Tải bản đầy đủ (.docx) (47 trang)

Khóa luận tốt nghiệp Tìm hiểu tri thức lịch sử và văn hóa một số làng xã qua nguồn tư liệu sắc phong cho các Thành Hoàng còn lại trên địa bàn tỉnh Quảng Bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.34 MB, 47 trang )

A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Khai thác tài liệu sắc phong của các triều đại phong kiến Việt Nam cho
Thành Hoàng các làng xã Quảng Bình để giải mã những vấn đề văn hóa và lịch sử
là một công việc đầy lý thú và bổ ích. Những thông tin khai thác từ nguồn tài liệu
này sẽ giúp cho giới khoa học bổ sung và làm rõ thêm nhiều khoảng trống trong lịch
sử và văn hóa của các làng xã, của tỉnh Quảng Bình và cả của quốc gia Việt Nam.
Cùng với thời gian các tài liệu Hán Nôm trên cả nước nói chung và Quảng Bình nói
riêng ngày một suy giảm, số còn lại đến nay không nhiều. Do đó vấn đề đặt ra là
cần phải nhanh chóng tập hợp dịch thuật và khai thác; đây là những công việc rất
quan trọng và cũng là cách giữ gìn và bảo tồn tốt nhất nguồn tài liệu này. Mặt khác
hiện nay số lượng người có khả năng đọc và hiểu loại văn tự này cũng không nhiều;
do đó việc tiếp cận và khai thác nguồn tài liệu Hán Nôm là một công việc không dẽ
dàng. Rất may mắn là năm 2017, Lãnh đạo Tỉnh đặc biệt là Sở Khoa học và Công
nghệ tỉnh Quảng Bình đã phê duyệt cho Bảo tàng Tổng hợp tỉnh và nhà nghiên cứu
Trương Quảng Phúc thực hiện đề tài khoa học cấp tỉnh có tên là “Nghiên cứu, sưu
tầm và dịch một số tư liệu Hán Nôm quan trọng có liên quan đến tỉnh Quảng Bình”.
Sau khi đề tài hoàn thành nhóm nghiên cứu do nhà nghiên cứu Trương Quang Phúc
làm Chủ nhiệm đã tập hợp và dịch thuật được một hệ thống tài liệu Hán Nôm rất
phong phú với 48 loại (từ sắc phong, chế, chỉ, khâm phụng lục quyết định, tờ trình
lời phê, đơn cờ biển, khuôn dấu, lạc khoản,.... Trong hệ thống 120 sắc phong của
các triều đại từ nhà Lê Trung hưng đến Tây Sơn và nhà Nguyễn có 18 sắc phong
cho Thành Hoàng một số làng xã ở tỉnh Quảng Bình. Đây là nguồn tài liệu quý, có
giá trị nhiều mặt đặc biệt là các tri thức về lịch sử và văn hóa. Việc khai thác nội
dung nguồn tài liệu này phục vụ công tác biên soạn các tác phẩm lịch sử và tác
phẩm văn hóa là rất cần thiết và cũng là biện pháp bảo tồn chúng phục vụ tốt cho
việc học tập và nghiên cứu khoa học trên nhiều phương diện. Là một sinh viên
chuyên ngành khoa học lịch sử, việc khai thác nguồn tài liệu này để không chỉ giúp
cho bản thân được mở mang hiểu biết về văn hóa lịch sử, có thêm tài liệu phục vụ
việc học tập và giảng dạy sau này mà còn phục vụ cho công tác nghiên cứu khoa
học. Xuất phát từ những cơ sơ khoa học và thực tiễn nói trên, chúng tôi chọn đề tài


“Tìm hiểu tri thức lịch sử và văn hóa một số làng xã qua nguồn tư liệu sắc
phong cho các Thành Hoàng còn lại trên địa bàn tỉnh Quảng Bình” làm đề tài
nghiên cứu khoa học cấp trường.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
1


