TRƯỜNG HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
KHOA NÔNG HỌC
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
Tên đề tài: “Ảnh hưởng của thức ăn (nhện gié Steneotarsonemus spinki
và 2 loài nhện kho (Tyrophagous putrescentiae, Carpoglyphus lactis ) đến sự
gia tăng quần thể nhện bắt mồi Lasioseius chauhdriii Wu and Wang
(Acarina: Blattisociidae)”
Người hướng dẫn
: GS.TS NGUYỄN VĂN ĐĨNH
Bộ môn
: Côn trùng
Người thực hiện
: Trịnh Thị Yến
Lớp
: BVTVCK56
Hà Nội, 2014
MỤC LỤC
MỤC LỤC.............................................................................................................i
DANH MỤC BẢNG BIỂU................................................................................iv
DANH MỤC BIỂU ĐỒ......................................................................................iv
PHẦN I: MỞ ĐẦU..............................................................................................1
I. Đặt vấn đề......................................................................................................1
II. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài...................................2
1. Ý nghĩa khoa học........................................................................................2
2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài.......................................................................2
III. Mục đích và yêu cầu..................................................................................2
1 Mục đích.......................................................................................................2
2 Yêu cầu.........................................................................................................2
PHẦN II: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU.........................................................4
I. Tình hình nghiên cứu ngoài nước...............................................................4
1. Những nghiên cứu về nhện bắt mồi thuộc chi Lasioseius ......................4
2. Steneotarsonemus spinki Smiley...............................................................7
3. Hai loài nhện Tyrophagus putrescentiae và Carpoglyphus lactis........10
3.1. Tyrophagus putrescentiae (Schrank).................................................10
II. Tình hình nghiên cứu trong nước..........................................................15
1. Những nghiên cứu về các loài thuộc chi Lasioseius...............................15
2. Nhện gié Steneotarsonemus spinki...........................................................18
3. Những nghiên cứu về mạt bụi nhà..........................................................20
PHẦN III. ĐỐI TƯỢNG, VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU...................................................................................................22
I. Đối tượng, vật liệu, địa điểm và thời gian nghiên cứu............................22
1. Đối tượng nghiên cứu...............................................................................22
2. Vật liệu nghiên cứu..................................................................................22
3. Địa điểm và thời gian nghiên cứu...........................................................22
II. Nội dung nghiên cứu.................................................................................22
III. Phương pháp nghiên cứu........................................................................23
2. Phương pháp tính tỷ lệ tăng tự nhiên NBM..........................................29
i
PHẦN IV: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN.............................32
4.1. Đặc điểm sinh vật học của nhện bắt mồi Lasioseius chaudhrii Wu
and Wang................................................................................................................
32
4.1.1. Thời gian phát dục của nhện bắt mồi Lasioseius chaudhrii khi nuôi
trên các loại thức ăn là nhện gié Steneotarsonemus spinki Smiley, Tyrophagous
putrescentiae và Carpoglyphus lactis....................................................................32
4.1.2. Nhịp điệu sinh sản của nhện bắt mồi Lasioseius chaudhrii khi nuôi
trên các loại thức ăn là nhện gié Steneotarsonemus spinki Smiley, Tyrophagous
putrescentiae và Carpoglyphus lactis ở 27,5 ± 2 0C, độ ẩm 70-80%...................34
4.1.3.Tỷ lệ trứng nở của nhện bắt mồi Lasioseius chaudhrii khi nuôi trên
các loại thức ăn là nhện gié Steneotarsonemus spinki Smiley,Tyrophagous
putrescentiae và Carpoglyphus lactis....................................................................37
4.1.4. Tỷ lệ đực cái của nhện bắt mồi Lasioseius chaudhrii khi nuôi trên
các loại thức ăn là nhện gié Steneotarsonemus spinki Smiley, Tyrophagous
putrescentiae và Carpoglyphus lactis ở 27,5 ± 2 0C, độ ẩm 70-80%.....................39
4.1.5. Bảng sống (life – table) của nhện bắt mồi Lasioseius chaudhrii khi
nuôi trên các loại thức ăn là nhện gié Steneotarsonemus spinki Smiley,
Tyrophagous putrescentiae và Carpoglyphus lactis ở 27,5 ± 20C, độ ẩm 70-80%.
41
PHẦN V: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ..............................................................50
5.1. Kết luận....................................................................................................50
5.2. Đề nghị....................................................................................................50
PHẦN V: TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................51
I. Tài liệu trong nước.....................................................................................51
II. Tài liệu nước ngoài..................................................................................52
III. Tài liệu tham khảo lấy trên Webside.....................................................56
PHỤ LỤC...........................................................................................................57
ii
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 4.1. Thời gian phát dục (ngày) của nhện bắt mồi Lasioseius chaudhrii khi
nuôi trên các loại thức ăn là nhện gié Steneotarsonemus spinki Smiley,
Tyrophagous putrescentiae và Carpoglyphus lactis............................................33
Bảng 4.2. Nhịp điệu đẻ trứng của nhện bắt mồi Lasioseius chaudhrii khi nuôi
trên các loại thức ăn là nhện gié Steneotarsonemus spinki Smiley, Tyrophagous
putrescentiae và Carpoglyphus lactis.................................................................35
Bảng 4.3. Tỷ lệ trứng nở của nhện nhện bắt mồi Lasioseius chaudhrii khi nuôi
trên các loại thức ăn là nhện gié Steneotarsonemus spinki Smiley,
TyroMphagous putrescentiae và Carpoglyphus lactis ở 27,5 ± 2 0C, độ ẩm 7080%......................................................................................................................38
Bảng 4.4. Tỷ lệ đực/cái của nhện bắt mồi Lasioseius chaudhrii khi nuôi trên
các loại thức ăn: nhện gié Steneotarsonemus spinki Smiley, Tyrophagous
putrescentiae và Carpoglyphus lactis. Điều kiện 27,5± 20C, độ ẩm 70-80%.....40
Bảng 4.5. Bảng sống (life – table) của nhện bắt mồi Lasioseius chaudhrii khi
nuôi trên thức ăn là nhện gié Steneotarsonemus spinki Smiley ở 27,5 ± 20C, độ
ẩm 70-80%..........................................................................................................42
Bảng 4.6. Bảng sống (life – table) của nhện bắt mồi Lasioseius chaudhrii khi nuôi
trên thức ăn là nhện Tyrophagous putrescentiae ở 27,5 ± 20C, độ ẩm 70-80%..........44
Bảng 4.7. Bảng sống (life – table) của nhện bắt mồi Lasioseius chaudhrii khi
nuôi trên thức ăn là Carpoglyphus lactis ở 27,5 ± 20C, độ ẩm 70-80%.............46
Bảng 4.8. Các chỉ tiêu sinh học cơ bản của của nhện bắt mồi Lasioseius chaudhrii khi
nuôi trên các loại thức ăn là nhện gié Steneotarsonemus spinki Smiley, Tyrophagous
putrescentiae và Carpoglyphus lactis ở 27,5 ± 20C, độ ẩm 70-80%..........................48
iii
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Hình 4.1. Nhịp điệu đẻ trứng của nhện bắt mồi Lasioseius chaudhrii khi nuôi
trên các loại thức ăn là nhện gié Steneotarsonemus spinki Smiley, Tyrophagous
putrescentiae và Carpoglyphus lactis....................................................................36
Hình 4.2. Tỉ lệ sống sót (lx) và sức sinh sản (mx) của nhện bắt mồi Lasioseius
chaudhrii khi nuôi trên thức ăn là nhện gié Steneotarsonemus spinki Smiley.. .43
Hình 4.3. Tỉ lệ sống sót (lx) và sức sinh sản (mx) của nhện bắt mồi Lasioseius
chaudhrii khi nuôi trên thức ăn là Tyrophagous putrescentiae............................45
Hình 4.4. Tỉ lệ sống sót (lx) và sức sinh sản (mx) của nhện bắt mồi Lasioseius
chaudhrii khi nuôi trên thức ăn là Carpoglyphus lactic....................................47
iv
PHẦN I: MỞ ĐẦU
I. Đặt vấn đề
Như chúng ta đã biết Lasioseius là chi bao gồm các loài nhện bắt mồi.
