Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

Tiểu luận Tác phẩm báo chí (Loại hình báo chí hiện đại, Xu hướng xây dựng kênh truyền hình chuyên biệt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (770.94 KB, 25 trang )

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA BÁO CHÍ

XU HƯỚNG XÂY DỰNG CÁC KÊNH CHUYÊN BIỆT
CỦA TRUYỀN HÌNH HIỆN ĐẠI

TIỂU LUẬN MÔN: CÁC LOẠI HÌNH BÁO CHÍ HIỆN ĐẠI

Hà Nội, tháng 3/2015


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ......................................................................................................................................2
1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRUYỀN HÌNH VÀ CÁC XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN
CỦA TRUYỀN HÌNH HIỆN ĐẠI ...........................................................................................4
1.1 Khái niệm truyền hình ...........................................................................................................4
1.1.1 Khái niệm truyền hình .......................................................................................................4
1.1.2 Sơ lược lịch sử ra đời và phát triển của truyền hình thế giới và Việt Nam .................4
1.2. Các ưu điểm và hạn chế của truyền hình ...........................................................................6
1.3. Xu hướng phát triển của truyền hình hiện đại ...................................................................7
1.3.1 Tích hợp các kỹ thuật và công nghệ mới .........................................................................7
1.3.2 Chuyển đổi vai trò vị thế khán giả ....................................................................................8
1.3.3 Chuyên môn hóa, phát triển các chương trình truyền hình chuyên biệt ......................9
1.3.4 Xã hội hóa về sản xuất và quảng cáo ............................................................................ 10
1.3.5 Phát triển theo xu hướng truyền hình trả tiền ............................................................... 11
1.3.6 Truyền hình thực tế - trực tiếp trên nhiều lĩnh vực ...................................................... 11
2. XU HƯỚNG CHUYÊN BIỆT HÓA NỘI DUNG CỦA TRUYỀN HÌNH HIỆN
ĐẠI ............................................................................................................................................. 12
2.1 Truyền thông chuyên biệt là gì? ........................................................................................ 12
2.2 Xu hướng phát triển của truyền thông chuyên biệt trên thế giới và tại Việt Nam ..... 13
2.3 Truyền thông chuyên biệt - một nấc thang mới trong quá trình tiếp nhận thông tin của


công chúng ................................................................................................................................. 14
3. THỰC TRẠNG ĐÁP ỨNG NHU CẦU THÔNG TIN CỦA CÔNG CHÚNG CỦA
KÊNH CHUYÊN BIỆT VTC14 ............................................................................................ 15
3.1 Tổng quan về kênh chuyên biệt VTC14 .......................................................................... 15
3.2 Các nội dung chuyên biệt về thiên tai trên kênh VTC14 ............................................... 16
3.2.1 Thông tin trong điều điện bình thường ......................................................................... 17
3.2.2 Thông tin trước thiên tai ................................................................................................. 17
3.2.3 Thông tin trong thiên tai ................................................................................................. 18
3.2.4 Thông tin sau thiên tai ..................................................................................................... 18
3.3 Thực trạng đáp ứng nhu cầu thông tin công chúng của kênh chuyên biệt VTC14 ...... 19
3.4 Một số kiến nghị nhằm nâng cao tính chuyên biệt của các chương trình trên kênh
VTC14 ........................................................................................................................................ 20
3.4.1 Xác định rõ đối tượng khán giả để tăng thêm hàm lượng, chất lượng thông tin của
các chương trình phát sóng ...................................................................................................... 20
3.4.2 Xây dựng mục tiêu và hoạt động hướng tới mục tiêu ................................................ 21
3.4.3 Đầu tư xây dựng đội ngũ phóng viên, biên tập viên ................................................... 22
KẾT LUẬN ............................................................................................................................... 23
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................................... 24
1


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Truyền hình là loại hình truyền thông đại chúng chuyển tải thông tin bằng
hình ảnh và âm thanh về một vật thể hoặc một cảnh đi xa bằng sóng vô tuyến
điện. Truyền hình xuất hiện vào đầu thế kỷ XX và phát triển với tốc độ như vũ
bão nhờ sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật và công nghệ, tạo ra một kênh thông
tin quan trọng trong đời sống xã hội. Sự ra đời của truyền hình đã góp phần làm
cho hệ thống truyền thông đại chúng càng thêm hùng mạnh, không chỉ tăng về
số lượng mà còn tăng về chất lượng, với công chúng ngày càng đông đảo. Với

những ưu thế về kỹ thuật và công nghệ, truyền hình đã làm cho cuộc sống như
được cô đọng lại, giàu thêm ý nghĩa, sáng tỏ hơn về hình thức và phong phú
hơn về nội dung.
Hiện nay, công chúng nói chung và khán giả truyền hình nói riêng đang
có xu hương chuyên môn hóa thông tin mà họ lựa chọn. Mỗi khán giả theo sự
khác biệt về giới tính, tuổi tác, học vấn, quan hệ xã hội sẽ có nhu cầu khác nhau
về thông tin. Điều này là cơ sở để các nhà truyền thông lập ra nhiều kênh
chuyên biệt nhằm khu biệt, thu nhỏ phạm vi thông tin theo yêu cầu của nhóm
nhỏ công chúng, từ đó mà đáp ứng tốt hơn và thỏa mãn nhu cầu thông tin của
nhiều nhóm công chúng nhỏ. Xây dựng các kênh chuyên biệt cũng là một trong
những xu hướng phát triển của truyền hình thế giới nói chung và truyền hình tại
Việt Nam nói riêng. Dù ra đời sau nhưng truyền hình tại Việt Nam cũng đi theo
đúng các quy luật và xu hướng của truyền hình thế giới. Chỉ trong hơn chục
năm qua đã có hàng chục kênh chuyên biệt ra đời, giúp nâng cao hiệu quả của
các thông tin đối với đối tượng chính mà chương trình hướng đến.
Là một nhà báo công tác tại một kênh truyền hình chuyên biệt (VTC14),
tôi muốn nghiên cứu sâu hơn về xu hướng phát triển này của truyền hình và qua
đó phân tích thực trạng, đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả truyền thông của
VTC14, trong bối cảnh truyền thông chuyên biệt vẫn còn là một khái niệm khá
mới mẻ tại Việt Nam.
2


2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Tiểu luận này được thực hiện nhằm tìm hiểu về những vấn đề lý luận và
thực tiễn liên quan đến xu hướng chuyên môn hóa và hình thành các kênh
chuyên biệt của truyền hình hiện đại.
Để đạt được mục đích trên, tác giả thực hiện những nhiệm vụ sau:
- Hệ thống hóa các vấn đề lý luận liên quan đến truyền hình;
- Đưa ra những dẫn chứng thực tiễn để phân tích về xu hướng chuyên

môn hóa và hình thành các kênh chuyên biệt của truyền hình hiện đại;
- Đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả truyền thông của một
kênh truyền hình chuyên biệt cụ thể.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là Kênh truyền hình chuyên biệt về
phòng chống, giảm nhẹ thiên tai, hiểm họa, phục vụ cộng đồng.
Đề tài khảo sát kênh VTC14 từ khi lên sóng (tháng 01/2010) đến nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu;
- Phương pháp phân tích, đánh giá, bình luận.
5. Ý nghĩa lý luận và giá trị thực tiễn của đề tài
- Đề tài có giá trị tham khảo về mặt lý luận tại các đơn vị truyền thông
chuyên biệt nói chung, kênh VTC14 nói riêng và các cơ sở đào tạo về báo chí
truyền thông;
- Đề tài có giá trị tham khảo về mặt thực tiễn tại các cơ quan báo chí, đặc
biệt là các đài truyền hình và công ty truyền thông tham gia liên kết sản xuất với
các đài truyền hình.
6. Kết cấu đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, đề tài gồm 3 nội dung chính:
- Lý luận chung về truyền hình và các xu hướng phát triển của truyền
hình hiện đại;
- Xu hướng chuyên biệt hóa nội dung của truyền hình hiện đại;
- Thực trạng đáp ứng nhu cầu thông tin của công chúng của kênh chuyên
biệt VTC14.
3


