Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Bài thuyết trình về Thành Phố Cần Thơ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.94 KB, 18 trang )

I.

KHÁI QUÁT VỀ THÀNH PHỐ CẦN THƠ

1. Đặc điểm tự nhiên – kinh tế xã hội
a. Đặc điểm tự nhiên
Thành phố Cần Thơ nằm ở trung tâm của vùng ĐBSCL, cách Thành phố Hồ
Chí Minh 170km về hướng đông bắc (theo quốc lộ 1A), cách các đô thị lớn trong vùng
ĐBSCL trong khoảng cự ly từ 60 – 120km, giữ vị trí đầu mối giao thông quan trọng về
đường sông, đường bộ, đường biển, đường hàng không, trong tương lai là các tuyến
đường bộ cao tốc và đường sắt, thông thương cả vùng, trong nước và quốc tế; phía
đông giáp tỉnh Đồng Tháp và Vĩnh Long, phía tây giáp tỉnh Kiên Giang, phía nam giáp
tỉnh Hậu Giang và phía bắc giáp tỉnh An Giang. Diện tích: 1.389,60 km².
Thành phố Cần Thơ nằm toàn bộ trên đất có nguồn gốc phù sa sông Mê
Kông bồi đắp và được bồi lắng thường xuyên qua nguồn nước có phù sa của
dòng sông Hậu. Địa chất trong thành phố được hình thành chủ yếu qua quá trình bồi
lắng trầm tích biển và phù sa của sông Cửu Long, trên bề mặt ở độ sâu 50 mét có hai
loại trầm tích làHolocen (phù sa mới) và Pleistocene (phù sa cổ).
Địa hình nhìn chung tương đối bằng phẳng, phù hợp cho sản xuất nông, ngư
nghiệp, với Độ cao trung bình khoảng 1 – 2 mét dốc từ đất giồng ven sông Hậu,
và sông Cần Thơ thấp dần về phía nội đồng tức là từ phía đông bắc sang phía tây
nam.Bên cạnh đó, thành phố còn có các cồn và cù lao trên sông Hậu như Cồn Ấu, Cồn
Khương, Cồn Sơn, Cù lao Tân Lập. Thành phố Cần Thơ có 3 dạng địa hình chính là
Địa hình ven sông Hậu hình thành dải đất cao là đê tự nhiên và các cù lao ven sông
Hậu.
Ngoài ra do nằm cạnh sông lớn, Cần Thơ có mạng lưới sông, kênh, rạch khá
chằng chịt. Vùng tứ giác Long Xuyên thấp trũng, chịu ảnh hưởng lũ trực tiếp hàng
năm. Đồng bằng châu thổ chịu ảnh hưởng triều cùng lũ cuối vụ.
Cần Thơ nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, ít bão, quanh năm nóng
ẩm, không có mùa lạnh. Mùa mưa kéo dài từ tháng 5 đến tháng 11, mùa khô từ tháng
12 tới tháng 4 năm sau. Nhiệt độ trung bình năm khoảng 28 °C, số giờ nắng trung bình


cả năm khoảng 2.249,2 h, lượng mưa trung bình năm đạt 2000 mm. Độ ẩm trung bình
năm dao động từ 82% - 87%. Do chịu ảnh hưởng khí hậu nhiệt đới gió mùa, có lợi thế
về nền nhiệt độ, chế độ bức xạ nhiệt, chế độ nắng cao và ổn định theo hai mùa trong
năm.
Các lợi thế này rất thuận lợi cho sinh trưởng và phát triển của sinh vật, có thể
tạo ra 1 hệ thống nông nghiệp nhiệt đới có năng suất cao, với nhiều chủng loại cây
con, tạo nên sự đa dạng trong sản xuất và trong chuyển dịch cơ cấu sản xuất. Tuy
nhiên, mùa mưa thường đi kèm với ngập lũ ảnh hưởng tới khoảng 50% diện tích toàn
thành phố, mùa khô thường đi kèm với việc thiếu nước tưới, gây khó khăn cho sản
xuất và sinh hoạt, nhất là khu vực bị ảnh hưởng của mặn, phèn làm tăng thêm tính thời
vụ cũng như nhu cầu dùng nước không đều giữa các mùa của sản xuất nông nghiệp.


Thành phố Cần Thơ có sông Hậu chảy qua với tổng chiều dài là 65 km, trong
đó đoạn qua Cần Thơ có chiều rộng khoảng 1,6 km. Tổng lượng phù sa của sông Hậu
là 35 triệu m3/năm. Tại Cần Thơ, lưu lượng cực đại đạt mức 40.000 m 3/s. Mùa cạn từ
tháng 1 đến tháng 6, thấp nhất là vào tháng 3 và tháng 4. Lưu lượng nước trên sông tại
Cần Thơ chỉ còn 2.000 m3/s. Mực nước sông lúc này chỉ cao hơn 48 cm so với
mực nước biển.
Sông Cần Thơ bắt nguồn từ khu vực nội đồng tây sông Hậu, đi qua các quận Ô
Môn, huyện Phong Điền, quận Cái Răng, quận Ninh Kiều và đổ ra sông Hậu tại bến
Ninh Kiều. Sông Cần Thơ có nước ngọt quanh năm, vừa có tác dụng tưới nước trong
mùa cạn, vừa có tác dụng tiêu úng trong mùa lũ và có ý nghĩa lớn về giao thông. Sông
Cái Lớn dài 20 km, chiều rộng cửa sông 600 – 700 m, độ sâu 10 – 12 m nên có khả
năng tiêu, thoát nước rất tốt.
Bên cạnh đó, thành phố Cần Thơ còn có hệ thống kênh rạch dày đặc, với hơn
158 sông, rạch lớn nhỏ là phụ lưu của 2 sông lớn là Sông Hậu và sông Cần Thơ đi qua
thành phố nối thành mạng đường thủy. Các sông rạch lớn khác là sông Bình Thủy,
sông Trà Nóc, sông Ô Môn, sông Thốt Nốt, kênh Thơm Rơm và nhiều kênh lớn khác
tại các huyện ngoại thành là Thốt Nốt, Vĩnh Thạnh, Cờ Đỏ và Phong Điền, cho nước

ngọt suốt hai mùa mưa nắng, tạo điều kiện cho nhà nông làm thủy lợi và cải tạo đất.
b. Kinh tế - xã hội
Năm 2017, TP Cần Thơ ước đạt mức tăng GRDP 7,83% so với năm 2016, vượt
0,03% kế hoạch và cả 3 khu vực kinh tế đều tăng, trong đó khu vực công nghiệp - xây
dựng tăng trên 8,2%, khu vực thương mại - dịch vụ tăng hơn 8,7%. GRDP bình quân
đầu người đạt 72,96 triệu đồng, tăng 11,2%, tương đương 7,3 triệu đồng so với năm
2016. Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ thu ngoại tệ đạt hơn 1,68 tỉ USD,
vượt 5,9% kế hoạch, tăng 13,9% so với năm 2016. Trong cơ cấu kinh tế, tỷ trọng khu
vực nông, lâm nghiệp, thủy sản chiếm 8,7%; công nghiệp - xây dựng chiếm 32,65%,
thương mại - dịch vụ chiếm 58,65%.
Cây nông nghiệp chính của Cần Thơ là lúa, với sản lượng 1.194,7 tấn. Ngoài ra
có một số cây hoa màu khác nhưng sản lượng không đáng kể. Ngành chăn nuôi ở Cần
Thơ chủ yếu là nuôi heo và gia cầm. Số lượng heo là 2589,3 ngàn con, số lượng gia
cầm là 13 ngàn con (vì bị cúm gia cầm). Các gia súc khác như trâu bò chiếm số lượng
không nhiều. Ngành thủy sản ở Cần Thơ chủ yếu là nuôi trồng.
Công nghiệp Cần Thơ về cơ bản đã xây dựng được nhiều cơ sở hạ tầng để phục
vụ cho các đối tác nước ngoài tác nhập, điển hình là 2 khu công nghiệp tại Trà Nóc
trực thuộc quận Bình Thủy, khu công nghiệp Thốt Nốt, khu công nghiệp Hưng Phú 1
và 2, khu công nghiệp tại quận Ô Môn. Trung tâm Công nghệ Phần mềm Cần Thơ,
Cantho Software Park CSP cũng là một trong những dự án được Thành phố quan tâm
đầu tư phát triển. Với những lợi thế về phát triển công nhiệp, Cần Thơ cũng đã được
định hướng để phát triển trở thành thành phố công nghiệp trước năm 2020 theo Nghị