Thức ăn của chúng khá đa dạng tùy thuộc vào từng loài khác nhau,có thể là
nấm, tuyến trùng, côn trùng, nhện nhỏ khác ( Enkegaard and Brodsgaard 2000)
hay phấn hoa của loài Typha sp. (các loài thuộc chi Hương Bồ); trong số đó có
loài nhện hại quan trọng trên lúa: nhện gié Steneotarsoneus spinki Smiley, loài
nhện này được mô tả là con mồi của một số nhện bắt mồi thuộc chi Lasioseius
trong các tài liệu
như: Lasioseius youcefi (Lo&Ho .1984), Lasioseius sp.
(Rodríguez và cs. 2013; Dương Tiến Viện. 2012)....
Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu về loài nhện gié Steneotarsonemus
spinki Smiley bởi loài nhện này gây hại nguy hiểm đối với lúa ở nhiều nước.
Ở Việt Nam, Các kết quả nghiên cứu cho thấy sự gây hại của nhện gié ngày càng
gia tăng, điều này đặt ra những yêu cầu đó là cần phải có những nghiên cứu
chuyên sâu để tìm ra các phương pháp khống chế được chúng trên đồng ruộng
một cách hiệu quả, đặc biệt là đi theo hướng nhân nuôi các loài thiên địch như là
nhân nuôi các loài nhện bắt mồi.
Nhện gié là con mồi chính của nhện bắt mồi Lasioseius. Tuy nhiên việc
nhân nuôi nhện gié làm thức ăn cho nhện bắt mồi từ giai đoạn lấy thân lúa, làm
sạch thân...cho tới khi kết thúc cần phải trải qua nhiều bước thủ công. Ngoài ra
nguồn thân lúa để nhân nhện phụ thuộc nhiều vào thời vụ và điều kiện thời tiết,
hoặc nếu thân lúa dùng cho việc nhân nhện là tự trồng không theo mùa vụ thì rất
tốn công sức, thời gian và tiền bạc. Điều này không phù hợp đối với việc nhân
nuôi công nghiệp hàng loạt nhện bắt mồi phục vụ cho đấu tranh sinh học. Đó là
nguyên nhân cần tìm ra nguồn thức ăn thay thế vừa dễ nhân nuôi, dễ tìm kiếm,
số lượng nhiều, đồng thời đảm bảo được sự phát triển và gia tăng quần thể nhện
bắt mồi một cách nhanh chóng.
1
Xuất phát từ vấn đề nêu trên, được sự hướng dẫn của GS.TS Nguyễn Văn
Đĩnh tôi thực hiện nghiên cứu đề tài:
“Ảnh hưởng của thức ăn (nhện gié Steneotarsonemus spinki và 2 loài
nhện kho (Tyrophagous putrescentiae và Carpoglyphus lactis))đến sự gia
tăng quần thể nhện bắt mồi Lasioseius chaudhrii Wu and Wang (Acarina:
Blattisociidae)”
II. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài.
1. Ý nghĩa khoa học.
Từ kết quả nghiên cứu khoa học về khả năng tăng tự nhiên của nhện bắt
mồi L. chauhdrii làm cơ sở cho việc xác đinh chu kì sinh sản và vòng đời cũng
như sức ăn và khả năng nhân nuôi nhện bắt mồi để phòng trừ nhện gié trong tự
nhiên.
2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài.
Sử dụng nhện bắt mồi L. chauhdrii trong biện pháp IPM phòng trừ nhện gié
trên các loại cây trồng nói chung và cây lúa nói riêng. Đây là 1 trong những biện
pháp sinh học hữu ích và có ý nghĩa to lớn cho môi trường, hiệu quả kinh tế
cũng như sức khỏe con người.
III. Mục đích và yêu cầu
1 Mục đích.
Xác định ảnh hưởng của thức ăn nhện gié Steneotarsonemus spinki và 2 loài
nhện kho (Tyrophagous putrescentiae và Carpoglyphus lactis) đến sự gia tăng quần
thể nhện bắt mồi Lasioseius chaudhrii Wu and Wang để làm cơ sở nuôi nhân công
nghiệp chúng trong tương lai phục vụ phòng chống sinh học nhện gié
Steneotarsonemus spinki Smiley tại các vùng trọng điểm lúa ở Việt Nam.
2 Yêu cầu.
1.Nhân nuôi nguồn thức ăn của nhện bắt mồi Lasioseius chaudhrii Wu and
Wang bao gồm nhện gié Steneotarsonemus spinki và 2 loài nhện kho
(Tyrophagous putrescentiae, Carpoglyphus lactis)
2
2.Nuôi sinh học cá thể nhện bắt mồi Lasioseius chaudhrii Wu and Wang từ
trứng cho đến khi trưởng thành chết sinh lý trong điều kiện môi trường ổn định,
thức ăn dư thừa, không gian không giới hạn từ đó:
- Xác định tỷ lệ nở của trứng khi phát triển trên các loại thức ăn.
- Xác định tỷ lệ sống sót đến trưởng thành khi phát triển trên các loại
thức ăn.
- Xác định tỷ lệ cái trưởng thành khi phát triển trên các loại thức ăn.
- Xác định tỷ lệ tăng tự nhiên (r) cao nhất khi phát triển trên các loại thức
ăn.
- Xác định thời gian nhân đôi quần thể (DT) ngắn nhất khi phát triển trên
các loại thức ăn.
3. Kết luận loại thức ăn mà nhện bắt mồi (NBM) có sức tăng quần thể cao nhất.
3
PHẦN II: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
I. Tình hình nghiên cứu ngoài nước
Phân loại Lasioseius chaudhrii Wu and Wang.
Ngành Chân đốt (Arthroppoda)
Lớp nhện (Arachinidae)
Bộ (Acarina)
Họ (Blattisociidae)
Chi (Lasioseius)
Loài (Lasioseius chaudhrii Wu and Wang)
1. Những nghiên cứu về nhện bắt mồi thuộc chi Lasioseius .
Nhện nhỏ thuộc họ Ascidae (Acari: Mesostigmata) phân bố rộng khắp thế
giới. Chúng tạo thành một phần quan trọng của hệ động vật ở trong đất, trên rau
và trong sự kết hợp với các loài động vật khác. Phần lớn những loài nhện này là
động vật ăn thịt nhưng cũng được tìm thấy chúng ăn nấm, sợi nấm trong khi một
số loài là ký sinh trùng. Lasioseius đại diện cho một trong số chi có sự đa dạng
về hình thái học trong họ này với khoảng 100 loài (Walter and Lindquist.1997),
và môi trường sống của chúng là các chất hữu cơ thối rữa, chất mục nát trong
rừng, rêu, đất, đất trồng cỏ cũ, tổ động vật có vú nhỏ, chim, tổ ong, gỗ mục, trên
cánh đồng và các loại cây thân thảo. Đây là nhện bắt mồi sống trong đất là chính,
nhưng vẫn có thể tìm thấy trong tổ chim và động vật gặm nhấm (Abou-Awad BA
et al, 2001). Một số loài Lasioseius bám trên chim ruồi thụ phấn hoa, nơi mà
chúng ăn loài nhện khác, mật hoa và phấn hoa (Ohmer et al., 1991).