1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRUYỀN HÌNH VÀ CÁC XU HƯỚNG
PHÁT TRIỂN CỦA TRUYỀN HÌNH HIỆN ĐẠI
1.1 Khái niệm truyền hình

1.1.1 Khái niệm truyền hình
Trong số các kênh truyền thông đại chúng thì truyền hình là loại hình ra
đời sau và kế thừa được thế mạnh của các kênh trước đó, như báo in, phát thanh,
điện ảnh… Theo PGS. TS. Nguyễn Văn Dững, truyền hình là kênh truyền thông
truyền tải thông điệp bằng hình ảnh động với đầy đủ sắc màu vốn có từ cuộc
sống cùng với lời nói, âm nhạc, tiếng động.
Trong khi đó, PGS. TS. Dương Xuân Sơn lại định nghĩa “truyền hình”
một cách kỹ thuật hơn. Theo ông, truyền hình (television) là từ ghép, trong
tiếng Latinh, “tele” có nghĩa là “xa”, còn “vision” là nhìn, như vậy, sự kết hợp
của nó cho thấy nghĩa: nhìn từ xa. Truyền hình ra đời đánh dấu mốc quan trọng
khi mong muốn nhìn được từ xa của con người trở thành hiện thực.
1.1.2 Sơ lược lịch sử ra đời và phát triển của truyền hình thế giới và
Việt Nam
Những hệ thống truyền hình thật sự đầu tiên bắt đầu đi vào hoạt động
chính thức trong thập niên 40 của thế kỷ trước, không lâu sau khi khái niệm
“truyền hình” được sử dụng với nghĩa như chúng ta vẫn hiểu ngày nay. Ngành
truyền hình thế giới đã phải trải qua một thời gian dài phát triển mới có được
thành tựu đó.
Truyền hình có mối liên hệ mất thiết với một số loại hình truyền thống
hay nghệ thuật khác như phát thanh, điện ảnh… Tuy nhiên, chỉ sau một vài thập
kỷ sơ khai, truyền hình đã tiến hành những bước dài và thực sự tách ra khỏi các
loại hình khác, trở thành phương tiện truyền thông độc lập và có sức mạnh to
lớn trong việc tạo dựng và định hướng dư luận.
Trên thực tế, sự hình thành và phát triển của truyền hình gắn liền với các
sự kiện khoa học - công nghệ cũng như các sự kiện chính trị - xã hội khác.
Những phát minh khoa học - kỹ thuật cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX đã tạo
4


tiền đề cho truyền hình ra đời. Năm 1927, chương trình truyền hình thử nghiệm

qua dây dẫn đầu tiên được thực hiện thành công tại Mỹ, giữa hai thành phố
Washington và New York cách nhau 250 dặm. Năm 1936, lần đầu tiên trên thế
giới, đài BBC (của Anh) bắt đầu phát chương trình truyền hình đều đặn.
Cuộc Chiến tranh Thế giới lần thứ hai đã làm ngưng trệ tốc độ phát triển
của truyền hình. Mãi tới cuối những năm 40, nhất là những năm 50 của thế kỷ
XX, truyền hình mới tiếp tục có bước phát triển bùng nổ với sự đón đợi của
công chúng và thị trường. Châu Âu, châu Mỹ, nhất là Bắc Mỹ, rồi Nhật Bản là
những nơi phát triển mạnh truyền hình. Với tốc độ tăng trưởng kinh tế bình
quân 14%/năm, những năm 50 thế kỷ XX, Nhật Bản đầu tư mạnh vào công
nghệ sản xuất truyền hình màu và hiện trở thành một trong những cường quốc
về công nghệ truyền thông số.
Ở Việt Nam, truyền hình ra đời muộn. Tại miền Nam, dưới sự kiểm soát
của Mỹ - Ngụy, năm 1962, trung tâm truyền hình theo hệ FCC được xây dựng
và đi vào hoạt động năm 1966. Đến trước năm 1975, Mỹ đã đầu tư xây dựng
các đài truyền hình khu vực Cần Thơ, Nha Trang, Đà Lạt, Buôn Mê Thuột, Quy
Nhơn, Đà Nẵng và Huế.
Ở miền Bắc, ngày 07/9/1970, chương trình truyền hình thử nghiệm làn
đầu tiên được phát sóng tại 58 phố Quán Sứ, Hà Nội, do các cán bộ đài phát
thanh được cử đi đào tạo tại Cuba đảm nhiệm. Từ ngày 27/01/1971, phát thử
nghiệm ba chương trình mỗi tuần, chủ yếu trong khu vực Hà Nội. Từ ngày
05/7/1976, truyền hình Việt Nam chính thức phát sóng hàng ngày với thường
lượng 3-4 giờ/ngày. Nhiều kênh truyền hình lần lượt ra đời vào những năm 90
thế kỷ XX cùng với việc tăng thời lượng phát sóng và đầu mũ chương trình.
Đến đầu những năm 2000, VTC là đài truyền hình đầu tiên ứng dụng công nghệ
số vào truyền hình, tạo cú hích phát triển cho mạng lưới truyền hình Việt Nam.
Có thể nói VTC là đơn vị đầu tiên khởi xướng số hóa truyền hình tại Việt Nam.
Theo lộ trình số hóa truyền số mặt đất đang được triển khai, đến năm 2020 sẽ
ngừng sử dụng công nghệ truyền hình tương tự để chuyển hoàn toàn sang công
nghệ số trên toàn quốc.
5



Như vậy, có thể thấy, lịch sử phát triển của truyền hình luôn nằm trong và
cùng song hành với lịch sử tiến bộ nhân loại. Truyền hình ngày một lớn mạnh
lớn là do nhu cầu thông tin của công chúng ngày càng cao, khoa học kỹ thuật
phát triển và xuất hiện nhu cầu được giao lưu quốc tế.
Ngày nay, với sự phản ánh đa diện, ứng dụng công nghệ hiện đại, truyền
hình ngày càng thu hút được nhiều khán giả, khẳng định ưu thế vượt trội và ảnh
hưởng sâu rộng tới đời sống kinh tế, chính trị, xã hội trên khắp thế giới.
1.2 Một số thế mạnh và hạn chế của truyền hình
Trong số các kênh truyền thông đại chúng thì truyền hình là loại hình ra
đời sau và kế thừa được thế mạnh của các kênh trước đó, như báo in, phát thanh,
điện ảnh… Dù vậy, truyền hình có những thế mạnh đặc biệt mà các kênh truyền
thông khác không có được:
Thứ nhất, việc chuyển tải thông điệp bằng hình ảnh với tất cả các màu sắc
vốn có của cuộc sống, cùng với thế giới âm thanh sống động đã tạo nên tính hấp
dẫn vô song. Thế mạnh này bắt nguồn từ việc truyền hình tác động vào cả hai
giác quan quan trọng nhất của con người là thị giác và thính giác, bằng những
chất liệu sinh động, tươi mới , tạo cho người xem cảm giác như đang tiếp xúc
trực tiếp với người trong cuộc. Trong xu thế phát triển công nghệ truyền thông,
các chương trình truyền hình thực tế, truyền hình trực tiếp, truyền hình tương
tác, nhất là các sản phẩm video clip và truyền thông đa phương tiện
(multimedia)… sẽ ngày càng thu hút và có sức dẫn dẫn đặc biệt với công chúng.
Thứ hai, thông điệp trên truyền hình hấp dẫn nhưng lại rất dễ hiểu, thích
ứng cho cả nhóm công chúng, kể cả nhóm có trình độ văn hóa thấp.
Thứ ba, truyền hình có thế mạnh trong việc hướng dẫn các hoạt động, các
thao tác; đặc biệt có năng lực cổ vũ, kêu gọi hành động xã hội của đông đảo
công chúng trong một thời điểm nhất định và trên diện rộng.
Thứ tư, truyền hình là kênh truyền thông giao lưu văn hóa với nhiều ưu
thế vượt trội, nhất là qua các phóng sự tài liệu, phim ảnh, trò chơi, quảng cáo…