quyết 45- NQ/TW của Bộ chính trị về xây dựng và phát triển thành phố Cần Thơ trong
thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
Có nhiều siêu thị và khu mua sắm, thương mại lớn như: Tổ hợp TTTM và
khách sạn cao cấp 5 sao Vincom Xuân Khánh, Vincom Hùng Vương, Big C, Metro,
Sense City (Co-op Mart), Lotte Mart, VinMart, Best Caring, Siêu thị Điện máy Sài
Gòn Chợ Lớn, Điện máy Nguyễn Kim, Trung tâm thương mại Cái Khế. Các ngành

dịch vụ tại Cần Thơ rất nhiều loại hình dịch vụ đã và đang dần phát triển mạnh
như Ngân hàng, Y tế, Giáo dục, Văn hóa xã hội,...
Thành phố Cần Thơ là địa bàn cư trú của nhiều dân tộc khác nhau. Người
Khmer ở Cần Thơ không nhiều, chủ yếu tập trung chung quanh chùa hoặc sống rải rác
xen kẽ với người Việt ở các quận Ninh Kiều, Ô Môn, Thốt Nốt. Người Hoa ở Cần Thơ
thường sống tập trung ở quận Ninh Kiều và huyện Phong Điền, người Hoa gốc Quảng
Đông làm nghề mua bán, người Hoa gốc Hẹ làm nghề thuốc Bắc và người Hoa gốc
Hải Nam làm nghề may mặc....Tính đến tháng 10 năm 2017, dân số toàn Thành phố
Cần Thơ đạt gần 1,450,000 người, mật độ dân số đạt 1008 người/km², trong đó dân số
sống tại thành thị đạt gần 1,050,000 người, chiếm 70% dân số toàn thành phố, dân số
sống tại nông thôn đạt 400,000 người, chiếm 30% dân số. Dân số nam đạt 724,600
người, trong khi đó nữ đạt 725,400 người. Tỷ lệ tăng tự nhiên dân số phân theo địa
phương tăng 8,2 ‰.
2. Ý nghĩa tên gọi
Khi đối chiếu địa danh Cần Thơ với tên Khmer nguyên thủy của vùng này là
Prek Rusey (sông tre), không thấy có liên quan gì về ngữ âm, người nghiên cứu chưa
thể vội vàng kết luận là Cần Thơ là một địa danh hoàn toàn Việt Nam và vội đi tìm
hiểu căn cứ ở các nghĩa có thể hiểu được của hai chữ Hán Việt "cần" và "thơ". Cần
Thơ không phải là từ Hán Việt và không có nghĩa. Nếu dò tìm trong hướng các địa
danh Việt hoá, người nghiên cứu có thể thấy ngữ âm của Cần Thơ rất gần với ngữ âm
của từ Khmer "kìntho", là một loại cá hãy còn khá phổ biến ở Cần Thơ, thông thường
được gọi là cá sặc rằn, nhưng người ở Bến Tre vẫn gọi là cá "lò tho". Từ quan điểm
vững chắc rằng "lò tho" là một danh từ được tạo thành bằng cách Việt hoá tiếng
Khmer "kìntho", người nghiên cứu có thể sưu tầm các tài liệu về lịch sử dân tộc, về
sinh hoạt của người Khmer xa xưa trong địa phương này, rồi đi đến kết luận là địa
danh Cần Thơ xuất phát từ danh từ Khmer "kìntho".

II.

CƠ SỞ HÌNH THÀNH ĐỊA DANH


1. Các nguyên tắc đặt tên địa danh
1.1. Theo tên loài động vật
Về hai chữ Tây Đô, trước nay chưa có một văn bản Nhà nước nào chính thức
gọi Cần Thơ là Tây Đô (thủ đô miền Tây). Tuy nhiên, do vị trí địa lý thuận lợi về giao
thông, thương mại, công kỹ nghệ và cả về quân sự đều ở trung tâm khu vực châu thổ
sông Cửu Long nên từ thời thực dân Pháp đô hộ đến thời Mỹ xâm lược, về phía ta và
địch đều coi ở đây có vị trí trung tâm của vùng. Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải


phóng, thống nhất đất nước, đi lên chủ nghĩa xã hội thì thành phố Cần Thơ vẫn được
Nhà nước ta xác định vị trí là trung tâm của vùng Đồng băng sông Cửu Long.
Dù sao, cũng cần tìm hiểu hai chữ Tây Đô; xuất hiện từ thời nào và ai là người
xướng gọi đầu tiên để đến ngày nay, nhiều người vẫn quen gọi là Tây Đô. Theo các bài
báo Cần Thơ xưa của nhà nghiên cứu Sơn Nam đăng liên tiếp nhiều kỳ trong báo Cần
Thơ vào năm 1994, thì từ tháng 2 năm 1919, trên tạp chí Nam Phong đã có đăng loạt
bài du ký Một thoáng ở Nam kỳ của ông Phạm Quỳnh. Đây là nhà văn, nhà báo đầu
tiên ở Bắc Hà vào viếng miền Nam. Tác giả Phạm Quỳnh lúc bấy giờ còn trẻ, chưa
vào Huế làm quan cho triều đình.
Nhà nghiên cứu Sơn Nam trích lại một đoạn trong bài báo của ông Phạm
Quỳnh hồi ấy từng có nhã ý phong gọi tỉnh Cần Thơ là Thủ đô miền Tây. Đoạn trích
bài báo ấy như sau:
“Trước khi từ biệt các bạn Long Xuyên, nhân bữa chủ nhật, Phủ Đài (chủ quận Châu
Thành, Long Xuyên) dắt đi chơi Cần Thơ. Từ Long Xuyên ra Cần Thơ ước 60 cây lô
mét (nguyên văn) đi bằng xe hơi. Phải cái xe hơi chạy khí chậm nên đi mất từ sáng đến
ngót trưa mới tới nơi, nhưng chậm vì đỗ ở Ô Môn mất non một giờ đồng hồ. Ô Môn là
một quận lớn, giàu có nhất trong hạt Cần Thơ, ở vào khoảng đường từ Long Xuyên
đến Cần Thơ. Cai trị quận Ô Môn là quan đốc phủ Nguyễn Đăng Khoa, người đã có
tuổi mà tính tình vui vẻ lắm. Khi trở về, ngài còn giữ ăn cơm chiều, nói chuyện khoái
trá lắm. Ngài khi xưa còn theo quân thứ ở mấy tỉnh Bắc kỳ và khắp cả các tỉnh Trung

kỳ, có tài săn bắt ít người bằng. Hiện chỗ ngài ngồi chơi còn bài la liệt các thứ súng.
Ngài chỉ một cây súng lớn mà nói rằng: “Cây súng này tôi đã từng bắn mấy chục con
hổ ở cùng Bình Thuận, Phú Yên đây”.Rồi ngài kể chuyện một bữa bắn được con hổ to
lớn lạ thường, khi nó vươn mình ra từ đầu đến cuối đuôi có tới 6 thước tây, nó làm
kinh hoàng cả một vùng đó, ăn hại không biết bao nhiêu người và sức vật, người dân
đã cho là hổ thần, đành chịu không ai bắn nổi. Nhà săn bán đại tài thấy những miếng
nguy hiểm hay liều mình. Ngài bèn cùng mấy người đầy tớ giỏi đem chiếc súng lớn
vào rừng. Quả gặp hổ thần thật… Quan đốc phủ nói chuyện vui quá, muốn ngồi nghe
mãi không chán.
Con đường từ Long Xuyên đến Cần Thơ tốt lắm, giữa đổ đá, hai bên trồng cây,
cái xe bon bon chạy giữa, coi phong cảch rất là ngoạn mục. Vả lại, đường bộ trong
Nam kỳ này ở đâu cũng tốt như vậy: chẳng bù với đường Bắc kỳ, thứ nhất là đường
Trung kỳ, xe hơi chạy có chỗ tưởng bổng lên đến ngọn núi, có chỗ tưởng xô xuống
vực sâu.
Cần Thơ có cái vẻ mỹ miều xinh xắn, sạch sẽ phong quan, thật xứng tên làm
tỉnh đầu ở miền Tây. Đường phố thênh thang, cửa nhà san sát, các nhà buôn Tây cũng
nhiều hơn tỉnh khác, có chỗ coi xinh đẹp hơn ở Sài Gòn. Tới Cần Thơ, vào thăm ông
huyện Võ Văn Thơm, chủ bút An Hà Nhật báo. Ông là người đứng tuổi, tính tình trầm
mặc, chuyên về kinh tế học. Ông không thích chữ nho, giữ cái thuyết muốn lấy chữ
Pháp làm quốc văn. Ông kể cái lẽ sở dĩ làm sao ông không ưa Hán tự, thì nói rằng thuở
nhỏ đã từng học 5 năm mà chẳng thấy tấn tới gì, ông kết luận rằng chữ nho quyết
không phải là cái lợi khí cho sự học vấn. Tôi nói rằng đó có lẽ là bởi cái phép dạy học
sai lầm, chứ không phải tại lỗi tại chữ nho, ngày nay có cách học giản dị, chỉ một vài
năm là thông. Xem ra ông không tin lời tôi”.
Như thế thì chúng ta đã thấy chính hoàn cảnh địa lý, lịch sử, kinh tế, chính trị,
văn hoá, xã hội của tỉnh Cần Thơ đã từng tồn tại phát triển qua nhiều thời kỳ, tạo cơ
sở, để trước nay, không ai bảo ai, mà nhiều người ở nhiều nơi vẫn thường gọi Cần Thơ
là Tây Đô.



