viên nêu nghĩa của các từ (có thể mô tả bằng hành động).
Học sinh xung phong đoán từ. Học sinh đoán đúng thì hoa sẽ mở, không đúng học
sinh khác tiếp tục đoán với một số gợi ý về “chữ ghi âm” của từ đó.
- Trò chơi này có thể áp dụng ở tất cả các tiết Luyện từ và câu để củng cố, mở
rộng vốn từ. Đặc biệt được áp dụng ở một số bài dùng để củng cố một nhóm từ nhằm
nhấn mạnh kiến thức trọng tâm của bài tập như:
+ Bài 3 (tuần 13 tr 108). Chọn và xếp các từ ở 3 nhóm sau thành câu.
18


1


2

Em, chị em

3

quét dọn, giặt

Linh, cậu bé

nhà cửa, sách vở

xếp, rửa
Ai
Mẫu: Em

bát đũa, quần áo
làm gì?
quét dọn nhà cửa.

+ Bài 2 (tuần 14 tr 116). Sắp xếp các từ ở ba nhóm sau thành câu
1

2

3

Anh, chị, em

khuyên bảo, chăm sóc


Chị em, anh em

trông nom, giúp đỡ
Ai
Mẫu: Chị em

anh, chị, em
nhau

làm gì?
giúp đỡ nhau.

+ Bài 2 (tuần 24 trang 64). Tìm từ trong ngoặc đơn hợp với mỗi nghĩa sau:
a. Dòng nước chảy tương đối lớn trên đó thuyền bè đi lại được.
b. Dòng nước chảy tự nhiên ở đầu núi.
c. Nơi đất trũng chứa nước, tương đối rộng và sâu, ở trong đất liền
(Suối, hồ, sông)
Ví dụ: Tôi vận dụng trò chơi này vào bài 2 (tuần 14 trang 116). Sắp xếp các từ
ở ba nhóm sau thành câu:
1

2

Anh, chị, em

khuyên bảo

chị em


chăm sóc

anh em

trông nom

3
anh, chị, em
nhau

giúp đỡ
Ai
Mẫu: Chị em

làm gì?
giúp đỡ nhau.

* Các thao tác hướng dẫn học sinh:
+ Tôi chép sẵn các nhóm từ 1, 2, 3 lên bảng
19


+ Che nhóm 1, 3 bằng hai tờ giấy màu, nhóm 2 gắn mỗi từ một bông hoa (màu
khác nhau).
“Khuyên bảo”
“Chăm sóc”

- hoa màu xanh
- hoa màu đỏ


“Trông nom”

- hoa màu tím.

“Giúp đỡ”

- hoa màu vàng

+ Tôi yêu cầu học sinh: Đoán chữ sau hoa (trò chơi với cả lớp)
+ Khi học sinh chọn bông hoa nào tôi sẽ dùng nghĩa từ để gợi ý. Học sinh dựa
vào đó đoán từ. Nếu đúng thì hoa được mở, nếu sai học sinh khác tiếp tục được chơi.
(Với từ “khuyên bảo” tôi đã gợi ý: Ẩn sau bông hoa màu xanh là từ chỉ một người
dùng lời nói để hướng người khác vào làm những việc tốt).
+ Sau khi mở hết 4 từ ở nhóm 2 tôi hỏi.
? Các từ ở nhóm 2 đều là từ chỉ gì? (từ chỉ hoạt động)
? Từ chỉ hoạt động này trả lời cho câu hỏi nào? (làm gì?)
+ Tôi bỏ băng giấy mở từ nhóm 1 yêu cầu học sinh đọc
? Từ nhóm 1 gồm các từ chỉ gì? (từ chỉ vật)
? Các từ này thường trả lời cho câu hỏi nào? (câu hỏi ai?)
+ Tôi bỏ băng giấy mở nhóm từ 3 yêu cầu học sinh đọc.
+ Sau đó đến lúc này tôi mới yêu cầu: Sắp xếp từ ở 3 nhóm thành một câu theo mẫu
Ai làm gì?
 Với cách đưa trò chơi vào củng cố nghĩa, từ loại của một nhóm từ này sẽ giúp
học sinh hiểu sâu bài, giờ học cũng bớt đi sự gò bó, áp đặt khuôn thước do kiến thức
mẫu đưa ra.
* Có thể nói, để phương pháp trò chơi thực sự có hiệu quả trong giờ học luyện
từ và câu ở lớp 2 thì mỗi giáo viên phải lựa chọn trò chơi hay và hiệu quả nhất cho
mỗi bài dạy. Trong một tiết, giáo viên không nên tổ chức quá 2 trò chơi song cũng có
bài chỉ cần tổ chức một trò chơi. Đổi mới trò chơi, vận dụng để giải bài tập, giáo viên
chỉ nên tổ chức một lần trong tiết dạy. Cần phối hợp liên hoàn, linh hoạt và sáng tạo

