Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Đối chiếu thuật ngữ marketing anh – việt tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (396.32 KB, 27 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
------------------------------

HÀ THỊ HƯƠNG SƠN

ĐỐI CHIẾU THUẬT NGỮ MARKETING
ANH – VIỆT
Ngành: Ngôn ngữ học so sánh, đối chiếu
Mã số: 9 22 20 24

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC

HÀ NỘI - 2019


Công trình được hoàn thành tại:
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Trần Trí Dõi

Phản biện 1: GS.TS. Nguyễn Thiện Giáp
Phản biện 2: PGS.TS. Phạm Văn Tỉnh
Phản biện 3: PGS.TS. Trần Kim Phượng
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học
viện họp tại vào hồi… .giờ… phút,
ngày……tháng……năm………..…….

Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Quốc gia Việt Nam


- Thư viện Học viện Khoa học xã hội


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nghiên cứu về thuật ngữ mang ý nghĩa thời sự và thực tiễn sâu sắc
vì thuật ngữ luôn gắn với nhu cầu phát triển đi lên của xã hội loài người
nhằm chinh phục những tri thức mới. Ở Việt Nam, đứng trước quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước, thuật ngữ khoa học, trong đó
có thuật ngữ marketing, góp phần thực hiện nhiệm vụ đẩy mạnh phát triển
kinh tế, khoa học, kỹ thuật. Mặt khác, ngành marketing là một trong những
chuyên ngành cơ bản của khối ngành kinh tế và quản trị kinh doanh; kiến
thức về marketing được vận dụng cho nhiều chuyên ngành khác nhau như
ngân hàng tài chính, du lịch khách sạn, quản trị kinh doanh … Tuy nhiên,
hiện nay hiểu biết về marketing và thuật ngữ marketing còn hạn chế do thiếu
vắng các công trình nghiên cứu chuyên sâu. Vì vậy nghiên cứu về thuật ngữ
marketing tiếng Anh trong sự đối chiếu với tiếng Việt sẽ giúp việc tiếp nhận,
hiểu và vận dụng chính xác hệ thuật ngữ này trong thực tiễn.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện với mục đích tìm ra các đặc điểm
tương đồng và dị biệt nếu có về mặt cấu tạo, con đường hình thành vàđịnh
danh giữa hai hệ thuật ngữ. Để làm được điều đó, luận án xác định các
nhiệm vụ chính bao gồm:
- Hệ thống hóa các quan điểm lý luận và hướng tiếp cận khi
nghiên cứu về thuật ngữ ở mức độ đủ để phục vụ nhiệm vụ nghiên cứu của
luận án, qua đó xác lập cơ sở lý luận cho đề tài nghiên cứu;
- Tập hợp, miêu tả,so sánh, đối chiếu các thuật ngữ marketing
tiếng Anh và tiếng Việt thuộc đối tượng nghiên cứu của luận án trên các
phương diện đặc điểm cấu tạo, con đường hình thành và đặc điểm định
danh để tìm ra sự tương đồng và khác biệt nếu có.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận án được giới hạn trước hếtởđặc điểm
cấu tạo, con đường hình thành và đặc điểm định danh của thuật ngữ

1


marketing tiếng Anh và tiếng Việt. Ngoài ra, đối tượng khảo sát của luận
án cũng giới hạn ở 1940 thuật ngữ marketing tiếng Anh trích xuất từ Từ
điển marketing của Doyle công bố năm 2011và 1225 thuật ngữ
marketingTiếng Việt được thu thập từ các nguồn tư liệu khác nhau vì hiện
tại chưa có từ điển chuyên ngành về thuật ngữ marketing tiếng Việt. Do hai
nguồn dữ liệu không tương đương
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
Để giải quyết được các nhiệm vụ nghiên cứu, luận án sử dụng
hướng tiếp cận thuật ngữ dựa trên quan điểm của các nhà ngôn ngữ. Đồng
thời, dữ liệu nghiên cứu cũng được lựa chọn theo hướng tiếp cận động và tĩnh
(hệ thống từ điển). Với cách tiếp cận đó, luận án sử dụng các phương pháp và
các thủ pháp nghiên cứu bao gồm phương pháp so sánh, đối chiếu, phương pháp
miêu tả, phương pháp phân tích thành tố trực tiếp, và thủ pháp thống kê.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Đóng góp mới về khoa học của luận án thể hiện trước hết ở việc
đã giới thiệu được một cách khái quát cơ sở lý luận liên quan đến thuật ngữ
nói chung và thuật ngữ marketing nói riêng. Đặc biệt, luận án đã tổng kết
được 8 học thuyết và hướng tiếp cận về thuật ngữ, trong đó bao gồm cả
những hướng tiếp cận mới như Tiếp cận thuật ngữ theo đường hướng giao
tiếp hay văn hoá … Đồng thời, khái niệm về thuật ngữ marketing cũng
được xác lập và làm rõ.
Ngoài ra, dựa trên quan điểm thống nhất về yếu tố cấu tạo cơ sở
của thuật ngữ (là hình vị đối với từ, là từ đối với cụm từ), luận án đã xác

định được các kiểu mô hình cấu tạo thuật ngữ marketing Anh –Việt, đồng
thời phát hiện những điểm tương đồng và dị biệt giữa hai hệ thuật ngữ về
phương diện đơn vị ngữ pháp, đặc điểm từ loại, phương thức cấu tạo và số
lượng yếu tố cấu tạo.
Cuối cùng, đóng góp mới của luận án còn thể hiện ở việc cung
cấp một bức tranh khá rõ ràng về con đường hình thành và đặc điểm định
danh của thuật ngữ marketing tiếng Anh và tiếng Việt được nghiên cứu.

2


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Những đóng góp của luận án có ý nghĩa trên cả phương diện lý
luận và thực tiễn. Thứ nhất, về mặt lý luận, là công trình đầu tiên nghiên
cứu về hệ thống thuật ngữ marketing tiếng Anh trong sự đối chiếu với thuật
ngữ marketing tiếng Việt, luận án giúp tìm ra những đặc trưng riêng của
hai hệ thuật ngữ này, làm cơ sở lý thuyết cho việc nghiên cứu và ứng dụng
tiếp theo. Thứ hai, về mặt thực tiễn, luận án giúp hệ thống hóa các thuật
ngữ marketing tiếng Việt hiện đang còn xuất hiện tản mạn; đồng thời đề
xuất các phương hướng để thống nhất cách cấu tạo, xây dựng thuật ngữ cũ
và mới, tạo tiền đề cho sự ra đời của cuốn từ điển thuật ngữ đối chiếu
chuyên ngành marketing. Việc này sẽ giúp người sử dụng thuộc các đối
tượng khác nhau có thể hiểu và diễn đạt đúng, đầy đủ các thuật ngữ
marketing Anh, Việt, góp phần nâng cao hiệu quả của công tác giảng dạy,
học tập, nghiên cứu về marketing, một lĩnh vực mới và quan trọng trong
các ngành khoa học về kinh tế ở Việt Nam hiện nay.
7. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận án
có bố cục gồm 3 chương: Chương 1- Tổng quan tình hình nghiên cứu và một số
vấn đề lý thuyết liên quan đến luận án; Chương 2 - Đối chiếu đặc điểm cấu tạo

của thuật ngữ marketing Anh – Việt. và Chương 3 -Đối chiếu con đường hình
thành và đặc điểm định danh của thuật ngữ marketing Anh –Việt.
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CÁC VẤN ĐỀ VỀ
LÝ THUYẾTLIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
a. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
Trên thế giới, thuật ngữ có lịch sử hình thành và phát triển vài trăm
năm, bắt đầu từ thế kỷ 18. Các nghiên cứu về thuật ngữ được Cabré tiếp
thu từ Auger [84] tổng kết lại thành ba xu hướng chính: theo sự điều chỉnh

