Tải bản đầy đủ (.pdf) (31 trang)

Tiểu luận Pháp luật và Đạo đức báo chí (Nguyên tắc đưa tin về trẻ em)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.46 MB, 31 trang )

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA PHÁT THANH - TRUYỀN HÌNH

NGUYÊN TẮC ĐƯA TIN VỀ TRẺ EM
Tiểu luận môn học

PHÁP LUẬT VÀ ĐẠO ĐỨC
TRONG THỰC TIỄN BÁO CHÍ - TRUYỀN THÔNG

Hà Nội, tháng 11/2015


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 2
1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN NGUYÊN TẮC ĐƯA
TIN VỀ TRẺ EM ............................................................................................. 3
1.1 Khái niệm “trẻ em” và đặc điểm tâm lý của trẻ em 3
1.1.1 Khái niệm “trẻ em” .................................................................................. 3
1.1.2 Đặc điểm tâm lý của trẻ em ..................................................................... 4
1.2 Quy định của pháp luật liên quan đến tác nghiệp báo chí về trẻ em ............ 6
1.2.1 Mối quan hệ giữa trẻ em với báo chí ........................................................ 7
1.2.2 Quy định của pháp luật liên quan đến phỏng vấn và khai thác thông tin từ
trẻ em ............................................................................................................... 7
1.3 Đạo đức nghề nghiệp liên quan tác nghiệp báo chí về trẻ em .................... 10
1.3.1 Nguyên tắc phỏng vấn trẻ em ................................................................ 10
1.3.2 Nguyên tắc đưa tin về trẻ em ................................................................. 11
1.4 Nguyên tắc đưa tin về trẻ em trong các bản quy tắc đạo đức nghề báo trên
thế giới ........................................................................................................... 12
2. KHẢO SÁT THỰC TIỄN VIỆC ĐƯA TIN VỀ TRẺ EM .......................... 14
2.1 Thực trạng chung những sai phạm trong đưa tin về trẻ em ....................... 14
2.2 Phân tích một số ví dụ thực tiễn ................................................................ 16


2.3 Nguyên nhân sai phạm ............................................................................. 24
3. KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT ............................................................................ 24
3.1 Kỹ năng phỏng vấn trẻ em ........................................................................ 24
3.2 Kỹ năng đưa tin về trẻ em ......................................................................... 26
3.3 Đảm bảo sự bình đẳng trong đưa tin về trẻ em .......................................... 28
KẾT LUẬN .................................................................................................... 29
TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 30

1


MỞ ĐẦU
Hình ảnh và thông tin về trẻ em đang xuất hiện ngày càng nhiều và phong
phú trên báo chí tại Việt Nam. Điều đó, một mặt chứng tỏ báo chí và xã hội
ngày càng quan tâm đến trẻ em khi nhiều nhà báo, cơ quan báo chí đã chung tay
cùng xã hội làm tốt việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, nhưng mặt khác
cũng cho thấy một thực tế là không ít tờ báo đã lợi dụng các thông tin về trẻ em
để hút khách, tăng lượng phát hành hoặc lượng view. Thậm chí, khi viết về trẻ
em bị lạm dụng tình dục, có khi quyền lợi của các em không những không được
bảo vệ mà còn bị xâm hại. Đáng báo động là xu hướng này đang có chiều hướng
gia tăng, đặc biệt là trên báo mạng điện tử.
Trong một cuộc điều tra xã hội học năm 2008, 94,8% (trong số 500) nhà
báo được hỏi đều cho rằng trong nhiều trường hợp cho dù họ biết chính xác tên
tuổi, địa chỉ, quê quán của em bé là nhân vật trong tác phẩm nhưng không tiết lộ
vì muốn bảo vệ các em, bởi rất có thể những thông tin đó sẽ gây ra phiền toái
cho chính các em. Tuy nhiên, trên thực tế, 5% số nhà báo được hỏi quan niệm
rằng việc công khai danh tính, địa chỉ của các em trong những hoàn cảnh trẻ bị
lạm dụng, trẻ phạm tội, trẻ có hoàn cảnh đặc biệt, éo le, trẻ có HIV… là bình
thường, nhằm tăng tính thuyết phục của bài báo. Kết quả này cũng phù hợp với
3,8 % nhà báo được hỏi cho biết sẽ công bố tất cả những chi tiết thu hút được sự

quan tâm của công chúng cho dù những chi tiết đó không hề có lợi cho nhân vật
của mình, kể cả trẻ em.1
Kết quả khảo sát nêu trên cho thấy rằng, hiện vẫn có những quan điểm
khác nhau trong việc đưa tin về trẻ em. Đặc biệt, do sự tác động của cơ chế thị
trường hiện nay, tình trạng nhà báo vi phạm pháp luật, đạo đức nghề nghiệp đã
không còn là hiếm. Trong hầu hết các trường hợp trên, trẻ em không biết và
không có khả năng tự bảo vệ, còn nhà báo trong một số trường hợp thì vô tình vi
phạm do chưa được trang bị những tri thức cần thiết.
Là một người hoạt động trong lĩnh vực báo chí truyền hình, thường xuyên
phải tiếp xúc với các tác phẩm liên quan đến trẻ em, thậm chí là đã từng chứng
kiến nhiều sự việc đáng tiếc khi các đồng nghiệp vi phạm nguyên tắc đạo đức
trong tác nghiệp báo chí về trẻ em, bản thân tôi cho rằng đây là một vấn đề rất
đáng để đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu. Chính vì lý do đó nên tôi quyết định chọn
“Nguyên tắc đưa tin về trẻ em” làm đề tài cho tiểu luận môn học này.
1

Xem Nguyễn Thị Trường Giang: Đạo đức nghề nghiệp của nhà báo, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội,
2011, tr. 278, 279

2


1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN NGUYÊN TẮC
ĐƯA TIN VỀ TRẺ EM
1.1 Khái niệm “trẻ em” và đặc điểm tâm lý của trẻ em
1.1.1 Khái niệm “trẻ em”
Điều 1, Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em (2004) quy định: “Trẻ
em… là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi”. Hiểu một cách đơn giản, theo quy
định của pháp luật Việt Nam, “trẻ em” là đối tượng có hai đặc trưng, một là “là
công dân Việt Nam” và hai là độ tuổi được xác định là “dưới 16”.

