Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Theo Hồ Chí Minh, văn hoá có vị trí và vai trò to lớn, quan trọng trong đời sống xã hội: Văn hoá là đời sống tinh thần của xã hội, thuộc kiến trúc thượng tầng; văn hóa ngang hàng với các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội;Hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (222.13 KB, 21 trang )

a) Kiến thức cơ bản
Theo Hồ Chí Minh, văn hoá có vị trí và vai trò to lớn, quan trọng trong đời sống xã hội:
Văn hoá là đời sống tinh thần của xã hội, thuộc kiến trúc thượng tầng; văn hóa ngang
hàng với các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội; văn hoá không thể đứng ngoài mà phải
ở trong kinh tế và chính trị; văn hoá vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng.
Người xác định rõ, trong đời sống xã hội có bốn vấn đề chủ yếu, quan trọng ngang
nhau có mối quan hệ mật thiết với nhau, tác động lẫn nhau là kinh tế – chính trị – văn
hoá – xã hội.
Một là, văn hoá là đời sống tinh thần của xã hội, thuộc kiến trúc thượng tầng.
Trong quan hệ với chính trị, xã hội: Hồ Chí Minh cho rằng, chính trị, xã hội có được giải
phóng thì văn hóa mới được giải phóng. Chính trị giải phóng mở đường cho văn hoá
phát triển. Người nói: “Xã bội thế nào, văn nghệ thế ấy… Dưới chế độ thực dân phong
kiến, nhân dân ta bị nô lệ, thì văn hoá cũng bị nô lệ, bị tối tăm, không thể phát triển
được”. Để văn hoá phát triển tự do, phải làm cách mạng chính trị trước.
Trong quan hệ với kinh tế Hồ Chí Minh chỉ rõ kinh tế là thuộc về cơ sở hạ tầng, là nền
tảng của việc xây dựng văn hoá. Xây dựng kinh tế để tạo điều kiện cho việc xây dựng
và phát triển văn hoá, kinh tế phải đi trước một bước. Người viết; “Muốn tiến lên chủ
nghĩa xã hội thì phải phát triển kinh tế và văn hoá. Vì sao không nói phát triển văn hoá
và kinh tế. Tục ngữ ta có câu: có thực mới vực được đạo, vì thế kinh tế phải đi trước”.
Hai là, văn hóa không thể đứng ngoài mà phải ở trong kinh tế và chính trị, phải phục vụ
nhiệm vụ chính trị và thúc đẩy sự phát triển của kinh tế.
Đứng trên lập trường của chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh không nhấn mạnh một
chiều về sự phụ thuộc “thụ động” của văn hoá vào kinh tế, chờ cho kinh tế phát triển
xong mới phát triển văn hoá. Người cho rằng, văn hoá có tính tích cực, chủ động, đóng
vai trò to lớn như một động lực, thúc đẩy sự phát triển của kinh tế và chính trị. Người
nói: “Trình độ văn hoá của nhân dân nâng cao sẽ giúp cho chúng ta đẩy mạnh công
cuộc khôi phục kinh tế, phát triển dân chủ. Nâng cao trình độ văn hóa của nhân dân
cũng là một việc cần thiết để xây dựng nước ta thành một nước hòa bình, thống nhất,
độc lập, dân chủ và giàu mạnh”.



Văn hóa ở trong kinh tế và chính trị có nghĩa là văn hoá phải tham gia thực hiện nhiệm
vụ chính trị, thúc đẩy chính trị và phát triển kinh tế. Văn hoá không thể đứng ngoài mà
phải ở trong kinh tế và chính trị, phải phục vụ nhiệm vụ chính trị và thúc đẩy sự phát
triển của kinh tế. Quan điểm này không chỉ định hướng cho việc xây dựng một nền văn
hoá mới ở Việt Nam mà còn định hướng cho mọi hoạt động văn hoá.
Văn hoá phải ở trong kinh tế và chính trị, điều đó cũng có nghĩa là kinh tế và chính trị
cũng phải có tính văn hoá, điều mà chủ nghĩa xã hội và thời đại đang đòi hỏi. Văn hoá
có tính tích cực, chủ động, đóng vai trò to lớn thúc đẩy kinh tế và chính trị phát triển
như một động lực. Văn hoá ở trong kinh tế và chính trị, có nghĩa là chính trị và kinh tế
phải có tính văn hoá.
Như vậy: Kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội tác động qua lại lẫn nhau, trong đó văn hoá
vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội.
b) Kiến thức vận dụng


*Làm rõ thực trạng văn hóa ở việt nam hiện nay

Danh hiệu văn hóa, làng văn hóa được chính quyền Việt Nam áp dụng với mục đich
giảm những tệ nạn xã hội, gia tăng giá trị đạo đức gia đình, xã hội. Mặc dù có rất nhiều
gia đình đạt danh hiệu ‘gia đình văn hóa’ nhưng tình trạng đạo đức xã hội, tệ nạn xã hội
xuống cấp vẫn không được cải thiện.


Đâu là nguyên nhân của tình trạng này. Xuân nguyên tìm hiểu và trình bày.
Theo con số thống kê của ban chỉ đạo trung ương phong trào ‘Toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hóa’, Việt Nam có khoảng 19 triệu gia đình đạt danh hiệu ‘gia đình
văn hóa’. Cũng theo thống kê này, hơn 85% gia đình Việt Nam hiện nay là gia đình văn
hóa.
Bất cập về khái niệm, chỉ tiêu
Nhạc sỹ Mai Trung Chính, đang sinh sống tại Sài Gòn cho biết, khái niệm ‘gia đình văn

hóa’, ‘làng, ấp, bản, khối…văn hóa’ là rất mâu thuẫn. Bởi đã là con người thì ai cũng có
‘văn hóa’, chỉ có văn hóa thấp hay cao, văn hóa ít hay nhiều, và văn hóa tùy thuộc vào
từng người chứ không phụ thuộc vào cái bằng khen của chính quyền.
Nhạc sỹ Mai Trung Chính nói:
“Văn hóa là tùy theo từng người, chứ đâu phụ thuộc vào cái bằng đó đâu, đối với mình
danh hiệu khu phố văn hóa, gia đình văn hóa đó không ăn thua gì.”
Nói về khái niệm gia đình, làng, ấp, bản, khối… văn hóa, anh Nguyễn Thiện Nhân – nhà
báo tự do hiện đang sinh sống tại Bình Dương cho rằng, vì chính quyền Việt Nam là
một nhà nước độc đảng nên dẫn đến việc độc quyền về chân lý, về khái niệm‘văn hóa’
của đảng. Tức là những gì người ta nói theo ý của đảng, nhà nước thì được cho là có
‘văn hóa’, còn những gì trái với ý của đảng và nhà nước thì sẽ bị cho là ‘vô văn hóa’.
Do đó cái khái niệm ‘văn hóa’ do đảng và nhà nước đề ra, không phản ánh thực tế đời
sống văn hóa của người dân.
Ở phòng thu âm mình, có ca sỹ tới thu âm và bị mất xe, sau đó tới công an phương để
khai báo. Thì họ bảo, sao ông lại để mất xe, bị mất như vậy thì làm sao chúng tôi lấy
được danh hiệu ‘văn hóa’. Đại khái như vậy, chứ họ có quan tâm đến có văn hóa hay
không
nhạc sỹ Mai Trung Chính