Loài như L.bispinosus cùng với nhiều loại nhện bắt mồi khác đã được ghi
nhận là một loài thiên địch hiệu quả của nhện hành tỏi Rhizoglyphus robini
(Lesna et al., 1995). Trong các nghiên cứu hiện nay đang đi theo hướng đánh giá
khả năng bắt mồi của loài Lasioseius mới đối với một trong số dịch nhện nhỏ
phá hoại nghiêm trọng nhất, có thể kể đến là nhện nhỏ Raoiella indica .
4
Đã có nhiều tài liệu đề cập tới các loài nhện thuộc chi Lasioseius với thế
mạnh nổi bật là khả năng khống chế các loài nhện nhỏ gây hại khác.
Noeli Juarez Ferla. 2013 đã điều tra xác định các loài nhện nhỏ và sự tương
tác sinh thái giữa chúng trong trồng cấy lúa gạo. Quần thể nhện nhỏ được đánh
giá hai lần 1 tuần trên 2 giống lúa IRGA 424 và INTA PUITÁ CL. Tổng cộng có
1.626 cá thể nhện nhỏ thuộc 14 loài từ 12 họ được thu thập. Họ Ascidae đã cho
thấy sự phong phú, với bốn loài: Lasioseius sp., Lasioseius sp., Proctolaelaps sp.
và Cheiroseius sp.. Chúng là nhện bắt mồi của một số loài nhện nhỏ khác trên
lúa, đặc biệt là những loài thuộc họ nhện trắng Tarsonemidae như: Tarsonemus
bilobatus, Steneotarsonemus spinki Smiley...
Lo&Ho.1984 nghiên cứu về Lasioseius youcefi (Ascidae), một kẻ thù tự
nhiên của Steneotarsonemus spinki, được nuôi tại 20, 25, 30 và 35 ℃ bằng
trứng của S. spinki và Tarsonemas sp. L. youcefi không thể tồn tại ở 35 ℃. Các
giai đoạn phát triển là ngắn nhất và lượng thức ăn cao nhất ở 30 ℃. Giai đoạn
phát triển ngắn hơn, lượng thức ăn cao hơn và phát triển tốt hơn đã được quan
sát thấy khi L. youcefi ăn trứng của Tarsonemus sp. so với trứng của S. spinki.
Nhiều loài Lasioseius đã được nghiên cứu, làm rõ vòng đời, đời, sức sinh
sản hay khả năng bắt mồi... từ đó chứng minh được vai trò quan trọng trong đấu
tranh sinh học của chúng.
Karnataka. 2009 thí nghiệm với Lasioseius sp. nuôi trên tất cả các pha phát
dục của nhện nhỏ Rraoiella indica Hirst với điều kiện 30±20C, độ ẩm 70±2% :
các kết quả cho thấy khả năng săn mồi của Lasioseius sp. tăng theo thứ tự của
nhện non tuổi 1> nhện non tuổi 2 > nhện trưởng thành đực > nhện non tuổi 3 >
nhện trưởng thành cái. Trong những giai đoạn sống khác nhau của con mồi
được cung cấp, trứng là chế độ ăn ưa thích nhất của nhện bắt mồi trong khi giai
đoạn trưởng thành của con mồi được ưu tiên tiêu thụ thấp nhất. Các mức độ ưu
tiên giảm trong chuỗi: trứng <ấu trùng
|
5
tất cả các pha phát dục của R.indica, trong đó sức ăn mồi giai đoạn trứng là
25.15±1.8 trứng/con/24h.
Một thí nghiệm khác với Lasioseius floridensis được nuôi bằng tất cả các pha
phát dục của nhện cám Tyrophagus putrescentiae đã được tiến hành bởi Britto, Gago
và Moraes với điều kiện 25 ± 0,50C, 93 ± 1% và 12: 12 giờ sáng:tối. Kết quả là mỗi
nhện cái trung bình đẻ được 1,6 ± 0,5 trứng/ngày. Bên cạnh đó, nếu L. Floridensis
được nuôi bằng Polytarsonemus latus thì trung bình số trứng đẻ mỗi ngày của 1
nhện cái là 1,1 trứng/ngày với tỉ lệ giới tính thế hệ con là nhện cái chiếm 0,73% . Tỉ
lệ sinh sản của L.floridensis nuôi trên T.putrescentiae tương đối cao, điều này không
đáng ngạc nhiên, những loài nhện thuộc bộ này (Astigmata) thường xuyên được tìm
thấy ở môi trường có mặt Lasioseius. Astigmatid được sử dụng như con mồi trong
sản xuất thương mại các loài Mesostigmatid khác nhau (Albuquerque and Moraes
2008). Lasioseius fimetorum cũng đã được đề cập bởi Enkegaard and Brodsgaard
(2000) phát triển và sinh sản khi nuôi trên con mồi là T.putrescentiae, mặc dù tỉ lệ đẻ
trứng tương đối thấp. Sự nhân nuôi nhện bắt mồi được sử dụng trong các nghiên
cứu hiện nay được duy trì trên T.putrescentiae đã mang lại hiệu quả tốt. Việc nuôi
một số loài Lasioseius trên nhiều loài thuộc các họ nhện nhỏ khác cũng được báo
cáo trong các tài liệu, cụ thể là L.atiasae nuôi trên eriophyid như Aceria dioscoridis
(Soliman & Abou-Awad) (Abou-Awad et al.2001), Lasioseius sp. trên Eriophyid
như Aceria ailanthae Mohanasundaran và Tenuipalpid như Raoiella indica Hirst
(Sheeja and Ramani 2009),
Lasioseius bispinosus Evans trên acarid như
Rhizoglyphus robini Claparede (Lesna et al. 1995).
Tuổi thọ và sinh sản của con cái, số lượng ấu trùng được sinh ra của loài
nhện bắt mồi Lasioseius fimetorum Karg (Acari:Podocinidae) khi nuôi trên
nhện nấm mốc (Tyrophagus putrescentiae [Schrank] [Acarina: Acaridae]) đã
được nghiên cứu bằng thực nghiệm trong phòng thí nghiệm ở 20 0C, cùng với
mức tiêu thụ các con mồi khác. Theo đó thời gian trước đẻ trứng là 10,7 ngày,
thời gian đẻ trứng kéo dài 23,6 ngày và tổng cộng 19,4 thế hệ con cháu đã được
6
sinh ra từ mỗi con cái. Nhện bắt mồi cái trung bình tồn tại được 38,6 ngày, khá
gần với tuổi thọ của nhện bắt mồi Amblyseius swirskii nuôi trên C.lactis ở 230C
là 35,9 ± 2,05ngày (Nguyễn Đức Tùng. 2012) .Trứng của Collembola
Isotomurus spp. (Collembola: Isotomidae) được L. fimetorum tiêu thụ với số
lượng lớn nhất, tiếp sau đó là giai đoạn nymphs (nhện non không di động) của
nhện nấm mốc Tyrophagus putrescentiae, ấu trùng và nhộng của bọ trĩ
(Frankliniella occidentalis [Pergande] [Thysanoptera: Thripidae]), trứng của
Collembola Micrisotoma spp. (Collembola: Isotomidae), và nymphs của
Isotomurus spp. (Enkegaard and Brodsgaard. 2000).