Trong pháp luật quốc tế, độ tuổi trẻ em được sử dụng tương đối thông
nhất là dưới 18. Các tổ chức của Liên hợp quốc và quốc tế như UNICEF,
UNFPA, ILO, UNESCO… cũng đều xác định trẻ em là người dưới 18 tuổi. Tuy
nhiên, các Công ước quốc tế như Tuyên bố của Hội quốc liên về quyền trẻ em
(năm 1924), Tuyên bố của Liên hợp quốc về quyền trẻ em (năm 1959), Tuyên
ngôn thế giới về quyền con người (năm 1968), Công ước 138 của Tổ chức lao
động quốc tế (ILO) về tuổi tối thiểu làm việc (năm 1976), Công ước của Liên
hợp quốc về quyền trẻ em (năm 1989)… đã khẳng định việc áp dụng độ tuổi trẻ
em của mỗi quốc gia có thể khác nhau, tuỳ thuộc vào nội luật của mỗi nước.
Riêng ở Việt Nam, khái niệm “trẻ em” chính thức được đề cập trong một
văn bản pháp quy sau khi Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh về
Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em ngày 14 tháng 11 năm 1979, trong đó quy
định “Trẻ em... gồm các em từ mới sinh đến 15 tuổi”. Đến năm 1991, Luật Bảo
vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em được ban hành đã nâng độ tuổi trẻ em lên đến
dưới 16 tuổi. Độ tuổi này (dưới 16) tiếp tục được khẳng định tại Điều 1 của Luật
Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em ban hành năm 2004. Như vậy, trong pháp
luật chuyên ngành, Việt Nam thừa nhận độ tuổi trẻ em được pháp luật bảo vệ và
chăm sóc là những công dân dưới 16 tuổi. Mặc dù quy định độ tuổi thấp hơn so
với Công ước quốc tế, nhưng quy định của Việt Nam vẫn được coi là phù hợp
bởi quy định mở của Công ước.

3


Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIII (tháng 11/2015) đang xem xét và cho
ý kiến Dự thảo Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em (sửa đổi), trong đó,
đáng chú ý là việc cơ quan soạn thảo (Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội) đề
xuất nâng tuổi trẻ em từ “dưới 16” hiện nay lên thành “dưới 18” và không giới
hạn “là công dân Việt Nam” để đảm bảo tính thống nhất, phù hợp của luật này
với Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em. Ngoài ra, việc quy định nâng

độ tuổi của trẻ em vừa phù hợp với luật pháp quốc tế vừa tránh được việc phải
sử dụng nhiều khái niệm trong hệ thống pháp luật của Việt Nam, đồng thời cũng
đã phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Tuy nhiên, đề xuất này vẫn đang gây tranh cãi và chưa đi đến thống nhất.
Ở góc độ khoa học, “trẻ em” được định nghĩa tuỳ theo góc độ tiếp cận của
từng khoa học cụ thể, như trong triết học, “trẻ em” được xem xét trong mối quan
hệ biện chứng với sự phát triển xã hội nên ở mọi thời đại, tương lai của quốc gia,
dân tộc đều tuỳ thuộc vào việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Đối với
chuyên ngành xã hội học, “trẻ em” được xác định là người có vị thế, vai trò xã
hội khác với người lớn, vì vậy, cần được xã hội quan tâm, tạo điều kiện sinh
trưởng, nuôi dưỡng, bảo vệ, chăm sóc phát triển thành người lớn. Trong tâm lý
học, khái niệm “trẻ em” được dùng để chỉ giai đoạn đầu của sự phát triển tâm lý
- nhân cách con người.
Trong thực tế có nhiều cách hiểu và vận dụng khác nhau khi xem xét, giải
quyết những vấn đề liên quan đến quyền và bổn phận của trẻ em. Người ta
thường sử dụng cụm từ “trẻ em”, “trẻ con” hay “trẻ thơ” để chỉ những người ở
một độ tuổi nhất định trong giai đoạn đầu của cuộc đời. Mặc dù còn có nhiều
cách gọi tên hay vận dụng khác nhau nhưng chúng ta có thể thống nhất khái
niệm trẻ em như sau: “Trẻ em là một thuật ngữ nhằm chỉ một nhóm xã hội thuộc
về một độ tuổi nhất định trong giai đoạn đầu của sự phát triển con người. Đó là
khoảng thời gian đã tồn tại từ khi ra đời cho đến năm 16 (theo pháp luật Việt
Nam) hoặc năm 18 tuổi (theo pháp luật quốc tế).”
1.1.2 Đặc điểm tâm lý của trẻ em
4


Trẻ em không phải là một người lớn thu nhỏ xét về mọi góc độ, bởi trẻ em
là một cơ thể đang lớn, đang trưởng thành. Sự khác biệt cơ bản giữa trẻ em và
người lớn thể hiện ở hai điểm chính là khả năng, nhận thức và quyền lực.
Trước hết, về khả năng và nhận thức. Ngay cả khoa học luật hình sự cũng

xác định tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự chủ yếu dựa vào sự phát triển tâm
sinh lý và nhận thức của con người. Cụ thể, người chưa đủ 14 tuổi, trí tuệ chưa
phát triển đầy đủ nên chưa nhận thức được tính nguy hiểm cho xã hội về hành vi
của mình, chưa đủ khả nặng tự chủ khi hành động nên họ không bị coi là có lỗi
về hành vi nguy hiểm cho xã hội mà họ thực hiện. Người từ đủ 14 tuổi trở lên
nhưng chưa đủ 16 tuổi được coi là người chưa có năng lực trách nhiệm hình sự
đầy đủ. Do đó họ cũng chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về một số tội phạm
theo quy định của pháp luật chứ không chịu trách nhiệm hình sự về tất cả các tội
phạm. Chính vì thế, đánh giá về hành vi của trẻ em cần phải gắn với trình độ
nhận thức của các em.
Ngoài ra, năng lực sử dụng ngôn ngữ và diễn đạt, trẻ em đều có một sự
thua kém rất lớn so với người trưởng thành. Trẻ em bắt đầu học nói khi khoảng
1 tuổi, và mỗi ngày, mỗi tuần, chúng học từ người lớn từng từ và ghép thành
từng câu ngắn. Tùy thuộc vào khả năng của mỗi đứa trẻ mà chúng biết nói
nhanh hay nói chậm, và biết diễn đạt sự quan sát xung quanh cũng như tình cảm,
suy nghĩ của mình. Trên cơ sở đó, trẻ em hoàn thiện khả năng hiểu biết vấn đề
và diễn đạt vấn đề. Những kỹ năng này được hình thành dần dần theo thời gian
gắn với sự đào tạo, giáo dục trong gia đình, nhà trường và xã hội.
Điểm thứ hai là quyền lực. Trẻ em luôn bị coi là ít hiểu biết và ít kinh
nghiệm sống nên tiếng nói của chúng ít được coi trọng. Từ bố mẹ, ông bà, thầy
cô giáo đến ra ngoài xã hội, người lớn luôn tỏ ra có nhiều quyền lực với trẻ em,
và người lớn luôn luôn đúng. Trẻ em không giám phản đối hoặc đi ngược lại ý
muốn của người lớn. Ngay cả về thể lực, các em non nớt và yếu hơn người lớn.
Những điểm khác biệt trên dẫn đến việc trẻ em là đối tượng dễ bị tổn
thương, dễ bị tấn công, dễ bị ảnh hưởng bởi người lớn, bị phụ thuộc và tin vào
5


người lớn. Chính vì vậy mà chúng ta thường thấy phần lớn thủ phạm của các vụ
làm hại trẻ em lại là những người lớn gần gũi những trẻ em là nạn nhân.

