Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Đề tài số 5: Nguyên tắc “suy đoán vô tội” của bộ luật tố tụng hình sự năm 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (103.98 KB, 18 trang )

MỞ BÀI
Suy đoán vô tội là một trong những nguyên tắc cơ bản được ứng dụng rộng rãi
trong nền khoa học pháp lý hiện đại. Ngày nay, nguyên tắc suy đoán vô tội được
nhiều Nhà nước coi là nguyên tắc của tố tụng hình sự, đưuóc đánh giá là thành tựu
vĩ đại của văn minh pháp lý trong việc bảo vệ quyền con người. Nguyên tắc này đã
được công nhận trong tuyên ngôn nhân quyền 1948 và công ước quốc tế về các
quyền dân sự và chính trị năm 1966 của Liên hợp quốc, đó là: “bất kỳ người bị buộ
tội nào đều có quyền suy đoán là không phạm tội cho đến khi lỗi của người đó
đưuọc xác định theo một trình tự do pháp luật quy định bằng phiên tòa xét xử công
khai của Tòa án với sự đảm bảo đầy đủ khả năng bào chữa của người đó”. Pháp
luật tố tụng hình sự của nhiều nước trên thế giới đã thừa nhận nguyên tắc trên và
coi nguyên tắc suy đoán vô tội là một trong những nguyên tắc tố tụng hình sự của
quốc gia mình. Vậy ở quốc gia Việt Nam chúng ta đã thừa nhận, vận dụng cũng
như thực hiện nguyên tắc “suy đoán vô tội” như thế nào? Để hiểu hơn về vấn đề
này, em xin chọn đề tài số 5 làm bài tập lớn của mình: “: Nguyên tắc “suy đoán vô
tội” của bộ luật tố tụng hình sự năm 2015”.

NỘI DUNG
I. Những vấn đề chung và nội dung nguyên tắc suy đoán vô tội trong Bộ
luật tố tụng hình sự 2015.
1. Sơ lược về nguyên tắc suy đoán vô tội.
Suy đoán vô tội là một trong những nguyên tắc cơ bản, được ứng dụng rộng rãi
trong nền khoa học pháp lý hiện đại. Ngày nay, nguyên tắc suy đoán vô tội được
nhiều Nhà nước coi là một nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự, được đánh giá là
thành tựu vĩ đại của văn minh pháp lý trong việc bảo vệ quyền con người.

1


Trước đây, tại Điều 72 của Hiến pháp năm 1992 có quy định: “Không ai bị coi là
có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực


pháp luật”. Điều 9 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 đã cụ thể hóa quy định
trên và coi nội dung này là một nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự nước ta. Tuy
nhiên, nguyên tắc ở Điều 72 Hiến pháp năm 1992 cũng như tại Điều 9 của Bộ luật
tố tụng hinh sự năm 2003 so với nguyên tắc suy đoán vô tội là hoàn toàn khác nhau
về ý nghĩa của chúng. Nội dung của Điều 9 Luật TTHS 2003 là suy diễn về sự có
tội. Còn nguyên tắc suy đoán vô tội chủ thể được đặt ra là người bị buộc tội và sự
suy đoán được đặt theo hướng suy diễn về sự vô tội của người bị buộc tội.
Thực tiễn của các hoạt động điều tra, truy tố và xét xử cho thấy, có một khuynh
hướng nhìn nhận bị can, bị cáo như là người đã được coi là phạm tội, dù tội trạng
của họ chưa được chứng minh. Trong tâm lý học, khuynh hướng đó được gọi là
khuynh hướng buộc tội, còn luật học thì gọi đó là “suy đoán có tội”. Đó chính là
một trong những nguyên nhân của vấn đề án oan, sai hiện nay.
Lần đầu tiên trong lịch sử lập Hiến của Việt Nam, Hiến pháp năm 2013 đặt ra quy
định tại Chương II – “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân”
cụ thể tại Khoản 1 Điều 31 quy định như sau: “Người bị buộc tội được coi là
không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết
tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”. Đó mới chính là nội dung đầy đủ của
một nguyên tắc pháp lý quan trọng: Nguyên tắc suy đoán vô tội.
Để thi hành Hiến pháp, bảo đảm sự phù hợp của pháp luật tố tụng hình sự với Hiến
pháp, BLTTHS tại Điều 13 đã quy định một nguyên tắc hoàn toàn mới của tố tụng
hình sự Việt Nam, đó là “nguyên tắc suy đoán vô tội”
Từ đó có thể hiểu nguyên tắc suy đoán vô tội là nguyên tắc của một loại hình tố
tụng lấy các giá trị công bằng, bình đẳng làm nền tảng; là lá chắn quan trọng và