Về nguồn gốc chữ "Cần Thơ", có 2 thuyết. Thuyết thứ nhất kể rằng khi chúa
Nguyễn Ánh trên đường bôn tẩu, thuyền ngài lênh đênh trên sông Hậu, trong đêm
khuya thanh vắng ngài nghe có tiếng ngâm thơ, đờn địch, hò hát hòa nhau rất nhịp
nhàng, từ một khúc sông xa vọng lại. Ngài xúc động và đặt tên con sông nhỏ này là
"Cầm Thi Giang". Cầm Thi được đọc trại thành Cần Thơ. Một truyền thuyết khác nói
là khi xưa vùng Cần Thơ có trồng nhiều rau cần và rau thơm. Mỗi khi chèo ghe đi bán
trên sông rạch, chủ ghe thường rao: "Ai mua rau cần thơm không". Rau cần thơm vì
vậy đã vào ca dao, và cần thơm đọc trại thành Cần Thơ.
Rau cần rau thơm xanh mướt
Mua mau kẻo hết, chậm bước không còn
Rau cần lại với rau thơm
Phải chăng đất ấy rau thơm có nhiều
Thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, triều đình nhà Nguyễn cắt 3 tỉnh miền
Tây Nam Bộ cho Pháp vào năm 1876. Thiết lập ách thống trị trên vùng đất này, thực
dân Pháp chính thức hóa tên gọi Cần Thơ bằng những văn bản hành chính. Để dễ bề
kiểm soát hoạt động của nhân dân từng tỉnh trong 3 tỉnh vừa chiếm được, Pháp còn
đánh số, tỉnh Cần Thơ mang con số 19. Từ đó trở đi, các phương tiện giao thông (chủ
yếu giao thông thủy) như thuyền, ghe của Cần Thơ đều phải gắn con số 19 trước mui.
Ngay cả lính mã tà mỗi lần có việc di chuyển từ Cần Thơ sang tỉnh khác hoặc giải
phạm nhân chống đối lên Sài Gòn đều gắn con số 19 vào cổ áo để dễ nhận diện lính
của mỗi tỉnh thuộc đất nhượng địa.
Ngày 22 tháng 10 năm 1956, Sắc lệnh 143-NV được Ngô Đình Diệm ban hành
để "thay đổi địa giới và tên Đô thành Sài Gòn – Chợ Lớn cùng các tỉnh và tỉnh lỵ tại
Việt Nam". Địa giới và địa danh các tỉnh ở miền Nam thay đổi nhiều, một số tỉnh mới
được thành lập. Trong đó, chính quyền đổi tên tỉnh Cần Thơ thành tỉnh Phong Dinh,
tuy nhiên vẫn giữ lại tên gọi tỉnh lỵ là "Cần Thơ" như cũ. Dưới thời Việt Nam Cộng
hòa, địa danh "Cần Thơ" chỉ còn được dùng để chỉ khu vực đô thị tỉnh lỵ của
tỉnh Phong Dinh, tuy nhiên đến năm 1970 khu vực này và vùng phụ cận được nâng
cấp trở thành thị xã Cần Thơ.
Nếu vào thời nhà Nguyễn độc lập, vùng đất Cần Thơ có tên là "Phong Phú" thì

đến thời Việt Nam Cộng hòa, vùng đất này lại mang tên một địa danh mới lạ hoàn toàn
và chưa bao giờ xuất hiện trước đó: "tỉnh Phong Dinh".
Địa danh Cần Thơ xuất hiện trong ca dao, dân ca Nam Bộ đạt tần suất cao.
Ví dụ:
Gà nào hay bằng gà Cao Lãnh?
Gái nào bảnh bằng gái Cần Thơ?
Hoặc :
Cần Thơ gạo trắng nước trong,


Ai đi đến đó thời không muốn về.
Nhưng, Cần Thơ có nghĩa gì chăng?
Nhà nghiên cứu Lê Trung Hoa khẳng định :
“Trong tiếng Việt hiện đại, Cần Thơ không có ý nghĩa gì!”
Thật ra, giới văn nghệ sĩ từng giải thích theo lối “duy danh định nghĩa”, cốt để đùa tếu
rằng:
Cần Thơ là “đòi hỏi cấp bách các… sáng tác thi ca”(!)
Biến thể ngữ âm địa phương thì thư vẫn được gọi là thơ, nên một số cây bút người Pháp
như Aubaret từng ghi Cần Thơ là Can Thu.
Theo đó, có kẻ cắt nghĩa:
“Cần Thơ là trông ngóng. . . thư từ.”
Cũng lại là một kiểu đùa tếu mà thôi!
Tài liệu Cần Thơ xưa do Huỳnh Minh biên soạn năm 1966 (NXB Thanh Niên tái bản,
2001) thuật đôi mẩu chuyện nhằm trả lời câu hỏi:
“Hai tiếng Cần Thơ do đâu mà có?”
Có một câu chuyện mang tính dã sử:
Tương truyền thuở Nguyễn Ánh bôn tẩu vào Nam, lẩn tránh Tây Sơn.
Đêm nọ ông thả thuyền ngang dòng sông Hậu thuộc địa phận huyện Trấn Giang (được khai
hoang từ thuở chúa Nguyễn bởi Mạc Thiên Tứ).
Chợt nghe tiếng đàn địch và ngâm thơ văng vẳng, ông xúc động bèn đặt tên khúc sông này là

Cầm Thi giang.
Huỳnh Minh suy luận:
“Cầm Thi đọc trại là Cần Thơ, tỷ dụ Sài Côn đọc trại Sài Gòn.”
Suy luận thế thì ngược thực tế.
Bởi Sài Gòn là địa danh gốc, lúc tiền nhân cần ghi văn bản chữ Hán mới phiên trại ra Sài Côn
hoặc Tây Cống, Đề Ngạn, Đê Ngạn.
Trong Tự vị tiếng Việt miền Nam, Vương Hồng Sển nêu cái tên là lạ Cần Lung rồi đặt nghi vấn:
“Chữ Lung và chữ Thơ, trong Nôm tự, có thể nào lẫn lộn nhau được chăng?
Và Cần Lung biến ra Cần Thơ được chăng?”
Rốt cuộc, cố học giả họ Vương đành than:
“Tiếc là ông Trương Vĩnh Ký không để lại tên Cơ Me [Khmer] về Cần Thơ, nên ngày nay khó
biết gốc tích [tên] tỉnh này!”


Thực hiện công trình Lược khảo nguồn gốc địa danh Nam Bộ (NXB Văn Nghệ, TP.HCM,
1999), Bùi Đức Tịnh thử đề xuất hướng nghiên cứu, đồng thời xây dựng giả thuyết khoa học:
“Cần Thơ không phải là từ Hán-Việt và không có nghĩa; vậy phải dò tìm trong hướng các địa
danh Việt hóa.
Trong hướng này, người nghiên cứu có thể thấy ngữ âm của từ Khmer Kìntho chỉ một loại cá
hiện nay còn khá phổ biến ở Cần Thơ, thông thường được gọi là cá sặt rằn, nhưng đồng bào ở
Ba Tri (tỉnh Bến Tre) vẫn gọi là cá lò tho.
Từ quan điểm vững chắc rằng lò tho là một danh từ chung tạo thành bằng cách Việt hóa tiếng
Khmer Kìntho, người nghiên cứu có thể sưu tầm những tư liệu về lịch sử dân tộc, về sinh hoạt
của người Khmer thời xa xưa trong địa phương này trong nhiều hướng đi đến kết luận”.
Việc lấy tên động thực vật tiêu biểu của một vùng để làm địa danh là một quy luật đã
được nhiều nhà ngôn ngữ học thừa nhận – chẳng hạn Nguyễn Văn Âu trong sách Địa danh Việt
Nam (NXB Giáo Dục, Hà Nội, 1993) hoặc Lê Trung Hoa trong sách Nguyên tắc và phương
pháp nghiên cứu địa danh (NXB Khoa học Xã hội, TP.HCM, 2003).
Cũng có thể dẫn ra hàng loạt địa danh khác khắp ba miền với cấu tạo theo phương thức
này:

Bãi Sậy, Bãi Dương, Vàm Cỏ, Rạch Giá, Gò Vấp (đúng ra là Gò Vắp), hoặc Gò Công, Bến
Nghé, Bàu Sấu, Đồng Nai, v.v.
Cần thêm rằng Cần Thơ thuở xa xưa là tên con rạch chảy ra sông Hậu phía hữu ngạn,
nằm tại hướng đông thành phố Cần Thơ hiện nay và từng được thư tịch cổ như Đại Nam nhất
thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn ghi là Cần Thơ giang tức sông Cần Thơ:
“Rộng bốn trượng (gần 19,5m), sâu hai trượng rưỡi (hơn 12m), bờ phía tây là thủ sở đạo Trấn
Giang cũ, phố xá trù mật, buôn bán tấp nập.”
Tên sông nước chuyển hóa thành tên vùng đất, tên làng xóm, tên phố chợ, tên cầu cống, hoặc
ngược lại là hiện tượng vô cùng quen thuộc.
Ngữ âm học lịch sử cũng từng chứng minh sự biến đổi các vần in → ân và o → ơ.
Thí dụ:
Nhin sâm → nhân sâm
Họp → hợp.
Vì thế, địa danh Cần Thơ bắt nguồn từ Kìntho là điều hoàn toàn có thể chấp nhận.
1.2.