Thực tiễn cho thấy, trẻ em là đối tượng dễ bị tổn thương về tinh thần do
các em còn quá non nớt trong nhận thức, bởi vậy, khi đưa thông tin, viết một bài
báo về trẻ em, đặt các câu hỏi phỏng vấn, các nhà báo cần phải chú ý rất nhiều
khía cạnh, đặc biệt là sự tôn trọng nhân phẩm và quyền của trẻ em.
Tại Việt Nam, tỷ lệ thanh thiếu niên từng nghĩ đến chuyện tự tử và từng
tìm cách kết thúc cuộc sống của mình có xu hướng gia tăng. Kết quả điều tra
quốc gia về vị thành niên và thanh niên Việt Nam năm 2003 do Bộ Y tế và Tổng
cục Thống kê tiến hành cho thấy, có 3,4% thanh niên niên được hỏi cho biết
“từng có ý định tự tử”.2 Tại Hà Nội, số liệu thống kê của Bệnh viện Tâm thần
ban ngày Mai Hương cũng cho thấy, có tới hơn 10% số ca tự sát trên địa bàn
thuộc lứa tuổi thanh niên, thiếu niên.3 Trẻ tự tử do thiếu hụt các kỹ năng xã hội,
giải quyết vấn đề, song phần lớn là do chúng bị tổn thương sức khoẻ tâm thần.
Thực trạng này cho thấy cần hiểu sâu hơn, đầy đủ hơn về các suy nghĩ và hành
vi tự hủy hoại của trẻ em, các nguyên nhân thúc đẩy họ tới hành vi đó để có biện
pháp ngăn ngừa, phòng tránh.
Công ước quốc tế về quyền trẻ em còn giải thích định nghĩa “trẻ em” bằng
cách nhắc lại điều đã nêu trong Tuyên ngôn về Quyền trẻ em (năm 1959) “Trẻ
em do còn non nớt về thể chất và trí tuệ, cần phải được bảo vệ chăm sóc đặc
biệt, kể cả sự bảo vệ thích hợp về mặt pháp lý trước cũng như sau khi ra đời”.
Chính điều này là yếu tố quy định những điểm đặc thù trong việc đưa tin về trẻ
em. Nắm bắt rõ đặc điểm nhận thức và tâm lý của trẻ ở từng độ tuổi sẽ giúp nhà
báo tiếp cận dễ dàng và khai thác thông tin từ trẻ hiệu quả hơn, đồng thời, hạn
chế những lỗi tác nghiệp có thể gây tổn thương, thậm chí là gây hại cho trẻ.
1.2 Quy định của pháp luật liên quan đến tác nghiệp báo chí về trẻ em
2

Xem Điều tra Quốc gia về Vị thành niên và Thanh niên Việt Nam, Hà Nội, 2005, tr.71

3


Xem Cảnh báo về sức khỏe tâm thần trẻ em, Báo Nhân dân điện tử, ngày 28/3/2008

6


1.2.1 Mối quan hệ giữa trẻ em với báo chí
Mối quan hệ giữa trẻ em với báo chí là mối quan hệ 2 chiều. Trong nhiều
trường hợp, là mối quan hệ 3 chiều: Trẻ em - Báo chí - Người bảo hộ/người đại
diện theo pháp luật của trẻ em. Cụ thể, mối quan hệ giữa trẻ em với báo chí thể
hiện qua các mặt sau đây:
- Trẻ em là đối tượng phản ánh của báo chí. Đây là mối quan hệ phổ biến
nhất báo chí hay gặp trong mối quan hệ với trẻ em khi báo chí thực hiện chức
năng thông tin của mình. Thực tế trên các báo, đài hàng ngày, đề tài trực tiếp
hoặc gián tiếp liên quan đến trẻ em, người yếu thế luôn tràn ngập, từ các vấn đề
mặt phải, mặt tích cực như giáo dục, chăm sóc, khám chữa bệnh, vui chơi giải
trí… đến các mặt tiêu cực như trẻ em, người chưa thành niên phạm tội, người
tâm thần gây án, nhức nhối tệ nạn xã hội, gắng nặng y tế, an sinh xã hội…
- Trẻ em là đối tượng bảo vệ của báo chí. Tương ứng với các quy định
pháp luật đặc thù về trẻ em, đây cũng là những đối tượng bảo vệ của báo chí,
được báo chí quan tâm thông tin với ý nghĩa tích cực, bảo vệ. Ví dụ, báo chí lên
án nạn bạo hành trẻ em, góp phần thay đổi nhận thức hành vi của một bộ phận
phụ huynh, chính quyền và các tổ chức xã hội địa phương trong vấn đề này.
- Trẻ em, người bảo hộ/người đại diện theo pháp luật của trẻ em tác động
lại báo chí:
+ Xét ở góc độ tiêu cực, trẻ em ở đây trở thành “nạn nhân” của báo chí, bị
báo chí xâm phạm hình ảnh, đời tư, và/hoặc làm ảnh hưởng đến họ và gia đình
họ. Nội dung này sẽ được phân tích kỹ hơn thông qua các ví dụ trong phần 2.
+ Xét ở góc độ tích cực, trẻ em tác động tích cực trở lại với báo chí và nhà
báo, góp phần thay đổi nhận thức, hành vi, cách thông tin của báo chí đối với đối
tượng trẻ em.

1.2.2 Quy định của pháp luật liên quan đến phỏng vấn và khai thác thông tin
từ trẻ em
Tại Việt Nam, về quyền riêng tư, Điều 38 Hiến pháp 2013 quy định:
“Quyền bí mật đời tư của cá nhân được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ.
7


Việc thu thập, công bố thông tin, tư liệu về đời tư của cá nhân phải được người
đó đồng ý; trong trường hợp người đó đã chết, mất năng lực hành vi dân sự,
chưa đủ mười lăm tuổi thì phải được cha, mẹ, vợ, chồng, con đã thành niên hoặc
người đại diện của người đó đồng ý, trừ trường hợp thu thập, công bố thông tin,
tư liệu theo quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.”
Theo Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em (2004), “trẻ em được gia
đình, Nhà nước và xã hội tôn trọng, bảo vệ tính mạng, thân thể, nhân phẩm và
danh dự” (Điều 14), “mọi hành vi vi phạm quyền của trẻ em, làm tổn hại đến sự
phát triển bình thường của trẻ em đều bị nghiêm trị theo quy định của pháp
luật” (Điều 6). Như vậy có thể hiểu rằng, việc báo chí đưa tin gây ảnh hưởng
đến lợi ích cũng như cuộc sống của trẻ em cũng được coi là hành vi vi phạm
pháp luật.
Quyền nhân thân là một trong số các quyền cơ bản tạo nên chuẩn mực
quyền con người nói chung và quyền trẻ em nói riêng. Cả về pháp luật và đạo
đức, khi phỏng vấn, khai thác và sử thông tin về trẻ em (cả từ góc độ tích cực,
biểu dương hay tiêu cực, phê phán), nhà báo phải tôn trọng quyền nhân thân và
phải được sự đồng ý của họ và/hoặc người bảo trợ/đại diện hợp pháp của họ.
Bộ Luật Dân sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định: “Cá
nhân có quyền đối với hình ảnh của mình. Việc sử dụng hình ảnh của cá nhân
phải được người đó đồng ý hoặc thân nhân của người đó đồng ý, nếu người đó đã
chết, mất năng lực hành vi dân sự, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.”
(Điều 31). “Danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân được tôn trọng và được
pháp luật bảo vệ. Không ai được xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của

