PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Với xu thế hội nhập mạnh mẽ, báo chí Việt Nam không đứng ngoài cuộc Cách
mạng công nghiệp 4.0. Trong thời kỳ của mạng xã hội, phổ biến là Facebook, ở diễn đàn
tự do của hàng triệu con người, thông tin được cập nhật đa chiều đem lại cái nhìn khách
quan, toàn diện hơn. Tuy nhiên, bên cạnh cơ hội lớn, tiện ích mà mạng xã hội đem lại
cũng có không ít ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống báo chí. Đặc biệt, kỷ nguyên số không
chỉ khuếch đại tầm ảnh hưởng của thông tin mà còn khuếch đại cả vấn đề trách nhiệm và
đạo đức người làm báo. Nhiều người làm báo bị chi phối bởi áp lực tin bài, thời gian, đã
bỏ qua khâu quan trọng nhất là kiểm chứng độ xác thực của thông tin, gây hệ lụy không
nhỏ tới sự ổn định của xã hội, làm suy giảm lòng tin đối với báo chí và đạo đức nghề
nghiệp của người làm báo. Thực tế có không ít bài viết, bình luận của người làm báo trên
mạng xã hội có tính chất đi ngược lại quan điểm của cơ quan báo chí nơi mình công tác,
lôi kéo người khác phản ứng tiêu cực về các vấn đề xã hội...
Từ sau sự kiện đó, việc sử dụng trí tuệ nhân tạo để viết báo đã được nhiều tờ báo ở
Mỹ, Anh, Trung Quốc... áp dụng. Các khóa học báo chí 4.0 được mở tại các tập đoàn báo
chí và các trường đào tạo báo chí trên thế giới. Báo chí rô bốt, báo chí kết hợp giữa phóng
viên và máy, phần mềm viết báo, báo chí tự động hóa là những tên gọi khác nhau của làn
sóng áp dụng công nghệ trong cuộc chạy đua tới nền báo chí 4.0. Trong tương lai, khi tất
cả các loại máy móc kết nối với nhau trên nền tảng internet, nghề báo không thể đứng
ngoài cuộc chơi số 4.0. Vì thế, hơn bao giờ hết, phóng viên phải không ngừng học tập,
nâng cao trình độ, chủ động, sáng tạo và đổi mới mỗi ngày nếu không muốn nhanh chóng
bị đào thải khỏi “cuộc chơi”.
Dù công nghệ là yếu tố rất quan trọng, nhưng cái tâm của người làm báo chính là
căn bản để báo chí Việt Nam phát triển bền vững. Nhiều tờ báo coi mạng xã hội như một
mảnh đất tốt để đưa các sản phẩm báo chí chính thống đến với người đọc, người xem.
Những mặt trái của mạng xã hội, trong đó, rõ nhất là nạn đưa tin giả, tin chưa được kiểm
chứng… báo chí phải phát huy vai trò của mình, các tác phẩm báo chí chính thống có
1
thêm độc giả và có điều kiện phát triển, được người đọc, người xem, người nghe tin cậy
tìm đến.
Với sự ra đời của các phương tiện truyền thông mới, đặc biệt là sự ra đời của mạng
xã hội khiến môi trường làm việc của nhà báo trở nên rộng lớn và dần dần không còn
“biên giới” cứng trong tác nghiệp. Đây vừa là thuận lợi, vừa là thách thức đối với những
người làm báo Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Điều này đặt ra cho những người làm
báo rất nhiều vấn đề về pháp luật, đạo đức và trách nhiệm cũng như nghĩa vụ công dân
của nhà báo.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1.
Mục đích
2.2.
Nhiệm vụ
3. Kết cấu của tiểu luận
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẠO ĐỨC BÁO CHÍ
TRONG THỜI ĐẠI CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0
1.1.
Khái niệm chung về đạo đức báo chí
1.1.1. Đạo đức báo chí là gì?
Tác giả E.P.Prôkhôrốp trong cuốn Cơ sở lý luận báo chí cho rằng đạo đức nghề
nghiệp của nhà báo là “những quy định đạo đức không được ghi trong đạo luật, nhưng
được chấp nhận trong giới báo chí và được duy trì bởi sức mạnh của dư luận xã hội, bởi
các tổ chức sáng tạo nghề nghiệp, đó là những nguyên tắc, những quy định và những quy
tắc về hành vi đạo đức của nhà báo” .
Trong cuốn Thuật ngữ Báo chí - Truyền thông, tác giả cho rằng đây là “khái niệm
chỉ tư cách, lương tâm nghề nghiệp trong hoạt động báo chí, biểu hiện qua hành vi,
nguyên tắc ứng xử của người làm báo” .
Như vậy, đạo đức nghề nghiệp của nhà báo là những quy tắc, chuẩn mực quy định
thái độ và hành vi ứng xử của nhà báo trong các mối quan hệ nghề nghiệp.
2
Trên thực tế hiện nay, đạo đức nghề nghiệp của nhà báo còn được gọi bằng nhiều
tên khác nhau với ý nghĩa đồng nhất. Đó là đạo đức nghề báo, đạo đức báo chí, đạo đức
nghề nghiệp của người làm báo, đạo đức nhà báo.
Đạo đức báo chí là đạo đức của một ngành, một lĩnh vực. Đạo đức nhà báo bao
gồm đạo đức con người và đạo đức nghề nghiệp của nhà báo. Tuy đây là hai khía cạnh
nhưng lại tồn tại chung trong một con người - nhà báo.
Vì vậy, chúng có quan hệ mật thiết với nhau, khó tách rời.
Đạo đức nghề báo, đạo đức nghề nghiệp của nhà báo và đạo đức nghề nghiệp của
người làm báo có chung một ý nghĩa.
Theo tác giả G.V.Ladutina, gắn liền với khái niệm đạo đức nghề nghiệp của nhà
báo còn có các khái niệm bổn phận nghề nghiệp, trách nhiệm nghề nghiệp và lương tâm
nghề nghiệp. Đây là những khái niệm phản ánh các khía cạnh của các quan hệ đạo đức
nghề báo, bắt nguồn từ bản chất công việc của nhà báo và thể hiện dưới dạng thúc giục
các hành động cần thiết cho việc hoàn thành các nhiệm vụ nghề nghiệp. Bổn phận nghề
nghiệp của nhà báo là “quan niệm do cộng đồng các nhà báo thảo ra về các trách nhiệm
trước xã hội mà nhà báo tự nguyện gánh vác, trên cơ sở phù hợp với vị trí và vai trò của
mình trong đời sống xã hội”.
Trách nhiệm nghề nghiệp của nhà báo là sự phụ thuộc trong thực tế giữa kết quả
hoạt động nghề nghiệp của nhà báo và những hậu quả mà nó có thể gây ra cho xã hội,
cho những con người cụ thể. Bản thân những nhà báo có trách nhiệm nghề nghiệp là
những người nhận thức được sự liên quan của mình tới các hậu quả của hoạt động nghề
nghiệp.
Lương tâm nghề nghiệp của nhà báo là sự định hướng đặc biệt của cá nhân nhà
báo về các hoạt động nghề nghiệp, có khả năng tạo ra trạng thái thanh thản về tâm hồn,
một sự thoải mái bên trong. Lương tâm nghề nghiệp giống như cái máy chỉ báo đầy nhạy
cảm về sự tương ứng giữa cách xử sự của nhà báo với các quy tắc, chuẩn mực đạo đức
nghề nghiệp. Nó ngăn chặn hoặc xui khiến, thúc đẩy nhà báo tiến hành những bước đi
nghề nghiệp theo hướng tốt nhất 2.
3
Cũng giống như đạo đức, bên cạnh những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực đạo đức
nghề báo chung cho tất cả nhà báo ở tất cả các quốc gia thì còn có những nguyên tắc,
chuẩn mực đạo đức nghề báo riêng của từng quốc gia, từng cơ quan báo chí phụ thuộc
vào từng thời kỳ phát triển lịch sử của từng quốc gia, cơ quan báo chí đó. Đương nhiên,
những nguyên tắc, chuẩn mực này vừa bảo đảm cho những hoạt động của nhà báo hòa
đồng với xã hội vừa không vượt quá giới hạn của những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức
chung, đạo đức nghề báo. Chính vì thế, những phẩm chất đạo đức nghề báo như chân
thật, khách quan, lòng trung thành... có nội dung giống nhau nhưng lại có những yêu cầu
cụ thể riêng của mỗi quốc gia, mỗi cơ quan báo chí trong từng thời kỳ lịch sử.
1.1.2. Lịch sử các vấn đề đạo đức nghề nghiệp của nhà báo
Thế kỷ XIX, với sự tác động của khoa học kỹ thuật cùng sự biến đổi về điều kiện
kinh tế, xã hội đã tạo ra thế kỷ hoàng kim của báo in. Nhưng cũng từ đây, vấn đề đạo đức
nghề nghiệp của nhà báo được đặt ra, những biểu hiện tiêu cực trong đạo đức nghề
nghiệp của nhà báo ngày càng trở nên nghiêm trọng, nổi cộm.