Theo lịch sử, truyền thuyết

Trận Ninh Kiều là một trận thắng lẫy lừng của nghĩa quân Lam Sơn diễn ra
năm 1426, còn gọi là trận Chúc Động. Ninh Kiều là chiếc cầu bắc qua sông Ninh
Giang (sông Đáy), khi quân Minh tháo chạy qua sông, nghĩa quân Lam Sơn đã tập
kích và chặt đứt cầu, quân Minh chết đuối làm nghẽn cả một khúc sông. Bình Ngô đại
cáo của Nguyễn Trãi có nhắc đến sự kiện này trong câu:
“Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh hôi vạn dặm”


Ninh Kiều ngày ấy nay là thị trấn Chúc Sơn, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà
Nội.
Năm 1957, Tỉnh trưởng tỉnh Phong Dinh (tên gọi khác của tỉnh Cần Thơ trong
giai đoạn 1956-1975) thời Đệ nhất Cộng Hoà của chính quyền Việt Nam Cộng hòa,

ông Đỗ Văn Chước đã cho lập nơi bến sông này một công viên cây kiểng và bến dạo
mát.
Do đề xuất của ông Ngô Văn Tâm, Trưởng ty Nông nghiệp, đồng thời phụ trách
đoàn Thanh Niên 4T (tức Khuyến Nông), ông Đỗ Văn Chước đã đệ trình lên Tổng
thống Ngô Đình Diệm xin đặt tên công viên và bến là Ninh Kiều. Ông đã dựa vào lịch
sử Việt Nam, lấy tên một địa danh lịch sử chiến thắng quân Minh xâm lược của nghĩa
quân Lam Sơn do Lê Lợi thống lãnh. Trận đánh diễn ra vào ngày 12 tháng 8 năm Bính
Ngọ (tức ngày 13 tháng 9 năm 1426), khi nghĩa quân Lam Sơn tiến quân ra Bắc, Đô Bí
Lý Triển và Trịnh Khả mai phục giặc ở Ninh Kiều và đã chiến thắng hoàn toàn, tiêu
diệt trên 2000 quân Minh. Tướng giặc là Trần Trí phải tháo chạy về Đông Quan (Hà
Nội ngày nay) chờ quân cứu viện..
Ngày 4 tháng 8 năm 1958, ông Lâm Lễ Trinh, người quê quán Cái Răng (Cần
Thơ), Bộ trưởng Nội vụ thời Đệ nhất Cộng Hoà, đã từ Sài Gòn xuống Cần Thơ dự lễ
cắt băng khánh thành, đọc Nghị định đặt tên công viên và bến Ninh Kiều theo đề nghị
của ông Đỗ Văn Chước. Đến nay, quanh khu vực bến được đổi tên thành quận Ninh
Kiều. Bến Ninh Kiều trở thành một điểm nhấn du lịch của Cần Thơ.
1.3.

Theo hình dạng, đặc điểm

Những người lớn tuổi ở vùng nầy kể lại, vào năm Giáp Thìn (1906), trong một
buổi họp có mời đông đủ thân hào nhân sĩ sống trong vùng để bàn việc đổi tên làng,
quan tri phủ Nguyễn Đức Nhuận - cũng là người sống ở làng Bình Thủy - đã nhận ra
phong thuỷ thịnh phát của vùng.
Ông đánh giá con rạch Long Tuyền có nguồn nước chảy từ sông Hậu vào uốn
khúc như rồng nằm, miệng rồng ngậm trái châu là cồn Linh trên sông Hậu, nằm án
ngang miệng rạch. Bốn chân rồng, gồm hai chân trước là phần ngã tư giao nhau giữa
rạch Ngã Tư Lớn và rạch Ngã Tư Bé ngang nhau và hai chân sau là rạch Miếu Ông
trên tỉnh lộ 923 và rạch Cái Tắc cũng ngang nhau. Cái đuôi uốn khúc nằm vắt qua làng
Giai Xuân, ở cuối làng Bình Thuỷ. Vì thế, ông muốn bàn với dân làng đặt lại tên làng.

Từ đó, vùng đất nầy mang tên Long Tuyền cho đến ngày nay.
Xưa kia, vùng này gọi là “Lục Ấp’’; năm Thiệu Trị thứ 13 (1844) được đặt tên
làng Bình Hưng; sau đó lại đổi thành Bình Phó. Năm 1852, Tuần phủ Huỳnh Mẫn Đạt
đi tuần thú ngang qua đây, khi thuyền đến gần Cồn Linh nơi đầu vàm rạch Bình Thủy
thì gặp một trận cuồng phong, mọi người trên thuyền đều hoảng sợ. Quan tuần phủ ra
lệnh cho thuyền núp ngay vào đầu vàm rạch Bình Thủy để tránh gió dữ và đoàn hải
thuyền được bình an vô sự. Ông dừng lại đây cho mở tiệc ăn mừng cùng dân làng và
quan sát dân tình trong suốt ba ngày, ông xét thấy địa thế nầy tốt đẹp, dân cư hiền hoà,
đầu vàm thường yên lặng, không hề có sóng to gió lớn, hoa màu thịnh vượng. Quan
Tuần phủ Huỳnh Mẫn Đạt dâng sớ xin vua Tự Đức cho đổi tên làng thành Bình Thủy.


Con sông Bình Thủy ngày nay (xưa là rạch Long Tuyền) nước chảy uốn khúc
như thân rồng nằm, hai hàm của miệng rồng nay là đình Bình Thuỷ và Nam Nhã
đường. Các rạch cắt ngang như bốn chân rồng. Đoạn đuôi nhỏ dần kết thúc ở cầu Bông
Vang. Từ điểm nầy rạch Long Tuyền chia ra hai ngả toả ra như đuôi rồng. Từ đầu vàm
- miệng rồng đến đuôi rồng dài khoảng 11km. Nước con rạch Long Tuyền quanh năm
yên bình, sóng gợn lăn tăn như vảy rồng lấp lánh dưới ánh mặt trời, dưới ánh trăng
giữa những vườn cây trái xum xuê ôm theo con rạch.
Ban đầu, Bình Thủy chỉ là tên một thôn và sau đó là làng thuộc địa bàn tỉnh Cần
Thơ cũ. Đến năm 1906, làng Bình Thủy đổi tên thành làng Long Tuyền và sau
năm 1956, làng Long Tuyền lại đổi thành xã Long Tuyền. Từ đó, địa danh Bình
Thủy chỉ còn được dùng để chỉ tên một ngôi chợ và tên vùng đất quanh khu vực gần
cầu Bình Thủy và Đình Bình Thủy (lúc bấy giờ còn gọi là Long Tuyền Cổ miếu). Tuy
nhiên, dưới thời Việt Nam Cộng hòa, địa danh Bình Thủy lại được sử dụng nhiều để
chỉ tên gọi các phi trường và khu vực căn cứ quân sự ở vùng đất này.
Sau năm 1975, xã Long Tuyền được tách ra để thành lập mới phường Bình
Thủy. Trong giai đoạn 1975-2003, Bình Thủy chỉ là tên một phường thuộc thành phố
Cần Thơ (lúc bấy giờ còn là thành phố trực thuộc tỉnh). Từ năm 2004, khi Cần Thơ trở
thành thành phố trực thuộc trung ương, địa danh Bình Thủy chính thức được dùng cho

cả hai đơn vị hành chính: phường Bình Thủy và quận Bình Thủy. Hiện nay, trung tâm
hành chính quận Bình Thủy được đặt ở phường Bình Thủy.
1.4.