người khác.” (Điều 33). Ngoài ra, “Quyền đối với bí mật đời tư của cá nhân được
tôn trọng và được pháp luật bảo vệ. Việc thu thập, công bố thông tin, tư liệu về
đời tư của cá nhân phải được người đó đồng ý hoặc thân nhân của người đó đồng
ý, nếu người đó đã chết, mất năng lực hành vi dân sự.” (Điều 34).
Nghị định 51 hướng dẫn thi hành Luật Báo chí và Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật Báo chí nêu rõ: “Không được đăng, phát ảnh của cá nhân
8


mà không có chú thích rõ ràng hoặc làm ảnh hưởng đến uy tín, danh dự của cá
nhân đó (trừ ảnh thông tin các buổi họp công khai, sinh hoạt tập thể, các buổi
lao động, biểu diễn nghệ thuật, thể dục thể thao, những người có lệnh truy nã,
các cuộc xét xử công khai của Tòa án, những người phạm tội trong các vụ trọng
án đã bị tuyên án).” (Điều 5) Luật Báo chí cũng quy định, báo chí không được
xâm phạm bí mật đời tư. Có nghĩa là muốn thu thập, công bố thông tin, tư liệu
về đời tư của cá nhân thì phải được người đó đồng ý.
Các Luật và Công ước quốc tế cũng quy định rất rõ về quyền nhân thân,
như là một phần của quyền con người.
Điều 12, Tuyên ngôn Toàn thế giới về Quyền con người 1948 (UDHR)
quy định: “Không ai phải chịu sự can thiệp một cách tùy tiện vào cuộc sống
riêng tư, gia đình, nơi ở hoặc thư tín, cũng như bị xúc phạm danh dự hoặc uy tín
cá nhân. Mọi người đều có quyền được pháp luật bảo vệ chống lại sự can thiệp
và xâm phạm như vậy”.
Điều 17, Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị 1966 (ICCPR)
ghi rằng: “Không ai bị can thiệp một cách tùy tiện hoặc bất hợp pháp vào đời
sống riêng tư, gia đình, nhà ở, thư tín hoặc bị xâm phạm bất hợp pháp đến danh
dự và uy tín. Mọi người đều có quyền được pháp luật bảo vệ chống lại những
can thiệp hoặc xâm phạm như vậy”.
Điều 16, Công ước về Quyền trẻ em (CRC) ghi rằng: “Không trẻ em nào
phải chịu sự can thiệp tùy tiện hay bất hợp pháp vào việc riêng tư, gia đình, nhà

cửa hoặc thư tín cũng như những sự công kích bất hợp pháp vào danh dự và
thanh danh của các em. Trẻ em có quyền được pháp luật bảo vệ chống lại sự
can thiệp hay công kích như vậy”.
Nguyên tắc chung của Luật dân sự là muốn sử dụng hình ảnh cá nhân của
người nào thì phải được người đó đồng ý, trừ trường hợp vì lợi ích của nhà
nước, lợi ích công cộng hoặc pháp luật có quy định khác.
Tuy nhiên, thế nào là “vì lợi ích của nhà nước, lợi ích công cộng” hiện
chưa có quy định rõ. Đưa ảnh một trẻ em ăn trộm, móc túi để cảnh giác có phải
9


là lợi ích công cộng? Đưa ảnh một trẻ vị thành niên đang bị xét xử công khai
trước tòa cũng là vì lợi ích cộng đồng? Đưa ảnh một kẻ xâm hại tình dục chính
con, cháu mình là để răn đe, phòng ngừa chung, tức là vì lợi ích của nhà nước,
lợi ích cộng đồng? Nếu chỉ đơn thuần như thế thì báo chí đã không tính đến mức
độ ảnh hưởng đối với cuộc sống và tương lai của trẻ em.
Ngoài ra, hiện nay còn đang có một khoảng trống pháp lý với đổ tuổi từ
16-18. Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em (2004) quy định trẻ em là công
dân dưới 16 tuổi, trong khi các đối tượng phạm tội là trẻ vị thành niên (dưới 18
tuổi) đang ngày càng phổ biến. Dù công ước của Liên Hợp Quốc vẫn đồng ý với
các quy định khác của pháp luật mỗi nước, nhưng sự khác biệt này sẽ vẫn gây
tranh cãi trong việc đưa tin về trẻ em.
Chính vì quy định của pháp luật chưa cụ thể hoặc vẫn có sự khác biệt nên
các nhà báo rất nên lưu ý khi chụp ảnh và đưa tin về trẻ em. Và khi pháp luật
chưa thể điều chỉnh được hành vi này thì sẽ cần viện dẫn đến các quy tắc đạo
đức nghề nghiệp.
1.3 Đạo đức nghề nghiệp liên quan tác nghiệp báo chí về trẻ em
1.3.1 Nguyên tắc phỏng vấn trẻ em
Phỏng vấn trẻ em cần chuẩn bị kỹ càng và chu đáo bởi phỏng vấn trẻ em
không giống với phỏng vấn người lớn. Ở mỗi lứa tuổi, mỗi hoàn cảnh khác

nhau, trẻ em lại có đặc điểm tâm lý riêng. Hiểu được tâm lý trẻ sẽ giúp phóng
viên, nhà báo dễ dàng tiếp cận và khơi gợi sự chia sẻ của trẻ.
Quỹ Nhi đồng Liên hợp Quốc UNICEF đã đưa ra 6 chỉ dẫn cho nhà báo
khi phỏng vấn trẻ em.
- Không gây tổn thương cho trẻ; tránh những câu hỏi, thái độ hoặc lời
bình luận thiên kiến, thiếu tế nhị về các giá trị văn hoá, khiến trẻ lâm vào tình
thế khó xử, làm trẻ mất thể diện hoặc làm cho trẻ nhớ lại những sự kiện đau đớn.
- Khi chọn trẻ để phỏng vấn, không phân biệt giới tính, chủng tộc, độ tuổi,
tôn giáo, địa vị, học vấn hoặc thể chất của trẻ.
10


- Không dựng chuyện, không yêu cầu trẻ kể một câu chuyện hoặc thực
hiện một hành động mà không phải của trẻ.
- Đảm bảo rằng trẻ hoặc người bảo hộ của trẻ biết họ đang tiếp xúc với
nhà báo. Giải thích mục đích của cuộc phỏng vấn và mục đích sử dụng thông
tin.
- Xin phép trẻ và người bảo hộ của trẻ khi thực hiện tất cả các cuộc phỏng
vấn, quay phim. Trong một số trường hợp, lời xin phép này cần được văn bản
hoá. Cần đảm bảo rằng trẻ và người bảo hộ không bị cưỡng ép dưới bất kỳ hình
thức nào và họ hiểu rằng họ là một phần của câu chuyện sẽ được phổ biến trên
phạm vi khu vực hoặc quốc tế. Việc xin phép phải được thực hiện bằng
ngôn ngữ của trẻ và nên để trẻ có cơ hội tham vấn ý kiến của người lớn, người
mà trẻ tin tưởng.
- Chú ý tới địa điểm và cách thức phỏng vấn trẻ. Hạn chế số người phỏng
vấn và phóng viên ảnh. Hãy đảm bảo rằng trẻ được thoải mái và có thể kể câu
chuyện của mình mà không chịu bất kỳ áp lực nào từ bên ngoài, kể cả từ người
phỏng vấn.
1.3.2 Nguyên tắc đưa tin về trẻ em
Đưa tin về trẻ em có những thách thức riêng. Trong một số trường hợp,

việc đưa tin về trẻ em có thể khiến họ bị tổn thương, đẩy họ vào những tình
huống khó xử, thậm chí khiến họ bị xa lánh hoặc trả thù.
Đối với trẻ em, UNICEF đưa ra 6 nguyên tắc khi đưa tin để đảm bảo các
nhà báo phục vụ lợi ích tốt nhất của cộng đồng trong khi không xâm phạm hoặc
hạ thấp các quyền của trẻ em.
- Nhân phẩm và các quyền của trẻ em phải được tôn trọng trong mọi
trường hợp.
- Khi phỏng vấn và đưa tin về trẻ em, cần đặc biệt chú ý đến quyền riêng
tư và bí mật của trẻ, chúng cần được lắng nghe, tham gia vào các quyết định có
ảnh hưởng tới chúng và được bảo vệ trước mọi hành vi lạm dụng và trừng phạt.