Song cũng như các kênh truyền thông khác, truyền hình có những hạn
chế của mình.
6


Thứ nhất, các tín hiệu truyền hình được truyền đi theo tuyến tính thời
gian, làm cho đối tượng tiếp nhận bị động hoàn toàn về tốc độ và trình tự tiếp
nhận, cũng như phải tập trung vào màn hình.
Thứ hai, muốn tiếp nhận chương trình truyền hình phải có máy thu. Với
điều kiện kinh tế, mức sống hiện nay, không phải gia đình nào cũng đủ điều
kiện mua máy thu hình, nhất là một nước nghèo như Việt Nam, nông dân và bà
con vùng sâu, vùng xa càng khó khăn hơn.
Thứ ba, chi phí sản xuất chương trình truyền hình thường rất tốn kém.
Thứ tư, tính tư liệu thấp, khó lưu giữ thông tin cho số đông, mặc dù các
điều kiện băng đia ghi hình hiện đại hơn và đã được cải thiện.
Thứ năm, tính hai mặt của truyền hình là rõ rệt. Năng lực tác động rất
mạnh mẽ, nhất là đối với lớp trẻ. Một cảnh quay, một hình ảnh trên màn hình có
thể làm đảo lộn những bài giảng đạo đức trong các nhà trường, trong khi các
chương trình truyền hình cho thanh, thiếu niên và chương trình giảng dạy trong
nhà trường chưa có sự phối hợp nhằm tạo nên sự cộng hưởng tích cực hướng tới
mục tiêu giáo dục toàn diện.
1.3. Xu hướng phát triển của truyền hình hiện đại
1.3.1 Tích hợp các kỹ thuật và công nghệ mới
Cùng với sự phát triển truyền hình thế giới, sự chuyển đổi truyền hình
tương tự sang truyền hình số là một quá trình tất yếu, và cùng với sự tiến bộ của
khoa học kỹ thuật, đem lại những tiện ích nhiều hơn, trải nghiệm tốt hơn cho
người dùng. Hiện nay có nhiều công nghệ truyền hình số như truyền hình số
mặt đất, truyền hình số vệ tinh, truyền hình cáp kỹ thuật số,… Truyền hình kỹ
thuật số có những ưu điểm vượt trội so với truyền hình analog như: khả năng
chống nhiễu cao, có khả năng phát hiện và sửa lỗi, chất lượng chương trình

trung thực, ít bị ảnh hưởng nhiễu đường truyền, tránh được hiện tượng bóng
hình thường gặp ở truyền hình analog; truyền được nhiều chương trình đồng
thời trên một kênh sóng, công nghệ truyền hình số giúp cho việc nâng cao hiệu
quả sử dụng phổ tần và tiết kiệm kinh phí đầu tư, chi phí vận hành...
7


Với công nghệ truyền hình mới này, các TV màn hình phẳng LCD và
Plasma sẽ thực sự phát huy thế mạnh của mình. Tại Việt Nam, hồi đầu năm
2009, khi đó chỉ có 2 nhà cung cấp dịch vụ truyền hình VTC và SCTV tiên
phong công bố cung cấp dịch vụ truyền hình độ nét cao HD tới công chúng. Thế
nhưng, chỉ sau 5 năm có mặt ở thị trường Việt Nam, dịch vụ truyền hình HD đã
phát triển một cách mạnh mẽ, tất cả các nhà cung cấp truyền hình trả tiền đều
cung cấp dịch vụ truyền hình HD, với số lượng kênh HD nhiều hơn trước. Nhà
đài nào ít cũng 10 - 15 kênh HD, nhiều thì lên tới 30 kênh và đặc biệt là giá cả
bình dân hơn so với giai đoạn đầu tiên có mặt trên thị trường.
Trước đây, người dùng chỉ biết đến phương thức truyền hình trên điện
thoại qua các gói dịch vụ Mobile TV, nhưng nay, với sự phát triển của
smartphone, công cuộc trang bị “truyền hình bỏ túi” trở nên đơn giản, tiết kiện
hôn, mở rộng đa dạng ra cả hình thức sử dụng 3G và wifi.

hảo sát mới nhất

của các công ty nghiên cứu thị trường cho thấy có tới 11% người dùng xem các
nội dung truyền hình trên thiết bị di động. Số liệu phản ánh xu hướng tivi hóa
điện thoại ngày càng phổ biến nhờ những tiện ích đặc biệt nó mang lại.
1.3.2 Chuyển đổi vai trò vị thế khán giả
Ngày nay, thông tin tràn ngập mọi nơi, trong khi các thiết bị số đang tạo
thuận lợi cho việc người người có thể làm báo. Truyền hình cũng như tất cả các
phương tiện truyền thông đại chúng khác đang đối mặt với một áp lực mới về

nội dung được tạo ra bởi người sử dụng, hay còn gọi là báo chí công dân - một
mảng chủ đạo trong sự phát triển của báo chí.
Truyền hình muốn có nhiều khán giả hơn thì phải tạo ra sự tham gia. Các
kênh truyền hình hiện nay đang có ngày càng nhiều hơn các chương trình mà
chất liệu thông tin hoàn toàn do khán giả cung cấp, như VTV6 với “Nút REC
của tôi”, VTC14 với “Góc nhìn khán giả”… Đây cũng là các chương trình có
tính tương tác rất cao.
Cơ hội được có mặt tại những bối cảnh, trong những thời điểm mà phóng
viên chuyên nghiệp không thể hoặc chưa thể có mặt, cùng với công cụ ghi hình
8


ngày một phổ biến đã giúp cho khán giả thay đổi vị thế của mình - từ người
“chuyên nhận”, thậm chí là “phải nhận” trở thành “người cho” và hơn nữa là
“người nắm giữ quyền cho hay không”.
Rất có thể trong một tương lai gần, phần lớn hàm lượng nội dung chương
trình truyền hình sẽ được hình thành bởi chính những người sử dụng - là khán
giả truyền hình. Và Nếu như khán giả là thành tố quan trọng tạo ra nội dung tác
phẩm phát sóng thì chính họ sẽ là người chi phối, định hướng nội dung của kênh
sóng, chương trình và ảnh hưởng tới hình thức thể hiện và cách thức thực hiện
chương trình đó.
1.3.3 Chuyên môn hóa, phát triển các chương trình truyền hình chuyên
biệt
Truyền hình chuyên biệt bao gồm nhiều kênh, mỗi kênh sẽ đáp ứng 1 nhu
cầu nhất định của 1 nhóm xã hội nhất định. Tính chuyên biệt hóa của truyền
hình sẽ góp phần quảng bá thương hiệu của kênh truyền hình đến với mọi người
dân. Xét về nội dung, các kênh truyền hình trả tiền thể hiện rõ nét tính chuyên
biệt hơn cả, phục vụ người xem trên nhiều lĩnh vực khác nhau như: thể thao
(ESPN, Star sport, Goal TV1, Goal TV2, MUTV), phim truyện (HBO,
Cinemax, Star movie, Hallmark), âm nhạc (MTV), khám phá khoa học

