Võ Uyên Phương - 84
THUYẾT MINH VỀ HOA SEN
Hoa sen là một loài thực vật thuỷ sinh thân thảo sống lâu năm thuộc chi sen.
Trong thời kỳ cổ đại nó đã từng là loại cây mọc phổ biến dọc theo bờ sông
Nin ở Ai Cập cùng với một loài hoa súng có quan hệ họ hàng gần gũi có tên gọi
dài dòng là hoa sen xanh linh thiêng sông Nin ; và hoa, quả cũng như các đài hoa
của cả hai đã được họa lại khá rộng rãi như là một kiểu kiến trúc ở những nơi cần
các hình ảnh linh thiêng. Người Ai Cập cổ đại sùng kính hoa sen và sử dụng nó
trong các nghi thức tế lễ. Từ Ai Cập nó đã được đem đến Assyria và sau đó được
trồng rộng rãi khắp các vùng Ba Tư, Ấn Độ và Trung Quốc. Nó cũng có thể là loài
cây bản địa ở khu vực Đông Dương, nhưng ở đây có sự nghi vấn về điều này.
Năm 1787, lần đầu tiên nó được đưa tới Tây Âu như một loài hoa súng dưới sự
bảo trợ của Joseph Banks và có thể thấy được trong các vườn thực vật hiện nay
mà ở đó có sự cung cấp nhiệt. Ngày nay nó hiếm hoặc đã tuyệt chủng tại châu
Phi nhưng lại phát triển mạnh ở miền nam châu Á và Australia.
Thân rễ sen mọc trong các lớp bùn trong ao hay sông, hồ còn các lá thì nổi ngay
trên mặt nước. Các thân già có nhiều gai nhỏ. Hoa thường mọc trên các thân to
và nhô cao vài xentimet phía trên mặt nước. Thông thường sen có thể cao tới 1,5
m và có thể phát triển các thân rễ bò theo chiều ngang tới 3 m, một vài nguồn
chưa kiểm chứng được cho biết nó có thể cao tới trên 5 m. Lá to với đường kính
tới 60 cm, trong khi các bông hoa to nhất có thể có đường kính tới 20 cm.
Có nhiều giống sen được trồng, với màu hoa dao động từ màu trắng như tuyết tới
màu vàng hay hồng nhạt. Nó có thể chịu được rét tới khu vực 5 theo phân loại
của USDA. Loài cây này có thể trồng bằng hạt hay thân rễ.
Hoa sen còn là một loại cây cảnh đẹp, được nhiều người ưu thích. Cây thường
được trồng làm cây cảnh ngoại thất, trồng trong ao hồ nhân tạo hay tự nhiên.
Hoa, các hạt, lá non và thân rễ ăn được. Tại châu Á, các cánh hoa đôi khi được
sử dụng để tô điểm món ăn, trong khi các lá to được dùng để gói thức ăn. Thân
rễ (ngó sen) có thể dùng chế biến nhiều món ăn (súp, canh, món xào) và là phần
được dùng nhiều nhất. Các cánh hoa, lá non và thân rễ có thể ăn sống, mặc dù
cần quan tâm tới việc truyền các loại ký sinh trùng sang người (chẳng hạn sán
lá Fasciolopsis buski).
Các nhị hoa có thể phơi khô và dùng để ướp chè. Các hạt nhỏ lấy ra từ bát sen
có nhiều công dụng và có thể ăn tươi (khi non) hoặc sấy khô và cho nổ tương tự
như bỏng ngô. Hạt sen già cũng có thể luộc cho đến khi mềm và được dùng trong
các món như chè sen hay làm mứt sen.
Tâm sen nằm trong các hạt sen được lấy ra từ bát sen cũng được sử dụng trong
y học truyền thống châu Á như là một loại thuốc có tác dụng an thần và thanh
nhiệt.
Trường THCS Trần Cao Vân
Võ Uyên Phương - 84
Lá sen có đặc điểm không thấm nước. Hiện tượng này được ứng dụng
trong khoa học vật liệu, gọi là hiệu ứng lá sen, để chế tạo các bề mặt tự làm sạch.