2. Steneotarsonemus spinki Smiley.
* Phân loại
Ngành Chân đốt (Arthroppoda)
Lớp nhện (Arachinidae)
Bộ Ve bét (Acarina)
Tổng họ Tarsonemoidae
Họ Tarsonemidae
Giống Steneotarsonemus
Loài Steneotarsonemus spinki Smiley (Smiley, 1967).
* Phân bố địa lý
Loài nhện gié Steneotarsonemus spinki Smiley là nhện hại nguy hiểm trên lúa ở
các nước nhiệt đới như: Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc, Đài Loan, Thái Lan….
Nhện gié S.spinki Smiley gây hại trên lúa ở Đài Loan, đặc biệt gây hại lúa vụ
chiêm ở các vùng phía nam quốc đảo này. Năm 1970 loài này được phát hiện ở
Trung Quốc, năm 1976 xuất hiện ở Đài Loan. Ở các nước nhiệt đới Châu Á
nhện gié được phát hiện vào năm 1985. Nhện gié xuất hiện ở Cu Ba vào năm
1997, tại cộng hòa Dominica và Haiti năm 1998 (Santos M., 2004), tại Panama
năm 2003, tại Costarica và Nicaragoa năm 2004. Mới nhất, năm 2005 nhện gié
7
xuất hiện ở Colombia. Các báo cáo đại lục đầu tiên về S.spinki chỉ ra rằng ở
Trung Mỹ, dịch hại này xảy ra vào năm 2003 từ Panama, và sau đó nhanh
chóng lan tới Costa Rica (2004), Nicaragua, Honduras, và Guatemala (2005).
Mật độ rất thấp của S.spinki cũng đã được báo cáo có ở Colombia vào năm 2005
đánh dấu sự xuất hiện đầu tiên ở Nam Mỹ (USDA. 2007).
* Mức độ gây hại
Nhện gié Steneotarsonemus spinki Smiley, đã là một dịch hại nghiêm trọng
trên lúa (Oryza sativa) ở vùng châu Á và sau đó lan rộng đến châu Mỹ vào cuối
năm 1990. Khi lây lan sang, nhện gié đã mang lại thiệt hại khác nhau cho cây
trồng, có thể lấy ví dụ với vùng biển Caribbean và Trung Mỹ; sự lây lan nhanh
chóng của nhện gié làm thiệt hại cho cây trồng từ 30% đến 90% mỗi năm
(Almaguel et al., 2000).
Ở miền nam Đài Loan, thiệt hại năng suất trên lúa gây ra bởi loài nhện này
rất nặng nề (Lee. 1980). Các khu vực của bệnh trong vụ thứ hai tăng từ 17.100
ha (42.237 ha) vào năm 1976 với 19.146 ha (47.290 mẫu Anh) (khoảng 4,5%
phần trăm tổng diện tích gieo trồng) vào năm 1977. Tỷ lệ mất trắng ngũ cốc dao
động từ 20% đến khoảng 60%, với thiệt hại ngũ cốc tương đương với 20.000
tấn, trị giá US $ 9.200.000 (Chen, Cheng, và Hsaio 1979).
Tại Ấn Độ, sự đổi màu của ngũ cốc được điều tra ở 24 làng thuộc các huyện
Tây và Đông Godavari của Andhra Pradesh vào mùa mưa năm 1999. Các triệu
chứng có sự phân bố không đồng đều trong 23 làng theo đó có làng chỉ 1-2 %
diện tích lúa bị ảnh hưởng; còn những làng khác thì tới 50% diện tích lúa bị ảnh
hưởng. Nguyên nhân chủ yếu của hiện tượng này được xác định là do S.spinki
gây nên (Rao et al. 2000).
* Đặc điểm hình thái và đặc điểm sinh học
Trứng có màu trắng trong, được đẻ rải rác thành từng quả, hoặc dính lại với nhau.
Nhện non di động và nhện non không di động có màu trắng đục với 3 đôi
8
chân.
Kích thước cơ thể nhện cũng có thể là cơ sở phân biệt giới tính và tuổi nhện. Con cái
trưởng thành có chiều dài 274µm, bề ngang cơ thể là 108µm. Con đực có kích thước
chiều dài và bề ngang cơ thể tương ứng là 217µm và 121µm (Smiley. 1967).
Sự phát triển của nhện bị ảnh hưởng rõ rệt bởi nhiệt độ môi trường.Trung
bình cần 17,4 và 27,5 ngày để hoàn thành quá trình phát triển từ trứng tới trưởng
thành ở 250C, 280C và 300C ở điều kiện 25-280C, trưởng thành cái sống tương
ứng là 15±1,0 ngày và 7,6±0,4 ngày, trong khi đó cả hai giới sống trong 5 ngày
ở điều kiện 300C. Thời kì trước đẻ trứng vào khoảng 2 tới 5 ngày, thời kì đẻ
trứng có sự khác nhau: 2 ngày ở 300C, 7 ngày ở 280C và 13 ngày ở 250C. Mỗi
nhện trưởng thành cái có thể đẻ từ 0 tới 78 trứng trong suốt đời, trung bình là
30,8±3,4 trứng (Smiley. 1967).
Trong điều kiện phòng thí nghiệm tại Cu Ba, ở nhiệt độ 24,42 ± 1,1 oC và độ
ẩm 70,07 ± 4,7%, thời gian từ trứng đến trưởng thành là 7,7 ngày, thấp nhất là
5,75 ngày và cao nhất là 9,64 ngày ( Romas & Rodríguez., 2000).
* Nhện gié có thể phòng trừ bằng biện pháp sinh học: Đây là một trong
những biện pháp phòng chống nhện gié quan trọng và có ý nghĩa nhất.
Rodríguez và cs. 2013 đã tiến hành điều tra thành phần nhện bắt mồi của
nhện gié Steneotarsonemus spinki ở 3 quốc gia Costa Rica, Nicaragua và
Panama. Kết quả đã được báo cáo, các loài nhện nhỏ bắt mồi của nhện gié là
Neoseiulus
baraki Athias-Henriot,
Neoseiulus
parabensis
Moraes
and
McMurtry, Neoseiulus longispinosus Evans, Propioseiopsis asetus (Chant)
(Phytoseiidae)
và
các
chi
Hypoaspis,
Pseudoparasitus
(Laelapidae),
Aceodromus, Lasioseius (Blattisociidae) và Asca (Ascidae). Trong đó các loài
thuộc chi Neoseiulus là phong phú nhất ở ba quốc gia.
Nhện bắt mồi là loài thiên địch hiện rất được quan tâm nghiên cứu, đặc biệt
là hai họ nhện bắt mồi Phytoseiidae và Asciidae. Ở Cu Ba các loài nhện bắt mồi
như Amblyseius asetus, Galendromus sp; Typhlodromus sp. và Lasioseius sp.