2


hữu hiệu cho việc tôn trọng bảo vệ và bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình
sự.
2. Nội dung của nguyên tắc suy đoán vô tội trong Bộ luật tố tụng hình sự

2015.
Theo điều 13 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015:
“Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo
trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có
hiệu lực pháp luật.
Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ
tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng
phải kết luận người bị buộc tội không có tội.”
Quy định của BLTTHS năm 2015 có thể hiểu nguyên tắc suy đoán vô tội gồm bốn
nội dung, những nội dung đó đồng thời cũng chính là những đòi hỏi, điều kiện cần
và đủ để có thể tuyên một người có tội hay không có tội.
Thứ nhất, là yêu cầu trình tự, thủ tục của việc chứng minh tội và lỗi của người bị
buộc tội. Yêu cầu này là hợp phần đầu tiên của nguyên tắc suy đoán vô tội.
Người bị buộc tội được coi là vô tội cho tới khi tội và lỗi của người đó được chứng
minh. Nói khác đi, đây là nguyên tắc “lỗi không được chứng minh, đồng nghĩa với
sự vô tội được chứng minh”. Yêu cầu này đã tạo ra sự an toàn pháp lý cho người bị
buộc tội trong toàn bộ quá trình tố tụng hình sự
Việc điều tra, truy tố và xét xử một người phải được tiến hành theo một trình tự,
thủ tục do pháp luật quy định. Nội dung này nhấn mạnh yêu cầu về mặt thủ tục
pháp lý, là dấu hiệu quan trọng nhất của chế độ pháp quyền, theo đó, thủ tục công
khai, minh bạch là đòi hỏi số một cho việc bảo vệ quyền con người chống lại sự
truy bức tùy tiện.

3


Theo tinh thần đó, tại nhiều điều luật cụ thể, BLTTHS năm 2015 đã nhấn mạnh các
yêu cầu nghiêm ngặt về trình tự, thủ tục, coi đó cũng là một nguyên tắc của tố tụng
hình sự. Điều 7 của BLTTHS xác định: “Mọi hoạt động tố tụng hình sự phải được
thực hiện theo quy định của Bộ luật này. Không được giải quyết nguồn tin về tội

phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử ngoài những căn cứ và trình tự, thủ tục do
Bộ luật này quy định”. Chứng cứ sẽ vô hiệu (Điều 86 và Khoản 2 Điều 87), hồ sơ
phải được trả lại để điều tra bổ sung (Điều 280 ), bản án bị hủy để điều tra lại hoặc
xét xử lại khi xét xử phúc thẩm (Điều 358) và trong thủ tục giám đốc thẩm (khoản
3 Điều 371, Điều 388) nếu phát hiện có vi phạm thủ tục tố tụng.
Dưới áp lực của đòi hỏi về tính thủ tục chặt chẽ, BLTTHS năm 2013 đã quy định
trong một chương riêng về các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt. Các biện pháp
đó bao gồm: Ghi âm bí mật, ghi hình bí mật; nghe điện thoại bí mật; thu thập bí
mật dữ liệu điện tử (Điều 233). Trong những trường hợp đó, Bộ luật đã xác định
chặt chẽ nhưng đảm bảo cho việc giữ bí mật nhằm bảo đảm quyền con người,
quyền công dân được Hiến pháp công nhận, bảo đảm và bảo vệ (Điều 21 Hiến
pháp năm 2013). Theo đúng yêu cầu: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có
thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc
phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của
cộng đồng” (khoản 2 Điều 14 Hiến pháp 2013). Bộ luật Tố tụng hình sự cũng quy
định nghiêm ngặt việc sử dụng các thông tin, tài liệu thu thập từ các biện pháp này.
Yêu cầu này được quy định tại Điều 10 của BLTTHS 2015.
Những yêu cầu đó nhằm bảo đảm xác định và xem xét các tình tiết của vụ án một
cách khách quan, toàn diện, đầy đủ, làm rõ các căn cứ xác định có tội và những căn
cứ xác định vô tội, các tình tiết tăng nặng và những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự của bị can, bị cáo.