Sắc phong của các triều đại phong kiến Việt Nam cho Thành hoàng các làng
xã ở Quảng Bình là tài liệu gốc, rất quý giá đối với làng xã do đó trước đây nó được
cất giữ rất cẩn thận và có những quy định rất ngặt nghèo trong việc tiếp cận. Mặt
khác đây là loại tài liệu Hán - Nôm nên nếu như chúng ta không biết chữ Hán, chữ
Nôm thì không thể trực tiếp đọc được nội dung của nó; do đó việc khai thác là rất
khó. Sắc phong cho các Thành Hoàng các làng xã ở Quảng Bình trước đây đều nằm
rải rác ở các làng xã vì thế chưa phần lớn đều chưa được dịch và công bố. Trong
quá trình triển khai công tác sưu tầm hiện vật phục vụ việc bảo tồn và trưng bày,
Bảo tàng Tổng hợp Tỉnh Quảng Bình đã tập hợp đến hầu hết các địa phương trong
tỉnh để sưu tầm tuy nhiên phần lớn sắc phong Thành Hoàng của các làng xã ở
Quảng Bình đã bị hư hoại, hoặc bị thiêu hủy do nhiều nguyên nhân. Số sắc phong
còn lại không nhiểu qua thống kê các sắc phong được Bảo tàng Tổng hợp tỉnh
Quảng Bình tập hợp và công bố trong đề tài “Nghiên cứu, sưu tầm và dịch một số tư
liệu Hán Nôm quan trọng có liên quan đến tỉnh Quảng Bình” thì hiện còn 18 sắc
phong cho các thành hoàng. Các sắc phong này đã được nhà nghiên cứu Trương
Quảng Phúc phiên âm và dịch thuật công bố trong báo cáo Tổng hợp kết quả nghiên
cứu của đề tài nói trên do đó cho đến nay những tri thức lịch sử và văn hóa từ nội
dung của các sắc phong này vẫn chưa được khai thác. Tuy nhiên trước đây nhà
nghiên cứu Nguyễn Tú có tiếp cận số sắc phong và tiến hành khai thác, giới thiệu về
Thành Hoàng của một số làng để viết mục Thành Hoàng trong công trình “Những
nét đẹp truyền thống văn hóa dân gian Quảng Bình”. Tuy trong công trình đó nhà
nghiên cứu Nguyễn Tú có giới thiệu một số Thành Hoàng song lại không dựa vào
sắc phong mà dựa theo tài liệu truyền khẩu và chỉ giới thiệu chung mà chưa đi sâu

khai thác và giải mã các tri thức lịch sử và văn hóa rạch ròi, chi tiết. Trên cơ sở kế
thừa kết quả của hai nhà nghiên cứu nói trên đề tài tập trung khai thác một cách
toàn diện và phân chia thành 2 chủ đề riêng rẽ về lịch sử và văn hóa nhằm giới thiệu
một cách tương đối đầy đủ về giá trị văn hóa và lịch sử của nguồn tài liệu quý hiếm
này.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Thứ nhất, sưu tầm, thống kê số lượng các sắc phong của các triều đại phong
kiến Việt Nam dành cho Thành Hoàng các làng xã hiện tồn ở Quảng Bình.
Thứ hai, khai thác nội dung các sắc phong để giải mã những thông tin về lịch
sử và văn hóa Việt Nam, tỉnh Quảng Bình và lịch sử, văn hóa các làng xã ở Quảng
Bình.
4. Nội dung nghiên cứu

2


1. Những tri thức về văn hóa Việt Nam, văn hóa của tỉnh Quảng Bình và các
làng xã ở Quảng Bình chứa đựng trong các sắc phong Thành Hoàng hiện tồn trên
đất Quảng Bình.
2. Những tri thức về lịch sử Việt Nam, lịch sử Quảng Bình và các làng xã ở
Quảng Bình chứa đựng trong các sắc phong của các Thành Hoàng hiện tồn trên đất
Quảng Bình.
5. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Sắc phong của các triều đại phong kiến Việt Nam cho Thành Hoàng các làng
xã hiện tồn trên địa bàn tỉnh Quảng Bình.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài giới hạn nghiên cứu tất cả các sắc phong của các triều đại phong kiến
Việt Nam cho các Thành Hoàng ở Quảng Bình đã được tập hợp trong Báo cáo Tổng
hợp đề tài khoa học cấp Tỉnh của Bảo tàng Tổng hợp tỉnh Quảng Bình.