được sử dụng rất rộng rãi trong phòng trừ nhện gié (Santos M., 2004). Ngoài ra
nhện gié cũng được biết đến là con mồi của Amblyseius taiwanicus (Lo, Ho,
9
Chen. 1979). Các loài thiên địch này có thể khống chế số lượng nhện gié ở một
mức nào đó tùy theo khả năng bắt mồi của chúng. Theo Almaguel và Santos
(2003), nhện nhỏ bắt mồi có hiệu quả kìm hãm nhện gié khi mật độ của chúng
đạt 3,3 con/dảnh.
3. Hai loài nhện Tyrophagus putrescentiae và Carpoglyphus lactis.
Hệ thống nhân nuôi hàng loạt phù hợp cho việc tạo ra một số lượng lớn côn
trùng và nhện nhỏ có ích đã được giới thiệu lần đầu tiên vào khoảng 70 năm
trước đây. Ban đầu hệ thống này căn cứ vào sự cung cấp của nguồn thực phẩm
côn trùng hoặc nhện nhỏ tự nhiên. Ví dụ, hệ thống nhân nuôi hàng loạt dựa trên
sự cung cấp con mồi cho các loài vật chủ như là Amblyseius swirskii cho nhân
nuôi Amblyseius swirskii hoặc Phytoseiulus persimilis, cũng có thể là phấn hoa
cho các loài nhện bắt mồi khác, hoặc rệp cho Aphidoletes aphidimyza. Gần đây
hơn, hệ thống nhân nuôi hàng loạt nhện bắt mồi đã có những bước phát triển
thành công mới trong việc sử dụng vật chủ nhân tạo. Vật chủ được sử dụng phổ
biến nhất là nhện kho như là Tyrophagus putrescentiae, Acarus siro, và
Carpoglyphus lactis. Thông qua việc sản xuất nhện nhỏ bắt mồi, con mồi(nhện
nhỏ), và nguồn thức ăn cho con mồi tạo một sự ổn định trong việc nhân nuôi cho
phép nuôi nhện bắt mồi một cách liên tục (Fidgett et al. 2010).
3.1. Tyrophagus putrescentiae (Schrank)
* Phân loại :
Ngành Chân đốt (Arthroppoda)
Lớp nhện (Arachinidae)
Bộ (Acarina)
Họ (Acaridae)
Chi (Tyrophagus)
Loài (Tyrophagus putrescentiae)
10
Acaridae là một họ lớn, phân bố trên toàn thế giới. Có khoảng 400 loài
thuộc 90 chi được biết đến trên thế giới và còn nhiều loài khác vẫn chưa được
phát hiện, đặc biệt là ở các khu vực nhiệt đới ( Fan & Zhang, 2007).
Nhện cám Tyrophagus putrescentiae có mặt trên toàn thế giới được tìm
thấy trong nhiều môi trường sống khác nhau bao gồm các sản phẩm lưu trữ
trong kho, nấm trồng, hạt giống, nhà kính, đất, chúng còn được tìm thấy trên
nhiều loại côn trùng, hoặc tổ của động vật xương sống. Đây là loài nhện nhỏ
phong phú nhất và quan trọng sống ở kho. Một vài loài Tyrophagus có khả năng
ăn thực vật và là nguyên nhân phá hoại cây trồng, bao gồm cả hai: hoa cây cảnh
và rau trồng trong nhà lưới. Ngoài ra chúng còn có thể làm giảm chất lượng của
hạt lúa mì (Fan & Zang, 2007).
* Đặc điểm sinh học, sinh thái.
Vòng đời bao gồm trứng, ấu trùng, nhện non tuổi 1, Nhện non tuổi 2, nhện
non tuổi 3 và trưởng thành. Giai đoạn tuổi hai bắt đầu phụ thuộc vào môi trường
và điều kiện sống. Quá trình phát triển từ trứng đến trưởng thành thường mất 1-3
tuần, tuỳ thuộc vào nhiệt độ, một Tyrophagus cái có thể đẻ 100-700 trứng.
(Zhang & Fan, 2005)
Trưởng thành Tyrophagus có 4 đôi chân; phần thân Idiosoma giống hình túi,
dài 300 đến 600µm, màu trắng bán trong suốt. Cụ thể kích thước phần Idiosoma
của T.putrescentiae
cái dài 486µm, rộng 314µm, T.putrescentiae
đực dài
378µm, rộng 233µm . Bề mặt cơ thể với 4 cặp lông cứng phần vai (prodorsal),
12 cặp lông cứng bao phủ phần lưng (dorsal) và phần thân sau (hysterosomal).
(Zhang & Fan, 2005)
Nhện non tuổi 3: Tương tự như trưởng thành cái, ngoài ra bộ phận sinh dục
không có nếp gấp; lông cứng xung quanh hậu môn ngắn hơn. Xuất hiện các lông
cứng trên chân như ở nhện cái trưởng thành.
Nhện non tuổi 2: Có 2 cặp gai sinh dục và xuất hiện 1 cặp lông cứng ở bộ
phận sinh dục.
11
Nhện non tuổi 1: khác với nhện cái trưởng thành là ở bụng thiếu một cặp
lông cứng; không có nếp gấp ở bộ phận sinh dục và có một cặp gai sinh dục.
Ấu trùng: phần hysterosoma chỉ có 10 cặp lông cứng; không có lỗ sinh dục,
bộ phận sinh dục, lông cứng xung quanh hậu môn và gai sinh dục. Giai đoạn ấu
trùng chỉ có 3 cặp chân (Zhang & Fan, 2005).
Độ ẩm của môi trường thu nhỏ cũng như nhiệt độ và nguồn thức ăn có ảnh
hưởng chủ yếu tới sinh trưởng và phát triển của nhện.
Thời gian phát triển điển hình của một T.putrescentiae là:
Trứng – 2 ngày.
Nhện non – 5 ngày.
Trứng tới trưởng thành 10 ngày (Bahrami et al. 2007).
Vòng đời của nhện nhỏ acarid, Tyrophagus putrescentiae (Schrank), trên
Fusarium graminearum đã được điều tra ở 25 ± 1 ° C, 60 ± 5% RH, chu kì chiếu
sáng là 16: 8 (L: D) h.
Thời gian của các giai đoạn trứng, ấu trùng , nhện non và tuổi thọ của
nhện trưởng thành tương ứng là 2,22 ± 0,06, 3,46 ± 0,12, 4,84 ± 0,16
và 10,05 ± 0,9 ngày.
Tuổi thọ trung bình của nhện đực và cái tương ứng là 22,22 ± 1,21,
19,08 ± 1,37.
Thời kì trước đẻ trứng, thời kì đẻ trứng và sau đẻ trứng tương ứng là
2,22, 5,77 và 1,4 ngày.
Tỷ lệ sinh sản là 12,5 trứng trên mỗi con cái trên một thế hệ, trung
bình số trứng đẻ mỗi ngày là 5,7 trứng (F. Bahrami. 2007).
* Sự tồn tại và bảo tồn.
T.putrescentiae là là loài ăn chất thối rữa hoặc các loài tuyến trùng thuộc
chi Mycetophagous và được biết đến là loài ăn chất mục nát trong đất và trong
kho sản phẩm ở những điều kiện nghèo nàn.