11


- Lợi ích tốt nhất của mỗi trẻ em phải được ưu tiên trước bất kỳ lợi ích nào
khác.
- Trong quá trình xác định những lợi ích tốt nhất của trẻ, quyền được lắng
nghe của trẻ phải được tôn trọng phù hợp với độ tuổi và mức trưởng thành của
chúng.
- Những người hiểu rõ nhất hoàn cảnh của trẻ em và có khả năng đánh giá
chính xác nhất hoàn cảnh đó cần được tham vấn về những vấn đề chính trị, văn
hoá, xã hội khi đưa tin về trẻ em.
- Không đăng tải một câu chuyện hoặc hình ảnh có thể đưa trẻ, anh em
hoặc bạn bè của trẻ vào tình huống khó khăn hoặc nguy hiểm ngay cả khi những
yếu tố nhận dạng được thay đổi, giấu đi hoặc không được sử dụng.
Rõ ràng chúng ta cần một cái nhìn tinh tế, tỉnh táo và toàn diện hơn về diện
mạo trẻ em trên báo chí. Họ là nhóm đối tượng dễ bị tổn thương về tinh thần, vì
vậy khi phản ánh những vấn đề có tính nhạy cảm, báo chí cần thực sự chú ý tới
ngòi bút của mình.
1.4 Nguyên tắc đưa tin về trẻ em trong các bản quy tắc đạo đức nghề báo

trên thế giới
Theo khảo sát của PGS. TS Nguyễn Thị Trường Giang (Học viện Báo chí
và Tuyên truyền)4 với 100 bản quy tắc đạo đức nghề báo trên thế giới, đa số
(76/100) bản quy tắc đạo đức nghề nghiệp (Hungary, Hy Lạp, Tây Ban Nha,
Campuchia, Anh, Ba Lan, Đức, Séc, Áo, VTV Việt Nam, Italia, Hoa Kỳ, Na
Uy…) yêu cầu nhà báo phải đặc biệt tôn trọng sự riêng tư và quyền được bảo vệ
của trẻ em/vị thành niên khỏi sự can thiệp từ bên ngoài dựa trên các tiêu chuẩn
đạo đức và Công ước quốc tế về Quyền trẻ em, đồng thời cho rằng việc xâm
phạm quyền của trẻ em/vị thành niên là hành vi phạm phạm đạo đức nghiêm
trọng trong nghề báo.
4

Xem Nguyễn Thị Trường Giang: 100 bản quy tắc đạo đức nghề báo trên thế giới, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2014, tr. 35

12


Công ước quốc tế về Quyền trẻ em quy định: “Trẻ em là những người
dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp quốc gia công nhận tuổi thành niên sớm
hơn.” Hầu hết các bản quy tắc đạo đức nghề báo (Anh, Bồ Đào Nha,
Zimbabue…) đề quy định trẻ em/bị thành niên là người dưới 16 tuổi; cũng có
nước quy định là người dưới 13 tuổi (Malauy), người dưới 14 tuổi (Anbani,
Croatia), dưới 15 tuổi (Boxina và Hecdegovian, Kosovo), người dưới 18 tuổi
(Xri Lanca, Việt Nam, Bungari, Manta), người dưới 20 tuổi (hàn Quốc), có nước
còn quy định thêm là người “chưa kết hôn” (Indnesia). Có sự khác biệt này là do
việc xác định độ tuổi của trẻ em ở mỗi quốc gia còn phụ thuộc vào những điều
kiện thực tiễn cụ thể của từng quốc gia. Đó là những điều kiện về yếu tố nhân
chủng học hay những chỉ số phát triển trí tuệ, tâm sinh lý, thể lực và trí lực;
những điều kiện văn hóa hay khả năng hiểu biết, nhận thức cũng như khả năng

điều chỉnh hành vi dựa trên sự hiểu biết; những quan niệm và truyền thống về
đạo đức và pháp lý của dân tộc; và hơn hết là điều kiện kinh tế, xã hội của quốc
gia.
Quy tắc đạo đức của truyền thông Bungari yêu cầu nhà báo “không lợi
dụng sự trong sáng và lòng tin của trẻ em.” Khi xử lý các vấn đề liên quan đến
trẻ em/vị thành niên, nhà báo phải cẩn thận và có trách nhiệm bảo vệ nhân
quyền của trẻ em/vị thành niên, bao gồm việc tránh đăng tải danh tính, hình ảnh,
các chi tiết có thể xác định được danh tính, cũng như tránh làm ảnh hưởng xấu
đến sự trưởng thành của họ. Đặc biệt, tránh tiết lộ và công bố danh tính của trẻ
em/vị thành niên (cho dù là nạn nhân, nhân chứng hay bị buộc tội) có liên quan
đến các hành vi phạm tội, ngay cả khi pháp luật cho phép (Anh). Trong bất kỳ
bản tin nào về trẻ em liên quan đến tội phạm tình dục, phải chú ý để không có
nội dung nào trong bản tin nói về mối quan hệ giữa bị cáo và trẻ em (Anh,
Catalan). Không được sử dụng thuật ngữ “loạn luân” đối với trường hợp là trẻ
em. Nếu vi phạm điều này sẽ bị cáo buộ như là một hành vi phạm tội nghiêm
trọng đối với trẻ em hoặc tương đương (Anh, Síp).
13


Không được phỏng vấn hoặc chụp ảnh trẻ em/vị thành niên về các vấn đề
liên quan đến lợi ích riêng của trẻ đó hoặc trẻ khác, trừ khi có sự đồng ý của cha
mẹ hoặc người giám hộ. Trong thời gian trẻ đang ở trường học, không được tiếp
cận hoặc chụp hình. Nếu muốn tiếp cận thì phải được sự cho phép của bố mẹ
hoặc đại diện pháp lý của trẻ hoặc giáo viên chủ nhiệm và người quản lý trường
học đó. “Nếu chưa nhận được sự đồng ý khi thu thập thông tin thì khi công bố
(phát sóng) phải nhận được sự chấp thuận bằng văn bản” (Hungary). Cho dù đó
là lời nói của trẻ nhưng nếu không được sự cho phép của bố mẹ hoặc người
giám hộ theo pháp luật thì nhà báo cũng không được công bố thông tin (Ba
Lan). Khi phỏng vấn và chụp ảnh trẻ em trong tình trạng khó khăn hoặc tàn tật,
cần có sự đồng cảm và quan tâm đặc biệt. Nhà báo phải chịu trách nhiệm đạo