20


giữa các phương pháp truyền thống, hiện đại và trò chơi để tiết học sôi nổi, hứng thú
và hiệu quả.
5. Kết quả đạt được.
Khi áp dụng phương pháp trò chơi vào dạy- học phân môn Luyện từ và câu, tôi
thấy 100% học sinh hứng thú học, các giờ học mất đi sự trầm lắng; thay vào đó là
không khí sôi nổi, hào hứng. Chất lượng phân môn Luyện từ và câu lớp tôi thực
nghiệm đi lên rõ rệt. Việc áp dụng những trò chơi vào dạy luyện từ và câu là một
hướng đi đúng góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện học sinh, mở ra một
triển vọng tốt đẹp trong môn Tiếng Việt nói chung, phân môn Luyện từ và câu nói
riêng.
Qua việc đi sâu nghiên cứu và vận dụng trực tiếp vào lớp 2C tôi đã thu được một
số kết quả đáng khích lệ. Để kiểm chứng phương pháp áp dụng trong sáng kiến, kinh
nghiệm của mình. Tôi đã tiến hành khảo sát thực nghiệm nhằm đối chứng chất lượng
giữa hai lớp 2C( lớp thực nghiệm) với lớp 2A (đối chứng). Dưới đây là bảng tổng hợp
kết quả khảo sát học sinh sau khi áp dụng được đối chiếu so sánh ở lớp 2C- cuối học
kì I năm học 2017 -2018 và lớp 2A (không áp dụng các biện pháp trên).
Đề bài (thời gian 6’)
Câu 1 (5 đ): Nối tên các con thú với đặc điểm của chúng
Hổ

hiền lành

Nai

hung dữ

Cáo


nhanh nhẹn

Sóc

ranh mãnh

Câu 2 (5đ): Gạch chân dưới bộ phận trả lời cho câu hỏi như thế nào trong mỗi
câu sau:
a. Bạn Mai rất ngoan
b. Cái áo này đẹp quá.
- Kết quả thu được như sau :
Lớp

Tổng

Điểm 9- 10

Điểm 7- 8

Điểm 5 - 6

Điểm dưới 5
21


số HS

SL


TL%

SL

TL%

SL

TL%

SL

TL%

2C

27

7

26

8

29,6

11

40,7


1

3,7

2A

29

3

10

6

20,6

16

55,7

4

13,7

- Nhìn vào bảng thống kê chất lượng theo từng đợt đánh giá tôi thấy các biện pháp
dạy Luyện từ và câu bằng phương pháp trò chơi mà tôi sử dụng đã thực sự mang lại
hiệu quả. Rõ ràng, khi đối chiếu kết quả bài làm của hai lớp với đề như nhau, tôi thấy
chất lượng bài của học sinh lớp2C tốt hơn. Bài của nhiều em lớp 2C đã tiến bộ rõ rệt.
Điều này càng chứng tỏ phương pháp tổ chức cho học sinh học các bài tập Luyện từ
và câu thông qua phương pháp trò chơi là rất quan trọng, nó quyết định rất nhiều đến

kết quả học tập của học sinh. Cùng với việc nghiên cứu của mình, tổ chức cho các em
được hoạt động có hiệu quả, học sinh được hướng dẫn thực hành phù hợp với từng
bài. Dần dần các em đã hình thành được thói quen làm việc có kế hoạch, linh hoạt với
từng dạng bài.
6. Bài học kinh nghiệm
Trong quá trình nghiên cứu và vận dụng phương pháp trò chơi để gây hứng thú
tạo hiệu quả cho giờ học luyện từ và câu ở lớp 2, tôi nhận thấy:
+ Trước hết, người giáo viên phải có tâm huyết với nghề, luôn tìm tòi, học hỏi,
trao đổi kiến thức, cập nhật những vấn đề mới của xã hội.
+ Cần khơi dậy hứng thú học tập, lòng say mê thích học hỏi của học sinh. Làm
cho học sinh cảm thấy mỗi giờ học là một buổi tham quan kỳ thú. Không nên gò ép
các em theo một khuôn thước nhất định. Biết trân trọng và phát huy tính sáng tạo của
học sinh.
+ Cần phối kết hợp các phương pháp trong quá trình dạy học. Cần coi trọng
phương pháp trò chơi và phát huy tối đa tiềm lực của phương pháp này trong dạy học
phân môn Luyện từ và câu. Tuy nhiên, khi vận dụng phương pháp trò chơi vào dạy
học, giáo viên cần chú ý:
22