3


phù hợp với hệ thống ngôn ngữ, theo định hướng dịch và theo định hướng
kế hoạch hoá ngôn ngữ.Cơ sở lý thuyết của các nghiên cứu về thuật ngữ
chịu ảnh hưởng của ba trường phái (Xô Viết, Séc và Áo) và 8 học thuyết
cũng như hướng tiếp cận. Điểm đặc biệt là, ngoài các học thuyết mang tính
cổ điển dựa trên cách tiếp cận của Wüster , gần đây đã xuất hiện các quan
điểm mới trong nghiên cứu thuật ngữ chẳng hạn như đường hướng giao
tiếp của Cabré, hay hướng tiếp cận văn hoá của Diki-Kidiri. Ở Việt Nam,
nghiên cứu trong lĩnh vực thuật ngữ học phát triển mạnh mẽ kể từ sau thập
niên 70 của thế kỷ 20. Nội dung các nghiên cứu tập trung vào định nghĩa
thuật ngữ, các tiêu chí phân biệt thuật ngữ, vấn đề xây dựng và chuẩn hoá
thuật ngữ.
Trong lĩnh vực thuật ngữ ngành marketing, các nghiên cứu còn hạn
chế cả về số lượng và phạm vi.
b.
Cơ sở lý luận
i. Cơ sở lý luận về thuật ngữ
1. Khái niệm thuật ngữ và thuật ngữ marketing

Từ các quan điểm, định nghĩa khác nhau về thuật ngữ, luận án
chấp nhận định nghĩa để làm việc về thuật ngữ như sau: Thuật ngữ là tập
hợp từ ngữ được dùng để biểu thị những khái niệm, đối tượng thuộc một
ngành khoa học, một lĩnh vực chuyên môn xác định.Dựa trên định nghĩa
này, luận án quan niệm thuật ngữ marketing là những từ, cụm từ biểu hiện
khái niệm và đối tượng thuộc bản chất, nguyên lý, chiến lược, quy trình,
truyền thông, nghiên cứu … và công cụ marketing.
2. Phân biệt thuật ngữ và một số đơn vị phi thuật ngữ trong tiếng
Anh và tiếng Việt
Sau khi đã xác lập được khái niệm, thuật ngữ trong tiếng Việt
được phân biệt với danh pháp, từ nghề nghiệp và từ thông thường, trong
tiếng Anh là nomenclature, glossary và lexicology. Sự phân biệt này được
dựa trên cả hình thức và nội dung biểu thị của thuật ngữ và khẳng định vị
trí riêng biệt của thuật ngữ so với các đơn vị còn lại.

4


Các tiêu chuẩn cần có của một thuật ngữ
Theo quan điểm của luận án, thuật ngữ được nhận diện và phân
biệt bằng hai tiêu chí: tính khoa học và tính quốc tế. Tính khoa họ được
hiểu bao gồmtính chính xác, tính hệ thống và tính ngắn gọn.Tính quốc tế
được hiểu là quốc tế về nội dung của thuật ngữ.
ii. Lý thuyết về định danh
Định danh theo cách hiểu thông thường là “đặt tên gọi cho một sự
vật, hiện tượng” [52; 517]. Trong lĩnh vực ngôn ngữ, định danh được hiểu
rộng hơn là quá trình tạo ra các khái niệm về hiện thực khách quan dựa trên
chất liệu là các đơn vị ngôn ngữ như từ, cụm từ, ngữ cú và câu. Về nguyên
tắc, khi định danh cần đảm bảo tên gọi của sự vật, đối tượng phải mang
tính khái quát hóa, trừu tượng hóa và khu biệt về nghĩa. Có hai phương

thức định danh đó là định danh trực tiếp và định danh gián tiếp. Nếu định
danh trực tiếp là quá trình định danh“ở dạng” sơ cấp, ban đầu thì định danh
gián tiếp là quá trình thứ cấp, diễn ra sau.
1.2.3. Lý thuyết về ngôn ngữ học đối chiếu
Là một bộ phận của ngôn ngữ học đồng đại, ngôn ngữ học đối
chiếu nghiên cứu so sánh hai hoặc nhiều hơn hai ngôn ngữ bất kì để xác
định những điểm giống nhau và khác nhau (đặc biệt là những điểm khác
nhau) giữa các ngôn ngữ đó, không tính đến vấn đề các ngôn ngữ được so
sánh có cùng thuộc loại hình hoặc quan hệ cội nguồn với nhau hay không.
Đối chiếu ngôn ngữ phải tuân theo nguyên tắc và phương pháp riêng.
Trong khuôn khổ của luận án, từ được quan niệm là đơn vị nhỏ
nhất có nghĩa độc lập, có thể giữ một chức năng ngữ pháp nhất định và có
thể quy về một từ loại nào đó. Ngược lại, khái niệm cụm là một tổ hợp tự
do với 3 đặc điểm: gồm một thành tố trung tâm và một hay nhiều thành tố
phụ đứng trước hoặc sau để bổ sung ý nghĩa cho trung tâm; quan hệ giữa
trung tâm và thành tố phụ chủ yếu là quan hệ chính phụ; và mang đặc trưng
ngữ pháp của trung tâm.
3.

5


c. Tiểu kết
Nội dung Chương 1 đã trình bày một cách tổng quan về tình hình
nghiên cứu thuật ngữ trên thế giới cũng như ở Việt Nam, đề cập và phân
tích các giai đoạn hình thành và phát triển khác nhau của thuật ngữ và
nghiên cứu thuật ngữ; đồng thời nêu bật được các trường phái, học thuyết
và hướng tiếp cận thuật ngữ từ cổ điển đến hiện đại. Từ đó, luận án đã đi
đến xác lập khung lý thuyết cho nghiên cứu đối chiếu hệ thuật ngữ
marketing tiếng Anh và tiếng Việt về các phương diện lý luận thuật ngữ,

định danh, đối chiếu ngôn ngữ và quan niệm về từ, cụm từ.

6


CHƯƠNG 2
ĐỐI CHIẾU ĐẶC ĐIỂM CẤU TẠO THUẬT NGỮ MARKETING
ANH –VIỆT
2.1. Đơn vị cơ sở cấu tạo nên thuật ngữ
Luận án sử dụngkhái niệm đượctiếp thu từ quan điểm của các nhà
ngôn ngữ Nga do Lotte khởi xướng, gọi đơn vị cơ sở cấu tạo nên thuật ngữ
là yếu tố cấu tạo thuật ngữ, hay ngắn gọn hơn là yếu tố, kí hiệu chung là Y.
Theo đó, yếu tố được hiểu là đơn vị có nghĩa từ vựng tham gia trực tiếp
cuối cùng vào việc cấu tạo các thuật ngữ khác nhau trong một lĩnh vực
khoa học hay lĩnh vực chuyên môn. Về mặt hình thức, yếu tố có cấu tạo là
hình vị hay từ tuỳ theo thuật ngữ là từhay cụm từ một cách tương ứng.Về
mặt ngữ nghĩa, mỗi yếu tố biểu hiện một khái niệm hay đối tượng khoa học
hoàn chỉnh hoặc một bộ phận, đặc trưng của khái niệm đó. Và như vậy,
các thuật ngữ nhưgiá, cầu, cung, market, product sẽ có cấu tạo gồm 1 yếu
tố, trong khi relationship/ marketing sẽ gồm có 2 yếu tố và lựa chọn/ thị
trường/ mục tiêu có cấu tạo gồm 3 yếu tố.
2.2. Nhận diện thuật ngữ marketing Anh, Việt.
1940 thuật ngữ marketing tiếng Anh và 1225 thuật ngữ marketing
tiếng Việt được khảo sát là những từ, cụm từ chỉ khái niệm và đối tượng
thuộc bản chất, nguyên lý, chiến lược, quy trình, truyền thông, nghiên cứu
… và công cụ marketing. Những thuật ngữ này về mặt hình thức là những
từ hoặc cụm từ được cấu tạo từ ít nhất 1 yếu tố trở lên; về mặt nội dung,
mỗi thuật ngữ phải thể hiện một khái niệm hoặc đối tượng marketing hoàn
chỉnh và độc lập.
2.3. Đặc điểm cấu tạo thuật ngữ marketing tiếng Anh