đức đối với hành vi xâm phạm này dù đã được đại diện pháp lý của trẻ (cha mẹ
hoặc người giám hộ) đồng ý.
Nhà báo không được phép sử dụng sự nổi tiếng, tai tiếng hay địa vị của
cha mẹ hoặc người giám hộ để biện minh cho việc công bố những chi tiết về
cuộc sống riêng tư của trẻ. Trong trường hợp vi phạm, nhà báo phải chứng minh
được việc bỏ qua lợi ích cấp thiết của trẻ là vì lợi ích của công chúng (Anh).
2. KHẢO SÁT THỰC TIỄN VIỆC ĐƯA TIN VỀ TRẺ EM
2.1 Thực trạng chung những sai phạm trong đưa tin về trẻ em
Một nghiên cứu được thực hiện năm 2013 trên 5 tờ báo điện tử hàng đầu
Việt Nam và cho kết quả, trung bình, mỗi năm có ít nhất 6.000 bài báo có nội
dung không đảm bảo sự riêng tư của trẻ em. Ngày nào cũng có bài soi mói đời
tư trẻ em trên báo.5
Trong khi đó, báo cáo “Thực thi quyền riêng tư của trẻ em tại Việt Nam”
của Trung tâm Phát triển Cộng đồng và Công tác Xã hội (Codes) công bố năm
2014 cho thấy: trên 5 tờ báo mạng điện tử được xếp vào top 50 trang web được
truy cập hàng đầu Việt Nam trong năm 2012, có 548 bài báo có nội dung không
5

Xem Thúy Ngà: Mỗi năm 6.000 bài báo vi phạm quyền trẻ em, Báo điện tử Infonet, 2013

14


bảo đảm sự riêng tư của trẻ em. Trong đó, có nhiều bài (68%) được đăng tải lại
nguyên văn trên các trang mạng khác (báo chí, truyền thông, mạng xã hội…) với
số lượng lên đến 2.692 lượt. Ngoài ra, có 62% số bài báo mô tả một cách chi tiết
hoặc mô tả chi tiết cùng với bình luận về trẻ em liên quan. Chủ đề xâm hại tình
dục chiếm tỷ lệ bài viết cao nhất (47%), tiếp đó là các chủ đề bạo hành/bạo lực
(23%) và nhân đạo - từ thiện (11%). Đáng chú ý, các em nữ là đối tượng chủ
yếu trong các bài báo này (74%); 79% số trẻ em ở vùng khó khăn như miền núi

và nông thôn; 39% số bài báo đăng ảnh của trẻ em trực diện khuôn mặt, vùng bị
tổn thương, cùng với gia đình hoặc nhà cửa/trường học; 47% số bài báo cung
cấp thông tin về bố mẹ hoặc người giám hộ. Thông tin về nơi ở của trẻ em được
cung cấp cụ thể đến địa danh xã/phường/thị trấn (30%) và đến địa chỉ rõ ràng có
thể tìm thấy được như thôn/xóm/đường (41%).
Cũng theo báo cáo của Codes, thậm chí đã xảy ra các hệ lụy và những đe
dọa cho sự an toàn của trẻ em mà báo chí đã miêu tả theo hướng không có bất
kỳ thông tin nào của các em được cho là riêng tư và cần được giữ kín. Như
trường hợp của bé gái B., nạn nhân duy nhất sống sót trong vụ giết người cướp
tiệm vàng ở Bắc Giang năm 2011.
Những số liệu thực tế này của Codes đã dẫn đến nghi ngờ rằng quá trình
thu thập thông tin và đăng bài của nhà báo đã không được sự đồng ý của các em
hoặc/và người giám hộ; hoặc vượt quá giới hạn của sự cho phép và nguồn tin,
cũng như đã nhà báo không thực hành nguyên tắc “vì lợi ích tốt nhất của trẻ
em”. Báo chí đã xâm phạm thêm một lần nữa (xâm phạm kép) nạn nhân của
những hành vi trái pháp luật (giết người, bạo hành, hiếp dâm, bắt cóc, buôn bán
người...) bằng cách đưa tin không bảo vệ sự riêng tư của trẻ em.
Nhà báo Phạm Quốc Toàn, Phó Chủ tịch Hội Nhà báo Việt Nam nhận
định: “Hiện nay, nhiều tờ báo, đặc biệt là báo mạng còn xem nhẹ việc đưa tin,
ảnh về trẻ em. Quy tắc đưa tin về trẻ em lại bị phóng viên cố tình bỏ qua đã ảnh
hưởng không nhỏ đến lối sống và nhân cách của trẻ sau này. Trách nhiệm của

15


nhà báo là phải đặt mình vào vị trí của trẻ để có những tin, bài mang tính giáo
dục cao và định hướng dư luận”.6
Trong khi đó, PGS.TS Đinh Thị Thúy Hằng, Giám đốc Trung tâm Bồi
dưỡng nghiệp vụ báo chí, nhìn nhận: “Trẻ em là đối tượng dễ tổn thương, cần
phải được tôn trọng, đặc biệt là tôn trọng nhân phẩm và quyền trẻ em. Thời gian

qua, những tin bài khai thác triệt để về những tai nạn liên quan đến trẻ như bị
hiếp dâm, hành hạ… ở một số báo mạng cho thấy đối tượng trẻ em không những
không được bảo vệ mà còn bị ngược đãi, xâm phạm”.7
TS, nhà báo Trần Bá Dung, Trưởng ban Nghiệp vụ Hội Nhà báo Việt
Nam, cho rằng báo chí Việt Nam đang vi phạm nghiêm trọng quyền riêng tư của
trẻ em. Khi mỗi ngày lướt qua hàng loạt tờ báo mạng cũng thấy những tít giật rất
sốc nói về trẻ em như “Những vụ hiếp dâm trẻ em kinh hoàng nhất”, “Tình một
đêm của những teen girl”, “Bé gái 13 tuổi bị hiếp dâm đến mang thai”… Những
bài báo này còn đăng rõ ảnh và địa chỉ của cháu bé như trong câu chuyện về bé
gái 8 tháng tuổi ở Bắc Giang bị xâm hại tình dục đã được một tờ báo đăng khá tỉ
mỉ, chi tiết. Có báo còn đăng cả ảnh cháu bé, địa chỉ gia đình.
Còn rất nhiều những vụ việc đau lòng như thế xảy ra khi các nhà báo chạy
theo thông tin. Độc giả một ngày đọc hàng chục cái tin như thế, họ có thể ngạc
nhiên, thương cảm rồi quên nhưng những nạn nhân trực tiếp của vụ việc, sống ở
một địa phương cụ thể thì sẽ không thể nào vượt qua được dư luận xung quanh
mình, cũng không thể gạt đi ý nghĩ rằng cả nước, ai cũng biết mình như thế.
Vượt qua nỗi đau này, thậm chí còn khó khăn và lâu dài hơn nhiều so với việc
các em phải phá thai hay chịu nỗi đau thể xác khi bị hiếp dâm, bạo hành.
2.2 Phân tích một số ví dụ thực tiễn
Dưới đây là một số ví dụ được coi là vi phạm đạo đức, thậm chí là pháp
luật trong đưa tin về trẻ em cùng với những phân tích cụ thể.
6