Một số thành phần của sen được sử dụng như các vị thuốc:
Liên thạch, Liên nhục (quả) dùng điều trị bệnh lỵ mãn tính với liều lượng 816g dùng sắc, bột hoặc viên
Liên tâm (mầm quả) Chữa bệnh tâm phiền, mất ngủ, liều lượng 1,5 - 3g
hãm nước sôi uống
Liên diệp (lá) Dùng an thần, cầm máu, liều lượng 10 - 20g sắc, tán bột hoặc
đốt tồn tính
Liên tu (nhụy đực sen) Cầm xuất tinh và bạch đới 10g gia vào thang thuốc
sắc uống
Liên ngẫu (ngó sen và củ sen) Tác dụng dinh dưỡng 10 - 50g sắc uống
hoặc nấu ăn, dùng tươi cầm máu 10 - 30g giã vất nước uống
Liên phòng (gương sen đã lấy hạt) Đốt hoặc sao đen tán bột cầm máu rất
tốt, liều lượng 2 - 4g bột
Ngoài ra, ở Việt Nam hoa sen là biểu tượng cho sự trong sạch thanh cao . Ca
dao có câu:
Trong đầm gì đẹp bằng sen,
Lá xanh bông trắng, lại chen nhị vàng.
Nhị vàng bông trắng lá xanh,
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
Vẻ đẹp của sen cũng có thể được nhìn dưới khía cạnh Phật giáo:
Lá xanh thăm thẳm lòng Bi,
Dũng cành vươn thẳng, thoát ly bùn sình.
Nâng nụ sắc Trí kết tinh,
Nở thành hoa thắm, lung linh giữa đời.
Năm 2011, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Việt Nam tổ chức bầu
chọn quốc hoa Việt Nam. Theo kết quả của cuộc bầu chọn này thì hoa sen
là loài hoa được nhiều người bầu chọn làm quốc hoa của Việt Nam nhất.
Cuộc bầu chọn đã không đưa hoa sen trở thành quốc hoa chính thức của
Việt Nam vì sau cuộc bầu chọn không có văn bản pháp quy nào của Việt
Nam được ban hành quy định quốc hoa của Việt Nam là hoa sen.
Trường THCS Trần Cao Vân
Võ Uyên Phương - 84
THUYẾT MINH VỀ MỘT MÓN ĂN -CƠM HẾN
Có lẽ đi khắp mọi miền Nam Bắc Việt Nam, không có nơi nào có món ăn chứa nhiều khẩu
vị như Huế. Là khúc ruột miền Trung lắm mưa nhiều nắng, trải qua các thế kỷ tích tụ
những yếu tố văn hoá của mọi miền đất, món ăn Huế đã tụ họp đủcác khẩu vị béo, mặn,
chát, đắng... Dân dã và tiêu biểu cho món ăn Huế, phải kể đến cơm hến –món ăn được
xem là đặc trưng cho phong vị ẩm thực cũng như là sản vật nơi đây. Thế nhưng bạn đã lần
nào nếm thử món ăn Huế chưa? Với cơm hến, chắc chắn bạn sẽcó nhận xét khá giống
nhiều người vềmón ăn này “không giống ai cả”! Qu ảvậy, cơm hến không giống bất kỳ
món ăn nào ở Bắc, Nam hay chính những món của xứ này. Người Huế vốn quen khẩu vị,
nhưng trong các món, các vị không bao giờzcùng lẫn lộn. Nếu cháo nấm tràm đắng ngắt,
chè thịt quay béo ngọt, nghĩa là các vịrất tách biệt rõ ràng thì cơm hến lại là sựtổng hợp
đầy đủcác vịmột cách tài tình. Sựtổng hợp ấy, giống như tính cách của con người nơi đây,
tỉmỉmà giản dị, làm phong phú thêm đời sống.Đi tìm hiểu món cơm hến, tôi muốn giới
thiệu với bạn trước hết chính là vật liệu hến. “Chỉkhéo vẽvời!”. Hẳn bạn sẽchép miệng bảo
vậy, bởi hến đâu phải là thứhiếm hoi ởmột vài chốn quê vùng sông nước? Nhưng nếu một
hôm nào đó, khi hít hà lưỡi vì vịcay nồng của cơm hến bên vỉa hè hay lềđường Huếchật
hẹp, không biết câu chuyện vềnguồn gốc món hến, hẳn bạn sẽtiếc rẻ. Cái tà áo cùa cô bán
hàng rong kia, chiếc đòn gánh lên nước bóng mồhôi ấy, cảchai lọgia vịbé xíu và nồi nước
hến to đùng nóng hổi nữa...ấy là thành quảkỳtích của người đàn bà đặc sệt nông dân giữa