Luận án mô tả đặc điểm cấu tạo của thuật ngữ marketing tiếng
Anh trên các phương diện miêu tả từ loại, phương thức cấu tạo, số lượng
yếu tố cấu tạo và mô hình cú pháp hay mối quan hệ giữa các yếu tố trong
một thuật ngữvà đi đến một số nhận định.
Thứ nhất số lượng thuật ngữ marketing tiếng Anh là cụm từ chiếm

7


đa số với 1275/1940 thuật ngữ, trong đó chủ yếu là cụm danh từ. Thuật
ngữ marketing là từ (từ đơn, từ phái sinh và từ ghép)chỉ chiếm 34.3 % với
tổng số 665 thuật ngữ. Điều này cho thấy tính chặt chẽ và ngắn gọn của hệ
thuật ngữ marketing tiếng Anh chưa phải là lý tưởng.
Về phương thức cấu tạo, thuật ngữ marketing được tạo thành từ
bốn phương thức chính là từ hóa hình vị, phương pháp phụ gia, ghép chính
phụ và kết hợp tự do theo quan hệ chính phụ. Trong số các phương thức
này, cụm từ được kết hợp tự do theo quan hệ chính phụ là phương thức cơ
bản cấu tạo nên 65.6 % thuật ngữ marketing tiếng Anh được khảo sát.
Phương thức từ hóa hình vị và kết hợp tự do theo quan hệ đẳng lập, ngược
lại là những phương thức ít phổ biến nhất để cấu tạo thuật ngữ marketing
tiếng Anh.
Về yếu tố cấu thành thuật ngữ, kết quả khảo sát cho thấy số lượng
yếu tố trong một thuật ngữ tiếng Anh nhiều nhất là 5 và ít nhất là 1. Trong
đó, thuật ngữ có cấu tạo gồm 2 yếu tố phổ biến nhất với cả thuật ngữ là từ
và cụm từ. Các thuật ngữ là cụm từ được cấu tạo gồm từ 3 yếu tố trở lên
trong tiếng Anh chỉ chiếm khoảng 10.3% tổng số thuật ngữ marketing
được khảo sát.
Về mô hình cấu tạo thuật ngữ, có thể nói, thuật ngữ marketing
tiếng Anh có mô hình cấu tạo khá phong phú với tổng số 17 mô hình cấu
tạo khác nhau. Với các thuật ngữ là từ, ngoại trừ thuật ngữ marketing là từ

đơn có cấu tạo gồm 1 yếu tố nên không xác định mô hình cấu tạo, thuật
ngữ marketing là từ phái sinh được cấu tạo theo 3 mô hình và thuật ngữ
marketing là từ ghép được cấu tạo theo 5 mô hình. Với các thuật ngữ
marketing là cụm từ, số lượng mô hình cấu tạo phong phú hơn thuật ngữ
marketing là từ (9/8 mô hình). Điểm đáng lưu ý là, một số thuật ngữ
marketing có cấu tạo là từ phái sinh, từ ghép và cụm từ gồm 2 hoặc 3 yếu
tố lại chia sẻ các mô hình cấu tạo giống nhau vì vậy tổng số lượng các mô
hình cấu tạo khác biệt của thuật ngữ marketing tiếng Anh lúc này rút gọn
còn 14 mô hình. Tuy nhiên, trong số 14 mô hình này,chỉ có một số mô hình

8


mang tính sản sinh cao, tức là số lượng thuật ngữ được cấu tạo theo mô
hình này lớn hay mô hình có tính phổ biến rộng rãi. Cụ thể, có tới 1285
thuật ngữ marketing được cấu tạo theo mô hình gồm hai yếu tố với 1 bậc
quan hệ, trong đó yếu tố trung tâm đứng sau, yếu tố phụ đứng trước, bổ
sung và làm rõ nghĩa cho trung tâm; 190 thuật ngữ khác được cấu tạo theo
mô hình ngược lại, tức là thành phần trung tâm đứng trước và thành phần
phụ đứng sau; và 106 thuật ngữ được cấu tạo theo mô hình gồm 3 yếu tố
với hai bậc quan hệ; ở bậc 1, yếu tố thứ hai là trung tâm của yếu tố thứ
nhất; ở bậc 2, yếu tố thứ 3 là trung tâm của cả yếu tố thứ nhất và yếu tố
thứ 2.
Như vậy có thể đi đến một số kết luận chung về đặc điểm cấu tạo
của thuật ngữ marketing tiếng Anh đó là, thứ nhất, các thuật ngữ này có
cấu tạo tương đối ngắn gọn vì chỉ gồm hai yếu tố tạo thành; thứ hai, chúng
có tính định danh cao vì đa số là danh từ hoặc cụm danh từ; thứ 3, các thuật
ngữ này được cấu tạo khá thống nhất theo một mô hình chính. Các đặc
điểm này phù hợp với bản chất và tiêu chuẩn của thuật ngữ marketing nói
chung với tư cách là những từ, cụm từ có tính ngắn gọn, hệ thống … được

dùng để biểu thị các khái niệm, đối tượng thuộc lĩnh vực chuyên môn
marketing.
2.4. Cấu tạo thuật ngữ marketing tiếng Việt
Về phương diện từ loại, thuật ngữ marketing tiếng Việt là cụm từ
chiếm hơn 86 % tổng số thuật ngữ được nghiên cứu, trong đó số lượng
thuật ngữ là cụm danh từ cũng gần gấp đôi cụm động từ. Với thuật ngữ có
cấu tạo là từ, số lượng khiêm tốn hơn rất nhiều và được chia thành thuật
ngữ là từ đơn (12 thuật ngữ) và thuật ngữ là từ ghép (159 thuật ngữ).
Về phương thức cấu tạo, trong hai phương thức, ghép và cụm từ
quan hệ chính phụ, thì cụm từ quan hệ chính phụ là phương thức chính cấu
thành nên đa số thuật ngữ marketing tiếng Việt. Mặt khác, không phải tất
cả thuật ngữ có cấu tạo là từ ghép trong tiếng Việt đều được tạo thành từ
một cách thức giống nhau. Trên thực tế, có hai kiểu ghép là ghép đẳng lập