Cuối thế kỷ XIX, các nền báo chí chuyên nghiệp, hiện đại trên thế giới như Mỹ,
Anh, Pháp, Đức... đều bắt đầu xây dựng cho riêng mình những quy tắc về đạo đức nghề
nghiệp. Đến nay, hầu hết các nền báo chí trên thế giới đều đã có quy ước bằng văn bản
được thông qua bởi đại hội nghề nghiệp và mặc nhiên thừa nhận khi nhà báo hành nghề.
Thậm chí, có những cơ quan báo chí còn xây dựng riêng bộ quy ước nhằm định hướng
đạo đức nghề nghiệp cho nhà báo trong tòa soạn của mình như Bộ quy tắc đạo đức dành
cho phòng biên tập và thời sự của The New York Times (Mỹ), ban hành tháng -2003.
Được biết nhiều nhất là bản Những nguyên tắc quốc tế và đạo đức nghề nghiệp báo chí
do Tổ chức quốc tế các nhà báo (OIJ) khởi thảo và được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và
Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO) công nhận. Văn kiện này được nhiều tổ chức báo chí
quốc tế đại diện cho hơn 40 vạn nhà báo đang hành nghề trên khắp các châu lục thông
qua.
Đạo đức nghề nghiệp của người làm báo Việt Nam được xác lập trên cơ sở thống
nhất với báo chí thế giới và dựa trên cơ sở thực tiễn hoạt động báo chí Việt Nam. Ở Việt
Nam, những người làm báo Việt Nam đều là công dân của nước Cộng hòa xã hội chủ
4
nghĩa Việt Nam nên đạo đức nghề báo không thể tách rời những chuẩn mực đạo đức của
mỗi con người Việt Nam trong thời kỳ này. Chính vì thế, những phẩm chất như yêu nước,
thương dân, trung thành với chủ nghĩa xã hội, lòng nhân đạo xã hội chủ nghĩa... phải trở
thành nền tảng của đạo đức nhà báo Việt Nam.
Năm 1994, Đại hội lần thứ 6 Hội Nhà báo Việt Nam đã thông qua Bản quy ước về
tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp của báo chí Việt Nam. Đến Đại hội lần thứ 8 (2007), Hội
Nhà báo Việt Nam đã chỉnh lý và sửa đổi thành 9 điều Quy định đạo đức nghề nghiệp
của người làm báo Việt Nam.
Ở nước ta, đạo đức nghề nghiệp của người làm báo đã được luật hóa thông qua
Luật Báo chí năm 2016 và gắn liền với vai trò của Hội Nhà báo Việt Nam. Cụ thể, tại
điểm b, khoản 2, Điều 8 Luật Báo chí quy định: Hội Nhà báo Việt Nam “Ban hành và tổ
chức thực hiện quy định về đạo đức nghề nghiệp của người làm báo”. Quy định này
không chỉ khẳng định đạo đức nghề nghiệp là yếu tố hết sức quan trọng đối với mỗi
người làm báo, tạo ra hành lang pháp lý đối với người làm báo trong quá trình tác nghiệp
mà còn đồng thời khẳng định yếu tố đạo đức nghề nghiệp trong hoạt động báo chí của
mọi hội viên Hội Nhà báo Việt Nam, không phân biệt giữa người làm báo có Thẻ nhà
báo, hay người làm báo không có Thẻ nhà báo.
Gần nhất, ngày 16.12.2016, Chủ tịch Hội Nhà báo Việt Nam Thuận Hữu đã ký
Quyết định số 483/QĐ-HNBVN ban hành Quy định đạo đức nghề nghiệp người làm báo
Việt Nam, trong đó nêu rõ: Quy định đạo đức nghề nghiệp người làm báo Việt Nam gồm
10 điều, có hiệu lực từ ngày 1/1/2017.
10 điều được Hội Nhà báo Việt Nam công bố gồm:
Điều 1: Trung thành với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; vì lợi ích của đất nước, vì hạnh
phúc của nhân dân; góp phần nâng cao uy tín, vị thế Việt Nam trên trường quốc tế.
Điều 2: Nghiêm chỉnh thực hiện Hiến pháp, Luật Báo chí, Luật Bản quyền và các
quy định của pháp luật ;Thực hiện đúng tôn chỉ, mục đích; nội quy, quy chế của cơ quan
báo chí nơi công tác.
5
Điều 3: Hành nghề trung thực, khách quan, công tâm, không vụ lợi; Bảo vệ công
lý và lẽ phải. Không làm sai lệch, xuyên tạc, che giấu sự thật, gây chia rẽ, kích động xã
hội, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc và tình đoàn kết, hữu nghị giữa các quốc gia,
dân tộc.
Điều 4: Nêu cao tinh thần nhân văn, tôn trọng quyền con người. Không xâm phạm
đời tư, làm tổn hại danh dự, nhân phẩm, lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân.
Điều 5: Chuẩn mực và trách nhiệm khi tham gia mạng xã hội và các phương tiện
truyền thông khác.
Điều 6: Bảo vệ bí mật quốc gia, bí mật nguồn tin theo quy định của pháp luật.
Điều 7: Đoàn kết, giúp đỡ đồng nghiệp.
Điều 8: Tích cực học tập, nâng cao trình độ chính trị, nghiệp vụ, ngoại ngữ, phấn
đấu vì một nền báo chí dân chủ, chuyên nghiệp và hiện đại.
Điều 9: Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt Bảo vệ và phát huy các giá trị văn
hóa Việt Nam, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
Điều 10: Những người làm báo Việt Nam cam kết thực hiện những quy định trên,
đó là bổn phận và nguyên tắc hành nghề, là lương tâm và trách nhiệm của người làm báo.
1.1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức người làm báo
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá rất cao tầm quan trọng của báo
chí. Người luôn coi báo chí là một vũ khí sắc bén, một bộ phận không thể thiếu của
công tác cách mạng, có sức “ảnh hưởng trong dân chúng rất mạnh” và có “một địa vị
quan trọng trong dư luận”. Người nói: “Tờ báo chỉ là giấy trắng mực đen mà thôi.
Nhưng với giấy trắng mực đen ấy, người ta có thể viết những bức tối hậu thư, người ta
có thể viết những bức thư yêu đương”. Đối với Người, báo chí là phương tiện vận động,
tập hợp lực lượng cách mạng và tổ chức thực hiện mục tiêu cách mạng một cách hiệu
quả nhất.
Chính vì báo chí có vị trí và vai trò to lớn, cùng lúc có thể tác động đến
nhiều người, nhiều tầng lớp trong xã hội, nhiều lĩnh vực của cuộc sống nên những
người làm nghề này trong mỗi tác phẩm và sản phẩm của mình phải nhận thức sâu sắc
từng việc làm, cân nhắc kỹ lưỡng và xem xét cẩn trọng những hậu quả có thể xảy ra đối
với xã hội. Chỉ cần một chút thiếu thận trọng của nhà báo, xã hội phải bỏ ra gấp trăm
6
ngàn lần công sức để khắc phục hậu quả. Cùng đưa tin về một sự việc, nhưng nhà báo
có đạo đức nghề nghiệp sẽ đặt lợi ích của số đông, của công chúng, nhân dân lên trên,
còn nhà báo thiếu đạo đức nghề nghiệp đầu tiên sẽ nghĩ đến lợi ích của bản thân mình
hoặc cơ quan báo chí của mình mà bất chấp hậu quả xảy ra với xã hội. Ví dụ như những
thông tin về giá lương thực, về bưởi gây ung thư, về sầu riêng có hóa chất
Carbendazin...
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà báo phải luôn tự giác nhận thức đầy đủ tính
chất và vai trò xã hội của các hành vi sáng tạo mà mình thực hiện, phải học tập và tu
dưỡng đạo đức. Còn theo nhà báo Hữu Thọ thì “nghề nào cũng cần có đạo đức nhưng
nghề báo là nghề có quan hệ tới nhiều người, nhiều tầng lớp, đóng vai trò quan trọng
trong tạo dựng và định hướng dư luận xã hội nên đạo đức nghề báo cần được coi trọng
và chú ý rất nhiều” .
“Sở dĩ đạo đức nghề báo được nhiều người quan tâm, dễ dàng lan tỏa trong dư
luận xã hội, vì đây là nghề mang tính xã hội cao, có sức ảnh hưởng lớn nên những vấn
đề thuộc báo chí đều được dư luận xã hội quan tâm. Thêm nữa, sức ảnh hưởng của nghề
báo đối với xã hội rất lớn nên hậu quả của việc nhà báo thiếu đạo đức cũng không nhỏ”.