(Discovery, National Geo), sức khỏe (O2 TV), thông tin mua sắm
(TVShopping), thông tin thị trường ( InfoTV, VITV)… mang lại cảm giác hài
lòng cao từ phía người xem.
Có thể dễ dàng nhận thấy, truyền hình chuyên biệt có ý nghĩa quan trọng
trong việc tiết kiệm thời gian của khán giả. Sự bận rộn trong đời sống hiện đại
khiến thời gian bị phân tán, đôi khi thời lượng dành cho giải trí trở thành hiếm
hoi và có thể bị cản trở nếu thời gian biểu của họ không phù hợp với thời gian
phát sóng một chương trình họ yêu thích của một kênh tổng hợp.
Điều này không có gì hơn là sự chuyên biệt về kênh, với nội dung được
trình chiếu 24/24, đảm bảo sự linh hoạt của lựa chọn. Đồng thời do làm chuyên
sâu về một vấn đề nên các kênh chuyên biệt thật sự có điều kiện đi sâu tìm hiểu
9


thật cặn kẽ vấn đề chương trình của họ, vì thế chất lượng nội dung sâu sắc hấp
dẫn. Ngoài ra, sức hấp dẫn của truyền hình quan trọng ở hình ảnh, màu sắc, âm
thanh,… những yếu tố này đòi hỏi sự công phu trong tìm tòi và sáng tạo, mà
hầu hết các kênh chuyên biệt đều hướng tới.
Xem xét thật kĩ các kênh, chúng ta đều thấy chúng được biểu hiện một
cách đa dạng và khá tinh tế trong truyền tải nội dung thông tin cũng như giải trí.
Tất nhiên điều này có được dựa trên sự hỗ trợ của khoa học công nghệ, song
không thể thiếu sự sáng tạo đầy tài hoa của những người làm truyền hình. Chính
sự chuyên nghiệp và không lặp lại trong mỗi kênh chuyên biệt giúp chúng trở
thành những lựa chọn không thể thiếu của khán giả khi đến với truyền hình.
1.3.4 Xã hội hóa về sản xuất và quảng cáo
Dù muốn hay không thì báo chí nói chung và truyền hình nói riêng có thể
phát triển được vấn đề đầu tiên cần được giải quyết đó là nguồn kinh phí.
Truyền hình là một loại truyền thông rất tốn kém nên vấn đề trên lại càng trở
nên quan trọng. Vì thế, phải tham gia vào tiến trình xã hội hóa, trước hết là xã
hội hóa về nguồn kinh phí đầu tư cho sản xuất các chương trình, truyền hình

mới có điều kiện phát triển.
Xã hội hoá không chỉ giải quyết bài toán kinh phí mà còn giúp lôi kéo
nhiều đơn vị, tổ chức tham gia vào quá trình sản xuất chương trình, nhằm giảm
tải cho nhà Đài cũng như tạo ra hiệu quả tốt nhất cho các chương trình truyền
hình. Hơn nữa, xã hội hoá sẽ xoá bỏ sự độc quyền của các Đài truyền hình trong
sự áp đặt về mức khoán và các chi phí đầu tư. Để có đủ điều kiện đầu tư cho
phát triển, đa dạng hóa các nguồn thu, xã hội hóa về mặt kinh phí là một xu thế
tất yếu đối với truyền hình trong những năm tới, thể hiện qua các hình thức:
- Xã hội hóa thông tin: Chính là việc chúng ta tiếp nhận và phát sóng
những thông tin hữu ích cho khán giả, xuất phát từ nhiều nguồn khác nhau chứ
không phải chỉ từ góc nhìn của nhà đài.
- Xã hội hóa về sản xuất chương trình truyền hình (thực chất là tư nhân
hóa): Đó là trong các khâu sản xuất, hình thành tác phẩm của một chương trình
10


truyền hình có sự tham của một hoặc nhiều đơn vị, cơ quan không liên quan đến
nhà Đài. Những chương trình được khán giả yêu thích cũng đều được sản xuất
bởi các công ty tư nhân như: Viet Nam Idol, Vietnam’s Next Top Model, The
Voice, Bước nhảy hoàn vũ, Gương mặt thân quen…
- Xã hội hóa kênh truyền hình: với danh nghĩa xã hội hóa truyền hình,
đang ngày càng có nhiều kênh truyền hình do các đơn vị tư nhân thực hiện toàn
bộ nội dung, như: InfoTV, D-Drama, HTV2, HTV3, YanTV, VTC7, VTC9…
1.3.5 Phát triển theo xu hướng truyền hình trả tiền
Dịch vụ truyền hình trả tiền hay còn gọi là PayTV đã xuất hiện trên thế
giới từ năm 1948, tuy nhiên trong vòng hơn chục năm gần đây PayTV mới
chính thức có mặt tại Việt Nam. Truyền hình trả tiền ngày càng phát triển đáp
ứng nhu cầu của người xem là muốn gì xem đó chứ không còn là truyền hình
phát gì thì xem đó nữa. Qua việc thu phí từ người dân, truyền hình sẽ có sự
thanh lọc tốt. Những kênh hay, chuyên mục hấp dẫn sẽ được chọn lọc và phát

triển, trong khi những kênh kém, nhàm chán sẽ bị triệt tiêu nếu không cải tiến.
Về lý thuyết, tại bất kì nơi nào ở Việt Nam, người dân cũng có thể được
cung cấp dịch vụ truyền hình trả tiền bằng các công nghệ truyền dẫn khác nhau.
Tuy nhiên, trên thực tế, dịch vụ truyền hình trả tiền mới chủ yếu phục vụ cư dân
thành thị. Với sự thâm nhập ngày càng nhiều của các “đại gia” viễn thông vào
thị trường truyền hình trả tiền (như FPT, Viettel, An Viên…) sẽ hứa hẹn một
cuộc đua về cả chất lượng và giá cả dành cho dịch vụ truyền hình này, đồng thời
người dân không chỉ riêng ở thành thị mà cả ở những vùng nông thôn cũng sẽ
được sử dụng một dịch vụ truyền hình có chất lượng cao với giá cả hợp lí.
1.3.6 Truyền hình thực tế - trực tiếp trên nhiều lĩnh vực
Trong mấy năm qua, gameshow truyền hình thực tế bùng nổ mạnh mẽ ở
Việt Nam, có thể kể đến: Cuộc đua kỳ thú, Lữ khách 24h, Bố ơi mình đi đâu
thế… Thực chất gameshow hay chương trình nào khác cũng có hai mặt: cho
cộng đồng thì là món ăn tinh thần, cho các doanh nghiệp là quảng bá hình ảnh,
thương hiệu nhằm thu lợi nhuận. Còn xét chung về ý nghĩa xã hội thì các
chương trình nghe nhìn thực sự tham gia thúc đẩy sự phát triển cả về nhận thức
lẫn thúc đẩy kinh tế.
11


Tuy nhiên cái gì quá cũng đều không tốt, quá nhiều gameshow thì cộng
đồng sẽ bị no quá, bị ngán quá. Và khủng hoảng thừa, hiệu ứng phản cảm chán
chường là hậu quả khó tránh khỏi. Thêm vào đó là sự thiếu chuyên nghiệp trong
khâu chuẩn bị, tổ chức, quản lí và sản xuất chương trình dẫn đến những điều
tiếng không hay cho nhiều đối tượng liên quan.
Đặc biệt, một chương trình thực tế - tuy nhiên không phải là một
gameshow hay một trò giải trí, mà đó là những chương trình mang tính thời sự breaking news, đưa tin trực tiếp từ hiện trường, không theo khung phát sóng hay
kịch bản lại đang rất thiếu tại Việt Nam, dù truyền hình phương Tây rất chuộng
hình thức này. Tận dụng những lợi thế của truyền hình thực tế và rút kinh
nghiệm từ những chương trình đã tổ chức thì chắc chắn chương trình thực tế sẽ

lấy lại được lòng tin của khán giả.
2. XU HƯỚNG CHUYÊN BIỆT HÓA NỘI DUNG CỦA TRUYỀN
HÌNH HIỆN ĐẠI
2.1 Truyền thông chuyên biệt là gì?
Sự tăng tốc của nền kinh tế trên thế giới, sự giao lưu hợp tác mạnh mẽ về
văn hóa, tiến bộ của khoa học kĩ thuật… tất cả đã tạo thành một lực đẩy buộc
các cá nhân trong xã hội cũng phải tăng tốc. Tin tức mới liên tục đến buộc công
chúng cũng phải liên tục kiểm tra lại tin tức và tư liệu hình ảnh của bản thân với
tốc độ cũng ngày một nhanh hơn. Tin tức cũ bị lãng quên, hình ảnh cũ bị thay
thế, điều này không chỉ tạo ra áp lực cho đối tượng tiếp nhận mà còn rút ngắn
tuổi thọ của tin tức. Công chúng dần hình thành nhu cầu về một mô thức truyền
tin khác mà ở đó vai trò của công chúng được nâng cao và chủ động hơn. Nhu
cầu ấy chính là cơ sở cho xu hướng phi đại chúng hóa truyền thông đại chúng,
cũng như chuyên biệt hóa, khu biệt hóa nội dung thông tin.
Truyền thông chuyên biệt được hiểu là kênh truyền hình/ kênh phát thanh
dành riêng cho một nhóm công chúng nào đó (phân chia theo đặc điểm của
khán giả với tiêu chí về lứa tuổi, giới tính, khu vực…) hoặc chuyên sâu về một
lĩnh vực nào đó.
12