9


và ghép chính phụ. Thuật ngữ marketing là từ ghép trong tiếng Việt được
tạo thành từ cả hai kiểu ghép này, tuy nhiên ghép chính phụ vẫn phổ biến
hơn ghép đẳng lập.
Về yếu tố cấu tạo thuật ngữ, thuật ngữ marketing tiếng Việt có cấu tạo
tương đối ngắn gọn với số lượng thuật ngữ gồm 1 đến 2 yếu tố chiếm
khoảng 69.7 %, tương đương 854 thuật ngữ được nghiên cứu. Các thuật ngữ
còn lại có cấu tạo gồm từ 3 đến 5 yếu tố, trong đó thuật ngữ tạo thành từ 3
yếu tố là 328 đơn vị, so với 36 đơn vị là thuật ngữ gồm 4 yếu tố và 7 thuật
ngữ có cấu tạo 5 yếu tố. Điểm đặc biệt trong yếu tố cấu tạo thuật ngữ
marketing tiếng Việt ở đây là sự tồn tại của những yếu tố vay mượn hoàn
toàn từ tiếng Anh (marketing) hoặc chữ cái đầu tiên của các từ tiếng Anh
(SEO mũ đen, SEO mũ trắng …) vì lý do không có từ tiếng Việt tương
đương hoặc để rút gọn thuật ngữ, thuận tiện cho quá trình sử dụng. Có tổng

số 162 thuật ngữ marketing tiếng Việt được cấu tạo từ những yếu tố như vậy.
Cuối cùng, xét về mô hình cấu tạo thuật ngữ, có thể thấy thuật ngữ
marketing tiếng Việt được cấu tạo khá thống nhất với tổng số 12 mô hình
cấu tạo (3 mô hình của các thuật ngữ có cấu tạo là từ ghép và 9 mô hình
cấu tạo thuật ngữ là cụm từ). Tuy nhiên, trong đó mô hình gồm hai yếu tố
với cấu tạo trung tâm đứng trước, thành phần phụ đứng sau là mô hình phổ
biến nhất, chiếm 63.7 % thuật ngữ được nghiên cứu (tương đương 780 đơn
vị). Các mô hình cấu tạo gồm 3 bậc và 4 đến 5 yếu tố tạo thành, ngược lại
chỉ chiếm dưới 10%.
2.5. Đối chiếu đặc điểm cấu tạo thuật ngữ marketing Anh – Việt
2.5.1. Điểm tương đồng
Thuật ngữ marketing tiếng Anh và tiếng Việt chia sẻ 7 điểm tương
đồng. 1/ Số lượng thuật ngữ marketing có cấu tạo là cụm từ chiếm đa số
trong cả hai ngôn ngữ tiếng Anh và tiếng Việt tương ứng với 65.7 % và
86.0 %. 2/Thuật ngữ marketing là danh từ (bao gồm cả danh từ đơn, danh
từ ghép và cụm danh từ) đều phổ biến hơn so với các loại từ, cụm từ khác.
3/Sự kết hợp của danh từ, tính từ và động từ là xu hướng phổ biến trong

10


các thuật ngữ marketing Anh, Việt. 4/ Cụm từ kết cấu chính phụvẫn là
phương thức chínhcấu tạo nên các thuật ngữ marketing trong cả hai ngôn
ngữ Anh, Việt (trên 65 %). 5/ Thuật ngữ marketing có cấu tạo gồm từ 1
đến 3 yếu tố là một xu hướng phổ biến trong cả tiếng Anh và tiếng Việt khi
có đến 1846/1940 và 1182/1225 thuật ngữ thuộc loại này. 6/Trong mỗi hệ
thuật ngữ, chỉ có một mô hình mang tính sản sinh cao nhất (trên 63%), tức
là các thuật ngữ được cấu tạo mới sẽ có xu hướng cấu trúc theo mô hình
này, và mô hình đó dành cho các thuật ngữ chỉ gồm 2 yếu tố. 7/ Thuật ngữ
marketing có cấu tạo là cụm từ và gồm từ 3 yếu tố trở lên có mô hình cấu

tạo đa dạng với nhiều bậc quan hệ phức tạp hơn các thuật ngữ có cấu tạo là
từ, hoặc là cụm từ gồm 2 yếu tố tạo thành.
2.5.2. Nét khác biệt
Ngoài những điểm tương đồng như trên, thuật ngữ marketing tiếng
Anh và tiếng Việt có những nét khác biệt nhau trên nhiều phương diện về
cấu tạo và ngữ pháp. 1/Thuật ngữ marketing là từ trong tiếng Anh nhiều
hơn trong tiếng Việt (34.9 % so với 14.0%); và ngược lại thuật ngữ
marketing là cụm từ trong tiếng Việt lại nhiều hơn trong tiếng Anh với tỉ lệ
1.3/1. 2/ Xét về đặc điểm từ loại, trong tiếng Anh, tồn tại thuật ngữ
marketing là từ phái sinh với 240 thuật ngữ, trong khi tiếng Việt không có
loại từ này. 3/ Nhiều thuật ngữ gốc tiếng Anh vốn là danh từ, nhưng khi
được sao phỏng sang tiếng Việt lại trở thành động từ. 4/Về mặt hình thức,
chỉ có trong tiếng Anh mới xuất hiện những thuật ngữ marketing có cấu tạo
là từ ghép được viết liền nhau như household, downmarket … 5/Bên cạnh
đó, hiện tượng thuật ngữ là từ pha trộn hay viết tắt không hoàn toàn trong
tiếng Anh và hiện tượng cụm từ ghép lai giữa các từ tiếng Anh và tiếng
Việt cũng chỉ xuất hiện ở một trong hai hệ thuật ngữ. 6/ Thuật ngữ
marketing gồm 2 yếu tố tạo thành trong tiếng Anh nhiều hơn trong tiếng
Việt (76% so với 55.8%). Trong khi đó, thuật ngữ marketing gồm 3 yếu tố
cấu tạo trong tiếng Việt lại nhiều hơn trong tiếng Anh (22.9% so với
15.9%). Như vậy, có thể thấy về cơ bản thuật ngữ marketing tiếng Anh có

11


cấu tạo ngắn gọn hơn so với thuật ngữ marketing tiếng Việt. 7/ Với thuật
ngữ marketing tiếng Anh, phương thức phụ gia góp phần tạo nên 12.4%
tổng số thuật ngữ được nghiên cứu; trong khi đó, ghép đẳng lập là phương
thức chỉ được sử dụng để tạo nên một số lượng nhỏ (dưới 1%) thuật ngữ
marketing tiếng Việt. 8/ Số lượng các mô hình cấu tạo của thuật ngữ

marketing tiếng Anh phong phú và đa dạng hơn thuật ngữ marketing tiếng
Việt với tỉ lệ tương ứng là 14/11 mô hình khác nhau. Ngoài ra nếu nhìn vào
mô hình cấu tạo các thuật ngữ marketing tiếng Anh có thể thấy, yếu tố
chính thường đứng sau, các yếu tố phụ đứng trước để bổ sung, làm rõ
nghĩa cho yếu tố chính, trong tiếng Việt thì ngược lại, ngoại trừ các thuật
ngữ là từ gốc Hán Việt.
Về đặc điểm mô hình cấu tạo và mối quan hệ cú pháp giữa các yếu
tố cấu thànhthuật ngữ marketing, kết quả khảo sát cho thấy, trước hết, số
lượng các mô hình cấu tạo của thuật ngữ marketing tiếng Anh phong phú
và đa dạng hơn thuật ngữ marketing tiếng Việt với tỉ lệ tương ứng là
14/11mô hình khác nhau. Ngoài ra nếu nhìn vào mô hình cấu tạo các thuật
ngữ marketing tiếng Anh có thể thấy, yếu tố chính thường đứng sau, các
yếu tố phụ đứng trước để bổ sung, làm rõ nghĩa cho yếu tố chính, trong
tiếng Việt thì ngược lại, ngoại trừ các thuật ngữ là từ gốc Hán Việt.
CHƯƠNG 3
ĐỐI CHIẾU CON ĐƯỜNG HÌNH THÀNH VÀ ĐẶC ĐIỂM ĐỊNH
DANH CỦA THUẬT NGỮ MARKETING ANH – VIỆT
3.1. Con đường hình thành thuật ngữ
Theo Infoterm [100], thuật ngữ trong hầu hết tất cả các ngôn ngữ
trên thế giới đều được tạo thành từ các con đường sau: tạo thuật ngữ mới
sử dụng phương pháp suy từ từ gốc, ghép hay viết tắt; sử dụng các thuật
ngữ có sẵn: chuyển đổi (thay đổi từ loại, đôi khi còn gọi là phương pháp
phân loại lại từ vựng); thuật ngữ hoá từ ngữ thông thường; chuyển nghĩa