Chia sẻ thêm về tiêu chuẩn của gia đình, làng, khối, ấp, bản… văn hóa chiếu theo
thông tư 12/2001 của bộ Văn hóa (sau này có thêm thông tư 12/2011 của bộ Văn hóa,
Thể thao và Du lịch), anh Nguyễn Thiện Nhân nói:
“Theo thông tư 12/2001 của bộ Văn hóa có quy định những điểm sau về gia đình văn
hóa và làng văn hóa:
Gia đình văn hóa có những tiêu chuẩn như, nếp sống lành mạnh; đối xử tốt với cộng
đồng; không có những tệ nạn như trộm cướp, ma túy, mãi dâm; con em được đi học;
chấp hành tốt các quy định tốt về vệ sinh môi trường, chấp hành tốt đường lối chính
sách của đảng và nhà nước …
Còn tiêu chuẩn làng, ấp, khối… văn hóa có những tiêu chuẩn sau, đời sống kinh tế ổn

định, từng bước phát triển; đời sống văn hóa, tinh thần phong phú; môi trường, cảnh
quanh sạch – đẹp; chấp hành tốt chính sách đường lối của đảng và nhà nước; tinh thần
đoàn kết, tương trợ…”
Cũng theo anh Nguyễn Thiện Nhân, những tiêu chuẩn trên còn có rất nhiều điều bất
cập, điển hình là tiêu chuẩn ‘chấp hành tốt đường lối, chính sách của đảng và nhà
nước’. Với tiêu chuẩn này thì những gia đình, làng có người bất đồng chính kiến, dân
oan hay những người từng đi khiếu kiện chính sách của nhà nước thì họ sẽ không bao
giờ đạt được danh hiệu này.
Bệnh thành tích đi lên
Nói về bệnh thành tích trong việc cấp bằng khen gia đình văn hóa, làng, ấp, khối… văn
hóa của chính quyền, nhạc sỹ Mai Trung Chính thấy rằng, chính quyền địa phương ở
nơi nào cũng muốn chạy đua thành tích để cuối năm họ nhận bằng, giấy khen, để tăng
lương, để thăng chức thôi, chứ họ chưa chú tâm đến việc những gia đình, làng, ấp,
bản, khối… đó có văn hóa hay không, hoặc đời sống văn hóa ở đó có tốt hay không?
Ông nói:
“Ở phòng thu âm mình, có ca sỹ tới thu âm và bị mất xe, sau đó tới công an phương để
khai báo. Thì họ bảo, sao ông lại để mất xe, bị mất như vậy thì làm sao chúng tôi lấy


được danh hiệu ‘văn hóa’. Đại khái như vậy, chứ họ có quan tâm đến có văn hóa hay
không.
Ở Sài Gòn thì cổng nào cũng có khu văn hóa thật, nhưng mà trong đó cũng có hút
chích, có đánh nhau, có đủ thứ…”
Nhà báo tự do Nguyễn Thiện Nhân cho rằng, do bệnh thành tích nên chính quyền địa
phương đã xét duyệt tràn lan, bừa bãi và quá dễ dãi đối với những danh hiệu gia đình,
làng, ấp, bản, khối… văn hóa. Dẫn đến việc danh hiệu đó chỉ còn mang tính hình thức.
Anh Nguyễn Thiện Nhân nhận xét:
“Các cấp đảng và nhà nước bắt đầu triển khai, và họ làm một cách rầm rộ rất là hình
thức, cuối cùng cái danh hiệu này chỉ để tô vẽ cho chế độ. Và nó dung dưỡng cái bệnh
thành tích và nó không còn giá trị thực chất nữa, bởi vì cái gì nhiều và dễ dãi thì sẽ

không còn giá trị nữa, bởi vì cái gì nhiều và dễ dãi thì sẽ không còn có giá trị”.
Đạo đức xã hội, văn hóa đi xuống
Là một người miền Bắc di cư vào Sài Gòn năm 1954, nhạc sỹ Mai Trung Chính cho
rằng, đạo đức xã hội, văn hóa của người Việt Nam đang xuống dốc cách trầm trọng sau
hơn 70 năm ở miền Bắc và hơn 40 năm ở miền Nam. Trước đây người người dân ở
Sài Gòn sống có ‘nhân bản’ lắm, đạo đức xã hội luôn được xem là ưu tiên hàng đầu.
Ngày xưa dân miền Bắc cũng giúp nhau nhiều lắm, hễ có gia đình, người nào cần giúp
đỡ thì sẽ được giúp liền, không ai toán tính gì cả.
Tôi đánh giá việc thực hiện chủ trương này là không thành công. Các tệ nạn xã hội vẫn
còn đó, đạo đức xã hội vẫn không được cải thiện
Pgs.Ts Vũ Mạnh Lợi
Khi nói về tình trạng đạo đức của người Việt bây giờ, nhạc sỹ ngậm ngùi khẳng định:
“Nói thật, bây giờ người ta ‘sống chết mặc bay’, thậm chí đi ra ngoài đường mà lỡ có bị
cướp, người ta lờ đi cho xong chuyện, hoặc hai người đánh thì cứ việc đánh đi, còn
ngươi ta cũng lờ luôn, mặc kệ”.