12
Tyrophagus putrescentiae ăn các loài nấm khác nhau bao gồm nấm mốc
(Eutorium và Penicillium), Fusarium, Alternaria, Mushroom, Murco và
trichophyton(J.Hubert et al. 2003; F. Bahrami. 2007). Nó là một dịch hại khó ưa
bởi sự phá hoại trong trồng nấm, bên cạnh đó việc sử dụng loài này trong kiểm
soát sinh học có thể được quan tâm trong tương lai. Loài nhện nhỏ này cũng
được đề cập tới trong thành phần các loại bụi nhà ở các thí nghiệm được tiến
hành ở Carasca và Venezuela, T.putrescentiae đôi khi chiếm số lượng lớn trong
lớp bui giường. T.putrescentiae cũng sản sinh ra chất gây dị ứng tới con người,
bao gồm hen phế quản, viêm mũi lâu năm, viêm kết, dị ứng da và viêm đường
ruột. Là chất gây ô nhiễm trong cỏ khô và thức ăn gia súc khác, chúng tạo ra rối
loạn đường ruột ở ngựa, chó và các động vật khác (Schrank, 1781).
Theo Bilgrami & Tahseen (1993): T.putrescentiae có thể ăn các loài tuyến
trùng và vi sinh vật khác trong trồng trọt nuôi cấy. bao gồm Acrobeloides,
Cephalobus, Rhabditis, Panagrellus một số loài ăn tuyến trùng như Mononchus
aquaticus, Monochoides fortidens, M.longicaudatus, Dorylaimus stagnalis ,
Aquatides thornei.
T.putrescentiae đóng vai trò như con mồi với xúc biện (được sử dụng để
xác định các sinh vật săn mồi và các đối tượng khác) và các đôi chân .
Sự tiếp xúc của con mồi với phần miệng của nhện là điều kiện cần để bắt
đầu một cuộc tấn công . Con mồi bị thương thu hút các con nhện, sau đó chúng
tập hợp lại và ăn con mồi cùng nhau. Những đôi chân nói chung được sử dụng
để giữ và gây thương tích cho con mồi . Miệng là cơ quan có chức năng chính là
giết chết và ăn con mồi, cũng được sử dụng để giữ và nghiền con mồi. Sự tiêu
hóa con mồi có bản chất không liên tục( 2 hoặc 3 đợt ăn) với những khoảng thời
gian ngắn nghỉ ngơi hoạt động đều đặn. Nhện cũng ăn phân của chính nó trong
khi di chuyển ngẫu nhiên với sự vắng mặt của con mồi. Không có xu hướng ăn
thịt đồng loại. Giai đoạn nhộng (nhện non)hầu hết ăn tuyến trùng đã chết
(Bilgrami & Tahseen 1991).
13
Như vậy T.putrescentiae là loài nhện có sự đa dạng về thành phần thức ăn,
thời gian phát triển ngắn (tuổi thọ nhện cái là 19,08 ± 1,37 ngày), sức sinh sản cao
(100-700 trứng/ nhện cái) và thích nghi với nhiều môi trường sống khác nhau.
3.2. Carpoglyphus lactis (Linnaeus, 1758) (Acari: Carpoglyphidae)
Nhện kho được cho là nguyên nhân gây nên bệnh đặc thù trong đội ngũ
nhân viên làm việc trong các ngành công nghiệp hạt và chế biến thực
phẩm(Wright et al., 2003). Carpoglyphus cho tới bây giờ được đại diện bởi hai
loài đó là Carpoglyphus lactis (Linnaeus, 1758) và C.munroi (Hughes, 1952)
(Alex Fain and Gisela Rack.1987). Carpoglyphus lactis chủ yếu ảnh hưởng đến
sản phẩm lưu trữ, đặc biệt là trái cây sấy khô có hàm lượng đường cao được
xem là một nguyên nhân gây ô nhiễm mật ong. (K. Vijayakumar. 2013).
Thức ăn ưa thích của Carpoglyphus lactis là các loại trái cây khô, ngũ cốc,
hạt có dầu, thực phẩm dự trữ… (Institut für Schädlingskunde).
Phân loại:
Ngành Chân đốt (Arthroppoda)
Lớp nhện (Arachinidae)
Bộ (Acari)
Họ (Carpoglyphidae)
Chi (Carpoglyphus)
Loài (Carpoglyphus lactis)
* Đặc điểm sinh học, sinh thái.
Nhện kho Carpophagus lactis trưởng thành màu trong suốt, kích thước 0,4
mm, hình bầu dục và dẹt. Chân và phần miệng của Carpoglyphus lactis, ngược
lại, có màu hơi đỏ.
Ưa độ ẩm tương đối cao khoảng 70%
14
Nhiệt độ khoảng từ 25 - 30ᵒC, trong điều kiện thuận lợi con cái có thể đẻ
270 trứng, trong nấm men bánh mì chu kỳ phát triển hoàn chỉnh ở 25ᵒC chỉ
khoảng 11 ngày. Còn ở điều kiện nhiệt độ 15 0C thì chu kỳ phát triển có thể lên
tới vài tuần. (Institut für Schädlingskunde).
Wafaa L. F. Ibrahim .2006: Trong điều kiện 25 ±20C và 65%. Các giai đoạn
chưa trưởng thành bị ảnh hưởng đáng kể bởi các chu kỳ chiếu sáng khác nhau.
Thời gian giai đoạn chưa trưởng thành đã được kéo dài với sự gia tăng của thời
gian chiếu sáng. Tuổi thọ của C.lactis là 12,7 và 19,2 ngày tương ứng với điều
kiện tối hoàn toàn và chiếu sáng liên tục.
Khi thời gian chiếu sáng tăng lên thì tuổi thọ của cả nhện đực và cái đều
tăng, tuổi thọ lớn nhất đối với nhện đực là 24 giờ của ánh sáng liên tục. Với mô
hình khác nhau đã được theo dõi. Tuổi thọ con đực dài nhất (9,3 ngày) ở điều
kiện chiếu sáng liên tục(24 giờ). Trong khi tuổi thọ lớn nhất của con cái (15,4
ngày) ở điều kiện bóng tối hoàn toàn. Trứng được đẻ ra hàng ngày giảm khi tăng
thời gian chiếu sáng.Nói chung, tuổi thọ nhện đực ngắn hơn so với nhện cái.
Các thời gian chiếu sáng có ảnh hưởng rất tiêu cực đến giai đoạn đẻ trứng.
Số lượng trứng được đẻ ra giảm khi thời gian chiếu sáng tăng lên. Trung bình
tổng và trung bình hàng ngày của trứng đẻ ra là 55,9 và 4,6 khi tối hoàn toàn;
5.3 và 0.9 ở điều kiện chiếu sáng liên tục.
II. Tình hình nghiên cứu trong nước
1.
Những nghiên cứu về các loài thuộc chi Lasioseius.
* Lasioseius chaudhrii Wu and Wang.
Năm 2013, Nguyễn Trung Thành và cs, đã làm thí nghiệm đánh giá hiệu
quả của nhện bắt mồi Lasioseius chaudhrii đối với nhện gié tại Châu Thành An
Giang, cho kết quả: Nếu thả 1-5 NBM trưởng thành cái đang đẻ trứng/dảnh lúa
thì hiệu quả khống chế nhện gié so với đối chứng đạt 52,94% - 78,28%, còn
trong thí nghiệm ô lớn nếu thả 3 NBM cái/dảnh hiệu quả khống chế nhện 15
15
ngày sau thả tương tương phun Kinalux 25EC 2 lần đạt 41,94-74,72%. Thời
gian thả NBM tốt nhất là sau sạ 45 ngày, tiếp theo là 52, 38 và 31 ngày sau sạ.