Theo vật liệu, kiến trúc hoặc vật thể có liên quan

Theo truyền thuyết, tên gọi Cái Răng xuất phát từ câu chuyện hồi đầu thời khẩn
hoang, có con cá sấu rất lớn dạt vào đây, răng của nó cắm vào miệng đất này. Tuy
nhiên, trong cuốn Tự vị tiếng nói miền Nam của Vương Hồng Sển cho biết: Cái Răng
có nguồn gốc từ chữ Khmer "karan" nghĩa là "cà ràng" (ông táo). Người Khmer ở Xà
Tón (Tri Tôn) làm rất nhiều karan đi bán khắp nơi. Lâu dần, mọi người phát âm karan
thành Cái Răng.
“Cà ràng hình thù như con số 8 để nằm, một đầu là ba ông Táo lú đầu lên cao để đội
nồi ơ siêu trách, còn một đầu kia nắn cái bụng chang bang dài dài vừa vặn với cây củi
chụm, bụng này chứa được tro nhiều không rơi rớt ra ngoài, lại ấm cúng che kín gió,
mau chín mau sôi. Truy nguyên ra, trong sách Pháp, Le Cisbassac chẳng hạn, và
nhiều sách khác đã có từ lâu vẫn ghi: "Krôk kran: rạch Cái Răng, nay cứ lấy điển này
làm chắc, một đàng khác hỏi thăm người cố cựu bản xứ thuật rằng ngày xưa, không
biết từ đời nào, nguyên người Thổ (Cơ Me) ở Xà Tón (Tri Tôn) chuyên làm nồi đất và
"karan" chất đầy mui ghe lớn rồi thả theo sông cái đến đậu ghe nơi chỗ này để bán,
năm này qua năm nọ, chầy ngày người mình phát âm "karan" biến ra "Cái Răng" rồi
trở nên địa danh thiệt thọ của chỗ này luôn.”
Theo đó, Cái Răng không phải là cái răng trong miệng, mà Cái Răng là cà ràng.
1.5.

Theo địa vật


Ngày xưa ở vùng này có nhiều đồn điền, mỗi đồn điền chọn một màu cờ xanh,
đỏ, vàng, trắng, đen … để cắm mốc địa giới của mình. Đồn điền ở khu vực này là đồn

điền lớn nhất và chọn cờ màu đỏ. Do đó người Việt rồi cả dân Tây đều gọi khu vực
này là "Cờ Đỏ". Địa danh Cờ Đỏ hình thành từ đó.
1.6.

Theo tên loài cây cỏ

Theo Tự điển bách khoa toàn thư thì tên gọi Thốt Nốt trong tiếng Việt có nguồn
gốc từ tiếng Khmer là th'not. Thốt Nốt là tên gọi của của một loài cây thuộc họ hàng
với Cau (Arecaceae) có nguồn gốc từ Châu Phi- Borassus aethiopium, nhưng ở Châu
Á thì cây Thốt Nốt gọi là Borassus flabellifer. Tại Việt Nam thì cây Thốt Nốt mọc và
trồng tại khu vực Nam Bộ giáp với Campuchia.
Quận Thốt Nốt về vị trí địa lý thì nằm ở phía Bắc của thành phố Cần Thơ, có
các dân tộc sinh sống như Khmer, Hoa, Kinh. Trứơc năm 1976 huyện thuộc tỉnh Long
Xuyên (nay là An Giang). Từ năm 1976-1991 huyện Thốt Nốt thuộc tỉnh Hậu Giang.
Từ ngày 26/12/1991 thì tỉnh Hậu Giang chia thành hai tỉnh Cần Thơ và Sóc Trăng, nên
huyện Thốt Nốt lại thuộc tỉnh Cần Thơ. Ngày 01/01/2004 tỉnh Cần Thơ chính thức trở
thành thành phố Cần Thơ trực thuộc trung ương, nên huyện Thốt Nốt thuộc TP Cần
Thơ cho đến nay.
Tóm lại từ nguồn thông tin trên cho thấy trước đây huyện Thốt Nốt thuộc tỉnh
An Giang. Phía Tây Bắc của tỉnh An Giang thì giáp với Campuchia, nơi có cây th'not.
Cũng có lẽ từ lâu rồi người ta đã đặt tên nơi này dựa theo tên gọi của một loài cây có
tiếng khmer là th'not. Hoặc có thể nó còn có một lịch sử riêng nào đó mà mình chưa
biết.
Thốt Nốt là địa danh được đặt tên theo nguyên tắc theo tên loài cây cỏ và
nguyên nhân có tên Thốt Nốt là do sự giao lưu văn hóa.
1.7.

Theo đặc điểm, tính chất

Phong Điền có nghĩa là vùng đất trù phú, địa danh này còn là nguyên quán của

hai dòng họ Lê và Trần đến đây khai khẩn, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên. Hai
dòng họ này đã đến đây lập nghiệp vào thời nhà Nguyễn, trước khi thực dân Pháp xâm
chiếm nước ta.
Theo Địa phương chí tỉnh Cần Thơ do chính quyền thực dân Pháp phát hành
vào năm 1904, Phong Điền lúc này đã là tên một ngôi chợ thuộc làng Nhơn Ái, tổng
Định Bảo.
1.8.

Theo tên người, chức tước

Lưu Hữu Phước (1921-1989) là một nhạc sĩ đa tài, là Giáo sư, là Viện sĩ, Nhà lý
luận âm nhạc; nguyên Bộ trưởng Bộ Thông tin Văn hóa của Chính phủ Cách mạng
Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam; nguyên Đại biểu Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy
ban Văn hóa và Giáo dục của Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
Ông là tác giả của những bản hùng ca bi tráng. Tác phẩm của ông luôn gắn liền với
những sự kiện lịch sử trọng đại của dân tộc.


Với những đóng góp to lớn của ông vào nền âm nhạc Việt Nam, ông đã được
Nhà nước tặng thưởng nhiều huân chương, huy chương, trong đó có Huân chương Độc
lập hạng nhất, giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật 1996 và được đặt tên
cho một công viên lớn của thành phố Cần Thơ – công viên Lưu Hữu Phước.
2. Sự thay đổi địa danh
-

Do giao lưu văn hóa

Ví dụ: Cần Thơ được đọc theo tiếng Khmer là Kìn-tho, Cái Răng là Cà ràn.
-


Do sự biến đổi của ngôn ngữ

Ví dụ: Thốt Nốt là Th’not
III.

NHỮNG ĐỊA DANH DU LỊCH NỔI TIẾNG TẠI ĐỊA BÀN
NGHIÊN CỨU

1. Bến Ninh Kiều
Bến Ninh Kiều ngày nay trở thành công viên Ninh Kiều, nằm bên bờ sông Hậu
hiền hòa, ngay trung tâm thành phố Cần Thơ. Nơi đây vốn là niềm tự hào đối với
người dân địa phương qua đôi câu ví - Cần Thơ có bến Ninh Kiều, có dòng sông đẹp
với nhiều giai nhân.
Công viên Ninh Kiều rộng lớn và khang trang, có bờ kè tản bộ dọc sông, cùng
những chiếc ghế đá kê dưới hàng dừa lao xao theo gió. Bên trong công viên được
trồng nhiều cây kiểng, hoa kiểng đẹp mắt, điểm tô những thảm cỏ xanh mọc len lỏi
giữa những tấm xi măng trắng, và có tượng Bác Hồ bằng đồng cao 7.2m, bố trí tôn
nghiêm trên bệ cao 3,6m. Xung quanh công viên là các nhà hàng thủy tạ, phục vụ
nhiều món ăn đặc sản địa phương.
Ngoài ra, từ công viên bến Ninh Kiều có thể nhìn thấy cầu Cần Thơ bề thế, nhìn
sang là Xóm Chài mộc mạc và một dải cù lao xanh mướt. Nằm cạnh công viên là khu
Chợ Nhà Lồng cổ Cần Thơ; và cảng Cần Thơ hiện đại, có khả năng tiếp nhận tàu trọng
tải đến 5.000 tấn.
Dưới bến Ninh Kiều là tấp nập tàu thuyền xuôi ngược, chở đầy những sản vật
vùng đồng bằng sông nước Cửu Long. Nơi đây còn có một số tàu thuyền phục vụ
khách du lịch, cùng du thuyền Ninh Kiều vốn là một nhà hàng nổi, thường đưa khách
thưởng ngoạn trên sông vào buổi tối, và trình diễn những tiết mục văn nghệ, đờn ca tài
tử đặc sắc. Giữa sông nước mênh mang, dưới ánh trăng dìu dịu, nghe điệu vọng cổ
mượt mà, sẽ là một trải nghiệm thi vị .
Quanh bến Ninh Kiều cũng đã hình thành các tuyến phố đi bộ, ẩm thực và chợ

đêm Ninh Kiều, hoạt động từ 4 giờ chiều đến tầm 12 giờ đêm. Cứ cách một đoạn lại có
dãy phố chạy dài, bán nhiều loại mặt hàng khác nhau, đông vui, tấp nập người qua lại
ăn uống, mua sắm.