Xét một cách toàn diện, ngành nghề nào cũng cần có đạo đức. Nhưng với một
nhà báo - những người luôn được coi là đại diện cho tiếng nói của nhân dân, thì đạo đức
nghề nghiệp lại càng cần phải được đề cao. Lương tâm nghề nghiệp, trách nhiệm với sự
thật là điều đầu tiên phải nghĩ đến khi đứng trước muôn ngàn sự kiện, con chữ. Điều
khiến xã hội sợ hãi là một nhà báo tài năng nhưng lạnh lùng và vô cảm. Biết rung cảm
trước những đớn đau của xã hội, đồng cảm với tiếng nói của những người dân nghèo
khổ thì nhà báo sẽ nghiêm khắc hơn trước những sai lầm của mình và của đồng nghiệp.
Với nhà báo, danh tiếng là điều mà xã hội công nhận cho những cống hiến của họ.
Những cống hiến ấy không tính bằng một vài bài báo hay bằng vài tháng, vài năm mà
phải bằng cả cuộc đời phấn đấu lao động không mệt mỏi.
Mỗi bài báo của Người đều phù hợp một cách tự nhiên, nhuần nhuyễn
giữa ngôn từ, cách diễn đạt với trình độ nhận thức, sự hiểu biết và cách suy nghĩ của
từng đối tượng, đều bắt nguồn từ thực tế cuộc sống với những con số, những sự kiện đã
7
được xem xét, kiểm tra, chọn lọc, mang cho người đọc, người nghe lượng thông tin cao
và chính xác. Do đó, tư tưởng của Người, dù là những vấn đề của cuộc sống chiến đấu,
lao động hằng ngày hay những vấn đề lớn của đất nước, của thời đại đều được truyền
đạt một cách thấm thía, sâu sắc, dễ hiểu, dễ nhớ, có sức thuyết phục mạnh mẽ.
Sinh thời, Hồ Chí Minh có nhiều định hướng xây dựng nhân cách nhà báo cách
mạng, nhưng vấn đề quan trọng hàng đầu là phải có phẩm chất đạo đức tốt đẹp. Nhà báo
cũng phải là chiến sĩ cách mạng, “...Để làm tròn nhiệm vụ vẻ vang của mình, cán bộ báo
chí cần phải tu dưỡng đạo đức cách mạng, cố gắng trau rồi tư tưởng, nghiệp vụ và văn
hoá; chú trọng học tập chính trị để nắm vững chủ trương, chính sách của Đảng và Chính
phủ; đi sâu vào thực tế, đi sâu vào quần chúng lao động...”(2). “Người cán bộ cách mạng
phải có đạo đức cách mạng. Phải giữ vững đạo đức cách mạng mới là người cán bộ cách
mạng chân chính. Mọi việc thành hay bại, chủ chốt là do cán bộ có thấm nhuần đạo đức
hay không”. . Khi nói chuyện ở Đại hội lần thứ III Hội Nhà báo Việt Nam tháng 9/1962,
Người khẳng định: “Cán bộ báo chí cũng là chiến sỹ cách mạng. Cây bút, trang viết là vũ
khí sắc bén của họ. Để làm tròn nhiệm vụ vẻ vang của mình, cán bộ báo chí cần phải tu
dưỡng đạo đức cách mạng”(3). Với tư cách là một nhà báo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã tự trau dồi đạo đức, phong cách của người chiến sĩ trên mặt trận báo chí và
chính Người đã đặt nền móng vững chắc cho sự phát triển của báo chí cách mạng nước
ta. Vấn đề hàng đầu Người đòi hỏi các nhà báo là phải có phẩm chất chính trị vững vàng
và theo đó phải có đạo đức tốt đẹp và trong sáng. Trong thư gửi anh em văn hoá và trí
thức Nam bộ ngày 25-5-1947, Người viết: “Ngòi bút của các bạn cũng là những vũ khí
sắc bén trong sự nghiệp phò chính, trừ tà”. Tư tưởng này đã toát lên một ý nghĩa nhân
văn cao cả, đó là lòng bao dung, độ lượng đối với con người, Người nói: “Đừng sợ người
ta không theo mình, mà chỉ sợ mình không có lòng độ lượng tha thứ đối với con người
mà thôi”, từ đó Người khái quát lên một triết lý: “Sông sâu biển rộng chứa bao nhiêu
nước cũng vừa vì lòng độ lượng nó lớn, nó sâu; còn một cái bát, cái chén chứa thêm một
giọt nước cũng tràn đầy vì lòng độ lượng nó hẹp”(4).
Nhà báo phải có lập trường chính trị vững vàng, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, hoạt
động báo chí là hoạt động chính trị-xã hội, nên nhiệm vụ của báo chí là phục vụ cách
8
mạng, phục vụ nhân dân, nhà báo phải là chiến sĩ trên mặt trận cách mạng. Do đó, lập
trường chính trị vững chắc là tiêu chuẩn và là yêu cầu hàng đầu đối với mỗi người làm
báo. Hồ Chí Minh yêu cầu nhà báo ''phải cố gắng học tập chính trị, nâng cao tư tưởng,
đứng vững trên lập trường giai cấp vô sản...”(4). Tại Đại hội lần thứ II, Hội Nhà báo Việt
Nam ngày 16-4-1959, Người nói: “Tất cả những người làm báo (người viết, người in,
người sửa bài, người phát hành...) phải có lập trường chính trị vững chắc. Chính trị phải
làm chủ, đường lối chính trị đúng thì những việc khác mới đúng được. Cho nên các báo
chí của ta phải có đường lối chính trị đúng”(5); “Nhiệm vụ của người làm báo là quan
trọng và vẻ vang. Muốn hoàn thành tốt nhiệm vụ ấy thì phải cố gắng học tập chính trị,
nâng cao tư tưởng, đứng vững trên lập trường giai cấp vô sản; phải nâng cao trình độ văn
hóa, phải đi sâu vào nghiệp vụ của mình”(6). Tháng 5 năm 1949, trong thư gửi lớp học
viết báo Huỳnh Thúc Kháng đầu tiên ở Chiến khu Việt Bắc, Người chỉ rõ: “Nhiệm vụ của
tờ báo là tuyên truyền, cổ động, huấn luyện, giáo dục và tổ chức dân chúng để đưa dân
chúng đến mục đích chung”. Đối với Hội nhà báo, Người khẳng định: “Nói về Hội nhà
báo. Đó là một tổ chức chính trị và nghiệp vụ. Nhiệm vụ của Hội là phải làm cho hội viên
đoàn kết chặt chẽ, giúp đỡ lẫn nhau để nâng cao trình độ chính trị và nghiệp vụ. Có như
thế thì Hội nhà báo mới làm tròn nhiệm vụ của mình và những người làm báo mới phục
vụ tốt nhân dân, phục vụ tốt cách mạng”(7). Tại Đại hội lần thứ II Hội nhà báo Việt Nam
(1959) và Đại hội lần thứ III Hội nhà báo Việt Nam, Bác Hồ đã chỉ rõ “Nhiệm vụ của báo
chí là phục vụ nhân dân, phục vụ cách mạng. Đó là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân ta,
cũng là nhiệm vụ của báo chí ta”(8). Những lời chỉ dẫn của Hồ Chí Minh đã giúp những
người làm báo chân chính hiểu sâu sắc hơn về nghĩa vụ và trách nhiệm của mình trong
cuộc đấu tranh vì một đất nước giàu mạnh, công bằng, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân làm
chủ. Người làm báo từ trung ương đến địa phương đều là đầy tớ của nhân dân, đều phải
một lòng, một dạ phục vụ nhân dân. Nhà báo phải là chiến sỹ trên mặt trận báo chí. Hồ
Chí Minh coi báo chí vừa là một bộ phận cấu thành văn hoá, vừa là phương tiện xây
dựng, truyền bá văn hoá; vừa là đội quân tiên phong trong công tác tư tưởng. Người sớm
nhận ra vai trò và tác động to lớn của báo chí trong đấu tranh xã hội. Người tâm đắc câu
9
nói của Lê-nin: “Cái mà chúng ta nhất thiết phải có lúc này là một tờ báo chính trị. Trong
thời đại ngày nay, không có tờ báo chính trị thì không thể có phong trào gọi là chính trị...
Không có tờ báo thì không thể tiến hành hệ thống cuộc tuyên truyền, cổ động có nguyên
tắc và toàn diện”(9). Đối với Người, chức năng, nhiệm vụ của báo chí là “tuyên truyền,
huấn luyện, giáo dục, tổ chức dân chúng” bằng phương tiện thông tin và các thủ pháp
nghề nghiệp khác.