4


Thứ hai, nghĩa vụ chứng minh tội phạm thuộc trách nhiệm của cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng, người bị buộc tội không có nghĩa vụ chứng minh sự vô
tội của mình,
Yêu cầu về chứng minh tội và lỗi của người bị buộc tội cũng đặt ra vấn đề trách
nhiệm chứng minh. Tại đoạn 1 Điều 15 BLTTHS 2015 quy định: “Trách nhiệm

chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Người bị
buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội”. Điều đó có
nghĩa rằng, cơ quan tiến hành tố tụng không được bắt buộc bị can, bị cáo thực hiện
trách nhiệm đó dưới bất kỳ hình thức nào. Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của
mình, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải áp dụng các biện pháp hợp
pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm
rõ chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, tình tiết tăng nặng và tình
tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội.
Theo đó, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng theo quy định của Bộ luật tố
tụng hình sự hiện hành bao gồm cơ quan tiến hành tố tụng và cơ quan được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.
Cụ thể, cơ quan tiến hành tố tụng gồm: Cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án.
Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra gồm: Các cơ
quan của Bộ đội biên phòng, các cơ quan của Hải quan; các cơ quan của Kiểm lâm,
các cơ quan của lực lượng Cảnh sát biển, các cơ quan của Kiểm ngư, các cơ quan
của Công an nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra và
các cơ quan khác trong Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số
hoạt động điều tra.
Ngược lại, để xác định một người là người phạm tội, trên cơ sở đó truy cứu, áp
dụng trách nhiệm hình sự, các cơ quan tiến hành tố tụng phải chứng minh được
người đó là người thực hiện hành vi bị Luật hình sự coi là tội phạm. Nếu không

5


chứng minh được một người đã thực hiện tội phạm thì không thể kết tội người đó.
Trên thực tế, có thể một người đã thực hiện tội phạm. Về khách quan, họ là người
phạm tội, nhưng nếu không chứng minh được người đó đã thực hiện hành vi được
Luật hình sự coi là tội phạm, thì các cơ quan tiến hành tố tụng cũng không thể truy
cứu, áp dụng trách nhiệm hình sự đối với người đó. Chứng minh tội phạm là một

quá trình. Qúa trình đó diễn ra ở cả giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử. Quyền và
trách nhiệm chứng minh tội phạm không chỉ thuộc về Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát mà còn thuộc về cả Tòa án

Việc người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô
tội, có nghĩa:
- Người buộc tội có quyền chứng minh là mình vô tội.
Người bị buộc tội luôn luôn được quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào
chữa như Hiến pháp và Bộ luật Tố tụng hình sự đã xác định và thực hiện quyền đó
bằng mọi biện pháp hợp pháp, trong đó có việc đưa ra chứng cứ chứng minh sự vô
tội của mình.
Quyền chứng minh của người bị buộc tội thể hiện tính công bằng và minh bạch của
tố tụng hình sự nhằm bảo đảm và bảo vệ công lý. Theo BLTTHS năm 2015, những
người tham gia tố tụng như người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, bị hại, nguyên đơn dân
sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án đều có quyền
đưa ra chứng cứ mà không chỉ là đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu. Đồng thời, những
người này cũng có quyền trình bày ý kiến của mình về chứng cứ do các chủ thể tố
tụng khác đưa ra, yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh
giá chứng cứ đó. Người bào chữa ngoài các quyền kể trên còn có quyền thu thập
chứng cứ, đưa ra chứng cứ, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, đề nghị cơ

6


quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ, giám định bổ sung, giám
định lại, định giá lại tài sản (khoản 1 Điều 73 BLTTHS năm 2015).
- Họ không bị buộc phải đưa ra lời khai hoặc phải nêu về những chứng cứ mà
họ có.
Để bảo đảm cho yêu cầu này, Bộ luật Tố tụng hình sự đã đặt ra quy định: “Nghiêm
cấm tra tấn, bức cung, dùng nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm

phạm thân thể, tính mạng, sức khỏe của con người”. Nội dung này được quy định
tại Điều 10 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 quy định chi tiết cụ thể về quyền của bị can, bị cáo,
người bị tạm giữ và người bị bắt khẩn cấp tại các Điểm e) Khoản 1 Điều 58; Điểm
c) Khoản 2 Điều 59; Điểm d) Khoản 1 Điều 60, Hiểm h) khoản 2 điều 61. Theo đó,
các điều khoản này lần lượt ghi nhận: người bị bắt giữ trong trường hợp khẩn cấp,
người bị tạm giữ, bị can và bị cáo đều có quyền “trình bày ý kiến, trình bày lời
khai, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận
mình có tội”.
Người buộc tội cũng có quyền không trả lời các câu hỏi của cơ quan tố tụng và
người tiến hành tố tụng mà nhiều người còn gọi ngắn gọn là “quyền im lặng” của
người bị buộc tội. Nội dung này bắt nguồn từ quyền không buộc phải chứng minh
của bị can, bị cáo và trách nhiệm chứng minh thuộc về cơ quan và người buộc tội,
nhằm bảo đảm tự do và an toàn cá nhân cho người bị buộc tội trong quá trình tố
tụng hình sự. Chúng ta đều biết rằng xuất phát từ yêu cầu này mà trong quá trình
tiến hành các biện pháp điều tra như bắt, tạm giữ, tạm giam, nội dung về quyền của
người bị buộc tội không khai báo chống lại mình đã được coi là một trong những
thủ tục tố tụng bắt buộc. Chẳng hạn ở Mỹ có thủ tục “cảnh báo Miranda”.
Như vậy, có thể hiểu người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự chủ
về việc khai báo. Những gì bất lợi, họ có thể không buộc phải khai báo cũng như