chốn vương triều phong kiến xa xưa đấy! Theo truyền thuyết lưu truyền, bà tên Nguyễn
ThịThẹp, dưới đời vua Thành Thái triều Nguyễn năm thứtư, đã dám phá lệthọtô mà đến
cào hến trước đình làng Hương Cần. Làng phát đơn kiện, vịvua anh minh phê bà Thẹp
thắng vì đã khai thác hến một cách đắt dụng. Bà được rước vềcồn đất lau lách phù sa nay
đã 300 năm, là nơi thi sĩ Hàn Mạc Tửtừng lưu luyến Vĩ Dạđềthơ, trởthành bà tổPhường
Hến. Nghềlàm hến được sinh thành, phục vụcảxứsởcơm hến nồng cay ấy. Đểkhai thác
được cơm hến kim bé tí có họvới hơn 10.000 loài động vật thân vỏmảnh, người cào hến ăn
tới làm lui bán mặt cho đất bán lưng cho trời với chiếc tròng mây hay tre. Hến mò, xúc
từđáy nước ngọt sông Hương, còn lóng lánh ngũ sắc và cát được đem rửa, luộc bằng nước
trong. Nước luộc lọc sạch đểdùng, thân hến đãi lấy thịt. Từnhững thao tác tỉmỉấy đến bàn
tay người nội trợquảlà một công đoạn kỳcông mới có được những thân hến tuỳmón
chếbiến. Phải chăng cũng vì kỳcông như vậy mà tuy tên gọi là cơm hến, vật liệu chính là
hến nhưng khi bưng bát cơm hến, bạn sẽchỉcảm thấy một vài con hến đã được xào qua với
mỡ, hành và gia vịthơm phức, rắc trên mặt bát như trang trí hơn là đểăn. Nhiều du khách
chờđợi mãi người ta bưng ra món hến để“thời” món ăn nổi tiếng này, song khi được giải
Trường THCS Trần Cao Vân
Võ Uyên Phương - 84
thích thì... ngẩn cảngười! Nếu nói cơm hến Huếthường tuân thủquy tắc “mỗi thứmột tí” thì
cơm hến chính là món tiêu biểu nhất. Một tô cơm hến, nhìn rất ngon mắt và phong phú,
tính ra có cảthảy 13 thứgồm khếchua, bắp chuối, bạc hà thái nhỏ, rau thơm, ruốc, vịtinh,
muối, ớt, lạc rang, da heo ráng giòn, hến và nước hến! Có người cho lửa cũng là một gia
vịcủa cơm hến, bởi nếu ăn món này mà ăn khi nguội, không có lửa ủnứơc hếnnóng liu riu
thì sẽcó mùi tanh của con hến hôm qua còn ởđáy sông. Còn bạn, có thểphát hiện thêm gia
vịthứ15 này lắm chứ! Cùng một món cơm hến ngon mắt, ngon miệng, tà áo dài của cô
hàng như một nửa sức sống của món ăn, ấp ủhết vẻduyên thầm và phongvịHuếđấy, cũng là
một thứgia vịkhông thểthiếu, phải không bạn? Nhiều người cho rằng cơm hến quá cay, ớt
làm người ăn không có cơ hội đểthưởng thức hết vịngon. Ngược lại, tôi cho rằng cơm hến
nếu không trào nước mắt không thểgọi là ngon. Nổi bật trên sự“tập tàng” nhiều vịcủa cơm
hến, ớt là hương vịđặc trưng nhất hoà quyện với món ăn này, điều hoà tính hàn của con
hến nhỏ. Người Húê trong quan niệm của mình, luôn thích ăn cay như một sựchấp nhận
của đời sống, của phận người, có khi cũng đắng , cay xé lưỡi. Còn nếu hiểu một cách trần
trụi hơn, ớt cay là một phần làm ấm thêm cái lưỡi của bạn giữa thành phốmưa quanh năm
suốt tháng, bạn có nghĩ thếkhông? Nếu không ăn cay được, nhà chếbiến gia sẽgiảm bớt gia
vịớt, nhưng với cơm hến, tôi tin như nhiều người đã tin mà nói quá lên rằng không được
ăn ớt, bạn sẽmất... nửa cuộc đời đấy! Ngoài món cơm hến, cũng với hến, tất nhiên, người
ta còn chếbiến thêm nhiều món ăn khác. Cháo hến, bún hến, canh hến, hến xào xúc bánh
tráng...Buổi sáng,những quán hến ởphốTrương Định như một hình ảnh thành phốthu
nhỏvẫn tấp nập khách du lịch và người thích hến đến thưởng thức các món ăn nơi đây. Còn