2.2 Xu hướng phát triển của truyền thông chuyên biệt trên thế giới
và tại Việt Nam
Truyền hình chuyên biệt trên thế giới được biết đến với sự mở đầu của
HBO (viết tắt của Home Box Office). Hiện HBO có hơn 57 triệu thuê bao phủ
sóng trên toàn thế giới, trong đó có Việt Nam. HBO thu hút khán giả bằng chiêu
thức bằng những bộ phim ăn khách nhất nhờ có những hợp đồng phân phối độc
quyền phim của các hãng sản xuất nổi tiếng nhất thế giới. Năm 1979, kênh
truyền hình chuyên biệt về thể thao ESPN ra đời với thời lượng phát sóng 24
giờ mỗi ngày. Đến thập niên 90, kênh MTV (Music Television hay Kênh truyền

hình âm nhạc) đã trở nên nổi tiếng nhờ tập trung vào những đối tượng trẻ yêu
âm nhạc. Sau đó kênh truyền hình chuyên biệt dành cho nhóm công chúng từ 13
- 24 tuổi, Disney Channel ra đời, và sau này là nhiều kênh khác nữa.
Tại Việt Nam, dấu mốc của kênh truyền thông chuyên biệt bắt đầu từ năm
2000 với việc phát triển các kênh truyền hình trả tiền của Trung tâm dịch vụ kĩ
thuật truyền hình cáp (thuộc Đài Truyền hình Việt Nam). Tháng 3 năm 2007,
khán giả thuộc giới doanh nghiệp, nhà đầu tư hoạt động tài chính ngân hàng và
chứng khoán Việt Nam có một kênh truyền hình riêng, kênh InfoTV - VCTV9.
Tháng 4/2007 kênh dành cho thanh thiếu niên VTV6 ra mắt, sau đó là kênh
VTV9 mang đậm chất Nam bộ phục vụ khán giả vùng Đông Nam bộ và bắc
sông Hậu. Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC gần đây cũng cho ra đời nhiều
kênh chuyên biệt như VTC14 - phòng chống thiên tai, hiểm họa, phục vụ cộng
đồng; hay VTC16 - nông nghiệp, nông thôn.
Quá trình chuyên biệt hóa truyền hình giúp thiết lập những chương trình
chuyên sâu vào một lĩnh vực hoặc dành cho một nhóm đối tượng, giúp công
chúng có thể dễ dàng lựa chọn những nội dung phù hợp và thụ hưởng những giá
trị thông tin sâu sắc hơn. Thay vì công chúng phải tìm kiếm các nguồn thông tin
và gặp phải những trở ngại do hạn chế về cơ hội tiếp cận (do yếu tố kỹ thuật
hoặc điều kiện cá nhân), sự ra đời của các kênh truyền thông chuyên biệt được
coi là nấc thang mới trong việc thỏa mãn nhu cầu thông tin của công chúng khi
đưa tới cho họ “điều họ muốn” và “theo cách họ muốn”.
13


2.3 Truyền thông chuyên biệt - nấc thang mới trong quá trình tiếp
nhận thông tin của công chúng
Cùng với sự phát triển của các loại hình phương tiện truyền thông đại
chúng mới ứng dụng công nghệ hiện đại, công chúng truyền thông đại chúng
cũng có những đặc điểm mới, tương đối khác biệt so với những quan niệm
truyền thống về công chúng truyền thông đại chúng. Có thể so sánh như sau:

Công chúng TTÐC hiện đại

Công chúng TTÐC truyền thống
Cá nhân nặc danh

Ðề cao, khẳng định “cái tôi”

hông đồng nhất, bao gồm nhiều giới, Bao gồm nhiều giới và tầng lớp nhưng
tầng lớp khác nhau

đã có một số đặc điểm tương đồng

Ðộc lập nhau xét về mặt không gian, Tập hợp thành nhóm trong một thế
không ai biết ai

giới “ảo”

Không có hình thức tổ chức hoặc nếu Tuy hình thức tổ chức cũng chỉ là
có thì rất lỏng lẻo, khó có thể tiến hành tương đối trong một thế giới ảo nhưng
một hoạt động chung và hiếm có khả có khả năng tương tác cao
năng tương tác
Mức độ ý thức chung không cao

Mức độ ý thức chung tương đối cao
nhưng không kéo dài và thường bị chi
phối bởi tính cá nhân

Thụ động trong quá trình truyền thông

Chủ động lựa chọn thông tin và

phương tiện truyền thông

Thường chỉ tiếp nhận thông tin, có Tiếp nhận, phản hồi và phát tán thông
phản hồi nhưng tần suất không cao

tin

Mối quan hệ giữa truyền thông và công chúng không còn theo cách hiểu
truyền thống là mối quan hệ giữa người truyền thông điệp và người tiếp nhận
thông điệp. Công chúng không chỉ là người tiếp nhận và chịu tác động của
truyền thông nữa. Họ đã trở thành đối tượng phục vụ của truyền thông đại

14


chúng, là người tiêu thụ, những khách hàng khó tính muốn lựa chọn “sản phẩm
truyền thông” theo nhu cầu, sở thích, mối quan tâm của mình.
Thêm nữa, cùng với ý thức cân đối và chọn lọc nội dung thông tin muốn
tiếp nhận, công chúng cũng chủ động hơn trong việc quyết định thời gian và địa
điểm tiếp nhận. Điều này đòi hỏi các nhà truyền thông phải có sự thay đổi linh
hoạt hơn trong việc tìm ra nhiều phương thức mới để tiếp cận với công chúng. Đó
cũng là lý do mà truyền hình ngày nay nở rộ các kênh có độ phân lọc nội dung
theo đối tượng xem, nói cách khác là kênh chuyên biệt: kênh dành cho giới trẻ,
kênh dành cho nông dân, kênh âm nhạc, kênh sức khỏe, kênh văn hóa…
3. THỰC TRẠNG ĐÁP ỨNG NHU CẦU THÔNG TIN CỦA CÔNG
CHÚNG CỦA KÊNH CHUYÊN BIỆT VTC14
3.1 Tổng quan về Kênh chuyên biệt VTC14
Kênh VTC14 lên sóng chính thức từ ngày 01/01/2010, nằm trong hệ
thống kênh sóng của Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC. Đây là lần đầu tiên ở
Việt Nam có một kênh truyền hình chuyên biệt về môi trường, thời tiết, phòng

chống và giảm nhẹ thiên tai, hiểm họa, giao thông, sức khỏe… được phát quảng
bá để phục vụ cộng đồng.
VTC14 đang sản xuất, phát sóng gần 30 đầu mũ chương trình, nổi bật là 8
bản tin thời tiết/ngày cùng nhiều bản tin thời sự, cập nhật liên tục các thông tin
của đời sống một cách gần gũi và dễ tiếp cận. VTC14 được truyền dẫn trên
nhiều hạ tầng: kỹ thuật số mặt đất, kỹ thuật số qua vệ tinh, truyền hình cáp kỹ
thuật số tại Hà Nội và TP HCM…
Theo Thông tư số 09/2012/TT-BTTTT của Bộ Thông tin và Truyền
thông, VTC14 được Chính phủ xác định là một trong 10 kênh truyền hình thiết
yếu của quốc gia, phục vụ hoạt động thông tin truyền thông, đáp ứng nhu cầu
thông tin của nhân dân cả nước.
Việt Nam là 1 trong 5 ổ bão lớn của thế giới, hàng năm phải đối mặt với
hàng loạt thiên tai xảy ra, đồng thời là một trong 5 quốc gia chịu ảnh hưởng
nặng nề nhất bởi biến đổi khí hậu. Những đợt thiên tai không còn theo quy luật
15