7


không buộc phải nhận mình có tội hay đưa ra những chứng cứ chứng minh vô tội
mà họ có trước cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự.
- Việc họ nhận tội không được coi là chứng cứ duy nhất để dùng làm căn cứ
buộc tội, chỉ khi được khẳng định bằng hệ thống những chứng cứ trong vụ án.
“Lời nhận tội của bị can, bị cáo chỉ có thể được coi là chứng cứ nếu phù hợp với
những chứng cứ khác của vụ án; không được dùng lời nhận tội của bị can, bị cáo

làm chứng cứ duy nhất để buộc tội, kết tội” (khoản 2 Điều 98, BLTTHS năm
2015).
Như vậy cho dù bị can, bị cáo nhận tội, nhưng nếu lời nhận tội đó không phù hợp
với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án hoặc Cơ quan Điều tra không
chứng minh được một cách đầy đủ hành vi phạm tội của họ, thì Tòa án phải kiên
quyết tuyên bố bị can, bị cáo không phạm tội.
- Việc từ chối không tham gia vào việc chứng minh không dẫn đến những hậu
quả tiêu cực, cũng như xác định biện pháp hay trách nhiệm hình sự bất lợi đối với
họ.
Pháp luật tố tụng hình sự nước ta không quy định cụ thể nhưng đã mặc nhiên thừa
nhận quyền im lặng của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Do đó họ có quyền
từ chối không tham gia vào việc chứng minh mình vô tội. Trong trường hợp bị can,
bị cáo thành khẩn khai báo thì sẽ được coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình
sự, thậm chí trong giai đoạn điều tra họ không khai báo hoặc khai báo gian dối
nhưng tại phiên tòa lại thành khẩn khai báo thì họ vẫn được hưởng tình tiết giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự là “thành khẩn khai báo” theo quy định tại Điểm s) Khoản
1 Điều 51 của BLHS 2017.
Thứ ba, Tội và lỗi của người bị buộc tội chỉ có thể được xác định bởi một bản án
đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án.

8


Yêu cầu này tạo thành hợp phần thứ hai của nguyên tắc suy đoán vô tội và kết hợp
với hợp phần thứ nhất vừa nêu tạo nên nội dung tổng thể của nguyên tắc suy đoán
vô tội. Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 cũng đã xác
định: “Bất cứ người nào do bị bắt hoặc bị giam giữ mà bị tước tự do đều có quyền
yêu cầu xét xử trước Tòa án nhằm mục đích để Tòa án đó có thể quyết định không
chậm trễ về tính hợp pháp của việc giam giữ và trả lại tự do nếu việc giam giữ là
trái pháp luật”. “Bất kỳ người nào đều có quyền đòi hỏi việc xét xử công bằng và

công khai do một Tòa án có thẩm quyền, độc lập, không thiên vị và được lập ra
trên cơ sở pháp luật để quyết định về lời buộc tội trong vụ án hình sự.” (các Điều
9.1, 9.2, 9.3, 14.1 Công ước).
Bản án kết tội phải dựa trên các chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, chứng
minh bị cáo có tội. Không được dùng làm chứng cứ những tình tiết do người làm
chứng và những người tham gia tố tụng khác nêu ra nếu họ không thể nói rõ vì sao
biết được tình tiết đó. Những yêu cầu trên đây được quy định tại các điều từ 91 –
94, 98 của BLTTHS 2015 khi nói về chứng cứ, về lời khai của người làm chứng,
của người bị hại, của nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan đến vụ án.
Nguyên tắc suy đoán vô tội đòi hỏi bất cứ tội phạm nào cũng phải được chứng
minh theo trình tự, thủ tục do pháp luật tố tụng hình sự quy định. Quá trình chứng
minh tội phạm được thực hiện từ khi có tố giác, tin báo về tội phạm và thông qua
các thủ tục khởi tố vụ án, khởi tố bị can, tiến hành các hoạt động điều tra, kết thúc
điều tra đề nghị truy tố, truy tố bằng bản cáo trạng và tiến hành xét xử, điều tra
công khai tại phiên tòa.
Nếu có căn cứ để kết tội thì Tòa án sẽ ra bản án kết tội. Một người chỉ có thể bị
coi là có tội khi có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, tức là bản án
của tòa án đã tuyên đối với người này là có tội và bản án đó không bị kháng cáo
khàng nghị, không có căn cứ để giá đốc thẩm hay tái thẩm bản án. Trong trường
9