12


trong một ngôn ngữ đặc biệt; vay mượn liên ngành (ẩn dụ); vay mượn liên
quan: vay mượn trực tiếp và dịch từ mượn.
3.2. Đối chiếu thuật ngữ marketing Anh – Việt về con đường

hình thành
3.2.1. Con đường hình thành thuật ngữ marketing tiếng Anh
Thuật ngữ marketing tiếng Anh được hình thành chủ yếu qua các con
đường thuật ngữ hoá từ ngữ thông thường và tiếp nhận thuật ngữ từ các
ngành khoa học khác. Về con đường thuật ngữ hoá từ ngữ thông thường, một
trong những nguyên nhân được lý giải là do bản chất của hoạt động kinh tế,
trong đó có marketing, luôn gắn bó mật thiết với đời sống của mọi tầng lớp xã
hội. Thuật ngữ, do đó được thuật ngữ hoá từ từ ngữ thông thường bằng cách
mở rộng hoặc thu hẹp nghĩa hay liên tưởng nghĩa ẩn dụ và hoán dụ. Bên cạnh
phương thức này, thuật ngữ marketing tiếng Anh còn được chứng minh là đã
tiếp nhận tới hơn 65% thuật ngữ từ 11 ngành khoa học trong đó nhiều nhất là
kinh tế học, báo chí và truyền thông, công nghệ thông tin và quản trị kinh
doanh. Ngoài ra, thuật ngữ marketing còn được hình thành qua con đường vay
mượn thuật ngữ nước ngoài dưới hình thức sao phỏng với số lượng dưới 5%
trong đó tiếng Pháp và Latin được vay mượn nhiều nhất. Các thuật ngữ
marketing được vay mượn từ nước ngoài đa số diễn đạt các khái niệm đã hình
thành từ lâu, không phải khái niệm mới.
3.2.2. Con đường hình thành thuật ngữ marketing tiếng Việt
Marketing là một lĩnh vực cònrất mới ở Việt Nam so với nhiều ngành
khoa học xã hội khác. Tri thức về lĩnh vực này vì vậy được tiếp thu chủ yếu từ
các nước phát triển, nơi marketing lần đầu tiên được đưa vào giảng dạy và liên
tục được cập nhật và làm mới cho phù hợp với tình trạng của thời đại. Nói
cách khác, do điều kiện xã hội, dường như hệ thống các khái niệm khoa học về
marketing trong tiếng Việt được hình thành chủ yếu qua con đường sao phỏng
cấu tạo và sao phỏng nghĩa từ các thuật ngữ marketing tiếng Anh. Ví dụ:
personal selling – bán hàng các nhân, market segmentation – phân đoạn thị
trường, marketing – tiếp thị … Tuy nhiên, cũng chính vì vậy, kết quả nghiên

13



cứu đã ghi nhận nhiều trường hợp thuật ngữ marketing được sao phỏng nghĩa
trong tiếng Việt chưa phản ánh đúng bản chất khái niệm của thuật ngữ
marketing trong ngôn ngữ gốc như “tiếp thị”, “chiến lược sản phẩm”, “thấu
hiểu khách hàng” … hoặc kết quả sao phỏng nghĩa không đảm bảo tiêu chí cơ
bản của thuật ngữ mà thay vào đó là các giải thích nghĩa dài dòng, khó hiểu
chằng hạn như “định giá cộng dồn”; “giảm giá vì trả tiền mặt”, “sử dụng người
nổi tiếng để quảng cáo”, “tỷ lệ khách hàng thực hiện một hành vi sau khi xem
hoặc nhấp chuột vào quảng cáo” …
Bên cạnh con đường vay mượn dưới hình thức sao phỏng, thuật ngữ
marketing tiếng Việt còn được vay mượn nguyên dạng từ tiếng Anh. Số lượng
thuật ngữ được vay mượn nguyên dạng thường có tính quốc tế cao cả về hình
thức và nội dung và đang có xu hướng gia tăng, đặc biệt trong lĩnh vực
marketing trực tuyến marketing, e-marketing, thẻ Meta, định giá hybrid ..
3.2.3. Nhận xét về con đường hình thành thuật ngữ marketing
tiếng Anh và tiếng Việt
Về đặc điểm tương đồng, thuật ngữ marketing trong hai ngôn ngữ
đều được hình thành từ các con đường cơ bản giống như thuật ngữ thuộc
nhiều ngành khoa học khác cụ thể là thuật ngữ hoá từ ngữ thông thường,
vay mượn và sao phỏng cấu tạo hay dịch nghĩa. Ngoài việc tiếp nhận một
số lượng lớn các từ ngữ thông thường trong hệ thống từ vựng của mình,
ngành marketing tiếng Anh và tiếng Việt còn vay mượn thuật ngữ thuật
ngữ nước ngoài trong hệ thống từ vựng chuyên môn của mình. Cụ thể,
thuật ngữ marketing tiếng Việt vay mượn thuật ngữ marketing tiếng Anh,
trong khi đó, thuật ngữ marketing tiếng Anh lại chứa các từ ngữ có nguồn
gốc từ tiếng Latin, Pháp hay Hy Lạp …
Về đặc điểm khác biệt, nếu như các thuật ngữ marketing tiếng
Anh được thuật ngữ hóa từ từ thông thường qua hình thức thu hẹp hoặc mở
rộng nghĩa, thì các thuật ngữ marketing tiếng Việt chủ yếu lại được hình
thành từ con đường sao phỏng cấu tạo và sao phỏng nghĩa thuật ngữ nước

ngoài, cụ thể là thuật ngữ marketing tiếng Anh. Ngoài ra, trong khi xu

14


hướng vay mượn nguyên dạng thuật ngữ marketing tiếng Anh ngày càng
phổ biến trong tiếng Việt thì các trường hợp vay mượn từ nước ngoài trong
tiếng Anh thường mang yếu tố lịch sử và dưới dạng sao phỏng.
3.3.
Đối chiếu đặc điểm định danh thuật ngữ marketing Anh –
Việt
3.3.1. Định danh thuật ngữ
Các đơn vị định danh phái sinh hay thuật ngữ marketing gồm hai yếu
tố về nghĩa trở lên là đối tượng được lựa chọn để phân tích các đặc điểm
định danh, mô hình định danh tương ứng với các phạm trù ngữ nghĩa khác
nhau.
3.3.2.Các phạm trù ngữ nghĩa thuật ngữ marketing tiếng Anh và
tiếng Việt
Trong khuôn khổ của luận án, các thuật ngữ marketing Anh, Việt
thuộc đối tượng nghiên cứu được phân nhóm theo 8 phạm trù ngữ nghĩa
với số lượng thuật ngữ cụ thể từng phạm trù như sau:
STT
Các phạm trù
Thuật
Thuật ngữ
ngữ tiếng tiếng Việt
Anh
1
Thuật ngữ về hoạt động marketing
299