Theo báo tuổi trẻ vào ngày 3/12/2015, ông phó thủ tướng Vũ Đức Đam phải công nhận
rằng, mặc dù cả nước có hơn 19 triệu gia đình văn hóa nhưng tình bạo lực gia đình,
đạo đức gia đình và xã hội đang xuống cấp trầm trọng, tệ nạn xã hội ngày càng gia
tăng, các giá trị văn hóa truyền thống gia đình đang dần bị mai một.
Pgs.Ts Vũ Mạnh Lợi – phó viện trưởng Viện xã hội học (Viện hàn lâm Khoa học xã hội
VN) cũng khẳng định trên báo tuổi trẻ vào ngày 5/12/2015 rằng:
“Tôi đánh giá việc thực hiện chủ trương này là không thành công. Các tệ nạn xã hội vẫn
còn đó, đạo đức xã hội vẫn không được cải thiện”
Còn Nhà báo tự do Nguyễn Thiện thấy rằng, cần bỏ luôn cái danh hiệu ‘gia đình văn
hóa’, ‘làng, ấp, bản, khối…văn hóa’ càng sớm càng tốt, bởi những hoạt động này tiêu
tốn rất nhiều ngân sách quốc gia. Nói trắng ra là tiêu tốn quá nhiều tiền thuế của người
dân, trong khi các tệ nạn xã hội, đạo đức vẫn không được cải thiện. Anh tiếp tục nhận
định:

“Bây giờ ở cái thời đại công nghệ thông tin tràn ngập, người dân họ đã thấy rõ cái bản
chất của việc này rồi. Nó chỉ còn là hình thức, là tấm biển treo thôi, do đó càng bỏ
nhanh càng tốt”.
Các chuyên gia về xã hội học cũng có nhận định rằng, tệ nạn xã hội và đạo đức xã hội
tại Việt Nam đang xuống cấp một cách trầm trọng, và những nét văn hóa của người
Việt ngày càng mai một theo thời gian. Nếu không có sự quan tâm của nhà nước và
toàn xã hội thì đạo đức xã hội và văn hóa của người Việt sẽ càng lún sâu hơn.
Hội thảo khoa học “Thực trạng và giải pháp xây dựng nền văn hóa Việt Nam trong thời
kỳ mới” đã được Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch tổ chức ngày 15/5 tại Hà Nội với sự
tham dự của nhiều nhà quản lý và nghiên cứu văn hóa ở trung ương và địa phương.
Phó Trưởng ban Thường trực Ban Tuyên giáo Trung ương Vũ Ngọc Hoàng; Thứ
trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Đặng Thị Bích Liên chủ trì hội thảo.
Hội thảo khẳng định, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng


khóa VIII ban hành ngày 16/7/1998 (Nghị quyết Trung ương 5) về “Xây dựng và phát
triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” là văn kiện chuyên đề,
sâu sắc và toàn diện về văn hóa sau “Đề cương văn hóa Việt Nam năm 1943.” Nghị
quyết Trung ương 5 khóa VIII vừa có tính chiến lược lâu dài và tính học thuật vừa có
tính cương lĩnh hành động trong việc phát triển nền văn hóa Việt Nam thời kỳ mới.
Tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII theo tinh thần Hướng
dẫn của Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã có quyết định
phê duyệt danh mục đề tài nghiên cứu khoa học thuộc Chương trình khoa học và công
nghệ cấp Bộ giai đoạn 2011-2013 với nội dung “Nghiên cứu lý luận và thực tiễn xây
dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong điều
kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.”
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã giao cho các đơn vị (cục, vụ, viện…) trực thuộc chủ
trì thực hiện các đề tài nhánh: Nghiên cứu các luận điểm của Nghị quyết Trung ương 5
khóa VIII trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế;

Xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống và môi trường văn hóa - Thực trạng và giải pháp;
Bảo vệ và phát huy di sản văn hóa trong quá trình phát triển kinh tế xã hội và hội nhập
quốc tế; Phát triển sự nghiệp văn học nghệ thuật - Thực trạng và giải pháp; Hợp tác
quốc tế về văn hóa nghệ thuật trong hội nhập quốc tế - Thực trạng và giải pháp; Thể
chế, thiết chế, cơ chế phát triển văn hóa – Thực trạng và giải pháp.
Tại hội thảo, các báo cáo tham luận nêu lên thực trạng trên hai lĩnh vực lý luận và thực
tiễn việc xây dựng và phát triển văn hóa ở Việt Nam từ sau khi có Nghị quyết Trung
ương 5 khóa VIII đến nay; phân tích những nguyên nhân kết quả đạt được và những
hạn chế; đề xuất quan điểm, chính sách, giải pháp để tiếp tục xây dựng và phát triển
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc trong điều kiện nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
quốc tế.


Dưới góc độ người làm công tác quản lý, nghiên cứu khoa học, tham luận của các đại
biểu cũng tập trung làm rõ những mục tiêu trước mắt và lâu dài trong việc phát triển
văn hóa.
Mục tiêu trước mắt là gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế với phát triển văn hóa;
làm cho văn hóa tham gia tích cực vào việc thực hiện mục tiêu “dân giầu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh”. Xây dựng những giá trị văn hóa mới đi đôi với việc mở
rộng giao lưu quốc tế.
Nâng cao mức hưởng thụ, tham gia hoạt động, sáng tạo văn hóa của nhân dân; từng
bước thu hẹp sự chênh lệch về hưởng thụ văn hóa, nghệ thuật giữa thành thị và nông
thôn, giữa đồng bằng và miền núi, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng
xa.
Tăng cường đầu tư của Nhà nước, nâng cao tỷ lệ ngân sách cho văn hóa, đẩy mạnh
xã hội hóa các hoạt động văn hóa, huy động mọi nguồn lực cho phát triển văn hóa; coi
đầu tư cho văn hóa là đầu tư cho con người, đầu tư cho phát triển bền vững. Xây dựng
và nâng cấp đồng bộ hệ thống thiết chế văn hóa, chú trọng các công trình văn hóa lớn,
tiêu biểu; nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống các thiết chế văn hóa cơ sở.

Mục tiêu lâu dài là tiếp tục phát triển và nâng cao chất lượng nền văn hóa tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc; gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế xã hội, làm
cho văn hóa thấm sâu vào các lĩnh vực của đời sống xã hội. Xây dựng môi trường, lối
sống văn hóa; phát huy tinh thần tự nguyện, tự chủ, sức sáng tạo, vai trò chủ thể văn
hóa của nhân dân; xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam…
Đẩy mạnh công tác bảo tồn, kế thừa và phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc; phát
huy tính thống nhất trong đa dạng, bản sắc văn hóa độc đáo của cộng đồng các dân tộc
Việt Nam. Phát huy tiềm năng, khuyến khích sáng tạo văn học nghệ thuật, sáng tác
những tác phẩm văn học nghệ thuật tiêu biểu phản ánh sức sáng tạo của nền văn hóa
mới.