hợp, bản án kết tội không bị kháng cáo, kháng nghị thì bản án đó có hiệu lực pháp
luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị. Trong trường hợp bản án kết
tội có kháng cáo hoặc kháng nghị thì bản án đó chưa có hiệu lực pháp luật và vụ án
bắt buộc phải được xét xử theo thủ tục phúc thẩm. Bản án phúc thẩm có hiệu lực
pháp luật kể từ ngày Hội đồng xét xử tuyên án.
Thứ tư, mọi nghi ngờ trong quá trình chứng minh tội phạm của người bị tình nghi,
bị can, bị cáo nếu không được loại trừ theo trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng

hình sự quy định thì phải được giải thích có lợi cho người bị tình nghi, bị can, bị
cáo.
Tại Điều 13 BLTTHS năm 2015 diễn đạt yêu cầu đó như sau: “Khi không đủ và
không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật
này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận
người bị buộc tội không có tội”.
Quy định này xuất phát từ tình huống của hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, khi có
sự không rõ ràng trong việc xác định căn cứ của trách nhiệm hình sự, các tình tiết
liên quan đến tội và lỗi của người bị buộc tội mà cả quá trình tố tụng và các nỗ lực
của các cơ quan tiến hành tố tụng đã không thể làm rõ, dẫn đến tình huống hoài
nghi, có mâu thuẫn giữa các hướng giải quyết mà chính các cơ quan đó không thể
khắc phục được. Để chống khuynh hướng buộc tội theo kiểu tư duy: “thà làm oan
còn hơn bỏ lọt”, BLTTHS năm 2015 khẳng định rõ: những hoài nghi đó nhất thiết
phải được giải quyết theo hướng có lợi cho người bị buộc tội. Rõ ràng, đây là một
nội dung quan trọng và trọng tâm của nguyên tắc suy đoán vô tội, phản ánh bản
chất nhân đạo của Tố tụng hình sự dân chủ và pháp quyền, tạo ra lá chắn hữu hiệu
cho sự an toàn pháp lý của người bị buộc tội.
3. Ý nghĩa của nguyên tắc suy đoán vô tội.
Thứ nhất, nguyên tắc suy đoán vô tội đáp ứng yêu cầu chứng minh

10


Chứng minh trong tố tụng hình sự là hoạt động cực kỳ phức tạp, không chỉ là
những hành vi khách quan, những hậu quả thực tế mà còn cả những yếu tố tâm lý
của người phạm tội. Mọi sai lầm trong chứng minh nhiều khi có thể phải trả giá
bằng sinh mệnh của con người. Do đó, nếu chỉ chứng minh theo hướng suy đoán
có tội thì rất dễ dẫn đến việc coi tố tụng hình sự chỉ đơn thuần là việc bắt người và
ra bản án kết tội kèm theo những hình phạt cụ thể. Việc định kiến người bị tình
nghi, bị can, bị cáo là người có tội kéo theo đó là việc áp dụng các biện pháp

cưỡng chế tố tụng tràn lan, thiếu căn cứ, chà đạp lên quyền con người mà nhiều
trường hợp khi vụ án được xem xét lại thì họ hoàn toàn vô tội. Lúc đó, có bồi
thường oan sai đi chăng nữa thì hậu quả đối với họ không thể nói là đã bù đắp
được toàn bộ.
Thứ hai, nguyên tắc suy đoán vô tội còn bảo vệ được quyền của người bị tình nghi,
bị can, bị cáo, người bị bắt giữ.
Hoạt động tố tụng hình sự bao gồm hai nhiệm vụ: Bảo vệ xã hội chống lại hành vi
xâm hại từ phía tội phạm và bảo vệ cá nhân người bị buộc tội chống lại sự xâm hại
quyền con người từ phía công quyền. Suy đoán vô tội còn đem đến sự cân bằng
trong hoạt động tố tụng hình sự giữa một bên là Nhà nước với bộ máy điều tra, truy
tố, xét xử hùng mạnh được hậu thuẫn bằng quyền lực Nhà nước với một bên yếu
thế hơn là người bị tình nghi, bị can, bị cáo. Như vậy, không chỉ là quyền của
người bị buộc tội, nghĩa vụ của bên buộc tội, thể hiện giá trị của văn minh nhân
loại trong việc bảo vệ quyền con người, suy đoán vô tội còn phù hợp với quy luật
của nhận thức trong tố tụng hình sự: Một người luôn vô tội khi Nhà nước không
chỉ ra được những bằng chứng chống lại điều này và chứng minh được họ có tội.
II.