Tại Đại hội lần thứ II, Hội nhà báo Việt Nam (1959), Người chỉ rõ: “Nhiệm vụ của
báo chí là phục vụ nhân dân, phục vụ cách mạng. Đó là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn
dân ta, cũng là nhiệm vụ của báo chí ta”(10). Trong thư gửi lớp viết báo đầu tiên Huỳnh
Thúc Kháng, Người nói rằng, muốn viết báo thì: Thứ nhất cần phải gần gũi dân chúng, cứ
ngồi trong phòng giấy mà viết thì không thể viết thiết thực; Thứ hai ít nhất cũng phải biết
một thứ tiếng nước ngoài để xem báo nước ngoài mà học kinh nghiệm của người; khi viết
xong một bài, tự mình phải xem lại ba bốn lần, sửa chữa lại cho cẩn thận; tốt hơn nữa, là
đưa nhờ một vài người ít văn hóa xem và hỏi họ những câu nào, chữ nào không hiểu thì
sửa lại cho dễ hiểu; Thứ ba luôn luôn gắng học hỏi, luôn luôn cầu tiến bộ. Người có nhiều
bài nói về công việc viết báo, chia sẻ kinh nghiệm viết báo với đồng nghiệp hoặc cán bộ
cấp dưới. Trong bài nói chuyện tại Đại hội lần thứ III của Hội Nhà báo Việt Nam ngày 89-1962, Người nói: "Kinh nghiệm của tôi là thế này: Mỗi khi viết một bài báo, thì đặt câu
hỏi: Viết cho ai xem? Viết để làm gì? Viết thế nào cho phổ thông dễ hiểu, ngắn gọn dễ
đọc? Khi viết xong, thì nhờ anh em xem và sửa giùm"(11). Trong nhiều bài viết của
mình, luôn nhắc đi nhắc lại yêu cầu đối với các nhà báo trước khi viết phải trả lời các câu
hỏi “Vì ai mình viết? Viết cho ai? Viết để làm gì?”. Người đòi hỏi các nhà báo phải xác
định rõ đối tượng tiếp nhận thông tin trước khi cầm bút viết; đối tượng của tờ báo là đại
đa số dân chúng; vì thế, văn phong báo chí phải “giản đơn, dễ hiểu, phổ thông, hoạt bát”.
Theo Người cần viết những cái hay, cái tốt của dân ta, của bộ đội ta, của bạn bè ta, đồng
thời phê bình khuyết điểm của chúng ta, của cán bộ, nhân dân, bộ đội; cần viết cho CôngNông-Binh, viết cho mọi tầng lớp người Việt Nam, không phân biệt già trẻ, nam nữ, tôn
giáo, đảng phái; cần viết để tuyên truyền, để giác ngộ, để đoàn kết, để thức tỉnh quần
10
chúng; cần viết gọn gàng, sáng sủa, mạch lạc, có đầu có đuôi, có nội dung. Hồ Chí Minh
rất coi trọng về hình thức bài báo; hình thức phải ngắn gọn với ngôn ngữ trong sáng, giản
dị, dễ hiểu. Theo Người ngắn gọn không có nghĩa là cộc lốc mà là gọn gàng, rõ ràng, có
đầu, có đuôi, có nội dung thiết thực. Muốn viết được trong sáng, giản dị, dễ hiểu thì nhà
báo phải học cách nói của quần chúng; phải thực sự học quần chúng. Sự trong sáng, giản
dị, dễ hiểu là bắt nguồn từ sự hiểu biết thấu đáo về bản chất của sự vật, từ sự gắn bó với
truyền thống dân tộc trong cách cảm, nếp nghĩ. Người không những am hiểu ngôn từ của
nhiều dân tộc mà còn là bậc thầy về sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt. Người luôn tâm niệm
rằng, "viết và nói phải có mục đích, có nội dung"; nói và viết dù chỉ một câu cũng làm
cho người dân bình thường nhất hiểu và làm theo được. Trả lời câu tự hỏi: "Nói và viết
như thế nào?", Người khẳng định: "Viết thế nào cho phổ thông, dễ hiểu". Bởi vì, với đối
tượng là quần chúng và mục đích là vì nhiệm vụ cách mạng, thì tính phổ thông, dễ hiểu là
cách giao tiếp chủ yếu, công việc đó là để phục vụ đại bộ phận quần chúng nhân dân.
Trước quần chúng, phải hết lòng, hết sức phục vụ quần chúng nhân dân, phải yêu
kính nhân dân, phải tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân; phải nắm vững quan điểm
giai cấp, đi đúng đường lối quần chúng, giáo dục và phát động quần chúng tiến hành mọi
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Đảng ta là đảng lãnh đạo cách mạng. Báo
chí là công cụ lãnh đạo của Đảng, ngoài lợi ích của nhân dân, người làm báo cách mạng
không có lợi ích nào khác. Vì vậy, người làm báo phải một lòng, một dạ phục vụ, nâng
cao tinh thần trách nhiệm đối với Đảng, nhân dân và xã hội. Nhà báo phải có ý thức trách
nhiệm trong việc nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Trình độ chuyên môn nghiệp
vụ không thuộc phạm trù đạo đức, nhưng ý thức trách nhiệm trong việc nâng cao trình độ
chuyên môn nghiệp vụ thì thuộc phạm trù đạo đức. Nhà báo phải có ý thức trách nhiệm
trong việc nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, bởi vì nếu không như vậy thì họ
không thể có trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, không có chuyên môn vững
vàng, thì không thể hoàn thành trọn vẹn ý thức và tinh thần trách nhiệm xã hội.
Về ý thức trách nhiệm trong việc nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ báo chí,
Hồ Chí Minh là một tấm gương. Người bắt đầu học viết báo từ hồi lao động kiếm sống và
11
hoạt động cách mạng ở Pari. Người tranh thủ những phút nghỉ hiếm hoi sau những giờ
lao động vất vả để viết báo. Đầu tiên là những tin ngắn, rất ngắn. Mỗi tin chép thành hai
bản, một bản gửi cho toà báo, một bản giữ lại. Nếu được báo đăng, bao giờ Người cũng
đem so sánh tin được đăng trên báo với bản thảo lưu lại, xem người ta sửa chữa nhiều
không, ra sao, vì sao lại chữa. Khi đã tương đối quen việc, Người viết dài thêm, lúc đầu
thêm vài dòng, rồi thêm vài dòng nữa, vài dòng nữa, nâng lên 15 - 20 dòng, thành cả một
tin sâu, một bài viết ngắn. Khi đã viết được như thế, Người lại viết rút ngắn lại, cũng
những việc như vậy nhưng phải viết cho rõ, cho gọn. Người nói: “Muốn tiến bộ, muốn
viết hay thì phải cố gắng học hỏi, ra công rèn luyện”; “Một người phải biết học nhiều
người. Hơn nữa, cần phải làm cho món ăn tinh thần được phong phú, không nên bắt mọi
người chỉ được ăn một món thôi. Cũng như vào vườn hoa, cần cho mọi người được thấy
nhiều loại hoa đẹp”(12). Người căn dặn: “Nhà báo phải có trách nhiệm đối với người đọc
khi viết bài, phải viết sao cho người đọc dễ hiểu; khi viết cho nhân dân thì phải học cách
nói của nhân dân, cách nói mộc mạc, giản dị mà chân thành; phải trau dồi kiến thức, chịu
khó học hỏi, khiêm tốn, tự phê bình và thành khẩn đón nhận sự phê bình của nhân
dân”(13). Tháng 7-1924, tại Đại hội lần thứ năm Quốc tế Cộng sản, Người đã trình bày
quan điểm của mình về vai trò của báo chí: "Báo chí cộng sản chủ nghĩa có nhiệm vụ làm
cho các chiến sĩ của chúng ta hiểu rõ vấn đề thuộc địa, làm thức tỉnh sự đồng tình hưởng
ứng quần chúng lao động của các nước thuộc địa, tranh thủ họ tham gia sự nghiệp của
chủ nghĩa cộng sản". Hồ Chí Minh làm báo là để thức tỉnh quần chúng nhân dân lao
động, giai cấp thợ thuyền, đồng thời Người cũng yêu cầu báo chí, các nhà báo cách mạng
phải thức tỉnh quần chúng, giúp người đọc tự nhận thức được các vấn đề trong nước và
quốc tế, kinh tế và văn hoá, đạo đức và xã hội giúp cho người đọc hiểu và có đủ khả năng
nhận thức được thế giới xung quanh một cách đúng đắn, từ đó có hành vi ứng xử thích
hợp bằng một quan điểm đúng đắn, xuất phát từ lợi ích dân tộc, lợi ích giai cấp. Người
nhắc nhở: “Ngành nào cũng phải làm công tác tuyên truyền, giới thiệu. Và các chú nhớ ở
trang đầu mỗi cuốn sách đều phải ghi một câu “Hoan nghênh bạn đọc phê bình. Từ nay
trở đi, trên sách hay trên báo, các chú nên luôn luôn có câu đó. Bác biết các chú văn hay
chữ tốt, nhưng dù sao, nhân dân trăm tay nghìn mắt vẫn có nhiều ý kiến thông minh có
12
thể giúp cho các chú tiến bộ hơn. Không riêng gì viết sách báo, mà công tác gì muốn làm
tốt đều phải coi trọng ý kiến của nhân dân”(14). Đó chính là thể hiện sự tôn trọng đối với
nhân dân và nâng cao tinh thần trách nhiệm trước nhân dân.