nếu muốn ăn cơm hến, ởngay trên Phường Hến, và được thảhồn mình mơ mộng với nắng
mới lên của thi sĩ Hàn Mạc Tử, sau đó, lại có thểtráng miệng bằng một cốc chè bắp thơm
lựng, bạn có thểghé Vĩ Dạthôn ởđường Nguyễn Sinh Cung băng qua Đập Đá. Song có
lẽsau khi thưởng thức đủmón hến khác nhau này, chắc chắn, bạn cũng sẽđồng ý với tôi
rằng không có sựkết hợp nào độc đáovà quyến rũ như món hến, rau, nước...đểtạo thành
món ăn cơm hến dân dã trong cái gánh hàng bên vỉa hè ẩm ướt mùi lá mục của xứsương
mù ấy. Đó chính là phong vịcủa một trong 17 tài nguyên đất Việt được chạm khắc trên
Cửu đỉnh thời Minh Mạng, sản vật đất Cốđô
Trường THCS Trần Cao Vân
Võ Uyên Phương - 84
THUYẾT MINH VỀ ÁO DÀI VIỆT NAM
Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc đều có những văn hóa, nét đặc trưng của từng vùng
miền và trang phục truyền thống riêng. Phụ nữ Nhật tự hào với Kimono, phụ nữ
Hàn Quốc nổi tiếng với Hanbok, phụ nữ Ấn Độ để lại cho ta ấn tượng rất đặc biệt
với bộ Sari. Còn phụ nữ Việt Nam, từ xưa đến nay vẫn mãi song hành với chiếc
áo dài duyên dáng và thướt tha.
Áo dài có rất nhiều loại. Nhưng sơ khai của chiếc áo dài xưa nhất là áo giai lãnh:
cũng giống như áo tứ thân nhưng khi ,mặc thì hai thân trước để giao nhau mà
không buộc lại. Vì sau này, phụ nữ phải làm việc đồng áng hay buôn bán nên áo
giai lãnh được thu gọn lại thành áo tứ thân: gồm bốn vạt nửa trước phải, vạt nửa
sau phải, vạt nửa sau trái. Nhưng với những người phụ nữ tỉnh thành nhàn nhạ,
muốn có một kiểu áo dài dược cách tân thế nào đó dể giảm chế nét dân dã lao
động và tăng dáng dấp sang trọng, khuê các. Thế là áo tứ thân được biến cải ở
chỗ vạt nửa trước phải nay lại được thu bé trở lai thành vạt con; thêm một vạt thứ
năm be bé nằm ở dưới vạt trước trở thành áo ngũ thân.
Ngoài ra còn áo dài Le Mor của một họa sĩ vào đầu thập niên 1930, áo dài Lê Phổ
của họa sĩ Lê Phổ được thiết kế vào năm 1934, áo dài với tay giác lăng vào thập
niên 1960, áo dài miniraglan danh cho các nữ sinh…
Khác với Kimono của Nhật Bản hay Hanbok của Hàn Quốc, chiếc áo dài Việt
Nam vừa truyền thống lại vừa hiện đại, có thể mặc ở mọi lúc mọi nơi: dùng làm
trang phục công sở, đồng phục đi học, mặc để tiếp khách trang trọng trong nhà…
Việc mặc loại trang phục này không hề rườm rà hay cầu kì, những thứ mặc kèm
đơn giản: mặc với một quần lụa hay vải mềm, dưới chân đi hài guốc, hay giày
đều được; nếu cần trang trọng (như trang phục cô dâu) thì thêm ái dài và chiếc
khăn đóng truyền thống đội đầu, hay một chiếc miện Tây tùy thích. Đây chính là
điểm đặc biệt của thứ trang phục truyền thống này.
Áo dài có thể nhiều màu nhưng có lẽ đẹp nhất vẫn là chiếc áo dài trắng thể hiện
sự thuần khiết của người phụ nữ Việt Nam. Trong tr ường học, không gì đẹp mắt
và thanh bình cho bằng mỗi sáng, từng nhóm nữ sinh trong bộ áo dài, thướt tha,
xõa tóc dài chạy xe đạp đến trường. Cũng nơi đó, những cô giáo, những người
Trường THCS Trần Cao Vân
Võ Uyên Phương - 84
mẹ thứ hai của các học sinh nhẹ nhàng đón rón những đứa con của mình trước
giờ vào học trong chiếc áo dài mới thực sự toát lên vẻ đằm thắm, và thương yêu.