Thực trạng và một số giải pháp để đảm bảo tính hiện thực của nguyên

tắc “suy đoán vô tội” ở nước ta hiện nay.
1. Thực trạng

11


Suy đoán vô tội chính là nguyên tắc tiến bộ, là nét son trong cải cách tư pháp, thể
hiện sự trân trọng số phận con người. Bởi, việc hạn chế quyền nào đó của một con
người là phải hạn chế theo luật định và chỉ trong vài trường hợp mới được hạn chế,
ví dụ vì an ninh quốc gia, vì trật tự công cộng, vì sức khỏe, vì cộng đồng… Thời

gian vừa qua, khi có Hiến pháp mới, chúng ta đã sửa hàng trăm luật để bảo vệ
quyền này. Bộ luật Hình sự cũng được sửa rất nhiều lần, nhưng chỉ có lần này,
quyền con người và quyền công dân mới được đặt lên hàng đầu, để từ đó đặt ra yêu
cầu quá trình tố tụng phải làm thận trọng, chặt chẽ hơn. Việc áp dụng nguyên tắc
này sẽ có lợi rất nhiều cho các bị can, bị cáo, thể hiện rõ hơn quyền con người và
quyền công dân,
Hiện nay, nguyên tắc suy đoán vô tội cũng đã được áp dụng và đảm bảo hơn trên
thực tế. Trong thực tế hoạt động tố tụng hình sự có nhiều người bị buộc tội, bị truy
tố trước Tòa án nhưng Tòa án không kết tội, bản án của Tòa án đã tuyên bố người
bị buộc tội không phạm tội như cáo trạng đã truy tố. Theo báo cán tổng kết công
tác Tòa án hàng năm của Tòa án nhân dân Tối cao thì năm 2013 Tòa án trong cả
nước tuyên án 21 người không phạm tội và năm 2015 đã tuyên án 22 người không
phạ tội. Kết quả cho thấy, không phải người buộc tội nào cũng là người bị kết tội.
Nhà nước cũng đã thay thổi để có thể dảm bảo nguyên tắc suy đoán vô tội được
thực tế hơn. Chẳng hạn như, vị trí đứng của bị cáo cũng có sự thay đổi trong Thông
tư số 1, nếu như trước đây bị cáo sẽ phải đứng trước vành móng ngựa để khai báo
thì nay sẽ không còn vành móng ngựa nữa, thay vào đó là bục khai báo. Việc thay
đổi này là phù hợp với các quy định của Hiến pháp, nguyên tắc cơ bản của Bộ luật
tố tụng hình sự đó là nguyên tắc suy đoán vô tội. Khi buộc bị cáo phải đứng trước
vành móng ngựa như các phiên tòa trước đây, hình ảnh này tạo cảm giác bị cáo
đang đứng sau những tấm song ngăn cách, cách ly khỏi xã hội. Do vậy, bỏ vành
móng ngựa, thay bằng bục khai báo là để cụ thể hóa một cách toàn diện nguyên tắc
suy đoán vô tội trên thực tế.

12


Hay tại vụ án "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" trị giá 16,5 tỷ đồng liên quan đến
Trương Hồ Phương Nga (Hoa hậu người Việt tại Nga năm 2007) là một chủ đề
nóng trên mặt báo lúc đó. Điểm nhấn trong lần xét xử này là việc bị cáo Phương