Dương Tiến Viện (2012): Trên ruộng lúa nhện nhỏ bắt mồi Lasioseius sp. Là
loài xuất hiện phổ biến hơn , chúng di chuyển rất nhanh nhẹn và thường thấy
xuất hiện ở những bộ phận của cây lúa có triệu chứng nhện gié hại, đôi khi thấy
tập trung 2-3 con, chúng ăn trứng, nhện non và nhện trưởng thành của nhện gié
ở trong các bẹ lá và khoang mô của gân lá lúa.
* Đặc điểm hình thái của nhện bắt mồi Lasioseius sp.
Dương Tiến Viện (2012): Nhện có kích thước nhỏ bé, để nhìn rõ chúng phải
quan sát dưới kính hiển vi hoặc kính lúp điện. Vòng đời loài nhện này gồm các 3
pha phát triển: trứng, nhện non (gồm nhện non tuổi 1, nhện non tuổi 2, nhện non
tuổi 3) và nhện trưởng thành.
Trứng nhện bắt mồi Lasioseius sp. : Có hình bầu dục, khi mới đẻ màu trắng
đục, bề mặt có chất nhầy dính để tăng sức bám trên bề mặt giá thể, sau chuyển
dần sang trắng trong, trong suốt. Trứng xắp nở có màu trong suốt, dễ lẫn và khó
phát hiện. Trứng đẻ rời rạc từng quả hoặc từng cụm 2-3 quả do dính lại với nhau
nhờ có chất kết dính trên bề mặt trứng, kích thước trung bình là(163 ± 14,9) ×
(116,7 ± 12,3) µm.
Nhện non tuổi 1: Nhện non mới nở rất nhỏ bé, tương đương kích thước của
trứng. Cơ thể nhện non hình bầu dục, phần lưng màu trắng trong, mặt lưng sần
sùi, lớp da ngoài mỏng và có nhiều ngấn ngang, dọc. Hai bên thân sau màu trắng
sữa với ba đôi chân.
Nhện non tuổi 2: Sau khi lột xác, nhện non tuổi 1 chuyển sang tuổi 2. Nhện
non tuổi 2 có 4 đôi chân, di chuyển nhanh nhẹn. Cơ thể có màu trắng sữa, phần
cuối bụng hơi nhọn, mặt lưng gồ ghề và hơi vồng lên nên cơ thể giống hình quả
trám, kích thước trung bình đạt (289,3±23,1) × (144,8±12,6) µm.
Nhện non tuổi 3: Nhện non tuổi 3 hình ô van, khi mới lột xác có màu trắng
trong và sau đó chuyển sang màu trắng đục. Mặt lưng của cơ thể không bằng phẳng
và hơi vồng lên. Kích thước cơ thể tăng nhanh, giai đoạn trước khi hóa trưởng
16
thành (344,6 ± 27,3) × (153,3 ± 22,7) µm .Ở giai đoạn nhện non tuổi 3 đã có thể
phân biệt được nhện đực và nhện cái dựa vào màu sắc và kích thước cơ thể.
Nhện trưởng thành : Nhện đực khi mới vũ hóa có hình ô van hơi dẹt, màu
trắng trong, trên mạt lưng chuyển dần sang màu vàng nhạt và sau đó toàn bộ cơ
thể sẽ chuyển sang màu vàng nâu nhạt, sáng bóng. Nhện trưởng thành cái có
màu nhạt hơn con đực. Nhện cái trước đẻ trứng có kích thước trung bình
(418,8±26,8) × (175,4±11,6) µm , khi đẻ
trứng kích thước trung bình
(423,8±28,1) × (182,9±9,6) µm.
* Đặc điểm sinh học, sinh thái của nhện bắt mồi Lasioseius sp.
Theo Nguyễn Thị Thanh Thu (2010) tiến hành điều tra thành phần các loài
TĐBM nhện gié trên lúa tại Gia Lâm – Hà Nội vụ xuân hè 2010, kết quả thu
được bao gồm 4 loại: Nhện nhỏ bắt mồi Lasioseius sp.( Ascidae, Acarina), Bọ trĩ
bắt mồi đen Haplothrip sp1. (Phlaeothripidae, Thysanoptera) bọ trĩ bắt mồi nâu
đỏ Haplothrip sp2. (Phlaeothripidae, Thysanoptera)
Và muỗi năn bắt mồi
Therodiplosis sp. (Cecidomyiidae, Diptera). Như vậy thành phần các loài BMAT
nhện gié gồm 4 loài thuộc 3 họ và 3 bộ. Trong đó, loài nhện bắt mồi Lasioseius sp.
có tần suất xuất hiện và mức độ phổ biến là nhiều nhất
Sức ăn của nhện trưởng thành cái Lasioseius sp.: Trong các pha phát dục của
nhện gié, trưởng thành cái Lasioseius sp. Lựa chọn ăn trứng nhện gié là nhiều
nhất, trung bình 14,03 trứng/ngày, pha nhện non di động và trưởng thành cái có
sự ưa thích thấp hơn , sức ăn tương ứng là 7,10 và 5,83 cá thể/ngày. Trưởng
thành đực nhện gié là vật mồi kém ưa thích nhất đối với nhện cái Lasioseius sp.
Với sức ăn 1,5 cá thể/ngày (Dương Tiến Viện. 2012).
Theo Nguyễn Thị Thanh Thu. 2010. Trưởng thành nhện bắt mồi đẻ rải rác
các giờ trong ngày, tuy nhiên tập trung nhiều nhất là trong khoảng thời gian từ
21h – 23h (14,46%) đạt và từ 23h - 1h (đạt 13,55%). Các giờ tiếp theo trong
ngày trưởng thành nhện bắt mồi có đẻ trứng tuy nhiên tỷ lệ không cao
Động thái đẻ trứng của loài nhện bắt mồi ở hai nhiệt độ 35C, 30C là khác
nhau. Ở nhiệt độ 30C, thời gian đẻ trứng (14 ngày) dài hơn so với nhiệt độ 35C
17
(10 ngày); số lượng trứng được đẻ ở nhiệt độ 30C cũng cao hơn (trung bình đạt
27,59 4,98 quả) so với nhiệt độ 35C (trung bình đạt 17,29 4,28 quả).
Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy, nhện bắt mồi Lasioseius sp. đẻ tập trung
vào tuần đầu sau khi được giao phối và tiếp tục đẻ rải rác trong những ngày sau đó.
Tỷ lệ nở của trứng ở cả 2 ngưỡng nhiệt độ đều rất cao. Ở 35 oC tỷ lệ nở
trung bình là 88,0% thấp hơn so với ở nhiệt độ 30 oC là 96,0%. Trứng được đẻ
vào những ngày đầu có tỷ lệ nở thấp hơn trứng được đẻ vào ngày thứ 5. Như vậy
có thể thấy, nhiệt độ 30C là điều kiện thích hợp cho sự sinh trưởng và phát triển
của nhện bắt mồi Lasioseius sp.