Tham luận của các đại biểu bên cạnh việc khẳng định những thành tựu đáng kể trên
lĩnh vực phát triển văn hóa sau 15 năm triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 5
khóa VIII cũng đã nêu và phân tích nguyên nhân của những hạn chế trong xây dựng
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Đó là, nhiều giải pháp chưa được thực hiện triệt để, hiệu quả; yếu tố văn hóa trong xây
dựng văn hóa chưa được đề cao để xác định phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh
tế-xã hội ở địa phương. Xây dựng cơ quan văn hóa hiệu quả còn thấp. Tình trạng suy
thoái về đạo đức lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, nhân dân vẫn diễn ra
nghiêm trọng. Năng lực, hiệu lực quản lý nhà nước về văn hóa có lúc còn lúng túng, bị
động trước sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Quản lý thị trường văn hóa chưa
đạt hiệu quả như mong muốn. Việc xây dựng luật, các chính sách về văn hóa triển khai
chậm, hạn chế về tính thực tiễn.
Vai trò hướng dẫn, quản lý nhà nước ở một số lĩnh vực có lúc còn buông lỏng. Bệnh
thành tích, hình thức trong xây dựng đời sống văn hóa, trong phong trào toàn dân đoàn
kết xây dựng đời sống văn hóa còn nặng nề…/.
Nguồn www.rfa.org, vietnamplus.vn
*vận dụng tư tưởng hcm xây dựng một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc
dân tộc

II. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa vào việc xây dựng nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay 1.
Thực trạng nền văn hóa Việt Nam trong thời gian qua a. Thành tựu Trong điều kiện đất
nước ta đi lên xã hội chủ nghĩa, trải qua hơn mười năm đổi mới, cùng với những thay
đổi tích cực của nền kinh tế xã hội, văn hóa Việt Nam cũng đã đạt được những thành
tựu đáng kể. Trong lĩnh vực tư tưởng, lối sống và đạo đức, chúng ta luôn đi theo con
đường chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây chính là con đường đúng
đắn mà nước ta đã kiên định từ đầu, vận dụng sáng tạo để phát triển nền văn hóa dân


tộc, đảm bảo cho đời sống tinh thần xã hội phát triển đúng hướng. Đảng ta luôn lấy chủ
nghĩa Mác – Lênin và tư tương Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng,
kim chỉ nam cho mọi hành động. Các cán bộ, đảng viên luôn có ý thức phấn đấu cho
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tinh thần trách nhiệm và năng lực tổ chức thực
tiễn. Nhiều nét mới trong giá trị văn hóa và chuẩn mực đạo đức từng bước hình thành.
Mỗi công dân được khuyến khích và có cơ hội phát huy tính năng động, tích cực, sở
trường và năng lực cá nhân. Do đó, không khí dân chủ 4 trong xã hội ngày càng tăng
lên. Thế hệ trẻ tiếp thu nhanh những kiến thức mới và có ý chí vươn lên lâp thân, lập
nghiệp, xây dựng và bảo vệ tổ quốc.Những việc làm thiết thực hướng về cội nguồn, về
cách mạng và kháng chiến, nhớ ơn các anh hùng dân tộc, quý trọng danh nhân văn
hóa, đền ơn đáp nghĩa những người có công với đất nước, lá lành đùm lá rách trở
thành phong trào quần chúng. Mọi công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo
hoặc không theo một tôn giáo nào. Nhà nước bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo của công dân, không ai được xâm phạm quyền tự do ấy. Sự nghiệp giáo dục thu
được những thành tựu quan trọng, góp phần nâng cao dân trí, trình độ học vấn của
nhân dân, làm tăng thêm sức mạnh nội sinh. Ứng dụng khoa học - kĩ thuật ngày càng
phổ biến trong hoạt động sản xuất và đời sống giúp nâng cao chất lượng cuộc sống
người dân, hiệu quả sản xuất. Trên lĩnh vực văn học, nghệ thuật, các hoạt động sáng
tạo có bước phát triển mới. Các bộ môn nghệ thuật truyền thống được giữ gìn, phát
huy và nhiều bộ môn nghệ thuật mới được sáng tạo thêm hoặc học hỏi từ các nước

bạn bè trên thế giới. Hoạt động lý luận, phê bình đã đạt được những kết quả tích cực,
khẳng định mạnh mẽ văn nghệ cách mạng và kháng chiến, đẩy lùi một bước những
quan điểm sai trái. Số đông văn nghệ sĩ được rèn luyện và thử thách trong thực tiễn
cách mạng, có vốn sống, giàu lòng yêu nước; trước những biến động của thời cuộc và
những khó khăn của đời sống vẫn giữ gìn được phẩm chất, kiên định quan điểm sáng
tác phục vụ nhân dân, làm sứ mệnh người nghệ sĩ - chiến sĩ. Nhiều văn nghệ sĩ tuổi
cao, vẫn tiếp tục sự nghiệp sáng tạo, lớp trẻ có nhiều cố gắng tìm tòi cái mới. Văn học,
nghệ thuật các dân tộc thiểu số có bước tiến đáng kể. Đội ngũ những nhà văn hoá
người dân tộc thiểu số phát triển cả về số lượng, chất lượng, đã có những đóng góp
quan trọng vào hầu hết các lĩnh vực văn học, nghệ thuật. 5 Thông tin đại chúng phát


triển nhanh cả về số lượng và quy mô, về nội dung và hình thức, về in ấn, phát hành,
truyền dẫn, ngày càng phát huy vai trò quan trọng trong đời sống văn hoá tinh thần của
xã hội. Hệ thống mạng thông tin trong nước và quốc tế được thiết lập, tạo khả năng lựa
chọn, khai thác các nguồn thông tin bổ ích phục vụ đông đảo công chúng. Đội ngũ các
nhà báo ngày càng đông và có bước trưởng thành về chính trị, tư tưởng và nghiệp vụ.
Hoạt động giao lưu văn hoá với nước ngoài được mở rộng. Chúng ta có dịp tiếp xúc
rộng rãi với những thành tựu văn hoá nhân loại, đồng thời giới thiệu với nhân dân các
nước khác những giá trị tốt đẹp, độc đáo của văn hoá Việt Nam. Đảng và Nhà nước đã
quan tâm tăng cường bộ máy tổ chức, ban hành những văn bản pháp luật nhằm điều
chỉnh hoạt động của ngành văn hoá. Cơ sở vật chất phục vụ cho các hoạt động văn
hóa được nâng cao, xây dựng thêm nhiều nhà văn hoá, câu lạc bộ, bảo tàng, thư viện,
cửa hàng sách báo, khu vui chơi giải trí…và đã có những phương thức hoạt động mới
có hiệu quả. b. Yếu kém Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, nền văn hóa nước ta
vẫn còn tồn tại nhiều yếu kém. Trước hết là ở trong nhận thức tư tưởng, trong đạo đức
và lối sống của người dân, ngay cả trong nội bộ cán bộ, đảng viên.Trước những biến
động chính trị phức tạp trên thế giới, một số người dao động, hoài nghi về con đường
xã hội chủ
nghĩa, phủ nhận thành quả của chủ nghĩa xã hội hiện thực trên thế giới, phủ nhận con

đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, phủ nhận lịch sử cách mạng hào hùng của
nước Việt Nam ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản. Nhiều người còn sùng bái
nước ngoài, coi thường những giá trị văn hoá dân tộc, chạy theo lối sống thực dụng, cá
nhân vị kỷ…đang gây hại đến thuần phong mỹ tục của dân tộc. Không ít trường hợp vì
đồng tiền và danh vị mà chà đạp lên 6 tình nghĩa gia đình, quan hệ thầy trò, bạn bè,
đồng chí, đồng nghiệp. Hoạt động buôn lậu và nạn tham nhũng phát triển. Ma tuý, mại
dâm và các tệ nạn xã hội khác gia tăng. Nạn mê tín dị đoan khá phổ biến, gây nghiều
hậu quả xấu cho nhân dân. Nhiều hủ tục cũ và mới lan tràn, nhất là trong việc cưới xin,
tang lễ, lễ hội… Nghiêm trọng hơn là sự suy thoái về đạo đức, lối sống ở một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ có chức, có quyền. Nạn tham
nhũng, dùng tiền của Nhà nước tiêu xài phung phí, ăn chơi sa đoạ không được ngăn
chặn có hiệu quả. Hiện tượng quan liêu, cửa quyền, sách nhiễu nhân dân, kèn cựa địa


vị, cục bộ, địa phương, bè phái mất đoàn kết khá phổ biến. Những tệ nạn đó gây sự bất
bình của nhân dân, làm tổn thương uy tín của Đảng, của Nhà nước. Nhiều biểu hiện
tiêu cực trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo làm cho xã hội lo lắng như sự suy thoái đạo lý
trong quan hệ thầy trò, bạn bè, môi trường giáo dục xuống cấp, lối sống thiếu lý tưởng,
hoài bão, ăn chơi, nghiện ma tuý…ở một bộ phận học sinh, sinh viên. Nhiều học sinh,
sinh viên có hiện tượng coi nhẹ giáo dục đạo đức, thẩm mỹ và các bộ môn chính trị,
khoa học xã hội và nhân văn, những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta. Đời
sống văn học, nghệ thuật còn những mặt bất cập. Nhiều tác phẩm được tạo ra chỉ với
mục đích thương mại mà không mang tính nghệ thuật, nhân văn . Trong sáng tác và lý
luận, phê bình, đã có lúc nảy sinh khuynh hướng phủ nhận thành tựu văn học cách
mạng và kháng chiến, đối lập văn nghệ với chính trị, nhìn xã hội với thái độ bi quan.
Một số ngành nghệ thuật như điện ảnh, sân khấu, đặc biệt là sân khấu truyền thống
gặp rất nhiều khó khăn, chưa hướng tới được đông đảo nhân dân.Lãnh đạo quản lý
trong xuất bản văn học, nghệ thuật còn nhiều sơ sở. Thiếu sự đầu tư trọng điểm và lâu
dài cho sự ra đời những tác phẩm lớn, cho việc giữ gìn và phát triển những ngành nghệ
thuật truyền thống. Về thông tin đại chúng, còn nhiều sản phẩm chất lượng thấp, chưa

kịp thời phát 7 hiện và lý giải những vấn đề lớn do cuộc sống đặt ra. Báo chí chưa biểu
dương đúng mức những điển hình tiên tiến trên các lĩnh vực, cũng như thiếu sự phê
phán kịp thời những việclàm trái với đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước và
đạo đức xã hội. Không ít trường hợp thông tin thiếu chính xác, làm lộ bí mật quốc gia.
Xu hướng lạm dụng quảng cáo để thu lợi còn khá phổ biến. Một số ít nhà báo đã vi
phạm đạo đức nghề nghiệp, thông tin thiếu trung thực, gây tác động xấu đến dư luận
xã hội, nhưng chưa được xử lý kịp thời theo pháp luật. Giao lưu văn hoá với nước
ngoài chưa tích cực và chủ động, còn nhiều sơ hở. Số văn hoá phẩm đồi trụy, phản
động xâm nhập vào nước ta còn quá lớn, trong khi đó, số tác phẩm văn hoá có giá trị
của ta đưa ra bên ngoài còn quá ít. Lực lượng hoạt động văn hoá - văn nghệ trong
cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài hiện nay không nhỏ, đã có những công trình
nghiên cứu, tác phẩm văn học, nghệ thuật tốt hướng về Tổ quốc. Song chúng ta còn
thiếu những biện pháp tích cực giúp đồng bào tìm hiểu sâu văn hoá dân tộc, liên hệ
mật thiết với tổ quốc, góp phần đấu tranh với những hoạt động chống phá đối với Tổ
quốc. Chính sách khuyến khích và định hướng đầu tư xã hội cho phát triển văn hoá còn


chưa rõ. Ở nhiều vùng nông thôn, nhất là vùng sâu,vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc
thiểu số, vùng căn cứ cách mạng, kháng chiến trước đây, đời sống văn hoá còn quá
nghèo nàn.
Để khắc phục được những yếu kém, phát huy những lợi thế đó, Đảng và nhà nước ta
phải có những chính sách đúng đắn, hợp lý,từ đó xây dựng một nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trên cơ sở vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về văn
hóa. 8 2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa vào việc xây dựng nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong công cuộc đổi mới hiện nay a. Nền
văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc Theo Hiến pháp sửa đổi (1993) thì nền văn
hóa đậm đà bản sắc dân tộc tức là nền văn hóa mang đầy đủ các nội dung về yếu tố
dân tộc, dân chủ, nhân văn và hiện đại. Tính dân tộc thể hiện qua 3 khía cạnh : là nền
văn hóa có cội nguồn, gốc rễ dân tộc, phát triển dựa trên điều kiện sức mạnh của dân
tộc và phát triển luôn luôn vì lợi ích dân tộc, vì hạnh phúc, phồn vinh của dân tộc. Tính

dân chủ được biểu hiện thông qua sự mở rộng và phát triển dân chủ để khẳng định chủ
thể của nền văn hóa thuộc về nhân dân, để khai thác triệt để tiềm nặng văn hóa dân
tộc, phát hiện và phát triển những tài năng văn hóa. Tính nhân văn của nền văn hóa
biểu hiện sự trân trọng những giá trị của con người, nền văn hóa thấm nhuần những
giá trị nhân đạo sâu sắc và phát triển nhấn mạnh quy luật quan hệ nhân tính, khẳng
định vai trò văn hóa ở con người, khoan dung và mang nặng tính người. Tính hiện đại
của nền văn hóa thể hiện qua việc phát triển nền văn hóa dựa trên cơ sở vật chất ngày
càng hiện đại, dựa trên khoa học - công nghệ hiện đại và phục vụ cho việc đào tạo,
giáo dục con người theo hướng hiện đại, phát triển dựa trên tư tưởng tiến bộ xã hội.
Như vậy, nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc được hiểu qua hai đặc trưng:
tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc. Nền văn hóa tiên tiến là nền văn hóa yêu nước và
tiến bộ xã hội mà nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội theo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, mang tinh thần dân chủ, nền
văn hóa mà trong đó dân chủ là yếu tố làm thay đổi nhiều mặt của đời sống văn hóa
dân tộc, là tiền đề quan trọng cho sự phát triển văn hóa, tạo động lực cho sự phát triển
tài năng, nhu cầu sáng tạo của quần 9 chúng nhân dân. Đó là nền văn hóa mang tính
nhân văn, nhân đạo sâu sắc, phản ánh mối quan hệ hài hòa giữa con người và con