Nga đã quyết định sử dụng "quyền im lặng". Dù tòa giải thích rằng nếu bị cáo từ
chối việc bào chữa cho chính mình thì cũng là một cách tự gây thiệt hại, tuy nhiên
Phương Nga đã vẫn kiên quyết sử dụng quyền này. Đã được nghi nhận nhiều năm
nhưng chỉ tới khi có vụ án đình đám của Phương Nga, với việc bị cáo của vụ án sử
dụng một cách thành thục, thì quyền im lặng trong Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự mới
được mang ra bàn tán rộng rãi trong dư luận.
Bên cạnh đó còn có một số hạn chế cần phải khắc phục. Thực tế nhiều khi lỡ bắt
rồi nên vẫn cố chứng minh để xử một tội cho tương xứng, điều đó khiến người ta
treo lơ lửng trong khi thực tế họ không mắc phải. Như vậy là vi phạm quyền con
người. Hiện nay có việc khi không chứng minh được họ phạm tội thì thường áp
dụng theo Điều 25 Bộ luật hình sự nói là miễn trách nhiệm hình sự cho họ vì hành
vi của họ không gây hậu quả nghiêm trọng cho xã hội, trong khi thực tế là họ
không có tội
Trong Điều 13 của BLTTHS năm 2015 có quy định: “Người bị buộc tội được coi là
không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này
quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”. Quy định này
được hiểu là trường hợp người bị buộc tội và có bản cáo trạng truy tố trước Tòa án
nhưng chưa có bản án có hiệu lực pháp luật thì người bị buộc tội được suy đoán là
không có tội. Nói cách khác, thời gian suy đoán vô tội của người bị buộc tội là từ
thời điểm Viện kiểm sát buộc tội đến thời điểm bản án kết tội của Tòa án có hiệu
lực pháp luật. Bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật có thể là bản án sơ
thẩm hoặc bản án phúc thẩm. Tuy nhiên, trong thực tế có người bị buộc tội đã có
bản án có hiệu lực pháp luật nhưng người bị kết án đó vẫn được quyền suy đoán là
mình vô tội, đó là khi họ bị kết án oan.

13


Lâu nay, thực tiễn của các hoạt động điều tra, truy tố và xét xử cho thấy, có một
khuynh hướng nhìn nhận bị can, bị cáo như là người đã phạm tội, dù tội trạng của

họ chưa được chứng minh. Đó là “suy đoán có tội” và đây cũng là một trong những
nguyên nhân gây ra án oan sai. Thời gian qua, có những vụ án oan sai là do chúng
ta chưa làm đúng theo tinh thần của Hiến pháp, nên giờ phải sửa. Với một người bị
cho là phạm tội và bị kết án tử, nếu đã thi hành án mà sau đó mới chứng minh được
họ vô tội, thì là sai lầm rất lớn không thể khắc phục được, vì đó là tính mạng con
người.
Ví dụ, ông Nguyễn Thanh Tuy ở Hà Nội bị kết tội trốn thuế theo Bản án hình sự
phúc thẩm số 706/2014/HSPT ngày 9/9/2014 của TAND TP. Hà Nội, với hành vi
trốn thuế môn bài, thuế VAT và thuế thu nhập doanh nghiệp. Nhưng sự thật là ông
Tuy không kinh doanh, không sản xuất buôn bán, không phải là đối tượng nộp ba
loại thuế trên. Sự thật ông Tuy là người hưu trí, kinh tế khó khăn nên bớt một phần
diện tích nhà ở là 21m2 để cho thuê lấy tiền phụ thêm để bảo đảm cuộc sống. Vì
thế, ông Tuy vẫn kêu oan.
Hoặc vụ ông Huỳnh Văn Nén ở Bình Thuận bị kết án tù chung thân về tội giết
người, cướp tài sản từ ngày 31/8/2000, đến ngày 10/10/2015, kẻ giết bà Bông và
cướp tài sản là Nguyễn Thọ mới bị phát hiện và bắt giữ. Trong thời gian bị Tòa kết
án và bản án có hiệu lực pháp luật, ông Nén và người biết sự việc là ông Nguyễn
Thận luôn cho rằng, ông Nén bị kết tội oan và kiên trì kêu oan. Suy đoán vô tội của
ông Nén và ông Thận là đúng nên ông Huỳnh Văn Nén đã được minh oan.
2. Một số giải pháp
Để khắc phục điều này, ngoài việc nâng cao bản lĩnh và trình độ của cán bộ điều
tra, cần hoàn thiện hệ thống pháp luật về tố tụng hình sự, bảo đảm sự thượng tôn
của pháp luật trong hoạt động của cơ quan điều tra. Đồng thời, tăng cường công tác
thanh tra nội bộ và giám sát của cơ quan dân cử, của nhân dân để kịp thời phát hiện

14


các sai phạm, tồn tại trong công tác thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ, áp dụng
các biện pháp ngăn chặn của cơ quan điều tra trong việc điều tra, xử lý tội phạm.