202
2
Thuật ngữ về nghiên cứu marketing
256
154
3
Thuật ngữ về thị trường và khách hàng
234
169
4
Thuật ngữ về sản phẩm và thương hiệu
240
157
5
Thuật ngữ về giá
178
91
6
7
8

Thuật ngữ về kênh phân phối và bán
hàng
Thuật ngữ về truyền thông marketing
Thuật ngữ về internet marketing
(marketing trực tuyến)
Tổng

15


237

151

245
251

168
133

1940

1225


Cơ sở của việc phạm trù hóa các thuật ngữ marketing theo đặc
điểm ngữ nghĩa của chúng xuất phát từ nội dung cơ bản của ngành
marketing và nội dung biểu đạt của các thuật ngữ được nghiên cứu.
3.3.3. Đặc điểm định danh thuật ngữ marketing Anh- Việt thuộc
từng phạm trù ngữ nghĩa
3.3.3.1. Đặc điểm định danh thuật ngữ marketing Anh- Việt chỉ
hoạt động marketing
Thuật ngữ chỉ hoạt động marketing là những thuật ngữ liên quan
đến bản chất, chiến lược,môi trường,quan điểm …marketing. Các thuật
ngữ này được khu biệt với nhau theo các đặc trưng chỉ tính chất, quy mô,
phương thức, phạm vi/lĩnh vực và đối tượng bị tác động. Đồng thời, với
mỗi thuật ngữ, xu hướng phổ biến là chỉ sử dụng một hoặc tối đa là hai đặc
trưng để gọi tên 5 mô hình cụ thể.
3.3.3.2.
Đặc điểm định danh thuật ngữ marketing Anh – Việt

chỉ hoạt động nghiên cứu marketing
Thuật ngữ về nghiên cứu marketing bao gồm các thuật ngữ chỉ
quá trình nghiên cứu, dữ liệu thu thập, phương pháp nghiên cứu, công cụ
đo lường, đánh giá, phân tích và xử lý dữ liệu … Các thuật ngữ này được
gọi tên dựa trên một trong các đặc trưng chỉ tính chất, phương pháp, đối
tượng, địa điểm, lĩnh vực với 5 mô hình định danh.
3.3.3.3. Đặc điểm định danh thuật ngữ marketing Anh – Việt chỉ
thị trường và khách hàng
Thuật ngữ về thị trường marketing bao gồm các khái niệm liên
quan đến khách hàng, chiến lược thị trường, đặc điểm và phân loại thị
trường. Các khái niệm này được định danh theo đặc điểm và mô hình ngữ
nghĩa tương đương hai tiểu phạm trù thị trường và khách hàng. Các thuật
ngữ thuộc phạm trù này được định danh dựa trên các đặc trưng chỉ tính
chất thị trường, hàng hoá mua bán trên thị trường, đối tượng tham gia trên
thị trường, phạm vi địa lý của thị trường, trạng thái thị trườngtình trạng
mua hàng, mức mua hàng, khu vực địa lý, thái độ khách hàng, mức thu

16


nhập của khách hàng. Tuy nhiên, cũng giống như hai phạm trù trên, số
lượng các đặc trưng được lựa chọn để khu biệt thuật ngữ chỉ bao gồm 1 đặc
trưng, với tổng số 10 mô hình định danh.
3.3.3.4. Đặc điểm định danh thuật ngữ marketing Anh – Việt chỉ
sản phẩm và thương hiệu
Thuật ngữ về sản phẩm là những thuật ngữ chỉ các loại hàng hóa
hay dịch vụ, thuộc tính, các yếu tố cấu thành, cũng như các đặc tính, tính
năng, thiết kế và chất lượng của chúng. Các thuật ngữ này lựa chọn một
trong những đặc trưng chỉ thói quen hoặc hành vi mua, thời gian sử dụng,
hình thức tồn tại, nguồn gốc, tính chất và mục đích sử dụng để định danh.

Có tổng số 10 mô hình định danh cho các khái niệm thuộc phạm trù này.
3.3.3.5.
Đặc điểm định danh thuật ngữ marketing Anh – Việt
chỉ giá
Các thuật ngữ về giá trong lĩnh vực này chủ yếu là các quyết định, chiến
lược liên quan đến định giá.Đặc trưng được lựa chọn để định danh nhóm
thuật ngữ này bao gồm từ 1 đến 2 đặc trưng chỉ đối tượng, căn cứ, cách
thức, tính chất, phạm vi và mục đích với tổng số 7 mô hình định danh.
3.3.3.6.
Đặc điểm định danh thuật ngữ marketing Anh – Việt
chỉ hoạt động bán hàng và phân phối sản phẩm
Thuật ngữ về phân phối sản phẩm vì vậy tập trung vào các hình
thức kênh phân phối, cấu trúc kênh, các quyết định trong kênh, các chiến
lược bán hàng và lực lượng bán hàng. Các thuật ngữ này được chia thành
hai tiểu phạm trù là kênh phân phối và hoạt động phân phối hoặc bán hàng.
Đặc trưng được lựa chọn để định danh bao gồm cấu trúc, chức năng của
kênh, hình thức sở hữu kênh, kiểu loại sản phẩm giá cả của sản phẩm được
phân phối, địa điểm phân phối, phạm vi, hình thức bán hàng, số lượng kênh
tham gia bán hàng, lĩnh vực của hàng hoá. Mô hình định danh có số lượng
là 10.
3.3.3.7.
Đặc điểm định danh thuật ngữ marking Anh –Việt chỉ
hoạt động truyền thông, quảng cáo

17


Thuật ngữ về truyền thông marketing là những từ ngữ chỉ bản
chất, công cụ, chiến lược, hình thức truyền thông, được khu biệt dựa trên
các đặc trưng chỉ phạm vi, tính chất, cách thức, loại hình và chiến lược qua

6 mô hình định danh.
3.3.3.8.
Đặc điểm định danh thuật ngữchỉ hoạt động
marketing trực tuyến Anh – Việt
Thuật ngữ chỉ marketing trực tuyến vì vậy chứa đựng rất nhiều
thuật ngữ thuộc ngành công nghệ thông tin cụ thể là các khái niệm, công
cụ, dữ liệu thông tin bên cạnh các khái niệm, hoạt động marketing thông
thường. Các thuật ngữ này được định danh bởi các đặc trưng chỉ đặc điểm,
chức năng, nội dung và công cụ với tổng số 4 mô hình.
3.3.4. Nhận xét đặc điểm định danh thuật ngữ marketing Anh –
Việt
Thứ nhất, các đặc điểm nghĩa được lựa chọn nhiều nhất để định
danh thuật ngữ marketing Anh, Việt được nghiên cứu bao gồm: đặc điểm
tính chất, phạm vi, lĩnh vực, đối tượng, cách thức và công cụ. Các đặc
điểm ít được lựa chọn hơn gồm căn cứ, thời gian, quy mô, và kiểu loại.
Thứ hai, với mỗi phạm trù ngữ nghĩa, tức là với mỗi khái niệm
khung khác nhau (nghiên cứu marketing, định giá hay thương hiệu …) các
đặc điểm được lựa chọn để khu biệt nghĩa cũng khác nhau về cả thể loại và
tần suất sử dụng. Cụ thể, với thuật ngữ chỉ nghiên cứu marketing thì đặc
điểm về phương pháp được sử dụng chiếm ưu thế bên cạnh đặc điểm đối
tượng nghiên cứu. Hay nói cách khác, khi tư duy và gọi tên các khái niệm
thuộc lĩnh vực nghiên cứu trong ngành marketing người ta chú ý nhiều đến
việc nghiên cứu cái gì và theo cách thức nào. Ngược lại, với thuật ngữ chỉ
thương hiệu, yếu tố xác định các thuộc tính của thương hiệu và hoạt động
với thương hiệu được xem là hai đặc điểm quan trọng để phân biệt các khái
niệm với nhau. Tương tự, với thuật ngữ chỉ hoạt động marketing, các đặc
điểm về bản chất, tính chất, đối tượng, lĩnh vực marketing được xét đến
đầu tiên khi quy loại khái niệm. Thuật ngữ thuộc phạm trù định giá, mặt