Trong tư tưởng của Hồ Chí Minh về báo chí, Người coi trung thực là một tiêu
chuẩn đạo đức rất quan trọng trong hoạt động nghề nghiệp báo chí. Đồng thời, Người
cũng đòi hỏi các nhà báo trong mọi trường hợp khen cũng như chê đều với động cơ trong
sáng, khách quan, không thể viết báo vì mục đích vụ lợi, cá nhân, ích kỷ. Người cho rằng
“một tờ báo mà không được đại đa số quần chúng ham muốn thì không xứng đáng là một
tờ báo”, đó cũng là một trong những nguyên tắc về đạo đức báo chí của Người.
Điều này nằm trong những quy định về đạo đức nghề nghiệp của người làm báo
Việt Nam: “Nhà báo phải hành nghề trung thực, khách quan, tôn trọng sự thật”. Nhà báo
chân chính phải chuyên nghiệp trong cách hành nghề, phải trung thực, khách quan, tôn
trọng sự thật. Người nói: “Không biết rõ, hiểu rõ, chớ nói, chớ viết. Khi không có gì cần
nói, không có gì cần viết, chớ nói, chớ viết càn” và “chưa điều tra, chưa nghiên cứu, chưa
biết rõ, chớ nói, chớ viết”(15). “Viết giản dị thôi, và phải đúng sự thật. Không được bịa
ra”; “Không nên chỉ viết cái tốt và giấu đi cái xấu. Nhưng phê bình phải đúng đắn. Nêu
cái hay, cái tốt thì phải có chừng mực, chớ phóng đại... Phê bình thì phải phê bình một
cách thật thà, chân thành, đúng đắn”(16). Người đòi hỏi các nhà báo trong mọi trường
hợp khen cũng như chê đều với động cơ trong sáng, khách quan ; không thể viết báo vì
mục đích vụ lợi, cá nhân, ích kỷ. Nhà báo phải trung thực trong công việc. Báo chí phải
phản ánh đúng những ý kiến xây dựng của nhân dân; nói lên tâm tư, nguyện vọng, kiến
nghị của dân đối với công cuộc xây dựng đất nước; quyết liệt chống nạn tham nhũng,
buôn lậu; chống lại tội ác và các tệ nạn xã hội; chống lại những biểu hiện tha hóa, sa sút
về phẩm chất, đạo đức và lối sống. Báo chí phải đem đến cho công chúng niềm tin ở sự
thật, tin ở sự nghiêm minh của pháp luật, đặc biệt tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, tin
vào truyền thống cách mạng và nhân văn của nhân dân ta.
Việc học tập phong cách làm báo của Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhân tố quan trọng
và vô cùng cần thiết đối với mỗi người làm báo, đặc biệt đối với cơ chế thị trường hiện
13
nay. Muốn trở thành nhà báo giỏi, chúng ta hãy không ngừng học tập, khổ công rèn
luyện, trau dồi bản lĩnh chính trị và bản lĩnh nghề nghiệp, học tập theo gương Bác Hồ Người thầy của báo chí cách mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh luôn kêu gọi mọi người thi
đua học tập, coi học tập là nhiệm vụ thường xuyên, suốt đời, “còn sống thì còn phải học”.
Và trong việc học tập Người đặc biệt chú trọng đến động cơ, thái độ học tập: “Muốn học
tập có kết quả thì phải có thái độ đúng và phương pháp đúng”(17). Tức là, trước hết phải
có động cơ học tập đúng để xác định rõ và đúng xu hướng nghề nghiệp chân chính của
mình là vì mục tiêu, lý tưởng cao cả của cách mạng, vì Tổ quốc, vì nhân dân, vì con
người và vì sự tiến bộ của chính bản thân mình. Theo Hồ Chí Minh, mục đích của việc
học tập là: “Học để làm việc, làm người, làm cán bộ, học để phụng sự đoàn thể, phụng sự
giai cấp và nhân dân, phụng sự Tổ quốc và nhân loại ”(18). Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh:
“Học để sửa chữa tư tưởng, học để tu dưỡng đạo đức cách mạng, học để tin vào đoàn thể,
vào nhân dân, vào tương lai của dân tộc và tương lai của cách mạng, học để hành”; “học
để làm việc”; chứ không phải học để “làm ông nọ bà kia”, hay là để “làm quan cách
mạng”… cho nên, “tất cả những động cơ học tập không đúng đắn đều phải tẩy trừ cho
sạch”(19). Hồ Chí Minh đã thấy rõ vai trò của việc học tập đối với người cán bộ cách
mạng. Trong nhiều lần nói chuyện với giới trí thức, Người thường nhấn mạnh tầm quan
trọng của công việc học tập: “Học hỏi là một việc phải tiếp tục suốt đời”. Trên cơ sở nắm
bắt được xu thế của thời đại và khả năng dự báo được tương lai, Người đã chỉ rõ: “Tình
hình thế giới và trong nước luôn luôn biến đổi, công việc của chúng ta nhiều và mới, kỹ
thuật của thế giới ngày càng tiến bộ, nhưng sự hiểu biết của chúng ta có hạn. Muốn tiến
bộ kịp sự biến đổi vô cùng tận, thì chúng ta phải nghiên cứu, học tập”(20). và “nếu không
chịu khó học thì không tiến bộ được ... không chịu học thì lạc hậu, mà lạc hậu là bị đào
thải, tự mình đào thải mình”. Người thường dẫn câu nói của Lê-nin “Học, học nữa, học
mãi” để nhắc nhở bản thân, để giáo dục cán bộ, đảng viên và mọi người. Người đã nói:
“Bác thường nghe nói có đồng chí mới 40 tuổi mà đã cho mình là già nên ít chịu học tập.
Nghĩ như vậy là không đúng, 40 tuổi chưa phải là già. Bác đã 76 tuổi nhưng vẫn cố gắng
học thêm. Chúng ta phải học và hoạt động cách mạng suốt đời. Còn sống thì còn phải
học, còn phải hoạt động cách mạng”(21). Hồ Chí Minh chỉ rõ: Tự học, tự rèn, tự tu
14
dưỡng cũng giống như “mài ngọc luyện vàng”, “ngọc càng mài càng sáng, vàng càng
luyện càng trong”. Bởi vì, theo Người: “Năng lực của con người không phải hoàn toàn do
tự nhiên mà có, mà một phần lớn do công tác, do luyện tập mà có”(22). Phong cách học
tập của Hồ Chí Minh thấm nhuần triết lý hành động của phương Đông, đồng thời soi sáng
bởi thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và nền văn hóa
phương Tây, nên rất đa dạng, phong phú, sinh động và sâu sắc. Phong cách đó đã tạo cơ
sở khoa học để mọi người giáo dục và tự giáo dục suốt đời để vươn lên không ngừng mà
những người làm báo chí cách mạng Việt Nam cũng không nằm ngoài những người đó,
mà càng phải học tập, trau dồi kiến thức và học tập suốt đời.
Tự phê bình và phê bình là vấn đề rất quan trọng, là một trong những quy luật phát
triển của Đảng và là nguyên tắc, chế độ thường xuyên trong tổ chức và sinh hoạt Đảng.
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn thường nhắc nhở: “Mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi ngày
tự kiểm điểm, tự phê bình, tự sửa chữa như mỗi ngày phải rửa mặt”. Theo Người, tự phê
bình và phê bình có vai trò đặc biệt quan trọng, vì nó là vũ khí cần thiết và sắc bén, giúp
mọi người sửa chữa sai lầm, phát huy ưu điểm. Thực chất của tự phê bình và phê bình là
góp ý giúp đồng chí, đồng nghiệp và tự bản thân kiểm điểm lại xem cái làm được và chưa
làm được, làm hay hoặc còn thiếu sót, sai lầm và từ đó phát huy cái tốt, tìm ra biện pháp
khắc phục, sửa chữa cái chưa hay, cái khuyết điểm, sai lầm. Tự phê bình và phê bình thực
sự là một cuộc đấu tranh giữa mặt tích cực và mặt tiêu cực, tiến bộ và lạc hậu, cái tốt và
cái xấu, cái đúng và cái sai… diễn ra ngay trong bản thân từng cán bộ, đảng viên và tổ
chức đảng. Chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng cơ hội, thực dụng đã từng được Hồ Chí Minh
cảnh báo là một loại “Giặc nội xâm”, thứ giặc ở trong lòng hết sức nguy hiểm hơn cả giặc
ngoại xâm. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Thật thà tự phê bình và thành khẩn tự phê
bình là thứ vũ khí sắc bén nhất để sửa chữa khuyết điểm và phát triển ưu điểm của mình.
Vì vậy, chẳng những chúng ta phải thực hiện mở rộng phê bình và tự phê bình trong
Đảng và trong cơ quan chính quyền, mà chúng ta và đội ngũ những người làm báo cần
phải hoan nghênh những lời phê bình thật thà của nhân dân, của bạn đọc hơn bao giờ hết.