người, giữa con người với tự nhiên, phát triển vì sự phát triển toàn diện và hạnh phúc
của con người, mang tính hiện đại về trình độ dân trí, khoa học, công nghệ Nền văn
hóa tiên tiến không chỉ trong nội dung tư tưởng mà cả trong hình thức biểu hiện, trong
các phương tiện chuyển tải nội dung. Nền văn hóa tiên tiến cũng là nền văn hóa đậm
đà bản sắc dân tộc. Tính chất dân tộc luôn luôn gắn bó với tính chất tiên tiến của nền
văn hóa và hai mặt này liên quan biện chứng với nhau. Bản sắc văn hóa của một dân
tộc là những đặc trưng về văn hóa, về đời sống tinh thần dân tộc ấy, là những nét đặc
biệt, độc đáo về tinh thần, về văn hóa, về cách sống và sức sáng tạo để phân biệt dân
tộc này với dân tộc khác. Bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam là hạt nhân của tinh thần
sáng tạo của dân tộc, truyền từ đời này sang đời khác, được làm giàu thêm bằng kinh
nghiệm cuộc sống và sự sáng tạo của các thế hệ. Qua các thời đại lịch sử đấu tranh

dựng nước và giữ nước, yêu nước đã trở thành một giá trị truyền thống của văn hóa
dân tộc. Nó trở thành giá trị cao nhất trong các thang bậc giá trị văn hóa Việt Nam và là
một động lực cực kỳ to lớn. Chính vì vậy, nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc trước
hết là nền văn hóa yêu nước. Có thể nói yêu nước và tiến bộ vừa là đặc trưng bao quát
nhất của nền văn hóa tiên tiến, vừa là đặc trưng của bản sắc dân tộc. b. Vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa vào xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc trong công cuộc đổi mới hiện nay
Nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc chỉ có thể phát triển bền vững và phát huy đầy đủ
bản sắc của nó trên cơ sở tiếp thu được những tinh hoa trí tuệ của loài người, nền văn
hóa tiên tiến phải là nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc nhưng không thể tách khỏi
quan hệ với thế giới. Bởi xu thế toàn cầu hóa đang diễn ra là tất yếu xu thế đó là khách
quan, mang tính thời đại. Hơn nữa, toàn cầu hóa là một 10 quá trình đầy mâu thuẩn,
phức tạp, mặt tất yếu kỹ thuật, kinh tế là mặt tích cực có lợi ta phải tận dụng, song cũng
không thể bỏ qua mặt xã hội kinh tế, mặt bản chất giai cấp của quá trình toàn cầu hóa.
Yêu cầu đó đòi hỏi phải quán triệt sâu sắc di sản văn hóa Hồ Chí Minh. Tăng cường và
đổi mới công tác lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và phát huy vai trò của các
đoàn thể nhân dân đối với các hoạt động văn hóa, xã hội, đồng thời tạo nên sự tham
gia tích cực hơn nữa của toàn xã hội trong công tác này. Trước những yêu cầu bức xúc
của sự nghiệp đổi mới, đòi hỏi phải quan tâm sâu sắc, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ


Chí Minh về văn hóa nhằm xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc là yêu cầu khách quan. Chúng ta cần triển khai thực hiện những biện pháp cơ
bản sau: Một là, nâng cao nhận thức về vai trò của văn hóa đối với sự phát triển những
giá trị xã hội chủ nghĩa. Văn hóa là sản phẩm hoạt động sáng tạo của con người. Nó
không phải là cái gì tồn tại tự nó, bên ngoài cộng đồng nhân loại, mà là toàn bộ những
giá trị bao gồm hệ thống tri thức, hành động, kinh nghiệm xã hội, tạo thành môi trường
văn hóa nuôi dưỡng đời sống tinh thần của con người, hướng con người vươn tới
những lý tưởng cao đẹp và quyết tâm phấn đấu vì tương lai, hạnh phúc và sự hoàn
thiện con người. Phong trào văn hóa, đấu tranh trên lĩnh vực văn hóa - nghệ thuật và

những thắng lợi trên lĩnh vực này tạo thêm những tiền đề cho sự nghiệp giải phóng và
sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩ. Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh
hùng hồn sức mạnh của văn hóa Việt Nam khi nó được khơi dậy trong lòng dân tộc.
Với sức mạnh truyền thống văn hóa Việt Nam, kết hợp với tinh hoa văn hóa nhân loại,
nhân dân ta đã giành được thắng lợi huy hoàng trong kháng chiến chống thực dân
Pháp và đế quốc xâm lược Mỹ. Trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền, chủ nghĩa
xã hội là lý tưởng, nguyện vọng của quần chúng, trở thành động lực cách mạng to lớn;
phong trào văn hóa, đấu tranh trên 11 lĩnh vực văn hóa - nghệ thuật và những thắng lợi
trên lĩnh vực này tạo thêm những tiền đề cho sự nghiệp giải phóng và sự nghiệp cách
mạng xã hội chủ nghĩa. Sức mạnh diệu kỳ của văn hóa đã nâng tầm vóc dân tộc Việt
Nam trong hơn nửa thế kỷ qua nhắc nhở chúng ta phải đặc biệt coi trọng yếu tố văn
hóa trong quá trình đổi mới đất nước hiện nay. Trong bối cảnh ngày nay, cần có sự
thống nhất cao về nhận thức trong toàn bộ hệ thống chính trị và toàn xã hội về tầm
quan trọng của văn hóa cả về lĩnh vực lý luận, thực tiễn và công tác chỉ đạo xây dựng
phát triển văn hóa. Đường lối phát triển văn hóa là hình ảnh phản chiếu bản chất của
chế độ xã hội. Thể hiện bản chất khác nhau giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội,
không chỉ ở hệ thống chính trị, hệ thống kinh tế, mà còn ở chính sách văn hóa, phát
triển văn hóa lành mạnh, phát triển những giá trị công bằng, bình đẳng, nhân đạo, tiến
bộ là mục tiêu hướng tới của công cuộc đi lên xã hội chủ nghĩa. Xây dựng và phát triển
văn hóa liên quan và tác động chặt chẽ với các lĩnh vực khác, cùng nhằm đảm bảo đẩy
mạnh phát triển kinh tế - xã hội, nhu cầu giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Chính
vì vậy, xét trên cả khía cạnh nội dung và hình thức, phát triển văn hóa chiếm một vị trí