18



khác lại xem yếu tố căn cứ định giá và đối tượng định giá là những đặc
trưng đặt tên các khái niệm khoa học gồm hai hay nhiều đặc điểm phân
biệt về nghĩa. Thuật ngữ chỉ khách hàng và hoạt động truyền thông quảng
cáo sử dụng ít đặc điểm hơn so với thuật ngữ chỉ các phạm trù khác trong
quá định danh khái niệm, sự vật, hiện tượng, trong khi đó thuật ngữ thuộc
lĩnh vực dịch vụ, sản phẩm, hoạt động phân phối và mua bán hàng hóa lại
dựa vào nhiều tiêu chí nghĩa khác nhau để gọi tên khái niệm. Điều này
cũng chứng tỏ một thực tế là số lượng các thuật ngữ thuộc các lĩnh vực
sau phong phú hơn về số lượng và đa dạng hơn về phạm trù nghĩa. Chi
tiết hơn, thuật ngữ chỉ khách hàng dựa vào quy mô, số lượng khách hàng
và khả năng mua hàng để phân loại; còn thuật ngữ chỉ hoạt động truyền
thông quảng cáo dựa vào đặc điểm về công cụ, kênh, và đối tượng truyền
thông, quảng cáo để định danh. Trong khi đó, với thuật ngữ chỉ lĩnh vực
dịch vụ, các đặc điểm thuộc đặc tính, tính chất, quy mô, lĩnh vực, đối
tượng, không gian, phương pháp được sử dụng với tần suất tương đối
ngang nhau khi định danh.
Thứ ba, trong một số trường hợp, việc xác định đặc điểm yếu tố
phân biệt nghĩa trong thuật ngữ có từ hai yếu tố về nghĩa trở lên chỉ
mang tính tương đối phụ thuộc vào tiêu chuẩn phân loại và ngữ cảnh
cũng như mục đích giao tiếp. Ví dụ, trong thuật ngữ “interactive
marketing”, “marketing” là thuật ngữ, “interactive” là đặc điểm được
lựa chọn để phân loại marketing, “interactive” có thể được xem là thuật
ngữ chỉ tính chất hoặc hoạt động tương tác với khách hàng.
Thứ tư, thuật ngữ marketing là đơn vị định danh phái sinh chiếm
đa số so với thuật ngữ là đơn vị định danh ban đầu. Đồng thời các đơn vị
định danh phái sinh này cũng chủ yếu lựa chọn một đặc trưng để khu biệt
nghĩa. Điều này dẫn tới mô hình định danh các thuật ngữ marketing Anh –
Việt thường gồm hai yếu tố, trong đó yếu tố chính (A)có chức năng quy

loại hệ thống khái niệm thuật ngữ marketing và yếu tố phụ (X) đảm nhận
chức năng khu biệt thuật ngữ. Cụ thể, mô hình gồm yếu tố chính đứng sau,

19


yếu tố phụ đứng trước trong tiếng Anh (X +A) và yếu tố chính đứng trước,
yếu tố phụ đứng sau (A + X) trong tiếng Việt thường tương ứng với các
phạm trù chỉ đặc điểm, tính chất, hoạt động, lĩnh vực chuyên môn, phương
pháp, nội dung, đối tượng …. Ngược lại mô hình A + X trong tiếng Anh và
X + A trong tiếng Việt thường chỉ các khái niệm về thành phần, hoạt động,
thuộc tính, công cụ.
Từ những nội dung trình bày trên có thể đi đến nhận định làthuật ngữ
marketing tiếng Anh và tiếng Việt chia sẻ nhiều tương đồng về đặc điểm định
danh. Điều này phù hợp với kết luận về con đường hình thành thuật ngữ
marketing tiếng Việt rằng thuật ngữ marketing tiếng Việt chủ yếu được sao
phỏng cấu tạo và sao phỏng nghĩa từ thuật ngữ marketing tiếng Anh.
KẾT LUẬN
Với mục đích tìm hiểu sự tương đồng và khác biệt giữa hai hệ
thống thuật ngữ marketing tiếng Anh và tiếng Việt nhằm giúp công tác
nghiên cứu, học tập và sử dụng được dễ dàng và hiệu quả hơn, luận án đã
tiến hành khảo sát và đối chiếu 1940 thuật ngữ marketing tiếng Anh với
1225 thuật ngữ marketing tiếng Việt trên phương diện đặc điểm cấu tạo,
con đường hình thành và đặc điểm định danh. Kết quả thu được có thể tóm
tắt qua những nội dung sau:
1. Về cơ sở lý luận, dựa trên việc tổng kết, phân tích và đánh giá
tình hình nghiên cứu thuật ngữ nói chung và thuật ngữ marketing nói riêng
trên thế giới và ở Việt Nam, luận án đã tổng kết được các giai đoạn hình
thành và phát triển của thuật ngữ với sự ra đời của 8 học thuyết và đường
hướng tiếp cận trong nghiên cứu thuật ngữ. Theo đó, thuật ngữ có thể được

nghiên cứu trên quan điểm truyền thống ưu tiên khái niệm và tính chính
xác của khái niệm trong quá trình định danh, hay được xem xét dưới góc
độ nhận thức xã hội, văn hoá … và giao tiếp. Luận án lựa chọn hướng tiếp
cận thiên về truyền thống. Từ đó, lý thuyết về thuật ngữ cũng như vấn đề
cấu tạo từ, đối chiếu ngôn ngữ và định danh được xác lập. Luận án quan

20


niệm thuật ngữ marketing là những từ, cụm từ biểu hiện khái niệm và đối
tượng thuộc bản chất, nguyên lý, chiến lược, quy trình truyền thông,
nghiên cứu … và công cụ marketing. Thuật ngữ marketing thuộc đối tượng
nghiên cứu thoả mãn hai tiêu chuẩn là tính khoa học và tính quốc tế. Việc
so sánh đối chiếu hai hệ thống thuật ngữ marketing tiếng Anh và tiếng Việt
được thực hiện theo phương pháp và quy tắc đối chiếu trong ngôn ngữ học.
2. Về đặc điểm cấu tạo, thuật ngữ marketing tiếng Anh và tiếng
Việt chia sẻ 7 điểm tương đồng liên quan đến từ loại, quan hệ ngữ pháp,
phương thức cấu tạo, yếu tố cấu tạo và mô hình cấu tạo. Cụ thể, trong cả
hai ngôn ngữ, thuật ngữ marketing có cấu tạo là cụm từ chiếm đa số so với
thuật ngữ có cấu tạo là từ (trên 65%). Các thuật ngữ này chủ yếu là danh từ
hoặc cụm danh từ, gồm từ 1 đến 2 yếu tố cấu tạo. Cụm từ quan hệ chính
phụ cũng được xem là phương thức chính cấu tạo nên thuật ngữ marketing
tiếng Anh và tiếng Việt. Đồng thời, trong mỗi hệ thuật ngữ chỉ có một mô
hình cấu tạo mang tính sản sinh cao là mô hình gồm hai yếu tố có quan hệ
chính phụ, góp phần tạo nên hơn 63% số lượng thuật ngữ.
Bên cạnh những điểm tương đồng, hai hệ thuật ngữ cũng khác biệt
nhau trên nhiều phương diện. Tỉ lệ thuật ngữ marketing có cấu tạo là từ
trong tiếng Anh nhiều hơn trong tiếng Việt (34.9% so với 17.0%), trong
khi thuật ngữ marketing có cấu tạo gồm 3 yếu tố trở lên trong tiếng Việt lại
nhiều hơn tiếng Anh. Điều đó dẫn tới nhận định, về cơ bản thuật ngữ