Xem Trần Tuy An: Viết về trẻ em - Cần một chữ tâm, Trang thông tin điện tử tạp chí Nghề Báo, 2013

7

Xem Trần Tuy An: Viết về trẻ em - Cần một chữ tâm, Trang thông tin điện tử tạp chí Nghề Báo, 2013

16



* Ví dụ 1:
Ngày 20/4/2015, trang điện tử của báo Công lý đăng bài có tựa đề là:
“Đồng Tháp: Vợ bỏ đi, chồng „hiếp dâm‟ cả hai con gái ruột”.
( />
- Nội dung: Đưa tin vụ việc người chồng hiếp dâm 2 con gái 10 tuổi, 7
tuổi sau khi vợ bỏ đi. Thông tin được nhà báo nêu từ nguồn công an huyện Tháp
Mười, tỉnh Đồng Tháp.
- Vi phạm: Bài báo viết tắt tên 2 nạn nhân nhưng nêu đích dân người bố
vô nhân tính cùng địa chỉ là: Nguyễn Văn Tôi (SN 1985, ngụ ấp 3, xã Đốc Binh
Kiều huyện Tháp Mười). Việc đưa địa chỉ cụ thể như vậy sẽ ảnh hưởng đến
cuộc sống của 2 bé gái sau này.
- Đề xuất cách ứng xử: Sự việc này vẫn phải nêu để xã hội lên án người
cha vô lương tâm không bằng súc vật. Tuy nhiên, tên người cha cũng chỉ nên
viết tắt và chỉ nên ghi tên huyện là được và không nên đề cập quá chi tiết, cụ thể
địa chỉ cư trú của gia đình nạn nhân.
17


* Ví dụ 2:
Ngày 25/09/2014, trang điện tử của báo Công an Nghệ An đăng tải bài
viết:

“Xung

quanh

vụ


cháu



bị

xâm

hại

trong

khách

sạn”

( />
- Nội dung: Cháu bé Nguyễn Anh Tú (SN 2000, trú tại xóm 17, xã Nghi
Phú, TP Vinh), bị tật bẩm sinh và không nói được nhưng đã nhiều lần bị một
người đàn ông lạm dụng tình dục dẫn tới phải nhập viện trong tình trạng chấn
thương cả về thể xác và tinh thần.
- Vi phạm: Không chỉ đăng tải rõ ràng tên, địa chỉ nạn nhân, tên, địa chỉ
bố mẹ nhân vật, bài báo còn đăng ảnh em Tú mà không che mặt. Việc làm này
không những không giúp ích được gì cho cháu bé mà còn ảnh hưởng nghiêm
trọng đến cuộc sống và cả tương lai của em sau này. Em sẽ đối diện ra sao với
bạn bè, hàng xóm và dư luận khi bị mang tiếng là bị một người đàn ông cưỡng

18



hiếp? Nếu như cháu bé bị gã đàn ông kia xâm hại 1 lần, thì sự thiếu đạo đức của
nhà báo lại khiến cháu bé bị dư luận xâm hại đến cả nghìn lần.
- Đề xuất cách ứng xử: Đây là một sự việc gây phẫn nộ trong dư luận, báo
chí vẫn có thể đưa tin để cảnh báo cho các gia đình. Tuy nhiên, nên thay tên
hoặc viết tắt tên nhân vật, tên bố mẹ nhân vật và không ghi chú cụ thể địa chỉ cư
trú. Ngoài, không nên sử dụng ảnh nạn nhân, nếu sử dụng thì phải làm mờ mặt
hoặc che mặt.
* Ví dụ 3:
Ngày 28/10, báo Thanh Niên onine có bài báo tựa đề: “Dồn dập trẻ bị chó
cắn nát mặt: Nguy hiểm rình rập”. ( />
- Nội dung: Bài báo không nêu một trường hợp nào cụ thể về việc chó cắn
nát mặt mà chỉ nêu quan điểm của bác sĩ trong việc dậy chó thế nào để không
cắn trẻ em và khuyên không nên đùa với chó mèo khi trẻ em đang ăn.
- Vi phạm: Bài báo sử dụng 3 ảnh cận mặt trẻ em bị chó cắn. Trong đó có
một ảnh chụp lại từ màn hình điện thoại rõ những vết cắn chỉ che đi 2 mắt trẻ. 2
ảnh còn lại làm mờ mặt nhưng vẫn thấy máu và vết khâu trông rất phản cảm.
- Đề xuất cách ứng xử: Thay ảnh khác như ảnh việc trẻ em chơi đùa với
chó để minh hoạ hoặc có thể sử dụng 3 ảnh trên nhưng phải làm mờ đi cả mặt.
19


* Ví dụ 4:
Tin “Hai nữ sinh cấp 3 rủ bạn trai đi cướp” của Truyền hình Công an nhân
dân ngày 03/8/2015 ( />
- Nội dung: Công an TP Quảng Ngãi triệt phá nhóm đối tượng vị thành
niên chuyên trộm cắp tài sản. Từ 5/2015, nhóm thiếu niên này đã thực hiện 6 vụ
trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.
- Vi phạm: Cả 3 đối tượng đều dưới 16 tuổi, tức là đều là trẻ em theo quy
định hiện hành của pháp luật Việt Nam nhưng khi đưa tin, bản tin của ANTV
vừa nêu rõ danh tính, địa chỉ, lại vừa không che mặt 3 em. Theo quy tắc về đạo

đức nghề báo, nhà báo phải tránh tiết lộ và công bố danh tính của trẻ em/vị
thành niên cho dù là nạn nhân, nhân chứng hay bị buộc tội có liên quan đến các
hành vi phạm tội, ngay cả khi pháp luật cho phép.
- Đề xuất cách ứng xử: Tin không nên nêu rõ danh tính, địa chỉ của 3 em
nhỏ. Và đặc biệt là cần làm mờ mặt các em. Bởi đến thời điểm đưa tin, cả 3 em
vẫn chưa bị tòa án kết tội là có tội mà mới chỉ bị coi là nghi can.
* Ví dụ 5:
Ngày 12/15/2013, báo Tuổi trẻ Online đăng tải clip gây chấn động dư luận
về việc bảo mẫu hành hạ trẻ em ở phường Hiệp Bình Chánh, quận Thủ Đức,
20


TPHCM. Clip này do báo Tuổi trẻ TP HCM đăng trên báo điện tử và sau đó
được

nhiều đài truyền hình lấy lại.