đặc biệt quan trọng trong quá trình đổi mới đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa
mà mỗi tổ chức Đảng và toàn bộ hệ thống chính trị và toàn xã hội phủ nhận thức rõ và
thực hiện nghiêm túc. Do vậy cần phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền trước tiên là
trong
các cấp ủy Đảng, và toàn bộ Đảng viên, sau đó là tuyên truyền cho toàn xã hội nhận
thức một cách đúng đắn, đầy đủ tư tưởng của Hồ Chí Minh về văn hóa, vai trò của văn

hóa, yêu cầu xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong điều kiện
phát triển kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Hai là, tăng cường sự lãnh đạo
của Đáng, phát huy vai trò quản lý của Nhà nước, phát huy vai trò của các đoàn thể
nhân dân, đồng thời đẩy mạnh công tác xã hội hóa trong xây dựng và phát triển nền
văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. 12 Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam và quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa đối với mọi hoạt động văn hóa là vấn
đề có tính nguyên tắc, là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp xây dựng nền văn
hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc ngày nay. Sự lãnh đạo của Đảng là vấn đề bảo
đảm về chính trị, tư tưởng để xây dựng nền văn hóa trên nền tảng của hệ tư tưởng của
giai cấp công nhân, đi đúng quỹ đạo và mục tiêu xác định. Có phát huy vai trò quản lý
của Nhà nước mới tập trung được nguồn đầu tư đúng hướng đi liền với tăng cường
quản lý, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời phát huy vai trò của các
đoàn thể nhân dân, thực hiện xã hội hóa công tác xã hội, nhằm phát huy cao nhất tiềm
năng, sức mạnh của các đoàn thể, của cá nhân, cộng đồng và của toàn xã hội vào việc
đầu tư, lưu giữ, củng cố các giá trị văn hóa vào giải quyết các vấn đề xã hội. Nhà nước
cần phải tăng cường quản lý văn hóa, tuy nhiên sự quản lý của Nhà nước thông qua hệ
thống pháp luật và có những cách thức phù hợp, linh hoạt. Nhà nước đầu tư vào
những lĩnh vực, những khía cạnh không hoặc ít có khả năng xã hội hóa. Xã hội hóa xây
dựng, phát triển văn hóa trước hết ở việc huy động các nguồn lực đóng góp vào sự
nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa. Có những chính sách mang lại quyền lợi thiết
thân cho chính người dân, thì đó chính là "đem tài dân, sức dân làm lợi cho dân". Xã
hội hóa không chỉ có ý nghĩa giải quyết vấn đề tài chính, mà còn khẳng định truyền
thống nhân nghĩa, tăng thêm trách nhiệm của cộng đồng, xây dựng tinh thần đoàn kết
dân tộc nếu không phát huy sức mạnh của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế, thì


Nhà nước tự mình không thể đảm đương nổi. Thực tế những năm qua cho thấy, nhiều
chương trình xoá đói, giảm nghèo, lao động và việc làm, để đền ơn đáp nghĩa, hỗ trợ
nhân đạo, toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư chỉ thành công
khi phát huy đầy đủ vai trò của các tổ chức đoàn thể xã hội, doanh nghiệp và cá nhân

trong xã hội. Đó chính là thực hiện phương châm cái gì xã hội làm tốt hơn Nhà 13 nước
thì để xã hội làm, Nhà nước chỉ hướng dẫn, hỗ trợ bằng định chế luật pháp; cái gì mà
xã hội không thể làm hoặc làm không tốt, thì Nhà nước có trách nhiệm phải làm; mặt
khác Nhà nước phải quan tâm xây dựng, hoàn thiện cơ chế chính sách, chế tài ổn định
đáp ứng yêu cầu xã hội hóa hoạt động văn hóa. Ba là, giải quyết đúng đắn mối quan hệ
giữa phát triển kinh tế với xây dựng và phát triển văn hóa, xã hội. Thống nhất giữa phát
triển kinh tế với phát triển văn hóa, đòi hỏi việc xác định mỗi chính sách kinh tế đều
nhằm thực hiện mục tiêu văn hóa. Đảng và Nhà nước phải lãnh đạo, tìm giải pháp tạo
động lực phát triển kinh tế từ trong cội nguồn và sức mạnh văn hóa, không chạy theo
mục tiêu kinh tế đơn thuần với bất cứ giá nào. Mặt khác, mỗi chính sách phát triển văn
hóa của Nhà nước đều phải dựa trên cơ sở và khả năng kinh tế nhất định và phù hợp
với thực lực kinh tế của đất nước. Trong điều kiện hiện nay, để đẩy mạnh phát triển nền
văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, Đảng, Nhà nước phải tập trung lãnh đạo
phát triển kinh tế, nhằm tạo điều kiện vật chất để phát triển văn hóa. Bởi chúng ta
không thể thực hiện các mục tiêu phát triển văn hóa, xã hội nếu tách rời với các khả
năng kinh tế, không xuất phát từ thực trạng kinh tế - xã hội. Tuy vậy cũng không phải
cứ có tăng
trưởng kinh tế là tự nó giải quyết được các vấn đề văn hóa. Trong nhiều trường hợp có
tăng trưởng kinh tế mà không có quan điểm đúng đắn về văn hóa thì thành quả tăng
trưởng kinh tế cũng chệch khỏi các mục tiêu văn hóa, xã hội. Do đó, không phải chờ
đến khi kinh tế phát triển mới giải quyết các vấn đề văn hóa, mà trong từng hoàn cảnh,
điều kiện, bước đi của tăng trưởng kinh tế cần lựa chọn mức độ, hình thức và biện
pháp phát triển văn hóa cho phù hợp. Đường lối phát triển văn hóa - xã hội đúng đắn
thì sẽ tạo ra động lực đối với sự phát triển của đất nước. Trong điều kiện nền kinh tế thị
trường và hội nhập kinh tế quốc tế, nếu không có quan điểm phát triển văn hóa, xã hội
đúng đắn, sẽ có nguy cơ đẩy xã hội đi đến phân cực thái quá, giữa người giàu và


người nghèo, giữa nông thôn và 14 thành thị, giữa vùng thuận lợi và vùng khó khăn
cùng nhiều tệ nạn xã hội sẽ xuất hiện, giá trị truyền thống bị mai một, văn hóa - văn