marketing tiếng Anh có cấu tạo ngắn gọn và chặt chẽ hơn so với thuật ngữ
marketing tiếng Việt. Ngoài ra, do không tương đồng về loại hình ngôn
ngữ, thuật ngữ marketing tiếng Anh cũng khác biệt với thuật ngữ
marketing tiếng Việt ở phương thức cấu tạo phụ gia hay vị trí của yếu tố
trung tâm trong mô hình cấu tạo.
3. Về con đường hình thành thuật ngữ, trong khi thuật ngữ
marketing tiếng Anh được hình thành chủ yếu từ con đường thuật ngữ hoá
từ ngữ thông thường và tiếp nhận thuật ngữ từ các ngành khoa học khác thì
thuật ngữ marketing tiếng Việt đa số được sao phỏng cấu tạo và sao phỏng

21


nghĩa từ thuật ngữ marketing tiếng Anh. Cụ thể, nhiều thuật ngữ marketing
tiếng Anh được thuật ngữ hoá từ từ ngữ thông thường theo các phương
thức mở rộng, thu hẹp nghĩa hoặc chuyển nghĩa ẩn dụ hay hoán dụ. Đặc
biệt, thuật ngữ marketing tiếng Anh đã tiếp nhận trên 65% thuật ngữ từ các
ngành khoa học khác trong đó nhiều nhất là kinh tế học, báo chí và truyền
thông và công nghệ thông tin. Với thuật ngữ marketing tiếng Việt, do ra
đời sau và khác biệt về trình độ kinh tế, các kiến thức về marketing chủ yếu
được du nhập từ phương tây, hệ thuật ngữ vì vậy cũng được vay mượn từ
nước ngoài với hình thức sao phỏng cấu tạo và dịch nghĩa và một số ít là
vay mượn nguyên dạng.
4. Về đặc điểm định danh, do thuật ngữ marketing chủ yếu được
sao phỏng, dịch nghĩa từ thuật ngữ marketing tiếng Anh nên giữa hai hệ
thuật ngữ chứa nhiều đặc điểm tương đồng. Trước hết, cả hai hệ thống khái
niệm đều được quy về 8 phạm trù ngữ nghĩa bao gồm hoạt động marketing,
nghiên cứu marketing, thị trường và khách hàng, sản phẩm và thương hiệu,
giá, kênh phân phối và bán hàng, truyền thông và marketing trực tuyến.
Thuật ngữ marketing là đơn vị định danh phái sinh, tức là gồm từ hai yếu

tố nghĩa trở lên, ở cả hai ngôn ngữ cũng chiếm số lượng vượt trội. Kết quả
khảo sát cho thấy, các đơn vị định danh phái sinh có mô hình định danh
phong phú với 57 mô hình. Tuy nhiên, đa số các mô hình chỉ gồm hai yếu
tố nghĩa, trong đó gồm một yếu tố gốc có chức năng quy loại khái niệm và
một yếu tố có nhiệm vụ khu biệt nghĩa. Nói cách khác, thuật ngữ marketing
tiếng Anh và tiếng Việt có xu hướng chỉ lựa chọn một đặc trưng để gọi tên.
Các đặc trưng được lựa chọn nhiều nhất là các đặc trưng chỉ tính chất,
phạm vi, lĩnh vực, đối tượng, cách thức và công cụ. Các đặc trưng ít được
lựa chọn hơn gồm căn cứ, thời gian, quy mô, và kiểu loại.
5. Một kết quả đáng chú ý khác của luận án đó là đã đề cập và chỉ
ra một số vấn đề liên quan đến sao phỏng nghĩa thuật ngữ marketing tiếng
Anh sang tiếng Việt trên cơ sở vận dụng những tương đồng và khác biệt
trong cấu tạo và định danh. Cụ thể, đó là thực trạng thuật ngữ marketing

22


tiếng Việt chưa phản ánh chính xác nghĩa của thuật ngữ mà nó sao phỏng
như “tiếp thị”, “bảo hộ thương hiệu”; hay thuật ngữ marketing tiếng Việt là
cụm từ có chức năng miêu tả, giải thích thay vì gọi tên khái niệm; hoặc
nhiều thuật ngữ marketing tiếng Việt cùng biểu thị một khái niệm như
“nhãn hiệu”, “thương hiệu” …
Những kết quả này đã giúp trả lời cho các câu hỏi nghiên cứu được
đặt ra trong luận án. Và như vậy, có thể khẳng định, về cơ bản luận án
“Đối chiếu thuật ngữ marketing Anh – Việt” đã giải quyết được các nhiệm
vụ đặt ra bao gồm xác lập được cơ sở lý thuyết liên quan đến thuật ngữ,
yếu tố cấu tạo thuật ngữ và định danh; phát hiện những điểm tương đồng
và dị biệt giữa hai hệ thuật ngữ trên phương diện cấu tạo, con đường hình
thành và định danh. Đóng góp của luận án là cung cấp một tham khảo hữu
ích cho các nhà nghiên cứu, giảng dạy và sử dụng hệ thuật ngữ marketing

trong vấn đề tri nhận, hiểu và vận dụng chính xác vào thực tiễn đời sống,
góp phần vào sự phát triển của lĩnh vực khoa học mới mẻ và quan trọng
này ở Việt Nam.
Hạn chế của luận án, trước tiên nằm ở phạm vi dữ liệu nghiên cứu,
đặc biệt là với thuật ngữ marketing tiếng Việt. Do được thu thập chủ yếu từ
các giáo trình, tài liệu nghiên cứu, giảng dạy trong môi trường học thuật,
nên các thuật ngữ này có thể bỏ qua những thuật ngữ mới trong thực tế.
Ngoài ra, do giới hạn về thời gian và quy mô, luận án chưa đề cập sâu về
con đường hình thành thuật ngữ marketing tiếng Việt, đặc biệt là nguồn
gốc của các thuật ngữ; hay hướng xử lý với các vấn đề còn tồn tại trong
thuật ngữ như đã trình bày. Chính vì vậy, những kết quả thu được từ luận
án chỉ là những kết quả bước đầu. Hệ thống thuật ngữ của ngành khoa học
này vẫn cần tiếp tục được nghiên cứu theo các hướng sau:
Một là, nghiên cứu về thuật ngữ marketing theo các hướng tiếp cận khác,
chẳng hạn như hướng tiếp cận theo đường hướng giao tiếp hoặc văn hoá;
Hai là, nghiên cứu thuật ngữ marketing theo nội dung chuẩn hoá,
tức là đi sâu tìm hiểu những thuật ngữ marketing cần điều chỉnh về cấu tạo

23


×