thông thường mà thường xảy ra bất ngờ, gây thiệt hại nghiêm trọng cho người
dân. Theo số liệu của Ngân hàng Thế giới (WB), trong giai đoạn 1989 - 2008,
thiên tai gây ra thiệt hại kinh tế trung bình hàng năm ước khoảng 1 - 1,5%. Chỉ
riêng bão lũ mỗi năm đã làm chết khoảng 500 người, thiệt hại vật chất hơn 1 tỷ
USD, và con số này đang có xu hướng gia tăng.
Trong khi đó, những năm vừa qua, người dân không được thông tin đầy
đủ về tình hình tác động nghiêm trọng của các vấn đề thiên tai, thảm họa để có
biện pháp phòng ngừa, bảo vệ bản thân. Dù nhu cầu thông tin của người dân
cũng như của các cơ quan quản lý nhà nước đối với vấn đề này ngày càng trở
nên cấp thiết, và dù số lượng các cơ quan thông tấn, báo chí ở Việt Nam thời
gian qua phát triển khá nhanh, song hiệu quả truyền thông chưa được như mong
muốn, khi vẫn chưa có một kênh truyền thông chuyên biệt nào về vấn đề này,
do những giới hạn về thời lượng và mức độ đầu tư.

Trong bối cảnh đó,

ênh VTC14 ra đời và được xác định sứ mệnh tiên

phong trong việc phục vụ lợi ích của cộng đồng, đặc biệt là đối với cộng đồng
dân cư thuộc nhóm dễ bị tổn thương.
3.2 Các nội dung chuyên biệt về thiên tai trên Kênh VTC14
VTC14 là kênh truyền hình duy nhất ở Việt Nam được Chính phủ giao
trách nhiệm sản xuất các chương trình chuyên biệt về phòng chống và giảm nhẹ
thiên tai, hiểm họa phục vụ cộng đồng. Là một kênh trong hệ thống các kênh
truyền hình của Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC, kênh VTC14 được triển khai
trên cơ sở hệ thống trang thiết bị kỹ thuật số và công nghệ số tiên tiến, hiện đại
của VTC, đảm bảo duy trì phát sóng ổn định, có tính định kỳ trên toàn quốc,
đáp ứng được nhu cầu của người xem về thông tin thời tiết, môi trường, dịch
bệnh, an toàn giao thông... một cách kịp thời và chính xác. Sau 5 năm phát sóng,
VTC14 đã và đang trở thành một kênh truyền thông hiệu quả nhằm thông tin
kịp thời tới người dân, giúp trang bị cho người dân những kiến thức và kỹ năng
cần thiết để đối phó với các tình huống khẩn cấp nhằm giảm thiểu rủi ro, thiệt
hại do thiên tai, hiểm họa gây ra.
16


3.2.1 Thông tin trong điều kiện bình thường
Đối phó với thiên tai không chỉ là chống chọi khi nó đến và khắc phục
khi nó đi qua, mà là làm trước mọi công việc chuẩn bị để không gây thiệt hại
lớn. Trên thực tế, nhiều quốc gia trên thế giới đã đúc kết kinh nghiệm: “Chi một
đồng phòng tránh thiên tai sẽ tiết kiệm bảy đồng khắc phục”. Vì thế, ngoài gần
10 bản tin thời tiết phát sóng liên tục trong ngày, được phân chia theo các lĩnh
vực như: tổng hợp, nông vụ, đô thị, biển đảo, du lịch…, VTC14 còn sản xuất và
phát sóng đều đặn các chương trình như: Sống chung với lũ, 4 tại chỗ, Thiên

nhiên nổi giận, Thử thách khắc nghiệt, Tri thức người xưa, Nhận biết hiểm
họa... Đây là những chương trình phổ biến kiến thức về nguyên nhân, cơ chế
hình thành, dấu hiệu nhận biết, kỹ năng phòng tránh các loại hình thiên tai phổ
biến cũng như cực đoan, qua đó, trang bị cho cộng đồng kỹ năng phòng chống,
ứng phó, xử lý tình huống trong từng loại hình thiên tai cụ thể, nhằm chuyển từ
bị động đối phó sang chủ động phòng ngừa.
3.2.2 Thông tin trước thiên tai
Trước khi thiên tai xảy đến, nếu như Trung tâm Dự báo

hí tượng Thủy

văn Trung ương đóng vai trò như “nhà cung cấp” tin thời tiết, thì các kênh
truyền thông như VTC14 đóng vai trò của “nhà sản xuất và phân phối” các bản
tin thời tiết, chuyển đổi những sản phẩm “thô” với các thuật ngữ chuyên môn
của cơ quan dự báo thành các bản tin thời tiết với các từ ngữ thông dụng, dễ
hiểu để phổ cập tới cộng đồng. Với nhiệm vụ đưa tin cảnh báo, cơ quan truyền
thông như VTC14 phải diễn đạt thông tin một cách chính xác, theo hướng rõ
ràng và dễ tiếp cận nhất, sao cho công chúng có thể hiểu và sử dụng được.
Trước nguy cơ một loại hình thiên tai nào đó có thể xảy ra, cộng đồng cần
có thông tin đầy đủ về loại thiên tai đó để không bị hoang mang, lúng túng và
tránh gây ra tình trạng hỗn loạn, nhất là ở những vùng sâu, vùng xa nơi người
dân có ít thông tin và vẫn còn bị ảnh hưởng bởi các quan niệm mê tín dị đoan.
Lúc này, bên cạnh liên tục phát tin cảnh báo, VTC14 còn tập trung hướng dẫn
kỹ năng ứng phó và khắc phục hậu quả các sự cố thiên tai cho người dân.
17


3.2.3 Thông tin trong thiên tai
hi thiên tai (như bão, lũ) xảy đến, VTC14 sẽ lên sóng trực tiếp các bản
tin đặc biệt với tần suất dày đặc (1 tiếng/1 bản tin), cập nhật thông tin từ vùng

thiên tai theo thời gian thực, giúp người xem biết rõ họ đang trong hoàn cảnh
như thế nào, khi nào thì thiên tai chấm dứt, họ cần phải làm gì trong hoàn cảnh
đó, công tác hỗ trợ đang được tiến hành ra sao…
Trên thực tế, mỗi khi thiên tai xảy ra, người dân thường quá hoang mang
nên không đủ tỉnh táo để có cách ứng phó phù hợp và tự bảo vệ mình. Không
phải tất cả những hiện tượng thiên tai như: bão lụt, hạn hán, núi lửa hay động
đất đều dẫn đến thảm họa. Thảm họa chỉ xảy ra nếu cộng đồng hoặc dân cư gặp
phải thiên tai không được cảnh báo kịp thời, không được hướng dẫn kỹ năng đối
phó hoặc không đủ năng lực đương đầu với những ảnh hưởng của nó. Một trận
mưa lớn ở giữa biển sẽ không gây ra thảm họa, nhưng cũng lượng mưa rất lớn
đó ở một khu dân cư, nhất là khu dân cư miền núi, lại có thể dẫn đến lở đất và
gây thiệt hại lớn về người và tài sản.
Ngoài ra, thông qua các chương trình của VTC14, các nạn nhân có hoàn
cảnh đặc biệt, những nhóm người cần giúp đỡ khẩn cấp trong thiên tai sẽ được
cơ quan chức năng và cộng đồng biết đến và hỗ trợ kịp thời.
3.2.4 Thông tin sau thiên tai
Sau thiên tai, việc giữ gìn vệ sinh môi trường, phòng chống dịch bệnh và
khôi phục sản xuất đóng vai trò quan trọng. Lúc này, các chương trình của
VTC14 có nhiệm vụ cung cấp thông tin và hướng dẫn giải pháp để các cộng
đồng vừa chịu tác động bởi thiên tai sớm phục hồi.
Việc khắc phục hậu quả thiên tai cũng đòi hỏi thời gian dài và nguồn lực
tài chính lớn, nhất là ở những vùng khó khăn và sau những đợt thiên tai có sức
tàn phá lớn. Truyền thông sẽ trở thành cầu nối giữa các nạn nhân cần giúp đỡ
với cơ quan chức năng và nhà hảo tâm.
Ngoài ra, sau thiên tai, tình hình thường trở nên rối loạn. Đặc biệt, khi đó
khả năng chống chọi và phục hồi của cộng đồng đã bị suy giảm, khiến sự cảnh
18