Người cũng dạy: “Mục đích phê bình cốt để giúp nhau sửa chữa, giúp nhau tiến bộ. Cốt
để sửa đổi cách làm cho tốt hơn, đúng hơn. Cốt đoàn kết và thống nhất nội bộ”. Người
15
chỉ ra cho những người làm báo phải biết lắng nghe quần chúng. Làm việc với cán bộ
Ban Tuyên huấn Trung ương Đảng (6/1968) về việc làm và xuất bản loại sách người tốt,
việc tốt, Người dạy: "... Các chú nhớ ở trang đầu mỗi cuốn sách đều phải ghi một câu:
"Hoan nghênh bạn đọc phê bình". Người căn dặn: “Sẵn đây, nếu các cô, các chú đồng ý,
thì Bác xung phong phê bình các báo: - Bài báo thường quá dài, “dây cà ra dây muống”,
không hợp với trình độ và thời giờ của quần chúng. -Thường nói một chiều và đôi khi
thổi phồng các thành tích, mà ít hoặc không nói đúng mức đến khó khăn và khuyết điểm
của ta. - Đưa tin tức hấp tấp, nhiều khi thiếu thận trọng.- Thiếu cân đối, tin nên dài thì
viết ngắn, nên ngắn lại viết dài, nên để sau thì để trước, nên trước lại để sau”(23).
Trong lịch sử báo chí cách mạng Việt Nam, nhìn chung đội ngũ nhà báo đã thực
hiện tốt những nội dung cơ bản nhất, cốt lõi nhất của các tiêu chuẩn về đạo đức nghề báo.
Trong những năm qua, những người làm báo việt Nam đã thực sự trở thành những con
chim báo bão, tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước,đấu tranh và bài
trừ sai trái, bảo vệ chân lý, góp phần điều chỉnh dư luận xã hội. Điều này được thể hiện rõ
nét qua chất lượng nội dung thông tin báo chí hàng ngày, hàng giờ phản ánh mọi mặt của
cuộc sống và đáp ứng rất tốt, rất kịp thời mọi nhu cầu thông tin đa dạng, phong phú của
mọi mặt xã hội. Mặt trái của “tấm huân chương” của người làm báo, ta có thể nhận thấy
những biến đổi tiêu cực trong đạo đức nghề báo Việt Nam đang diễn ra ngày càng phức
tạp, cho thấy dấu hiệu của sự suy giảm về đạo đức nghề của một bộ phận nhà báo Việt
Nam hiện nay. Với những nội dung cơ bản đã trình bày ở trên, có thể khẳng định rằng, tư
tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh có ý nghĩa rất lớn đối với việc giáo dục đạo đức nghề
cho đội ngũ những người làm báo hiện nay. Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh là niềm vinh dự và tự hào đối với mỗi cán bộ, đảng viên và mỗi người dân Việt
Nam, với Nhà báo, thì việc học tập theo tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh là
nhiệm vụ rất quan trọng và cấp thiết hiện nay.
1.2. Đạo đức nhà báo trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0
1.2.1. Cách mạng công nghiệp 4.0 là gì?
16
Cách mạng Công nghiệp lần thứ 4 là xu hướng hiện tại của tự động hoá và trao đổi
dữ liệu trong công nghệ sản xuất. Nó bao gồm các hệ thống mạng vật lý, mạng Internet
kết nối vạn vật và điện toán đám mây. Công nghiệp 4.0 tạo điều kiện thuận lợi cho việc
tạo ra các “nhà máy thông minh” hay “nhà máy số”.
Bản chất của Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 là dựa trên nền tảng công nghệ số
và tích hợp tất cả các công nghệ thông minh để tối ưu hoá quy trình, phương thức sản
xuất; nhấn mạnh những công nghệ đang và sẽ có tác động lớn nhất là công nghệ in 3D,
công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ tự động hoá, người máy…
1.2.2. Tác động của cuộc CMCN 4.0 tới đạo đức người làm báo
Trong lĩnh vực báo chí truyền thông, cách mạng 4.0 đã và đang tác động trực tiếp
đến sự “sinh tồn” của các phương tiện truyền thông truyền thống, ảnh hưởng mạnh mẽ
đến kỹ năng tác nghiệp của nhà báo.
Công nghệ 4.0 có ảnh hưởng trực tiếp và sâu sắc đến báo chí nói chung và người
làm báo nói riêng. Sự ảnh hưởng ở đây với cả 2 khía cạnh: kỹ thuật báo chí và đạo đức
báo chí. Ở khía cạnh kỹ thuật báo chí, công nghệ 4.0 đòi hỏi người làm báo không chỉ
cần trang bị những kỹ năng cơ bản truyền thống như viết, chụp ảnh, quay video clip mà
còn phải liên tục cập nhật các ứng dụng công nghệ mới vào sáng tạo tác phẩm báo chí,
đưa thông tin đến công chúng bằng những phương tiện truyền tải mới.
Thời đại công nghệ 4.0 đòi hỏi một thế hệ nhà báo đa phương tiện, nhạy bén và
cấp tiến về mặt công nghệ. Nhà báo lúc này không còn chỉ đơn thuần là một người viết
mà còn phải kiêm cả một kỹ thuật viên công nghệ, biết sử dụng, vận hành thành thạo,
thậm chí có những sáng tạo về mặt công nghệ với mục đích đưa tác phẩm báo chí đến
với công chúng hiệu quả nhất. Và dĩ nhiên những người làm báo không theo kịp các
bước tiến công nghệ 4.0 sẽ rất nhanh chóng bị đào thải, các cơ quan báo chí nằm ngoài
vòng xoáy của thời đại công nghệ 4.0 sẽ lạc hậu rất nhanh chóng, mất bạn đọc và sẽ bị
loại ra khỏi cuộc cạnh tranh về thông tin vốn rất khốc liệt.
17
Ở khía cạnh đạo đức báo chí, những người làm báo hiện nay, phổ biến nhất là
những người làm báo trẻ rất dễ ỷ lại vào công nghệ, vào mạng xã hội... để cóp nhặt và
xào xáo lại thông tin, lười biếng và ít đầu tư vào các tác phẩm báo chí. Thậm chí, nhiều
trường hợp còn sử dụng luôn những thông tin trên mạng xã hội, thiếu kiểm chứng để
nhào nặn trở thành những thông tin đăng tải chính thức trên báo, gây hoang mang và
nhiễu loạn dư luận. Thời đại 4.0 đòi hỏi người làm báo phải có bản lĩnh, có đạo đức và
trí tuệ để biến ứng dụng công nghệ thành công cụ phục vụ công chúng”.
CHƯƠNG II. CƠ SỞ THỰC TIỄN VỀ ĐẠO ĐỨC BÁO CHÍ
TRONG CUỘC CMCN 4.0
2.1. sự phát triển cmcn 4.0: sơ đồ
2.2. tác động của CMCN tới báo chí:
a) Thuận lợi
Trong thời đại phát triển của xu thế cách mạng công nghiệp 4.0, thách thức song
hành với yêu cầu đổi mới, nhưng cũng tạo cơ hội cho các nhà báo Việt Nam. Xu hướng
đọc trong tương lai cũng được dự báo, với sự thông minh của các thiết bị đeo tay, rất có
thể trong tương lai gần, cách thức đọc sẽ không điều khiển bằng cách gõ mà bằng âm
thanh, giọng nói.
* Nhà báo Trần Đình Tú (VTC1): “Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đã và đang
tác động trực tiếp đến sự sinh tồn và phát triển của các phương tiện truyền thông truyền
thống, ảnh hưởng mạnh mẽ đến kỹ năng tác nghiệp của những người làm báo.
Một nghiên cứu gần đây của hãng tin Reuters được nhiều trường đào tạo báo chí
đưa vào giảng dạy cho đội ngũ làm báo trẻ đã nhận định: “Công nghệ đang làm thay đổi
hầu hết các phương án tác nghiệp truyền thống của bất kỳ cơ quan báo chí nào, loại hình
báo chí nào. Những người làm báo không nắm bắt và sử dụng được công nghệ, một cách
đa năng chỉ còn một biện pháp: Đổi nghề!”
18
Điều này có thể hiểu là nhân sự làm báo vừa phải có chuyên môn nghiệp vụ một
cách “lành nghề” nhưng cũng phải biết sử dụng thành thạo các thiết bị công nghệ phù
hợp với đòi hỏi yêu cầu ngày càng cao của độc giả”.
* Phó Chủ tịch Thường trực Hội Nhà báo Việt Nam Hồ Quang
Lợi: “Thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 là đòi hỏi mang tính sống còn với
các cơ quan báo chí và điều đó sẽ làm thay đổi kỹ năng tác nghiệp của nhà báo, phóng
viên. Giờ đây, một nhà báo không chỉ cần thành thạo kỹ năng viết tin, bài, chụp ảnh mà
còn phải biết quay video clip về cùng một sự kiện, bảo đảm rằng sản phẩm của mình có
thể được sử dụng cho cả báo in, báo điện tử, báo hình và phát thanh. Nhà báo cần phải
biết sử dụng chiếc điện thoại thông minh như một “tòa soạn thu nhỏ”, nhanh chóng
chuyển tác phẩm về tòa soạn và sau đó, đến bạn đọc dưới nhiều hình thức khác nhau.