6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp luận
Thực hiện đề tài chúng tôi quán triệt và vận dụng quan điểm phương pháp
luận của chủ nghĩa Mac - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam trong nghiên cứu lịch sử và văn hóa.
6.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
Để thực hiện đề tài chúng tôi chủ yếu sử dụng 2 phương pháp cơ bản của
khoa học lịch sử. Trên cơ sở tiếp cận toàn diện nguồn tài liệu khai thác nội dung từ
bản Hán Nôm và bản dịch để thu thập thông tin và sử dụng phương pháp lịch sử để
khôi phục lại các bức tranh về lịch sử và văn hóa; đồng thời sử dụng phương pháp
lôghic để phân tích, tổng hợp, khái quát hóa nhằm làm rõ bản chất của các vấn đề về
lịch sử và văn hóa chứa đựng trong các sắc phong. Ngoài ra trong quá trình thực
hiện đề tài chúng tôi còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu lý thuyết về văn
bản học, phương pháp thống kê, so sánh, phân loại tài liệu để đúc rút thông tin phục
vụ đề tài.
7. Đóng góp của đề tài
1) Đề tài đã tập hợp được một danh mục tài liệu có giá trị về Thành hoàng ở
Quảng Bình cho những ai quan tâm nghiên cứu những nội dung có liên quan.
2) Thực hiện đề tài chúng tôi đã khai thác các tài liệu để dựng lại bức tranh
lịch sử và văn hóa gắn với tín ngưỡng thờ Thành hoàng của một số làng xã ở tỉnh
Quảng Bình.
3) Đề tài đã đề xuất được một sồ giải pháp nhằm bảo tồn tín ngưỡng Thành
hoàng ở Quảng Bình

3


4) Hoàn thành đề tài ngoài việc tập dượt nghiên cứu khoa học, vận dụng
kiến thức kỹ năng đã học vào việc thực tiễn còn giúp cho tác giả nâng cao và bổ
sung thêm kiến thức của bản thân làm hành trang nghề nghiệp và cuộc sống sau này.

8. Bố cục của đề tài
Ngoài mở đầu kết luận và phụ lục, nội dung của đề tài gồm 3 chương.
Chương 1: Địa lý, lịch sử và văn hóa Quảng Bình
Chương 2: Tìm hiểu tri thức lịch sử và văn hóa một số làng xã qua nguồn tư
liệu sắc phong cho Thành hoàng còn lại trên địa bàn Quảng Bình
Chương 3: Giá trị và những giải pháp đặt ra trong việc bảo tồn tín ngưỡng
Thành hoàng ở Quảng Bình

B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. ĐỊA LÝ, LỊCH SỬ VÀ VĂN HÓA QUẢNG BÌNH
1.1. Vị trí địa lý- điều kiện tự nhiên
4


1.1.1. Vị trí địa lý
Phần lục địa Quảng Bình nằm ở tọa độ từ 17 độ 05 phút vĩ độ Bắc18 0 05’ vĩ
độ Bắc và từ 105036’ kinh độ Đông đến 106059’kinh độ Đông. Quảng Bình có bờ
biển dài hơn 116 km ở phía Đông, có chung biên giới ở phía Tây với Lào gần 202
km, phía bắc giáp tỉnh Hà Tỉnh ở Đèo Ngang, phía nam giáp tỉnh Quảng Trị ở Hạ
Cờ. Về giao thông, Quảng Bình là tỉnh hẹp nhưng lại có đầy đủ các tuyến giao
thông quan trọng. Đường biển, Quảng Bình có các cảng: Hòn La, Gianh, Nhật Lệ.
Về đường không, Quảng Bình có cảng hàng không Đồng Hới. Đường bộ có Quốc
lộ 1A và Quốc lộ 15 (đường Hồ Chí Minh), còn có đường sắt Bắc Nam chạy qua;
Quảng Bình còn có các tuyến Quốc lộ 12 và Tỉnh lộ 20, Tỉnh lộ 16 chạy từ Đông
sang Tây. Quảng Bình có cửa khẩu Quốc tế Cha Lo và một số cửa khẩu phụ khác
nối liền với nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào. Đây là điều kiện giao thông rất
thuận lợi cho việc phát triển kinh tế xã hội và giao lưu văn hóa của Quảng Bình
[13].
1.1.2. Điều kiện tự nhiên
a) Địa hình