giác, đề phòng giảm đi. Lúc này, nếu thiên tai tiếp tục xảy ra, người dân không

được cảnh báo kịp thời thì hậu quả và thiệt hại sẽ nặng nề hơn. Vì vậy, trong lúc
này, người dân rất cần được thông tin đầy đủ về các diễn biến không có lợi của
tình hình thời tiết.
3.3 Thực trạng đáp ứng nhu cầu thông tin của công chúng của kênh
chuyên biệt VTC14
Năm 2010, lần đầu tiên trên sóng truyền hình của Việt Nam, xuất hiện
một kênh truyền hình chuyên biệt về môi trường, thời tiết, phòng chống và giảm
nhẹ thiên tai, hiểm họa phục vụ cộng đồng. Tuy còn là một kênh truyền hình
non trẻ, thiếu thốn về mọi mặt, nhưng VTC14 đã bước đầu định hình được vị trí
là một kênh chuyên biệt trong hệ thống truyền hình của Việt Nam. VTC14 cũng
được Chính phủ xác định là một trong 10 kênh chương trình truyền hình trong
nước phục vụ nhiệm vụ chính trị, thông tin tuyên truyền thiết yếu của quốc gia.
Các chương trình của VTC14 về mảng đề tài bảo vệ môi trường, phòng
chống thiên tai, hiểm hoạ vừa đảm bảo tính thời sự và tính chuyên sâu đã giúp
công chúng vừa nắm bắt được các thông tin kịp thời về tình hình thiên tai thời
tiết đang diễn ra để từ đó có những phản ứng và hành động phòng ngừa nhanh
chóng, đồng thời, các chương trình chuyên đề đã hướng dẫn các kỹ năng và kiến
thức cần thiết để người dân tự nâng cao nhận thức của chính mình, từ đó thay
đổi hành vi, thói quen của cộng đồng theo hướng tích cực hơn.
Thống kê hàng tháng của Công ty TNS Việt Nam - một trong số những
đơn vị thực hiện đo chỉ số khán giả có uy tín, thuộc tập đoàn antar Media, Anh
Quốc - cho thấy, chỉ số khán giả của VTC14 đang phát triển đều đặn. Trong số
hơn 100 kênh truyền hình tại Việt Nam, VTC14 xếp thứ 9 tại địa bàn Hà Nội và
thứ 11 tại TP Hồ Chí Minh. Đây là một kết quả rất đáng ghi nhận với một kênh
truyền hình chuyên biệt về phòng chống thiên tai hiểm họa, phục vụ cộng đồng,
trong bối cảnh thị trường nội dung truyền hình đang cạnh tranh khốc liệt và
VTC14 vẫn chưa được tiếp phát trên hai hệ thống truyền dẫn analog lớn nhất
Việt Nam là VTVcab và SCTV. Dù vậy, chỉ số rating của VTC14 vẫn đạt mốc
2.5 tại Hà Nội và 2.0 tại TP Hồ Chí Minh - là mức chỉ số khán giả cao nhất
trong tất cả các kênh do Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC sản xuất, phát sóng.

19


3.4 Một số kiến nghị nhằm nâng cao tính chuyên biệt của các chương
trình trên Kênh VTC14
3.4.1 Xác định rõ đối tượng khán giả để tăng thêm hàm lượng, chất
lượng thông tin của các chương trình phát sóng
Hiểu rõ công chúng của mình là yêu cầu đầu tiên mà các nhà truyền
thông cần chuẩn bị trước khi thực hiện một kênh truyền thông chuyên biệt. Dù
vẫn biết công chúng là một khối cá thể ẩn danh, nhưng ưu thế của nhà truyền
thông chuyên biệt là họ có được những thông tin cơ bản và nền tàng về chân
dung công chúng của mình nhờ vào việc khu biệt nội dung hay đối tượng dự
định hướng tới ngay từ đầu. Sau khi có chân dung dự đoán về công chúng, nhà
truyền thông có thể tiến hành một cuộc điều tra xã hội học, giúp đo lường lại
những giả định ban đầu xem có phù hợp không và qua đó có thêm được các
thông tin thực về công chúng cũng như tiếp cận được những mong muốn, hy
vọng của họ đối với kênh.
VTC14 là một kênh truyền hình có phạm vi phủ sóng toàn quốc, khán giả
mục tiêu là người Việt Nam, đặc biệt là lớp khán giả từ độ tuổi 25 trở lên. Đây
là đối tượng khán giả quan tâm đến thông tin thời sự có chiều sâu, đồng thời là
những người quan tâm chất lượng cuộc sống theo hướng bền vững. Nhóm khán
giả này cũng có sự nhạy bén nhất định với thông tin, đồng thời có nền tảng kiến
thức nhất định để phản biện vấn đề.
Ngoài ra, nhóm đối tượng gián tiếp mà VTC14 hướng tới là những nhà
quản lý, nhà làm chính sách - những người có thể tác động hoặc thúc đẩy việc
xây dựng hoặc thay đổi các khung chính sách theo hướng phục vụ tốt hơn cho
đời sống dân sinh. Việc cân bằng giữa nhóm khán giả mục tiêu và gián tiếp
hoàn toàn không mâu thuẫn với nhau, mà có mối quan hệ hữu cơ, khăng khít, bổ
trợ lẫn nhau. Vì vậy, các chương trình trên VTC14 cần được thiết kế để phù hợp
với nhu cầu và đặc điểm tiếp nhận thông tin của lớp khán giả này.

Khi bất kỳ tổ chức, cá nhân nào muốn nắm bắt, tiếp thu ý kiến dư luận thì
việc đầu tiên là tiến hành điều tra xã hội học. Tuy nhiên, theo khảo sát của
chúng tôi, đến thời điểm này VTC14 chưa từng tiến hành một cuộc điều tra nào
như thế.
20


3.4.2 Xây dựng mục tiêu và hoạt động hướng tới mục tiêu
Từ khảo sát thực tế một số hạn chế và nguyên nhân của các hạn chế đó
trong hiệu quả truyền thông của VTC14 những năm qua, chúng tôi đề xuất một
số mục tiêu cụ thể mà VTC14 cần đạt được và các biện pháp để đạt được mục
tiêu đó, bao gồm:
- Đa dạng về hạ tầng truyền dẫn và phương thức tiếp cận bằng việc đưa
VTC14 vào hệ thống các kênh của VTVcab và SCTV (tại khu vực phía Nam)
cũng như tích hợp vào các ứng dụng di động. Đây cũng là cơ sở quan trọng để
tăng chỉ số khán giả tại hai thị trường lớn nhất và cũng là thị trường mục tiêu
của hầu hết các kênh truyền hình hiện nay, đó là Hà Nội và TP Hồ Chí Minh.
Cùng với đó, VTC14 cần tăng cường truyền thông, quảng bá về kênh và các
chương trình đặc sắc của kênh, bởi ngày nay, các chương trình truyền hình cũng
được coi là các sản phẩm thương mại, nếu được quảng cáo tốt thì sẽ có nhiều
người biết đến và lựa chọn. VTC14 cần hướng đến xây dựng các chương trình
đảm bảo các yếu tố “cần xem, phải xem” và “thích xem”. Ngoài ra, việc mở
rộng “thương hiệu” VTC14 không thể không tính đến các giải pháp tác động
đến dư luận xã hội như: xây dựng bộ nhận diện thương hiệu đồng bộ, xây dựng
fanpage, mobiapp cho phép xem VTC14 mọi lúc, mọi nơi…
- Đổi mới nội dung và hình thức thể hiện, tạo bản sắc riêng cho các
chương trình để trở thành lựa chọn đầu tiên của người dân khi có nhu cầu
thông tin về thời tiết, thiên tai và các kỹ năng phòng tránh, giảm nhẹ thiệt hại.
Ngoài ra, VTC14 cần trang bị và ứng dụng thêm các công nghệ cho phép tăng
hàm lượng thông tin theo thời gian thực (tường thuật trực tiếp được từ mọi địa