* Phó Tổng Giám đốc Thông tấn xã Việt Nam Lê Quốc Minh: “Nhà báo hiện đại
không chỉ biết kỹ năng 3 trong 1 (viết báo hay, chụp ảnh đẹp, quay video ngắn). Ngoài ra,
họ cần phải biết những kỹ năng khác như tương tác mạng xã hội, lập trình… Do đó, các
nhà báo cần được học vấn đề này ở mức độ nhất định bởi việc tương tác với mạng xã hội
là cần thiết để bài báo được lan tỏa rộng rãi.
Hiện nay, nếu không có sự hỗ trợ của công nghệ thì một cơ quan báo chí chính
thống cũng có thể thua kém một người dùng mạng xã hội về khả năng lan tỏa thông điệp,
dù cùng sở hữu một lượng thông tin như nhau. Đó là nhận định mang tính đúc kết sau khi
thế giới chứng kiến sự phát triển với tốc độ chóng mặt của mạng xã hội vốn có tính năng
không khác gì một ấn phẩm báo chí đích thực, có khả năng tiếp cận bạn đọc rất nhanh
nhờ sự hỗ trợ của công nghệ hiện đại.
Tuy nhiên, tôi khẳng định dù công nghệ có cao siêu đến đâu thì vai trò cốt lõi nhất
vẫn là cái tâm của người làm báo và để làm tốt nhiệm vụ, nhà báo phải luôn luôn giữ
được những tiêu chuẩn quan trọng của người làm báo là sự thật, công bằng và cân bằng”.
Dù công nghệ là yếu tố rất quan trọng, nhưng cái tâm của người làm báo chính là
căn bản để báo chí Việt Nam phát triển bền vững. Nhiều tờ báo coi mạng xã hội như một
mảnh đất tốt để đưa các sản phẩm báo chí chính thống đến với người đọc, người xem.
Những mặt trái của mạng xã hội, trong đó, rõ nhất là nạn đưa tin giả, tin chưa được kiểm
19
chứng… báo chí phải phát huy vai trò của mình, các tác phẩm báo chí chính thống có
thêm độc giả và có điều kiện phát triển, được người đọc, người xem, người nghe tin cậy
tìm đến.
Báo chí Việt Nam đang phát triển cùng dòng chảy Cách mạng công nghiệp 4.0.
Việc áp dụng các tiến bộ khoa học công nghệ là tốt. Tuy nhiên, phải đáp ứng các vấn đề
là cơ quan báo chí đưa ra nội dung gì, hình thức tiếp cận thế nào, vấn đề gì nên nói… để
định hướng, giáo dục công chúng giúp họ tiếp cận thích hợp. Bởi lẽ, công nghệ phải phục
vụ con người, và những nhà báo cần cân nhắc để sử dụng chúng thế nào cho hiệu quả.
Bởi, chỉ có vậy, nền báo chí Việt Nam mới phát triển bền vững và mang lại những giá trị
thiết thực, hữu ích cho xã hội”.
Ảnh hưởng lớn nhất của thời đại 4.0 lên nghề báo có lẽ là dẫn tới hàng loạt những
thay đổi trong quy trình tác nghiệp. Giờ đây, phóng viên có thể cập nhật tin tức và sáng
tạo tác phẩm báo chí ở bất cứ đâu và bất cứ khi nào. Nhanh nhạy và tiện lợi chính là
những ưu điểm vượt trội mà công nghệ đang mang đến. Gần như toàn bộ từ tìm kiếm đề
tài, liên lạc với nguồn tin, nhân vật, soạn thảo văn bản hay dựng video,… các thiết bị và
nền tảng công nghệ đã giúp ích rất nhiều cho chúng ta. Không thể phủ nhận, trong thời
đại 4.0, khi sự kết nối được nâng tầm, nghề báo đã trở nên chuyên nghiệp hơn, lan tỏa
mạnh mẽ hơn và lên tiếng được nhiều vấn đề trong những ngóc ngách của xã hội hơn.
PGS.TS Nguyễn Thị Trường Giang (Trưởng khoa Phát thanh và Truyền hình, Học
viện Báo chí và Tuyên truyền)
Trong khi thông tin trên mạng xã hội có một sức hút “ma thuật” đối với công
chúng, thì vẫn còn rất nhiều người tìm đến những thông tin chính thống từ báo chí và tin
tưởng vào báo chí. Đơn giản đó là vì họ cảm thấy báo chí vẫn còn đáp ứng những nhu
cầu của họ.
Trách nhiệm của báo chí không chỉ là có mặt đúng lúc và đưa ra những thông tin
chính xác một cách kịp thời đến độc giả. Báo chí giúp công chúng chọn lựa, phân loại
đúng đắn nhất những thông tin phục vụ cho mục đích lâu dài của họ từ một đống những
nguồn tin riêng biệt, giúp họ trở thành những công dân tốt, có trách nhiệm.
20
Các PV của báo chính thống là những người có thể tận dụng nhiều mặt tiện ích của
công nghệ cao trong thời đại 4.0. PV có thể cung cấp ngay tại chỗ những thông tin đắt giá
cho công chúng mà không cần phải chạy hàng chục, hàng trăm, thậm chí hàng nghìn km
để về tòa soạn, về đài… thực hiện các bước làm báo truyền thống như nhiều năm trước
đây. Chính sự phát triển của công nghệ và sự nhanh nhạy của các cơ quan báo chí, đặc
biệt là sự năng động, “hợp thời” của bản thân PV, mà công việc làm báo trở nên cực
nhanh, cực hiệu quả. Công chúng sẽ còn đón nhận nhiều điều thú vị và bổ ích từ chính
công việc làm báo “hợp thời” của các cơ quan báo chí, đặc biệt là các PV biết nắm bắt,
tận dụng công nghệ tối đa.
b) Thách thức
Tuy nhiên, trong điều kiện của thời đại thông tin kỹ thuật số hiện nay, sự phát triển
của mạng xã hội có thể coi là “con dao hai lưỡi”, vì thế thông tin cần phải được kiểm
chứng rõ ràng, không làm ảnh hưởng đến tổ chức, cá nhân.
Sự cạnh tranh khốc liệt về thông tin sẽ đặt báo chí, truyền thông trước nhiều thách
thức và cơ hội. Vì vậy, cần vai trò của báo chí để thẩm định thông tin trên mạng xã hội,
để khi báo chí đã đưa tin là phải đảm bảo chính xác và tin cậy. Có người đặt vấn đề rằng
mạng xã hội đang dần thay thế báo chí về cung cấp thông tin. Nhưng chính lúc này, vai
trò của báo chí cần được khẳng định và phát huy. Và chỉ có độ tin cậy, tính thuyết phục
mới chính là con đường sống của báo chí trong thời đại Cách mạng công nghiệp 4.0 với
sự thách thức của mạng xã hội”.
Cách mạng công nghiệp 4.0 tạo ra không gian kết nối thông tin, nhất là kết nối kho
tàng dữ liệu thông tin không giới hạn. Đây vừa là cơ hội cho nhà báo, nhưng cũng là môi
trường dễ làm cho nhà báo lười suy nghĩ, lười khám phá, lười tìm kiếm, lười học hỏi. Đó
cũng là thách thức lớn khiến nhà báo dễ tụt hậu trong thế giới phẳng.
Vị trí của nhà báo trong xã hội do chính các nhà báo tạo ra. Nhà báo có tâm,
phụng sự lợi ích chung của cộng đồng, của xã hội thì được xã hội tôn trọng, đánh giá cao.
Có tâm sẽ có tên!”.
Trong xu thế phát triển của báo chí cách mạng Việt Nam trong cuộc cách mạng
công nghiệp 4.0 như hiện tại, ngoài sự phát triển bền vững của báo chí, thì người làm báo
21
cần dung hòa với sự phát triển của công nghệ thông tin, sự tiến bộ của khoa học để áp
dụng vào sự phát triển của báo chí. Hiện tại, áp lực của báo điện tử là rất lớn, nhiều
phóng viên phải chịu áp lực lớn từ định mức tin bài, rồi áp lực của sự cạnh tranh thông tin
đối với các báo bạn, đối với đồng nghiệp nên sự phát triển của cuộc Cách mạng công
nghiệp 4.0 sẽ hỗ trợ lớn đối với sự phát triển của sự đa năng của một nhà báo, phóng
viên.
Tuy nhiên, có một thực tế rằng khi công nghệ càng hiện đại, chúng ta lại càng có
xu hướng hời hợt và dễ dãi, thậm chí là ỷ lại vào những tiện ích ấy. Điều này hoàn toàn
có thể dẫn tới những “bi kịch” trong nghề nghiệp là vắng bóng dấu ấn cá nhân và lối mòn
trong sáng tạo.
* Trung tướng Hữu Ước - nguyên Tổng Biên tập báo Công an Nhân
dân:“Trong thời đại phát triển như hiện nay, tất cả các ngành nghề đều phải đổi mới theo
xu hướng phát triển của toàn cầu, và báo chí luôn phải là người đi tiên phong, cập nhật
nhanh, hiện đại và chuẩn xác các thông tin đến với cộng đồng, đối với người đọc, người
nghe.