( />
hoi/20131217/xem-video-clip-day-doa-tre-mam-non/585764.html)

- Nội dung: Clip quay trộm tại cơ sở mầm non tư thục Phương Anh
(đường Hiệp Bình, phường Hiệp Bình Chánh, quận Thủ Đức). Sự việc diễn ra
vào cuối năm 2013, khi 2 bảo mẫu trẻ ép trẻ em ăn đến nôn trớ và có những
hành vi bạo hành như ép đầu, tát vào sườn, dốc đầu trẻ vào thùng phi nước doạ.
- Vi phạm: Hình ảnh gây phẫn nộ cho rất nhiều bà mẹ đang có con gửi
mầm non. Có quá nhiều cảnh chi tiết như trẻ bị ấn đầu vàng háng của một cô
bảo mẫu. Hình ảnh rất phản cảm nhưng lại không che mặt các cháu bé.
- Đề xuất cách ứng xử: Nên cắt bớt một phần clip với hình ảnh quá phản
cảm trong đoạn bảo mẫu ấn đầu trẻ vào háng, hoặc vẫn giữ lại những cảnh này
nhưng cần che mặt trẻ.

* Ví dụ 6:
Phóng sự “Ước mơ của người nhiễm HIV/AIDS” của kênh truyền hình
Quốc phòng Việt Nam ( />- Nội dung: Phóng sự phản ánh về cuộc đời của một người phụ nữ bị
nhiễm HIV, qua đó gửi gắm thông điệp về tâm tư, nguyện vọng cũng như những
ước mơ của người phụ nữ đó nói riêng và những người nhiễm HIV nói chung.

21


Họ mong ước xã hội bớt kỳ thị, xa lánh họ và đặc biệt là kỳ thị những người
thân của họ, dù những người thân của họ hoàn toàn là người khỏe mạnh bình
thường.

- Vi phạm: Nhà báo khi thực hiện phóng sự này đã vi phạm đạo đức nghề
nghiệp khi đưa tin về những người bị nhiễm HIV - thuộc nhóm người yếu thế vì
đưa rõ hình ảnh khuôn mặt người phụ nữ đó và thậm chí cả con của chị, dù là
được sự đồng ý của nhân vật. Bởi điều này có thể gây ra sự kỳ thị, ảnh hưởng
nghiêm trọng đến cuộc sống của người phụ nữ đó, đặc biệt là em bé.
- Đề xuất cách ứng xử: Phóng sự rất nhân văn khi muốn gửi đến công
chúng những tâm tư, ước mơ của những người bị nhiễm HIV. Tuy nhiên, khi
đưa hình ảnh của người phụ nữ bị nhiễm HIV và con của họ thì phải có hiệu ứng
làm mờ, hoặc đưa góc máy không trực diện. Ngoài ra, cũng không nên đưa danh
tính và địa chỉ cụ thể của nhân vật.
* Ví dụ 7:
Phóng sự “Những người mẹ thứ 2 của các em nhỏ có H” trong bản tin
Thời sự của kênh truyền hình Nông nghiệp Nông thôn 3NTV-VTC16 (Đài
Truyền

hình


Kỹ

thuật

số

VTC),

phát

( />22

sóng

ngày

01/12/2013.


- Nội dung: Phóng sự được thực hiện tại Trung tâm lao động - xã hội số II
(Ba Vì -Hà Nội), nói về tình cảm và sự chăm sóc tận tình, chu đáo của các cán
bộ, nhân viên tại đây dành cho các trẻ em có HIV. Phóng sự cũng cho biết, hiện
cả nước có hơn 200.000 người có H. Kiểm soát sự lây nhiễm HIV trong cộng
đồng, giảm tình trạng phân biệt, kỳ thị của xã hội đối với những người có H, đặc
biệt là đối với các em nhỏ, là mục tiêu mà ngành y tế và cả xã hội đang nỗ lực
thực hiện.
- Vi phạm: Dù rằng đây là một phóng sự có nội dung và thông điệp tích
cực, song những người thực hiện phóng sự này vừa vi phạm quy tắc đạo đức
nghề nghiệp trong đưa tin về trẻ em, vừa vi phạm quy tắc đạo đức nghề nghiệp
trong đưa tin về người có bệnh. Ngay cả khi việc ghi hình, đưa tin các em nhỏ

có H được sự đồng ý của các cán bộ tại Trung tâm, cũng là những người bảo trợ
cho các em, thì việc không che mặt các nhân vật khi phát sóng là điều khó có thể
chấp nhận. Các em cũng còn quá nhỏ để nhận thức được mức độ ảnh hưởng đối
với bản thân mình, cũng như là có biện pháp tự bảo vệ mình.
- Đề xuất cách ứng xử: Làm mờ mặt tất cả các nhân vật trẻ em trong
phóng sự, hoặc là ngay từ khi quay tiền kỳ, chỉ nên quay từ xa hoặc quay sau
lưng, quay không lộ mặt các nhân vật. Điều này trên thực thế cũng không làm
giảm đi giá trị mà thậm chí còn làm tăng tính nhân văn của phóng sự.
23


2.3 Nguyên nhân sai phạm
Việc phỏng vấn, khai thác và sử dụng thông tin từ trẻ em trên báo chí Việt
Nam nhìn chung còn khá tùy tiện, không có sự phân biệt nhiều giữa trẻ em với
nhóm người trưởng thành. Thực trạng này có thể xuất phát từ một số nguyên
nhân sau:
- Do ý thức, nhận thức và kiến thức pháp luật của phóng viên, nhà báo.
Nhiều trường hợp, nhà báo phản ánh mặt tích cực của nhóm trẻ em song không
ý thức được rằng việc này ảnh hưởng đến đối tượng phản ánh (PS: “Những
người mẹ thứ 2 của các em nhỏ có H” là một ví dụ). Bản thân nhóm trẻ em có
thể không muốn hoặc không đồng ý cho báo chí sử dụng thông tin, hình ảnh của
mình lên báo, lên truyền hình, song họ không có cơ hội để phản đối.
- Do ý thức, hiểu biết pháp luật của trẻ em và/hoặc người bảo hộ/người
đại diện của họ. Trong nhiều trường hợp, trẻ em và/hoặc người bảo hộ/người đại
diện của họ biết, cảm thấy rằng báo chí thông tin có thể sẽ gây ảnh hưởng đến
họ, nhưng họ cũng không ý thức được báo chí đang vi phạm pháp luật, phải cải
chính, xin lỗi, thậm chí có thể bị kiện ra tòa. Phần lớn các trường hợp khác thờ
ơ, ngại va chạm với báo chí nên chọn giải pháp im lặng.
- Do trẻ em không có cơ hội tiếp cận thông tin và phản hồi. Điều này rất
đúng đối với những trường hợp trẻ nhỏ, trẻ bị bệnh hay trẻ phạm tội. Thực tế

này cũng tạo điều kiện cho báo chí/nhà báo tiếp tục tác nghiệp vi phạm các
nguyên tắc đạo đức và pháp luật khi phản ánh về trẻ em.
3. KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT
3.1 Kỹ năng phỏng vấn trẻ em
Ở mỗi lứa tuổi, mỗi hoàn cảnh khác nhau, trẻ em lại có đặc điểm tâm lý
riêng. Hiểu được tâm lý trẻ sẽ giúp phóng viên dễ dàng tiếp cận và khơi gợi sự
chia sẻ của trẻ. Ví dụ, đối với những trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, các em chịu
thiệt thòi về thể xác (khiếm thính, chậm phát triển, khiếm thị… ) thường có tâm
lý tự ti, dẫn đến việc ngại giao tiếp với môi trường xung quanh. Trường hợp này
rất khó tiếp xúc vì các em thường né tránh, giữ kín sự thua thiệt của mình. Hoặc
24


×