Tỉnh Quảng Bình là vùng đất có bề ngang hẹp, địa hình dốc từ phía Tây
sang phía Đông, 85% diện tích tự nhiên là đồi núi. Toàn bộ diện tích của tỉnh Quảng
Bình được chia thành 4 vùng sinh thái cơ bản: Vùng núi cao, vùng đồi và trung du,
vùng đồng bằng, vùng cát ven biển [13].
b) Khí hậu
Quảng Bình nằm ở vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa và luôn bị tác động bởi
khí hậu của phía Bắc và phía Nam, được chia làm hai mùa rõ rệt:
Mùa mưa ở Quảng Bỉnh diễn ra từ tháng 9 đến tháng 3 năm sau. Lượng
mưa trung bình hàng năm 1.500 - 2.000 mm/năm. Thời gian mưa tập trung vào các
tháng 9, 10 và 11 [13].
Mùa khô ở Quảng Bình kéo dài từ tháng 4 đến tháng 8 với nhiệt độ trung
bình 240C - 250C; bốn tháng có nhiệt độ cao nhất là tháng 5, 6, 7 và 8.
c)Tài nguyên đất
Tài nguyên đất được chia thành hai hệ chính: Đất phù sa ở vùng đồng bằng
và hệ pheralit ở vùng đồi và núi với các nhóm chính như sau: nhóm đất cát, đất phù
sa và nhóm đất đỏ vàng. Trong đó nhóm đất đỏ vàng chiếm hơn 80% diện tích tự
nhiên, chủ yếu ở địa hình đồi núi phía Tây, đất cát chiếm 5,9% và đất phù sa chiếm
2,8% diện tích [13]
d) Tài nguyên động, thực vật
Quảng Bình nằm trong khu vực đa dạng sinh học Bắc Trường Sơn - nơi có
khu hệ thực vật, động vật đa dạng, độc đáo với nhiều nguồn gen quý hiếm. Đặc
5


trưng cho đa dạng sinh học ở Quảng Bình là vùng Karst Phong Nha - Kẻ Bàng. Về
động vật có: 493 loài, 67 loài thú, 48 loài bò sát, 297 loài chim, 61 loài cá... có
nhiều loài quý hiếm như Voọc Hà Tĩnh, Gấu, Hổ, Sao La, Mang Lớn, Gà Lôi lam
đuôi trắng, Gà Lôi lam mào đen, Trĩ...Về đa dạng thực vật: Với diện tích rừng
486.688 ha, trong đó rừng tự nhiên 447.837 ha, rừng trồng 38.851 ha, trong đó có
17.397 ha rừng thông, diện tích không có rừng 146.386 ha. Thực vật ở Quảng Bình