2. Nhện gié Steneotarsonemus spinki
Trong vòng 5 năm lại đây, nhện gié Steneotarsonemus spinki đang trở
thành loài nhện hại nguy hiểm tại nhiều vùng trồng lúa ở Việt Nam. Ở Miền Bắc,
Nam Trung Bộ và Tây Nguyên, Cục bảo vệ thực vật năm 2009 đã thống kê nhện
gié xuất hiện gây hại 4.229 ha trên lúa Hè Thu, lúa mùa. Cùng với sự biến đổi
khác thường của điều kiện thời tiết, khí hậu và nhiều năm liên tục dùng thuốc trừ
sâu hại của nông dân trên đồng ruộng đã tiêu diệt hết các loài thiên địch của dịch
hại nói chung, nhện hại nói riêng nên nhện gié đã phát sinh và gây hại nặng đối
với lúa ở một số tỉnh phía Bắc. Vụ mùa 2007, nhện gié gây hại khoảng 315 ha lúa
ở các tỉnh Thái Nguyên, Điện Biên, Hải Dương, Hưng Yên, Hà Nội với tỷ lệ dảnh
hại 10-15%, nơi cao 30%. (Nguyễn Mạnh Thủy.2007).
* Phân bố địa lý
Lần đầu tiên, Việt Nam ghi nhận sự gây hại của nhện gié Steneotarsonemus
spinki tại Thừa Thiên Huế vào năm 1992 (Ngô Đình Hoà., 1992). Sau đó, các
nhà khoa học Việt Nam lần lượt phát hiện và chứng minh rằng nhện gié thực sự
là đối tượng nhện hại nguy hiểm, nhất là trong điều kiện vụ mùa ở Miền Bắc.
Ở nước ta, nhện gié gây hại khá phổ biến ở Đồng Bằng Sông Cửu Long. Từ
năm 2007, đã có nhiều thông tin về sự gây hại khá nặng của nhện gié ở một số địa
phương phía Bắc như Thái Nguyên, Nghệ An, Phú Thọ, Hải Dương…. Ở miền
18
Bắc, trong mùa đông rất khó tìm thấy nhện gié trên đồng ruộng, đến vụ xuân
triệu trứng của nhện gié xuất hiện rải rác, nhưng sang vụ mùa mật độ nhện gié
tăng rất nhanh vào các tháng 8, tháng 9, gây ảnh hưởng khá lớn đến năng suất ở
nhiều vùng trồng lúa. (Nguyễn Thị Nhâm và cs., 2010).
* Phạm vi ký chủ:
Tại Việt Nam, hiện nay ký chủ của nhện gié là cây lúa, lúa chét, lúa hoang,
lúa cỏ ngoài ra chưa phát hiện được cây nào khác bị tấn công.
* Đặc điểm sinh thái và đặc điểm sinh học.
Thuộc họ Tarsonemidae, nhện gié cũng mang một số đặc điểm đặc trưng của
họ nhện này.
Nhện gié Steneotarsonemus spinki gồm 4 pha phát triển: Trứng, nhện non di
động, nhện non không di động và nhện trưởng thành. Trưởng thành cái hình ô
van hai đầu thon nhọn, màu trắng hoặc trắng vàng . Kích thước con cái 0,25 ±
0,03mm (n=30). Con cái có 4 đôi chân, đôi chân thứ IV ở đốt bàn phần cuối có 2
lông dài, ở giữa có một lông ngắn hơn. Trưởng thành đực cũng hình ô van
nhưng ngắn hơn con cái, màu trắng đến trắng vàng, kích thước là 0,23 ± 0,02
mm(n=10). Đôi chân thứ 4 trông giống 1 đôi càng cua. Trứng hình bầu dục, màu
trắng trong đến trắng sữa, trơn bóng, thường được đẻ tập trung thành cụm hoặc
đôi khi đẻ rải rác (Nguyễn Văn Đĩnh. 2007)
Nhện gié là loài dịch hại nguy hiểm có vòng đời ngắn, trung bình 9,33 ± 1,29
ngày ở điều kiện 24,6 ± 1,23oC và 5,83 ± 0,55 ngày ở 29,9 ± 1,02 oC (Nguyễn
Văn Đĩnh và Trần Thị Thu Phương, 2006).
So sánh với tỉ lệ tăng tự nhiên của 5 loài dịch hại khác thì nhện gié có tỉ lệ
tăng tự nhiên là cao nhất, với r là 0,48 ở 30 oC, cao hơn loài nhện đỏ hại chè
Oligonychus coffea và nhện trắng P. latus lần lượt 2,21 và 1,41 lần. Kết quả này
cho thấy tiềm năng gây hại to lớn của nhện gié trên lúa nước ở Việt Nam. Và với
tỉ lệ tăng tự nhiên rất cao từ 0,25 – 0,48 trong khoảng nhiệt độ từ 22,5 – 32,5 oC
cộng thêm thức ăn phù hợp là ống thân cây lúa, việc nhân nuôi quần thể nhện
gié là dễ dàng được thực hiện (Lê Đắc Thủy. 2012).
19
Nhện S. spinki có khả năng sống và lây lan trong nước kể cả nước lạnh 20 oC
và có thể phục hồi quần thể rất nhanh sau khi điều kiện sống trở lên thuận lợi.
Chúng có thể sống sót trong điều kiện nhiệt độ thấp 16 oC và 10oC. Bên cạnh đó
nhện có khả năng lan truyền qua vết thương cơ học, vết hại côn trùng và gió.
Sau 10 ngày tạo vết thương nhân tạo, 100% các vết thương trên lá đều có nhện
gié (Nguyễn Thị Nhâm và cs. 2010).
Điều kiện thời tiết nóng khô thích hợp cho nhện gié phát triển gây hại. Trong
vụ hè thu nhện thường phát sinh gây hại vào tháng 5 - 6 lúc lúa có đòng đến trỗ.
3. Những nghiên cứu về mạt bụi nhà.
Mạt bụi nhà là kháng nguyên chủ yếu trong thành phần dị nguyên của bụi nhà.
Chúng là nguyên nhân chính của các bệnh dị ứng đường hô hấp như viêm mũi dị
ứng, hen phế quản ayopy và các bệnh khác. (Phạm Quang Chinh và cs. 2013).
Đặc điểm cấu tạo: MBN(mạt bụi nhà) thuộc ngành chân khớp (Arthropoda),
lớp Nhện (Arachnida). Chúng có kích thước nhỏ (200 – 500 µm), hình oval.
MBN không phân chia một cách rõ rang đầu, ngực , bụng như các côn trùng mà
đầu – ngực và bụng hợp thành một khối duy nhất gồm thể hàm và phần thân.
Đặc điểm sinh học: Tuổi thọ của NBM rất khác nhau, trung bình là 3 tháng.
Trong thời gian đó, con cái đẻ 1 – 2 lần, mỗi lần từ 20 – 40 trứng. đến ngày thứ
6 trứng nở thành ấu trùng di chuyển với ba đôi chân. Sau 6 ngày ấu trùng trở nên
bất động và biến đổi thành tiền thiếu trùng (protonymphe), xuất hiện đôi chân
thứ tư và cơ quan sinh sản. Giai đoạn sau nữa là hậu thiếu trùng (tritonymphe) –
gần giống với mạt trưởng thành. Giữa hai giai đoạn tiền thiếu trùng và hậu thiếu
trùng có thể có một giai đoạn trung là hypope hay deuteronymphe. Đây là giai
đoạn tiềm tang nếu như môi trường bên ngoài không thuận lợi cho chúng phát
triển (nhiệt độ, độ ẩm, dinh dưỡng…). Vòng đời từ trứng đến mạt trưởng thành
khoảng 1 tháng, mạt trưởng thành sống thêm từ 1 đến 3 tháng.
Môi trường sống của mạt bụi nhà: Phần lớn mạt trong họ Pyroglyphidae sống
trong tổ của các loài chim và động vật có vú (Võ Thanh Quang, 2010).
20