nghệ chạy theo thị hiếu thấp hèn Những biểu hiện ấy nếu để tích tụ lâu ngày sẽ không
chỉ kìm hãm sự phát triển kinh tế - xã hội, mà còn đe dọa đến sự ổn định chính trị. Do
vậy Đảng và Nhà nước cần quan tâm đề ra cách tổ chức, thực hiện có hiệu quả đường
lối, chủ trương, chính sách, pháp luật để giải quyết đúng đắn, hài hòa quan hệ giữa
phát triển kinh tế với xây dựng phát triển văn hóa. Bốn là, xây dựng văn hóa phải bắt
đầu với tư cách là chủ thể của văn hóa. Con người là chủ thể chân chính sáng tạo ra
những giá trị văn hóa, đồng thời là sản phẩm của môi trường văn hóa. Những phẩm
chất cá nhân của con người được hình thành và phát triển trong quá trình phát triển
của nền văn hóa. Hồ Chí Minh đã chỉ dẫn: Phải làm thế nào cho văn hóa đi sâu vào tâm
lý quốc dân, nghĩa là làm cho văn hóa phải sửa đổi được tham nhũng, lười biếng, xa
hoa, xa xỉ. Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi. Ngày nay, trước tác động của kinh
tế thị trường và hội nhập, những cơ hội và thách thức, trước cả thăng hoa và cám dỗ,
văn hóa phải trở thành nhân tố thúc đẩy con người tự hoàn thiện nhân cách, kế thừa
truyền thống cách mạng, phát huy truyền thống yêu nước, ý chí tự lực, tự cường, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Văn hóa phải tham gia tích cực vào việc phát triển nguồn
nhân lực, đào luyện nhân tài cho đất nước. Đảng và Nhà nước phải lãnh đạo để mọi
hoạt động văn hóa đều nhằm vào xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về
chính trị, tư tưởng, đạo đức, thể chất, năng lực, tính sáng tạo, có ý thức cộng đồng,
lòng nhân ái, khoan dung, tôn trọng nghĩa tình, có lối sống văn hóa, quan hệ hài hòa
trong gia đình, cộng đồng và xã hội. Năm là, giữ vững và phát huy bản sắc văn hóa dân
tộc trong quá trình giao lưu hội nhập quốc tế. Trước xu thế khu vực hóa, toàn cầu hóa
của thế giới hiện nay, không một quốc gia nào có thể phát triển trong sự tách biệt với
thế giới. Tình hình đó đang mở ra thời cơ lớn để tiếp thu những tinh hoa văn hóa, văn
minh nhân loại, làm phong 15 phú thêm cho văn hóa dân tộc.Tuy nhiên, quá trình đó
không phải chỉ diễn ra theo chiều thuận, mà có cả chiều nghịch. Nếu không có một bản
lĩnh vững vàng, một chiến lược phát triển văn hóa đúng đắn thì việc mở cửa giao lưu
sẽ dẫn đến nguy cơ sùng ngoại, đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc, văn hóa chỉ còn là
bản sao vụng về, mờ nhạt của một thứ văn hóa vay mượn, ngoại lai. Do vậy, chúng ta
ghi nhớ tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh: Bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc và tiếp thu tinh



hoa văn hóa nhân loại là hai mặt của một quá trình, hai mặt đó luôn luôn kết hợp chặt
chẽ với nhau, bất cứ một sự lệch lạc nào cũng đưa đến những tổn hại cho việc xây
dựng nền văn hóa mới. Trong lãnh đạo, xây dựng phát triển văn hóa, Đảng ta nhấn
mạnh: Phải lấy bản sắc văn hóa dân tộc làm nền tảng, làm bản lĩnh, nền tảng, bản lĩnh
có vững vàng thì mới tiếp thu được những tinh hoa văn hóa nhân loại đúng đắn; mới
chắt lọc được những gì thực sự là tinh hoa và mới vứt bỏ được những gì là phế thải
của bất cứ loại phản văn hóa nào từ bên ngoài. Bảo vệ
bản sắc văn hóa dân tộc phải gắn liền với lãnh đạo việc nâng cao nhận thức, tư tưởng,
nâng cao những hiểu biết về văn hóa, khoa học hiện đại của quần chúng nhân dân, để
quần chúng phân biệt được những gì thực sự là chân, thiện, mỹ với những cái giả, cái
ác, cái xấu; nhận cái hay, bỏ cái dở. Cần quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh: Cái
gì cũ mà tốt thì phải phát triển thêm, cũ mà xấu thì phải bỏ; mới mà hay thì phải làm;
mới mà dở, hoặc không phù hợp với con người Việt Nam thì không tiếp nhận.Giữ gìn
và phát huy những giá trị truyền thống, vun trồng những giá trị nội sinh của dân tộc, tạo
cơ sở vững chắc để tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại và thời đại ngày nay đang
là yêu cầu khách quan trong quá trình xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc
dân tộc ở Việt Nam. Điều đó đòi hỏi Đảng, Nhà nước, các đoàn thể nhân dân phải tiếp
tục quan tâm sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh để xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. C. KẾT LUẬN : 16 Vận dụng tốt tư tưởng Hồ Chí Minh về
Đời sống văn hóa mới là điều cần thiết, cấp bách trong thời đại hiện nay - thời đại kinh
tế thị trường kéo theo nguy cơ biến đổi các giá trị văn hóa truyền thống. Thực hiện câu
nói của Bác Hồ: "Văn hóa soi đường cho quốc dân đi", việc xây dựng và phát triển văn
hóa Việt Nam trong những năm sắp tới là khát vọng to lớn và quyết tâm chiến lược của
Ðảng ta nhằm phát triển mạnh mẽ văn hóa dân tộc, chấn hưng đất nước, đưa nước ta
thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, vươn lên sánh vai với các nước trên thế giới. Điều đó
đòi hỏi phải có sự đồng lòng của toàn dân tộc ta trong việc xây dựng một nền văn hóa
tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, từ đó làm nền tảng để thực hiện công cuộc đổi mới
đất nước, đi lên xã hội chủ nghĩa. Thế hệ trẻ là những chủ nhân tương lai của đất
nước, gánh trên vai trách nhiệm xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước. Là thế hệ trẻ

- những người được lĩnh hội tri thức, thế hệ sinh viên cần góp sức của mình vào công


cuộc xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, lấy đó làm nền tảng phát
triển kinh tế, chính trị, xã hội cho đất nước. Muốn thế, mỗi sinh viên phải luôn có ý thức
nỗ lực học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Có như vậy, nền văn hóa
của dân tộc ta mới thực sự là nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, Việt Nam
ta mới có thể “bước tới đài vinh quang để sánh vai cùng các cường quốc năm châu”.



×