Tiểu thương ở chợ đêm bến Ninh Kiều vẫn giữ được bản tính nồng hậu, khoáng
đạt của người miền Tây trong buôn bán với thái độ phục vụ dễ chịu, và hầu như không
nói “thách” người mua, dần chiếm được cảm tình của người dân địa phương cũng như
du khách.
Bến Ninh Kiều về đêm lung linh giăng mắc ánh đèn rực rỡ, soi bóng xuống mặt
nước phù sa lấp loáng, trở thành nơi hẹn hò, dạo chơi lý tưởng của người dân Cần Thơ
và du khách gần xa.
2. Chợ nổi Cái Răng
Chợ nổi Cái Răng trên sông Cần Thơ, gần cầu Cái Răng, cách trung tâm thành
phố Cần Thơ khoảng 6 km đường bộ và mất 30 phút nếu đi bằng thuyền từ Bến Ninh
Kiều.
Thưở xưa, chợ nổi được hình thành vì đường bộ và những phương tiện lưu
thông trên đường bộ chưa phát triển, vì do nhu cầu của người dân cao nên chợ nổi
được hình thành để đáp ứng. Ngày nay, dù mạng lưới giao thông đã phát triển và hiện
đại hơn nhưng chợ nổi vẫn tồn tại và ngày càng sầm uất hơn.
Về chợ nổi, là chợ tự phát từ xưa đến nay, do những người buôn bán trên sông
cùng với những người nông dân làm vườn và buôn bán nhỏ lẻ ở địa phương hình thành
nên, không được sự quản lý hành chính, thu thuế nào một cách chặt chẽ. Vốn là đồng
bằng sông nước nên thiên nhiên ưu ái ban tặng cho nơi đây nhiều loại trái cây, rau, củ,
quả rất đa dạng nên dù mùa nắng hay mùa mưa thì cũng có thể mua bán các mặt hàng
này một cách thuận tiện.
Người dân Nam Bộ có tập tục truyền thống, nghề được truyền từ đời này sang
đời khác, các thế hệ cứ thế mà gắn bó với con sông, nơi nuôi dưỡng biết bao tâm hồn.
Một sự thuận lợi góp phần rất lớn đó chính là mạng lưới sông ngòi, kênh rạch chằng
chịt tạo điều kiện cho xuồng, ghe đi khắp nơi trong đồng bằng. Từ ghe, xuồng nhỏ đến

những thương lái mua lúa gạo, mía cũng dễ dàng vận chuyển hàng hóa của mình, len
lỏi trong ngõ ngách tìm mua các loại trái cây, khoai, rau củ quả mà nông dân, người
làm vườn bán tại vườn của họ, số lượng nhiều mà giá cả lại rẻ. So với các khu vực
khác thì đây được xem là lợi thế của vùng đồng bằng.
Cũng có nhiều quốc gia trên thế giới có chợ nổi nhưng đa phần chợ chỉ nhóm
họp trên các rạch nhỏ, cho dù bày bán nhiều loại sản phẩm. Ở chợ nổi Cái Răng thì
được họp chợ trên địa điểm một khúc sông rộng lớn hơn nhiều, số lượng ghe thuyền
cũng đông đúc, vận chuyển hàng hóa, buôn bán nông sản tràn ngập. Nơi đây là chơ
đầu mối quốc tế liên hệ giao thương với các quốc gia như Campuchia, Trung Quốc.
Nếu như dân địa phương và các vùng lân cận thường sử dụng các ghe, xuồng
trung bình chở các mặt hàng nông sản đến đây để tiêu thụ thì ghe bầu lớn là của các
thương lái thu mua trái cây tỏa đi khắp nơi. Cảm giác hòa mình vào không khí nhộn
nhịp của buổi chợ, du khách có thể quan sát, tìm hiểu sinh hoạt của nhiều gia đình có
nhiều thế hệ sống trên ghe. Có rất nhiều chiếc ghe được xem là “Căn hộ di động” trên


sông nước với những chậu hoa kiểng, các loài vật nuôi, các tiện nghi đầy đủ như tivi
màu, dàn âm thanh, cả xe gắn máy trên ghe.
Chợ nổi Cái Răng thường họp khá sớm, thường từ lúc tờ mờ sáng và đến
khoảng 8,9 giờ thì vãn. Nếu muốn tham quan nên đi khoảng 7-8 giờ là tốt nhất, vì lúc
đó chợ hoạt động đông đúc nhất. Những loại hàng hóa được bày bán trên ghe, thường
thì mỗi ghe sẽ chuyên bán một loại hàng. Bán hàng gì thì trước mỗi ghe hàng, có một
cây xào chống, trên đó treo loại mặt hàng đó.
Cũng bởi cách chào hàng đặc biệt như vậy mà chợ nổi không có tiếng mời chào
như các chợ trên bờ, mà nếu có rao thì tiếng sóng, tiếng máy nổ của ghe thuyền cũng
làm át đi mất. Chợ không hoạt động và hoạt động rất ít vào các ngày Tết Âm lịch
(mồng 1 và mồng 2 Tết) hay Tết Đoan ngọ (mồng 5 tháng 5 âm lịch). Do nhu cầu của
người đi chợ nên không chỉ có các xuồng trái cây, nông sản mà còn nhiều loại dịch vụ
khác: phở, hủ tiếu, cà phê, quán nhậu nổi,…
Là xứ trái cây nên chợ nổi được bày bán nhiều nhất vẫn là trái cây với giá rẻ so

với thành phố. Tuy nhiên bên cạnh đặc điểm, “treo gì bán đó” thì cũng có 3 trường hợp
đặc biệt ngoại lệ. Thứ nhất đó là “Cái gì treo mà không bán”, chính là quần áo, vì họ
thường sinh hoạt trên thuyền nên quần áo họ phơi ngay trên đó. Thứ hai, “cái gì bán
mà không treo” chính là thức ăn và nước giải khát vì những thứ này không thể treo
được. Thứ ba “cái gì treo cái này, bán cái khác?” chính là treo lá dừa nhưng lại bán
thuyền. Người dân nếu muốn bán ghe thuyền của họ thường sẽ treo lên thuyền một cây
sào, trên đó có gắn một miếng lá dừa. Có thể nói, chợ nổi Cái Răng chính là nét văn
hóa độc đáo, đặc trưng cho hình ảnh xã hội con người nơi miền sông nước không riêng
gì thành phố Cần Thơ mà cả sức sống người dân vùng đồng bằng châu thổ sông Cửu
Long. Chợ nổi Cái Răng không chỉ mở ra tiềm năng về kinh tế, tạo công ăn việc làm
cho bà con sống quanh sông mà còn có nhiều cơ hội để phát huy thế mạnh du lịch của
vùng.
3. Đình Bình Thủy
Đình Bình Thủy tọa lạc tại phường Bình Thủy, quận Bình Thủy, thành phố Cần
Thơ. Đình nằm sát với khu cư dân được bao quanh bởi hàng rào tứ giác: Mặt Bắc cách
bờ sông Hậu khoảng 200 m, mặt Đông là bờ con rạch Bình Thủy, còn mặt Nam sát
đường Lê Hồng Phong. Từ trung tâm thành phố Cần Thơ đi theo đường Nguyễn Trãi
5km là tới đình Bình Thủy.
Đình được dựng vào năm Giáp Thìn (1844), nguyên thủy thờ Thành hoàng của
làng Bình Hưng, tổng Định Thới, huyện Vĩnh Định, phủ Ba Xuyên, tỉnh An Giang.
Ban đầu, nhân dân trong làng lập ngôi đình bằng tre, gỗ, lợp lá để cầu nguyện thần linh
phù hộ cho mưa thuận, gió hoà để giúp bà con luôn được an lành. Năm 1853, nhân
dân địa phương đã cùng nhau cất lại đình. Lần này đình được lợp ngói phía trước để
xây thêm một nhà võ ca (thường dùng để làm Nhà hát bộ, trong đó có một sân khấu
nhỏ, thấp, bằng gỗ để cho các đoàn hát đến biểu diễn cho bà con thưởng ngoạn). Theo
cuốn "Cần Thơ xưa và nay" của tác giả Huỳnh Minh thì đình này còn thờ Trầm Hương


công chúa và Huệ Cơ công chúa nhưng cũng không có sự tích. Sau này nhân dân còn
đưa thêm những người có công với nước vào thờ như: Đinh Công Tráng, Nguyễn