- Trò chơi phải góp phần thực hiện được mục tiêu bài học.
- Trò chơi phải được chuẩn bị kỹ, chu đáo, phù hợp với đối tượng học sinh (về
thẩm mỹ và nội dung)
- Luật chơi rõ ràng, đơn giản, dễ nhớ, dễ thực hiện.
- Không nên lạm dụng trò chơi. Trong 1 tiết häc, chỉ nên tổ chức từ 1 đến 2 trò
chơi. Tuyệt đối tránh hiện tượng tổ chức 2 trò chơi trong 1 bài tập. Sử dụng trò chơi
đúng lúc, đúng chỗ.
- Giáo viên cần “khéo” tổ chức trò chơi để trò chơi học tập mang đúng nghĩa
của nó: học mà chơi, chơi mà học. Giáo viên cần kích thích sự thi đua giành phần
thắng giữa các bên tham gia.

- Trò chơi không nên tổ chức kéo dài vì nó sẽ ảnh hưởng tới mạch kiến thức.
7 . Điều kiện để sáng kiến được nhân rộng
Đây là một số kinh nghiệm về “ Dạy Luyện từ và câu cho học sinh lớp 2 thông
qua phương pháp trò chơi”. Tôi thấy chuyên đề này có thể áp dụng được cho tất cả
các giáo viên ở các trường trong huyện (đặc biệt là giáo viên khối 2), trong tỉnh và
đặc biệt những trường học 2 buổi trên ngày như hiện nay. Nó sẽ phát huy tốt hơn ở
những trường có đủ thiết bị dạy học.

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1.Kết luận:
Trong quá trình giảng dạy, tôi luôn áp dụng các trò chơi phù hợp trong mỗi bài,
mỗi tiết dạy. Kết quả thu được là các em tiếp thu bài tốt, phát huy tính tích cực chủ
23


động sáng tạo của học sinh, giúp các em học tập một cách tự nhiên, nhẹ nhàng và hiệu
quả. Chất lượng học sinh học môn Tiếng Việt nâng lên rõ rệt. Câu văn của các em ít
có từ dùng sai hơn. Đặc biệt rèn kĩ năng nói, diễn đạt của các em rất mạch lạc, phong
phú, tự nhiên. Nhiều câu văn hay, từ ngữ gây bất ngờ thú vị, có sức gợi cảm lớn. Điều
đó chứng tỏ vốn từ của các em được nâng lên, các em đã biết dử dụng vốn từ một
cách hợp lí hơn, sinh động hơn. Sau mỗi giờ học gây được sự sảng khoái ham thích
học tập.
2. Khuyến nghị:
- Đối với học sinh cần quan tâm, xác định được tầm quan trọng của phân môn
Luyện từ và câu. Các em cần được động viên khuyến khích kịp thời để các em có
nhiều cố gắng vươn lên trong học tập.
- Đối với giáo viên cần không ngừng học hỏi, tìm tòi, tích luỹ kinh nghiệm từ
đồng nghiệp, tài liệu thông tin sách vở và từ chính học sinh. Ngoài ra giáo viên cần
nắm chắc nội dung chương trình,ý đồ sách giáo khoa, dạy sát đối tượng học sinh, lựa
chọn phương pháp, hình thức tổ chức dạy học phù hợp với mỗi dạng bài. Và đặc biệt

giáo viên cần phải tâm huyết với nghề, luôn đặt học sinh là trung tâm, gần gũi, động
viên giúp đỡ học sinh.
- Tổ chức Đoàn- Đội trong nhà trường cần tổ chức nhiều các cuộc thi: Sắc hoa
học trò- Toán tuổi thơ- Hoa ngũ sắc… để học sinh vừa học vừa chơi, chơi mà học.
Trên đây là một số biện pháp mà tôi đã áp dụng trong giảng dạy phân môn
Luyện từ và câu lớp 2, những kinh nghiệm của bản thân trình bày ở trên chỉ là một
khía cạnh nhỏ. Rất mong được sự góp ý bổ sung của Hội đồng khoa học nhà trường
cùng các bạn bè đồng nghiệp để sáng kiến kinh nghiệm của tôi được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn !

24



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×