điểm bằng công nghệ 3G) và tăng tính tương tác với khán giả, nhất là khi thiên
tai xảy ra. Điều này sẽ góp phần hình thành ở khán giả suy nghĩ và thói quen
xem truyền hình: muốn xem thông tin về thiên tai thì phải bật kênh VTC14.
- Là đối tác truyền thông chính thức của các cơ quan, tổ chức trong các
sự kiện, hoạt động liên quan đến môi trường, thời tiết, hiểm họa… Với vai trò là
cơ quan báo chí, VTC14 có thể hỗ trợ truyền thông cho các sự kiện, đồng thời,
21


thường xuyên phối hợp với các bộ, ngành xây dựng các chương trình truyền
thông định kỳ (theo tháng, quý, năm) trong lĩnh vực và chuyên ngành mà cơ
quan đó dang quản lý. Ví dụ, tuyên truyền về sự ấm lên của trái đất và tác động
của biến đổi khí hậu đối với Việt Nam; tuyên truyền về công tác bảo vệ rừng,
bảo vệ nguồn nước; tuyên truyền về giảm nhẹ rủi ro thiên tai dựa vào cộng
đồng… Các phóng viên của VTC14 chính là những hạt nhân trong việc chuyển
tải thông tin từ hoạt động của các bộ, ngành, địa phương thành các chương trình
truyền hình chuyên biệt phục vụ khán giả. Điều này sẽ giúp VTC14 đạt được
mục tiêu trở thành diễn đàn thông tin chung của xã hội trong các lĩnh vực trên.
3.4.3 Đầu tư xây dựng đội ngũ phóng viên, biên tập viên
Phóng viên, biên tập viên của một kênh truyền thông chuyên biệt ngoài
việc nắm vững chuyên môn báo chí, đòi hỏi họ phải có sự hiểu biết nhất định,
nếu không muốn nói là chuyên sâu về lĩnh vực đó. Trên thực tế, công chúng của
họ hầu hết là những người ít nhiều có hiểu biết về lĩnh vực đó hoặc nếu không
họ cũng hy vọng nhận được những thông tin đánh giá, định hướng, tư vấn từ các
chuyên gia. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là phóng viên, biên tập viên sẽ
phải đề cập đến trong các chương trình các kiến thức chuyên môn quá sâu và
khó hiểu, mào ử đây sự am hiểu sẽ giúp người phóng viên, biên tập chủ động
phân loại, phân tích, thẩm định thông tin. Nếu có sự am hiểu thực sự thì trong
các chương trình talk với chuyên gia, họ cũng có được sự linh hoạt và tự nhiên
khi trao đổi các vấn đề, như vậy, sẽ tạo được niềm tin cho khán giả.

Với nguyên tắc trên, VTC14 cần phối hợp với Trung tâm hí tượng Thủy
văn quốc gia tổ chức các khóa đào tạo cho phóng viên, biên tập viên bởi thời
tiết, khí tượng, thủy văn, biến đổi khí hậu… là những lĩnh vực khá đặc thù với
nhiều kiến thức chuyên sâu mà không phải ai cũng hiểu. Bên cạnh đó, phóng
viên, biên tập viên của VTC14 cũng cần chú trọng tìm hiểu, nắm bắt nhu cầu và
khoảng trống trong nhận thức của công chúng để qua đó có cách thức đưa tin
cho phù hợp, dễ hiểu nhưng vẫn đảm bảo tính hấp dẫn.
22


KẾT LUẬN
Công chúng đang trong thời đại của thông tin, tuy nhiên, quá nhiều thông
tin sẽ bóp chết thông tin. Vì thế, để công chúng có thể theo dõi các nhóm nội
dung với mức độ khu biệt cụ thể, nhà truyền thông sẽ sắp xếp các thông tin, sự
kiện theo các kênh truyền thông chuyên biệt khác nhau. Truyền thông chuyên
biệt không phải là sự thay thế cho các kênh truyền thông đại chúng mà nó chính
là sự phát triển cao hơn trong quá trình thỏa mãn nhu cầu tiếp nhận thông tin
của công chúng.
Thị trường Việt Nam được đánh giá là rất tiềm năng cho các kênh truyền
hình chuyên biệt (phần lớn là kênh trả tiền) bởi tỷ lệ hộ gia đình sử dụng truyền
hình cáp vẫn còn khá thấp so với mức 50 - 60% trên thế giới. Và đặc biệt, theo
Quy hoạch truyền dẫn, phát sóng phát thanh, truyền hình đến năm 2020 đã được
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, đến năm 2020 sẽ ngừng việc sử dụng truyền
hình tương tự để chuyển sang công nghệ số. Số hóa truyền hình cũng gắn liền
với sự dịch chuyển từ truyền hình quảng bá (không mất phí) sang truyền hình
trả tiền, và chắc chắn, sự ra đời ồ ạt của các kênh trả tiền là tất yếu.
Chính sự chuyên biệt hóa của các kênh truyền hình cũng khiến thách thức
của những người làm chương trình ngày một lớn. Vì thế, việc khảo sát công
chúng của mình đối với từng kênh chuyên biệt là một hoạt động quan trọng.
Xác định rõ đối tượng khán giả sẽ giúp cho nhà truyền thông trong việc xây

dựng nội dung chương trình cũng như lựa chọn các hình thức truyền đạt thông
tin đến công chúng sao cho hiệu quả. Ngoài ra, nhà truyền thông chuyên biệt
cũng cần phải tạo nên bản sắc riêng trong cách thức hoạt động thông tin, phản
ánh, bởi đó chính là nền tảng cho sự ra đời của kênh chuyên biệt và cũng là điều
cốt lõi làm nên giá trị đặc thù của các kênh truyền thông này trong bối cảnh
“trăm hoa đua nở” của truyền hình hiện nay. Đó cũng là một số kiến nghị của
chúng tôi nhằm nâng cao hiệu quả truyền thông của VTC14 - kênh truyền hình
chuyên biệt về thiên tai tại Việt Nam.
23


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ NN&PTNT: Tài liệu quản lý rủi ro thiên tai dựa vào cộng đồng, Hà Nội, 2014
2. Nguyễn Văn Dững (Chủ biên) - Đỗ Thị Thu Hằng: Truyền thông: Lý thuyết
và Kỹ năng cơ bản, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2012
3. Nguyễn Văn Dững: Cơ sở lý luận báo chí, Nxb. Lao động, Hà Nội, 2013
4. Nguyễn Bùi Khiêm: Công chúng truyền thông hiện đại (Phần 2),
/>5. Dương Xuân Sơn: Các loại hình báo chí truyền thông, Nxb. Thông tin và
Truyền thông, Hà Nội, 2014
6. Nguyễn Thị Phương Thảo: Tính chuyên biệt trên các ấn phẩm Tạp chí
Truyền hình (Khảo sát trên ấp phẩm Tạp chí Truyền hình VTV, Tạp chí
truyền hình số VTC, Tạp chí Truyền hình Hà Nội từ năm 2009 - đế năm
2011), Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Báo chí, Trường Đại học KHXH&NV ĐHQG Hà Nội, 2013
7. Vũ Thị Ngọc Thu: Vấn đề công chúng truyền thông chuyên biệt (Khảo sát
công chúng Hà Nội), Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Báo chí, Trường Đại học
KHXH&NV - ĐHQG Hà Nội, 2011

24



×