Trung Trực, Bùi Hữu Nghĩa, Võ Huy Tập...Đến năm 1909, đình Bình Thuỷ được xây
lại mới hoàn toàn và năm 1910 thì hoàn thành.
Đình Bình Thủy thuộc loại di tích kiến trúc tôn giáo và công trình nghệ thuật
độc đáo. Nay đình nằm trên khoảnh đất rộng hơn 4000 m². Đình được cất trên một nền
cao ráo và có chiều sâu, nhà trước và nhà sau đều là hình vuông nên chiều nào cũng có
6 hàng cột, các chân cột đều choãi ra làm cho đình càng thêm vững chắc.
Về trang trí ngoại thất, nhìn trên nóc đình nhà trước hai mái chồng lên nhau,
nhà chánh điện sau 3 mái chồng lên nhau theo kiểu kiến trúc "thượng lầu hạ hiên".
Trên nóc đình có gắn tượng hình người, hình kỳ lân, hình cá hóa rồng. Nhìn sang bên
trái nóc đình có mảng trang trí bằng xi măng, giữa là quyển thư, bên cạnh đó là giỏ
lam đào và bình hoa. Ở bìa mái ngói dưới cùng có ốp lá xoài màu xanh đen và ống
ngói cũng được bịt lại bằng sành tráng men xanh. Mặt trước nhà là các cột xi măng
trang trí các hình hoa lá đắp nổi thật tinh tế.
Trong đình, các bàn thờ được bố trí như sau: Tại tòa tiền đường có bàn thờ Nghi
Hạ, Nghi Trung đặt ở gian giữa. Nơi nhà vuông nhỏ đặt bàn thờ Nghi Thượng dùng
làm lễ chính của các ngày lễ hội.
Ở tòa chính điện, chính giữa nhà là bàn thờ chính, bên trái sát vách phía ngoài
là bàn thờ Hương chức Tiên Giác, phía trong là bàn thờ Hậu tiền. Đối diện ở sát vách
bên phải là bàn thờ chức sắc Tiên Giác và bàn thờ Tiền Hiền. Sát vách trong cùng ở
gian giữa có bàn thờ Hậu thần, hai bên là hai bàn thờ Hữu Bang và Tả Bang.
Bên ngoài đình có hai miếu lớn thờ thần Nông và thần Hổ, gần cổng có hai
miếu thờ thần Rừng và thần Khai kênh dẫn nước.
Đình Bình thủy là một công trình có giá trị về kiến trúc nghệ thuật. Tuy được
xây dựng vào đầu thế kỷ XX, nhưng kiến trúc của đình còn giữ được nhiều yếu tố kiến
trúc truyền thống của dân tộc. Đình còn giữ được những mảng chạm, những họa tiết
trang trí gần gũi với nghệ thuật dân tộc. Nghệ thuật chạm khắc gỗ ở nơi đây hết sức
tinh tế và sinh động. Tiềm ẩn dưới mái đình này không chỉ là lịch sử truyền thống cội
nguồn của một làng cổ Nam Bộ mà còn là nơi gìn giữ những giá trị tinh hoa của văn
hóa, văn minh sông nước miệt vườn Cần Thơ nói riêng và miền Tây Nam Bộ nói
chung.

Cùng với những sinh hoạt văn hóa khác, đình Bình Thủy đã tạo nên một bản sắc
riêng của ngôi đình làng ở một vùng đất mới khai phá năm xưa. Nay Đình Bình Thủy
vẫn được giữ gìn, trùng tu và bảo vệ tốt.
4. Thiền Viện Trúc Lâm Phương Nam
Thiền viện Trúc Lâm Phương Nam được khánh thành ngày 17/5/2014, tại xã
Mỹ Khánh, huyện Phong Điền, TP Cần Thơ.


Đây là ngôi chùa rộng nhất khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Thiền viện
Trúc Lâm Phương Nam do Đại tướng Phạm Văn Trà - nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc
phòng - đề xuất xây dựng và chính Đại tướng cũng là trưởng ban vận động đóng góp
xây dựng Thiền viện. Thiền viện Trúc Lâm Phương Nam nằm trong khu Di tích lịch sử
Lộ Vòng Cung TP Cần Thơ. Tổng diện tích Thiền viện Trúc Lâm Phương Nam là hơn
38.000 m2. Ngôi chánh điện, nhà thờ Tổ được xây dựng theo kiến trúc văn hóa Lý Trần; Lầu chuông, lầu trống được xây dựng theo tháp chuông Chùa Keo ở Thái Bình.
Đặc biệt, 4 hạng mục trên được làm bằng gỗ lim, khoảng 1.000 khối được nhập từ
Nam Phi.
Riêng tượng Phật Thích Ca Mâu Ni thờ trong chánh điện được làm bằng đồng,
nặng 3,5 tấn; đại hồng chung nặng 1,5 tấn. Tượng Bồ Tát và các vị tổ sư được tạc bằng
gỗ Du Sam có tuổi thọ 800 năm. Khuôn viên được bài trí cân đối như: Quan Âm điện,
Di Lặc điện (Thủy tạ), Chùa Một Cột, Giảng đường, Khách đường, Trai đường, Thư
viện, phòng Đông y Nam dược... Công trình ước tính tổng kinh phí 145 tỷ đồng từ
nguồn vận động xã hội hóa.
Được sự tín nhiệm của Hội đồng trị sự TW Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Ban
Quản trị Thiền phái Trúc Lâm, Đại đức Thích Bình Tâm được bổ nhiệm Trụ trì Thiền
viện Trúc Lâm Phương Nam.
5. Làng du lịch Mỹ Khánh
Làng du lịch Mỹ là một điểm du lịch sinh thái không chỉ nổi tiếng của cần thơ
mà cả khu vực miền Tây Nam Bộ. Với diện tích hơn 50.000 m2, Mỹ Khánh hấp dẫn
du khách với những vườn cây trái trĩu nặng, những ngôi nhà cổ Nam Bộ, bên cạnh là
những ao cá, kênh rạch cùng nhiều hoạt động du lịch thú vị khác. Vì vậy mà Mỹ

Khánh được xem như là một đồng bằng sông Cửu Long thu nhỏ.
Nếu muốn đến làng du lịch Mỹ Khánh, bạn có thể đi theo con đường đó là
đường bộ và đường thủy. Từ trung Tâm Cần thơ theo Quốc lộ 1A hướng sóc trăng rồi
sẽ phải,đi chừng 6km nữa là đến. Nếu đi bằng tàu bạn đến bến Ninh Kiều thuê tàu
chạy dọc theo sông Cần Thơ cũng đi tầm 6km là đến nơi
Mỹ Khánh là một làng quê rất đỗi bình yên và mộc mạc. Đến đây bạn không
những được trải nghiệm cuộc sống miền quê đích thực mà còn được gần gũi hơn với
thiên nhiên đất trời. Nơi đây còn lưu giữ nhiều giá trị văn hóa, truyền thống của người
dân Nam Bộ.
Ấn tượng đầu tiên đối với nhiều du khách khi đến Mỹ Khánh đó chính là một
khuôn viên xanh rộng lớn tạo cho nơi đây một bầu không khí trong lành, mát mẻ.
Ngoài ra ở đây còn có rất nhiều hoạt động du lịch hấp dẫn và thú vị bạn có thể tham
gia. Đến thăm khu nhà cổ Nam Bộ đã có tuổi đời gần 100 năm tuổi. Chủ của ngôi nhà
trước kia vốn là một điền chủ ở Bình Thủy, sau này được được trùng tu và bảo dưỡng
để phục cho du khách đến thăm quan cũng như tìm hiểu không gian sống, sinh hoạt
của những của những người có địa vị trong xã hội cũ.