Trong những dịp lễ Tết, chiếc áo dài lại thêm một lần nữa thấp thoáng trên các
ngã tư đường phố, cùng hoa va cảnh sắc của trời mới đất mới, khoe sắc ngày
Tết. Áo dài giũa phố đông chật chội người và xe, ấm ào náo động, làm dịu lại
cảnh sắc và làm mát lại những hồn người, làm cho ai đó phải quay lại ngắm nhìn
dù chỉ một lần, dịu đi cái khó chịu và u uất vốn có trong bản tính mỗi con người
bân rộn.
Chiếc áo dài hình như có cách riêng để tôn lên nét đẹp của mọi thân hình. Phần
trên ôm sát thân nhưng hai vạt buông thật rộng trên đôi ống quần rộng. Hai tà xẻ
đến trên vòng eo khiến cho người mặc có cảm giác thoải mái, lại tạo dáng thướt
tha tôn lên vẻ nữ tính, vừa kín kẽ vì toàn thân được bao bọc bằng vài lụa mềm lại
cũng vừa khiêu gợi vì nó làm lộ ra sống eo. Chính vì thế, chiếc áo dài mang tính
cá nhân hóa rất cao, mỗi chiếc chỉ may riêng cho một người và chỉ dành cho
ngươi ấy, không thể là một công nghệ “sản xuất đại trà” cho chiếc áo dài. Người
đi may được lấy số đo rất kĩ, khi may xong phải thử và chỉnh sửa lại thêm vài lần
nữa thì mới hoàn thiện được.
Áo dài là hiện thân của dân tộc Việt, một vẻ đẹp mĩ miều nhưng đằm thắm, là một
phần tất yếu trong mỗi phụ nữ Việt, là đặc trưng cho một quốc gia có người phụ
nữ chịu thương chịu khó, luôn hy sinh, đứng phía sau để cổ động tinh thần cho
nước nhà, cùng nhau hòa nhịp và phát triển. Trải qua từng thời kì, từng giai đoạn
cùng với những diễn biến của quà trình lịch sử Việt Nam, tà áo dài Việt Nam luôn
tồn tại theo dòng thời gian, vẫn mãi sẽ là tâm hồn Việt, văn hóa Việt, là tinh thần
Việt và là trang phục truyền thống mang đậm tính lịch sử lâu đời của nước Việt
ngàn năm văn hiến.
Kín đáo, duyên dáng và gợi cảm là một trong những yếu tố đưa áo dài trở thành
niềm kiêu hãnh của người Việt. Không chỉ là cái áo nữa chiếc áo dài đã trở
thành biểu tượng của trang phục phụ nữ Việt, tạo thành sản phẩm văn hoá vật
thể truyền thống không thể thiếu cho vẻ duyên dáng của người phụ nữ Việt.
Trường THCS Trần Cao Vân
Võ Uyên Phương - 84
THUYẾT MINH VỀ MỘT DANH LAM THẮNG CẢNH Ở
VIỆT NAM
ĐỘNG PHONG NHA KẺ BÀNG
Động Phong Nha nằm trong vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng, một vườn quốc gia tại
huyện Bố Trạch và Minh Hóa thuộc tỉnh Quảng Bình, cách thành phố Đồng Hới khoảng
50km về phía Tây Bắc, cách thủ đô Hà Nội khoảng 500 km về phía Nam. Phong Nha – Kẻ
Bàng nằm ở một khu vực núi đá vôi rộng khoảng 200.000ha. Vườn quốc gia bao gồm 300
hang động lớn nhỏ khác nhau. Điểm đặc trưng của vườn quốc gia này là các kiến tạo đá
vôi, 300 hang động và các sông ngầm, hệ thống động vật quý hiếm nằm trong sách đỏ Việt
Nam và sách đỏ Thế giới. Các hang động ở đây với tổng chiều dài là khoảng hơn 80km
nhưng các nhà thám hiểm Anh và Việt Nam mới chỉ tìm hiểu được 20km. Vào tháng 4
năm 2009, một đoàn thám hiểm thuộc Hiệp hội Hoàng gia Anh đã phát hiện ra một hang
động khác lớn hơn rất nhiều động Phong Nha nhưng động Phong Nha vẫn là hang động
giữ nhiều kỉ luật về cái “nhất”: hang nước dài nhất, cửa hang cao và rộng nhất; bãi cát, đá
rộng và đẹp nhất; hồ ngầm đẹp nhất; thạch nhũ tráng lệ và kì ảo nhất; dòng sông ngầm dài
nhất Việt Nam; hang khô rộng và đẹp nhất thế giới.