Xử lý nghiêm theo pháp luật các trường hợp vi phạm. Thủ trưởng cơ quan điều tra
cũng phải chịu trách nhiệm về việc cấp dưới vi phạm pháp luật, để xẩy ra tình
trạng oan sai.
Mặt khác, cơ quan chức năng cần cân nhắc về sự cần thiết áp dụng biện pháp bắt
người vì ngay cả sau đó được trả tự do thì việc làm này cũng đã gây ảnh hưởng lớn
về uy tín, công việc, hậu quả chính trị của người đó. VKS ngoài việc căn cứ trên cơ
sở quy định của pháp luật TTHS và đặc thù của từng vụ án để quyết định việc có
cần áp dụng biện pháp tạm giữ hay không. Để bảo đảm sự chặt chẽ của quy định,
bộ Luật cũng cần quy định rõ thế nào là “không cần thiết ” (khoản 4 Điều 117
BLTTHS 2015) để VKS ra quyết định hủy bỏ quyết định tạm giữ.
Trong giai đoạn điều tra, cơ quan điều tra, VKS cần chú trọng hơn nữa việc áp
dụng nguyên tắc giải quyết có lợi cho người bị buộc lỗi trong trường hợp quy định
của luật không rõ. Các cơ quan khi thực hiện chức năng của mình, đối với mỗi vụ
án sẽ có niềm tin nội tâm đối với các vụ án. Nhưng niềm tin đó phải dựa trên các
cơ sở bằng chứng cụ thể, không được ép cung, dùng nhục hình... Nếu như không
có bằng chứng xác đáng thì mặc dù có tin rằng đó là tội phạm thì cũng phải ra
quyết định đình chỉ điều tra hoặc đình chỉ vụ án.
Nguyên tắc này đòi hỏi cơ quan điều tra phải thu thập, đánh giá các chứng cứ một
cách toàn diện: chứng cứ khẳng định sự có tội và chứng cứ khẳng định sự vô tội.

KẾT LUẬN
Có thể nhận định rằng, suy đoán vô tội là một nguyên tắc tiến bộ. Nguyên tắc này
bảo vệ chính sách nhân đạo của pháp luật hình sự và lợi ích của người bị truy cứu
trách nhiệm hình sự là khi cơ quan tiến hành tố tụng không chứng minh được hành
15


vi phạm tội thì phải suy đoán theo hướng ngược lại. Ngoài ra, nguyên tắc suy đoán
vô tội cũng đặt ra yêu cầu cao hơn cho những người tiến hành tố tụng trong việc
chứng minh tội phạm: Họ không thể làm sai mà vẫn áp đặt ý chí chủ quan để kết

tội nghi can. Hơn nữa, nguyên tắc này đảm bảo tính pháp chế trong Bộ luật TTHS,
là nhân tố phát triển tính đúng đắn của lĩnh vực tố tụng hình sự. Bài làm dù đã cố
gằng nhưng không thể trách khỏi những thiếu sót, rát mong được sự góp ý của quý
thầy cô giáo để bài viết được hoàn thiện, em xin chân thành cảm ơn.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ luật tố tụng hình sự 2015;
2. Ts. Nguyễn Thành Long, “Nguyên tắc suy đoán vô tội trong luật tố tụng hình sự
Việt Nam”, Nxb Chính trị Quốc gia 2011;
3. Ts. Trần Văn Biên – Ts. Đinh Thế Hưng, “Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2015”, Nxb Thế giới 2017;
4. “Nguyên tắc suy đoán vô tội – nguyên tắc hiến định quan trọng trong BLTTHS
năm 2015” của GS.TSKH Đào Trí Úc, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội,
Tạp chí Kiểm sát số 02/2017;
5. />6. />7. />
16


MỤC LỤC
MỞ BÀI.....................................................................................................................1
NỘI DUNG...............................................................................................................1
I. Những vấn đề chung và nội dung nguyên tắc suy đoán vô tội trong Bộ luật tố
tụng hình sự 2015......................................................................................................1
1. Sơ lược về nguyên tắc suy đoán vô tội..............................................................1
2. Nội dung của nguyên tắc suy đoán vô tội trong Bộ luật tố tụng hình sự 2015. 3
3. Ý nghĩa của nguyên tắc suy đoán vô tội..........................................................10
II. Thực trạng và một số giải pháp để đảm bảo tính hiện thực của nguyên tắc “suy
đoán vô tội” ở nước ta hiện nay...............................................................................11
1. Thực trạng........................................................................................................11
2. Một số giải pháp..............................................................................................14

KẾT LUẬN.............................................................................................................15
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................16

17


18



×