Đã là thời đại Cách mạng 4.0 mà các nhà báo không bắt kịp xu thế thì hỏng, nhưng
các nhà báo phải thể hiện được bản lĩnh của mình, có chính kiến riêng, có cách khai thác
riêng. Tóm lại là yêu cầu rất cao về mặt tốc độ trong việc truyền tải thông tin đến với
công chúng.
Chắc chắn để đáp ứng được xu thế phát triển của thời đại, của thế giới các nhà
báo, phóng viên phải học hỏi, đào tạo để hoàn thiện bản thân. Lớp chúng tôi bây giờ mà
cho làm báo chắc khó bắt kịp thời đại, vì ngày đấy chúng tôi không được tiếp xúc với
công nghệ hiện đại như ngày nay.
Vậy nên, với sự phát triển của phương tiện truyền thông mới, cách thức làm báo
đã và đang thay đổi. Với thời công nghệ số, công chúng cũng thay đổi khi ngày nhiều
người dùng smartphone để đọc, xử lý thông tin.
Do vậy, nhà báo hiện đại không chỉ rèn bản lĩnh, tay nghề mà phải rèn cả về công
nghệ để đáp ứng với xu thế hội nhập.
22
Là người đứng đầu trước hết là phải nhìn nhận được công việc, là người phải giỏi
“nghề chỉ huy”. Đòi hỏi người đứng đầu phải hết sức nhạy bén, phải tâm huyết để tạo ra
bản sắc của tờ báo mình. Nếu như không có được cái riêng cái tôi để tạo dấu ấn cho tờ
báo của mình thì rất khó tồn tại trong lòng của độc giả.
Ở thời đại cách mạng 4.0 muốn một cơ quan báo chí tồn tại, phát triển bền vững
được thì người đứng đầu, người tổng tư lệnh phải có tâm và có tầm trong xu hướng phát
triển”.
MXH là nơi ngồn ngộn thông tin, nhưng vấn đề là kiểm chứng thế nào. Từ các vụ
đạo nhạc, đạo phim, scandal lộ ảnh sex, đến những vụ tìm kiếm người nhà, nhận trẻ lạc,
hay giải cứu nông sản cho nông dân, từ việc giúp đỡ du khách bị cướp giật cho đến tìm
một chàng trai mất tích khi leo núi… tất cả đều nhờ sự phát hiện hay đưa tin nhanh của
cư dân mạng. Các nhà báo trở nên lạc lõng khi chỉ đưa tin tức, sự kiện “ở ngoài đời”, mà
quên mất cả ở “thế giới ảo”, là bởi, từ ảo bước ra thật không còn nhiều ranh giới, nhất là
khi mạng xã hội phát triển mạnh mẽ như hiện nay, với những video clip chấn động vì sức
ảnh hưởng của chúng.
Vì thế, vai trò “gác cổng thông tin” của báo chí vẫn còn đó. Vấn đề là tỉnh táo lọc
sự kiện, xác minh hay chạy đua với Internet về thời gian, bất chấp đúng sai, lướt web mỗi
ngày tìm các tài khoản của sao để săn tin hay bổ sung phân tích, nhận định cho những sự
kiện nóng sốt trên MXH vẫn là những mối quan tâm và sự tự vấn của các nhà báo ở khía
cạnh đạo đức nghề nghiệp. Tuy nhiên, thử tưởng tượng không có mạng xã hội, báo chí
truyền thông sẽ còn “độc quyền” thông tin theo kiểu của mình đến bao giờ, và làm sao có
một nguồn tin dồi dào, bất ngờ, rộng mở và nhiều tính tương tác đến thế?
2.3. quy định pháp luật về đạo đức báo chí
Theo ông Hồ Quang Lợi, hiện nay, mạng xã hội (MXH) đã thực sự trở thành một
yếu tố rất quan trọng trong việc thu hút sự tương tác, số người sử dụng, cũng như trở
23
thành một nguồn tin quan trọng cho báo chí. Nhiều cơ quan báo chí (đặc biệt báo điện tử)
đã sử dụng MXH và trang fanpage để tăng cường tương tác giữa tòa soạn và bạn đọc, là
kênh quảng bá hữu hiệu cho báo chí. Đồng thời, các phóng viên, nhà báo sử dụng MXH
để chia sẻ thông tin lẫn nhau và nguồn cung cấp tin, bài cho độc giả cũng là nguồn cung
cấp chủ đề mới thu hút bạn đọc.
Tuy nhiên, MXH cũng có những ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống báo chí, đặc biệt
những tờ báo gánh vác nhiệm vụ chính trị và định hướng người đọc. Trên thực tế thời
gian qua, trên MXH đã tồn tại vô vàn những thông tin không được kiểm soát, được nhiều
người chia sẻ, hưởng ứng trong đó có các nhà báo. Những thông tin như vậy đã gây hệ
lụy không nhỏ với sự ổn định trong xã hội.
Mặt khác, sau một năm thực hiện Luật Báo chí 2016 và 10 Điều Quy định đạo đức
nghề nghiệp người làm báo Việt Nam, bên cạnh những kết quả tích cực, đáng ghi nhận thì
cũng còn nhiều tồn tại, hạn chế. Có những vấn đề mới phát sinh cần phải cập nhật, bổ
sung để giúp cho hội viên, nhà báo xác định rõ hơn trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ của hội
viên - nhà báo khi tham gia MXH, đồng thời giúp Hội đồng xử lý vi phạm đạo đức nghề
nghiệp người làm báo các cấp tham chiếu, làm cơ sở xử lý những sai phạm trong thực
tiễn.
Vì vậy, việc Thường trực Thường vụ Hội Nhà báo Việt Nam xây dựng văn bản
hướng dẫn cụ thể hóa Điều 5 Quy định đạo đức nghề nghiệp người làm báo Việt Nam
"Chuẩn mực và trách nhiệm khi tham gia MXH và các phương tiện truyền thông khác" là
đúng đắn, cần thiết và phù hợp với thực tiễn hoạt động báo chí hiện nay.
Chiều 25/12, tại Hà Nội, HNBVN đã tổ chức họp báo công bố “Quy tắc sử dụng
mạng xã hội của người làm báo Việt Nam” và từ ngày 01/01/2019, Bản Quy tắc bao gồm
03 Chương 07 Điều, trong đó, quy định cụ thể 04 việc/điều người làm báo Việt Nam cần
làm khi tham gia MXH và 08 việc/điều người làm báo Việt Nam không được làm khi
tham gia MXH sẽ có hiệu lực.
Đây là cơ sở quan trọng để người làm báo Việt Nam thực hiện trong sử dụng
MXH, khen thưởng những người thực hiện đúng, tốt, là cơ sở để răn đe, xử lý vi phạm
24
đạo đức của người làm báo khi tham gia MXH, góp phần giữ gìn và bảo vệ đạo đức nghề
nghiệp và uy tín của người làm báo Việt Nam.
Cần sự phối hợp của các cấp Hội với các cơ quan báo chí và quản lý báo chí
Quy tắc sử dụng Mạng xã hội của người làm báo Việt Nam ra đời từ yêu cầu
khách quan của cuộc sống, trong “thế giới phẳng” hiện nay, với số lượng người sử dụng
mạng xã hội ngày càng nhiều, trong đó có những người làm báo. Quy tắc này sẽ được
triển khai rộng khắp ở các cấp Hội Nhà báo Việt Nam, các cơ quan báo chí và quản lý
báo chí trong cả nước. Chính vì vậy, sự phối hợp của các cấp Hội Nhà báo Việt Nam với
các cơ quan báo chí và quản lý báo chí thời gian tới là rất quan trọng.
Việc ban hành Quy tắc là việc rất là quan trọng trong thời điểm hiện nay, Hội Nhà
báo Việt Nam đã đi trước một bước trong việc quy định về sử dụng mạng xã hội đối với
người làm báo. Đó quả thực đã thể hiện được vai trò của một tổ chức chính trị - xã hội –
nghề nghiệp trong tình hình mới. Trong vấn đề này, người làm báo với vai trò, trách
nhiệm cung cấp thông tin, định hướng thông tin và dẫn dắt dư luận xã hội, tham gia mạng
xã hội với thái độ tích cực khi chia sẻ, đăng tải thông tin có ích cho đất nước, cho nhân
dân sẽ có tác động tốt, tích cực và có sức lan toả mạnh mẽ trong dư luận xã hội. Như
khẳng định của đồng chí Phó Chủ tịch thường trực Hồ Quang Lợi tại cuộc họp báo:
“Người làm báo cần có trình độ, bản lĩnh chính trị và sự chính trực, để góp phần xây
dựng nền tảng đạo đức con người, đạo đức người làm báo”.
“Quy tắc sử dụng mạng xã hội của nhà báo, hội viên Hội Nhà báo Việt Nam”
CHƯƠNG II. QUY ĐỊNH CỤ THỂ
Điều 3. Những việc/điều người làm báo Việt Nam cần làm khi tham gia mạng xã
hội
25