Ngay phía sau ngôi nhà cổ còn có một làng nghề truyền thống làm bánh tráng
và nấu rượu. Tại đây bạn sẽ được tận mắt chứng kiến quá trình để làm ra những chiếc
bánh tráng thơm ngon, đặc trưng cho xứ sở này, tất cả đều đòi hỏi sự tỉ mỉ, công phú
và một chút tận tâm của người làm bánh. Nếu muốn, bạn có vào vai một người thợ làm
bánh chuyên nghiệp tự tay tráng bánh riêng cho mình hay mang về làm quà cho bạn bè
người thân.
Đặc biệt, bạn còn được tham gia vào các trò chơi dân gian như leo cây, đập nồi,
nhảy bao bố…hay tham gia vào các hoạt động giải trí như nhảy bơi xuồng, câu cá sấu,
xích lô đạp, đi ngựa vòng quanh quanh làng. Ngoài ra ở đây còn có rất nhiều lễ hội độc
đáo như lễ hội trái cây, đua heo, thi bắt vịt. Tại Mỹ Khánh có một chương trình du lịch
rất đặc biệt dành cho du khách đó là thử làm địa chủ trong 2 ngày 1 đêm. Bạn sẽ được
sống trong căn nhà cổ, mặc trang phục truyền thống, thưởng thức trái cây, uống trà,

nghe đĩa hát quay tay, đi trong xe ngựa thăm thú trong làng, hai bên có cai tổng và tá
điền đi theo phục vụ. Buổi tối cả nhà địa chủ có thể xuống thuyền ăn tối, thưởng ngoạn
sông nước.
Ẩm thực ở Mỹ Khánh cũng rất hấp dẫn đó là những món ăn hết sức dân dã
được chế biến từ những nguyên liệu có sẵn, đặc trưng của miền sông nước như: chuột
quay, cá nướng ống tre, cá lóc nướng trui…Du khách có thể thưởng thức các món ăn
dưới những túp lều nhỏ xinh ấm cúng.
6. Khu tưởng niệm thủ khoa Bùi Hữu Nghĩa
Khu tưởng niệm tọa lạc tại đường Huỳnh Mẫn Đạt, phường Bùi Hữu Nghĩa,
quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ.
Đây là nơi yên nghỉ của Thủ khoa Bùi Hữu Nghĩa – một nhà thơ yêu nước, tác
gia tiên phong của sân khấu tuồng Việt Nam, người được mệnh danh là "Rồng vàng
của
đất
Đồng
Nai".
Bùi Hữu Nghĩa, hiệu Nghi Chi, sinh năm 1807 tại thôn Bình Thủy, tổng Vĩnh Định,
châu Định Viễn, dinh Vĩnh Trấn (nay thuộc quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ)
trong một gia đình ngư dân nghèo. Năm Ất Mùi (1835) Bùi Hữu Nghĩa đỗ Giải
nguyên (Thủ khoa) khoa thi Hương Trường Gia Định, vì thế thường được gọi là Thủ
khoa Bùi Hữu Nghĩa hay Thủ khoa Nghĩa. Ông được triều đình nhà Nguyễn bổ làm
Tri huyện Phước Chánh, phủ Phước Long, tỉnh Biên Hòa – nay thuộc tỉnh Đồng Nai);
rồi Tri huyện tại phủ Trà Vang (Trà Vinh), tỉnh Vĩnh Long – nay thuộc tỉnh Trà Vinh).
Năm 1848, vì bênh vực cho dân nghèo trong vụ án "Rạch Láng Thé" ông bị quan lại,
cường hào vu oan và triều đình kết tội chết. Vợ ông – bà Nguyễn Thị Tồn đã ra tận
kinh đô Huế kêu oan cho chồng. Bùi Hữu Nghĩa được tha chết nhưng bị đày ra trấn
thủ biên giới Vĩnh Thông (Châu Đốc). Năm 1862, ông từ quan về Long Tuyền – Cần
Thơ mở trường dạy học, bốc thuốc chữa bệnh cho dân, tham gia phong trào yêu nước
chống thực dân Pháp. Ông mất ngày 21 tháng Giêng năm Nhâm Thân (1872), thọ 65
tuổi.



Thủ khoa Bùi Hữu Nghĩa là tấm gương sáng về sự công minh, chính trực, hết
lòng vì dân, vì nước. Các tác phẩm thơ, văn và tuồng Kim Thạch kỳ duyên của ông có
giá trị lớn trong văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX. Ông là một trong những danh
nhân văn hóa của đất Cần Thơ được nhân dân tin yêu, trọng phục. Mặc dù đã hơn thế
kỷ trôi qua nhưng tên tuổi của ông vẫn tỏa sáng về tinh thần đấu tranh chống xâm
lược, chống áp bức, bất công; nghĩa khí và những cống hiến to lớn cho nền văn học
nước nhà của ông là tấm gương sáng, là niềm tự hào không chỉ của người dân Cần Thơ
mà là cả Nam bộ.
Khâm phục tài năng và phẩm giá của ông, nhân dân làng Bình Thủy đã đưa hình ảnh
vào thờ trong Đình Bình Thủy, các học trò lập bài vị thờ ông tại Chùa Nam Nhã. Phần
mộ của Thủ khoa xây dựng bằng đá ong luôn được các thế hệ người Cần Thơ chăm
sóc và đã qua nhiều lần tu bổ, tôn tạo.
Ngày 25-01-1994, Bộ Văn hóa - Thông tin đã ban hành Quyết định số 152 VH/QĐ xếp
hạng Mộ Thủ khoa Bùi Hữu Nghĩa là Di tích lịch sử cấp quốc gia.
Nhận thức được giá trị của Di tích trong đời sống văn hóa người dân thành phố Cần
Thơ cũng như cả nước, đồng thời để tưởng nhớ, tri ân cuộc đời, sự nghiệp của Thủ
khoa Bùi Hữu Nghĩa, tiếp tục giáo dục cho thế hệ trẻ tấm gương sáng về tài năng, đạo
đức, nhân cách của một sĩ phu chân chính, Ủy ban Nhân dân thành phố Cần Thơ đã
quyết định mở rộng, tôn tạo Di tích lịch sử Mộ Thủ khoa Bùi Hữu Nghĩa thành Khu
tưởng niệm Thủ khoa Bùi Hữu Nghĩa trên diện tích rộng 10.000 mét vuông, với kinh
phí gần 60 tỷ đồng. Khu tưởng niệm được xây dựng theo phong cách kiến trúc truyền
thống Việt Nam, bao gồm nhiều hạng mục: cổng chào, nhà bia, nhà thờ, khu mộ, nhà
trưng bày... Ngoài ra, trong khuôn viên còn có hồ sen, sân cỏ và nhiều cây kiểng dân
gian như gừa, mai chiếu thủy... Tất cả tạo nên sự trang nghiêm nhưng không kém phần
gần gũi, thân thiện cho Khu tưởng niệm vị Thủ khoa đất Bình Thủy – Long Tuyền.
Công trình được khánh thành vào ngày 01 tháng 3 năm 2013 .
Hiện nay, Khu tưởng niệm Thủ khoa Bùi Hữu Nghĩa đã trở thành địa chỉ tham
quan, sinh hoạt truyền thống, giao lưu văn hóa. Đặc biệt, hàng năm, vào dịp kỷ niệm

ngày mất của Thủ khoa Bùi Hữu Nghĩa, chính quyền địa phương và nhân dân trong
vùng tổ chức Lễ giỗ rất trang trọng để tưởng niệm một nhà thơ khí phách, một nhân
cách lớn được người đời hâm mộ; đồng thời Quận Bình Thủy và Sở Văn hóa, Thể thao
và Du lịch thành phố Cần Thơ còn phối hợp tổ chức chương trình nghệ thuật, các hoạt
động trưng bày, triển lãm sách, trình diễn nghệ thuật thư pháp, thi chưng kết trái cây,
các trò chơi dân gian... thu hút sự tham gia của đông đảo nhân dân và du khách gần xa.

IV.

KẾT LUẬN

Những địa danh được phân tích ở trên đều được đặt tên theo những nguyên tắc
đặt tên địa danh và sự biến đổi của các địa danh này đa phần là do sự giao lưu văn hóa
vì vùng đất Cần Thơ nói riêng và vùng Nam Bộ nói chung, các tên địa danh tại những
vùng đất này đa số đều được chuyển âm từ nguồn gốc tiếng Khmer Nam Bộ.


Miền Nam là đất mới đối với người Việt Nam, những địa danh chỉ mới được
hình thành trong vài thế kỷ trở lại đây nên những nhà nghiên cứu còn có thể truy
nguyên ra nguồn gốc và ghi chép lại để lưu truyền. Cho đến nay thì rất nhiều địa danh
chỉ còn lại cái tên mà ý nghĩa hoặc dấu vết nguyên thủy đã biến mất theo thời gian.
Con người với những đặc trưng văn hóa, dân tộc, tâm lý, phương thức sinh hoạt v.v…
có ảnh hưởng quan trọng đến sự hình thành địa danh. Địa danh có sự bảo lưu và kế
thừa nên có thể một địa danh có nguồn gốc từ ngôn ngữ khác, có thể được vay mượn
từ ngôn ngữ khác. Ngoài ra yếu tố địa lý cũng chi phối mạnh mẽ đến sự hình thành địa
danh với các đặc điểm như: vị trí, hình dạng, kích thước,… Nghiên cứu địa danh chính
là phục hồi mối quan hệ ban đầu của 3 yếu tố: biểu âm, biểu vật, biểu nghĩa, và đây là
một vấn đề hết sức phức tạp. Do thời gian và những biến động của lịch sử mà địa danh
bị biến đổi rất đa dạng.




×