Trước đó, khi Phong Nha – Kẻ Bàng chưa phải là vườn quốc gia, khu vực này là khu vực
bảo tồn thiên nhiên, từ ngày 9 tháng 8 năm 1986 được mở rộng thêm diện tích là 41132ha.
Mãi đến ngày 12 tháng 12 năm 2001, thủ trướng chính phủ đã ra nghị quyết chuyển khu
bảo tồn thiên nhiên này thành vườn đa quốc gia và có tên gọi như hiện nay.
Quá trình hình thành hang động là một quá trình khá lâu dài. Từ những kiến tạo địa chất
xảy ra trong lòng dãy núi đá vôi Kẻ Bàng vào thời kì Đại cổ sinh đã làm thay đổi hoàn
toàn về địa chất nơi đây. Sự tác động của nội lực bên trong lòng trái đất và ngoại lực đã tạo
ra vẻ đẹp kì bí rất riêng của động Phong Nha. Hệ thống đứt gãy chằng chịt trên mặt đá vôi
đã tạo điều kiện cho nước dễ thấm vào các khối đá vôi. Sự xâm thực đã gặm mòn, hòa tan,
rửa trôi đá vôi trong hàng triệu năm. Qua đó nó đã tạo nên một hang động ăn sâu trong núi
đá vôi.
Động Phong Nha bao gồm động khô và động nước, nổi bật nhất trong các động khô là
động Tiên Sơn. Động Tiên Sơn có chiều dài 980m. Từ cửa động đi vào khoảng 400m có
một vực sâu khoảng 10m và sau đó là động đá ngầm dài gần 500m khá nguy hiểm. Du
khách đến tham quan, để đảm bảo an toàn chỉ được đi sâu vào 400m tính từ cửa động.
Trường THCS Trần Cao Vân
Võ Uyên Phương - 84
Động Thiên Sơn là nơi có cảnh thạnh nhũ và những phiến đá kì vĩ huyền ảo. Các âm thanh
phát ra từ các phiến đá, khi được gõ vào vọng như tiếng cồng chiêng.Theo các nhà khoa
học thuộc Hội hang động Hoàng gia Anh, động này được kiến tạo cách đây hàng chục
triệu năm, khi một dòng nước chảy qua quả núi đã đục rỗng, bào mòn núi đá vôi Kẻ Bàng.
Sau đó, do địa chất thay đổi, khối đá vôi đổ sụp, chặn dòng chảy và làm nên động khô
Tiên Sơn. Còn hệ thống động nước nổi bật nhất là động Phong Nha. Tạo hóa đã dựng nên
những khối thạch nhũ đủ màu sắc với những hình dạng khác nhau. Vẻ kì ảo ấy khiến ai
đến tham qua cũng trầm trồ khen ngợi. Động Phong Nha dài 7729m. Hang có chiều dài dài
nhất của động là 145m. Động Phong Nha còn được mệnh danh là Thủy Tề Tiên vì nơi đây
những cột đá, thạch nhũ như mang một phong thái rất khác nhau. Tiếng nước vỗ vào
đá vang vọng thật xa. Động Phong Nha đẹp như một bức tranh thủy mạc mà nhiều hang
động khác phải ngưỡng mộ.
Động Phong Nha ngoài có giá trị về du lịch nó còn là một di chỉ khảo cổ. Những nhà thám
hiểm và người dân nơi đây đã phát hiện ra nhiều chữ khắc trên đá của người xưa, gạch,
tượng đá, tượng phật, mảnh gốm và nhiều bài vị tại đây. Ở động Phong Nha người ta đã
phát hiện nhiều mảnh than và miệng bình gốm có tráng men của Chàm và các đồ gốm thô
sơ khác. Động Phong Nha còn là nơi vua Hàm Nghi trú ngụ trong thời kì thực hiện chiếu
Cần Vương kháng chiến chống Pháp.
Động Phong Nha – hang động tạo nên niềm tự hào cho dân tộc Việt Nam. Nó là bằng
chứng cho sự ưu đãi của thiên nhiên nước ta. Động Phong Nha đã được UNESCO công
nhận là di sản văn hóa thế giới. Ai đã từng đến động đều nhớ mãi sự kì diệu mà động
mang lại từ vẻ đẹp thuần túy thiên nhiên.
Trường THCS Trần Cao Vân