đa dạng về giống loài: có 138 họ, 401 chi, 640 loài khác nhau. Rừng Quảng Bình có
nhiều loại gỗ quý như lim, gụ, mun, huỵnh, thông và nhiều loại mây tre, lâm sản
quý khác. Quảng Bình là một trong những tỉnh có trữ lượng gỗ cao trong toàn quốc.
Hiện nay trữ lượng gỗ là 31 triệu m3 [13].
e) Tài nguyên biển và ven biển:
Quảng Bình có bờ biển dài hơn 116 km với 5 cửa sông, trong đó có hai cửa
sông lớn tạo thành cảng Nhật Lệ và cảng Gianh; ngoài ở bờ biển phía bắc còn có
cảng Hòn La nằm ở vịnh Hòn La. Vịnh Hòn La có diện tích mặt nước 4 km 2, có độ
sâu trên 15 mét và xung quanh có các đảo che chắn: Hòn La, Hòn Cọ, Hòn Chùa có
thể cho phép tàu 3-5 vạn tấn vào cảng mà không cần nạo vét. Trên đất liền có diện
tích khá rộng (trên 400 ha) thuận lợi cho việc xây dựng khu công nghiệp gắn với
cảng biển nước sâu. Bờ biển có nhiều thắng cảnh đẹp, cùng với thềm lục địa rộng
gấp 2,6 lần diện tích đất liền tạo cho Quảng Bình có một ngư trường rộng lớn với
trữ lượng khoảng 10 vạn tấn và phong phú về loài (1650 loài), trong đó có những
loại quý hiếm như tôm hùm, tôm sú, mực ống, mực nang, san hô. Phía Bắc Quảng
Bình có bãi san hô trắng với diện tích hàng chục ha, đó là nguồn nguyên liệu quý
cho sản xuất hàng mỹ nghệ và tạo ra vùng sinh thái của hệ san hô. Điều đó cho phép
phát triển nền kinh tế tổng hợp vùng ven biển. Mặt nước nuôi trồng thuỷ sản: Với 5
cửa sông, Quảng Bình có vùng mặt nước có khả năng nuôi trồng thuỷ sản khá lớn.
Tổng diện tích 15.000 ha. Độ mặn ở vùng mặt nước từ cửa sông vào sâu khoảng 1015km giao động từ 8-30%o và độ pH từ 6,5- 8 rất thuận lợi cho nuôi tôm cua xuất
khẩu. Chế độ bán nhật triều vùng ven biển thuận lợi cho việc cấp thoát nước cho
các ao nuôi tôm cua [13].
g) Tài nguyên nước
Quảng Bình có hệ thống sông suối khá lớn với mật độ 0,8 - 1,1 km/km 2. Có
ăm sông chính là sông Roòn, sông Gianh, sông Lý Hoà, sông Dinh và sông Nhật
Lệ. Có khoảng 160 hồ tự nhiên và nhân tạo với dung tích ước tính 243,3 triệu m3
[13]
h) Tài nguyên khoáng sản
Quảng Bình có nhiều loại khoáng sản như vàng, sắt, titan, pyrit, chì, kẽm...
và một số khoáng sản phi kim loại như cao lanh, cát thạch anh, đá vôi, đá mable, đá

6


granit... Trong đó, đá vôi và cao lanh có trữ lượng lớn, đủ điều kiện để phát triển
công nghiệp xi măng và vật liệu xây dựng với quy mô lớn. Có suối nước khoáng
nóng 1050 C. Trữ lượng vàng tại Quảng Bình có khả năng để phát triển công nghiệp
khai thác và chế tác vàng 13]
1.2. Lịch sử hình thành và phát triển
Trong lịch sử hình thành và phát triển của Việt Nam, Quảng Bình luôn là một
phần đất thiêng liêng của lãnh thổ Việt Nam. Vùng đất Quảng Bình hôm nay đã trải
qua nhiều lần thay đổi cương vực (địa giới lãnh thổ) và tên gọi. Theo thư tịch cũ,
thuở vua Hùng lập quốc, Quảng Bình thuộc bộ Việt Thường, một trong 15 bộ của
nước Văn Lang.[12]
Thời Bắc thuộc, đất nước ta nằm dưới ách thống trị của phong kiến phương
Bắc, thời nhà Triệu và nhà Hán vùng đất Quảng Bình nằm trong quận Nhật Nam.
Năm 192, ở huyện Tượng Lâm (thuộc quận Nhật Nam) nhân dân Chăm nổi dậy lật
đổ bọn phong kiến Đông Hán lập ra nước Lâm Ấp. Lâm Ấp từng bước lớn mạnh và
mở rộng dần lảnh thổ về phiias bắc thôn tính dần đất đai của quận Nhật Nam. Đến
năm 337, Lâm Ấp đánh chiếm hết Quạn Nhật Nam do đó vùng đất Quảng Bình bắt
đầu nằm trong lãnh thổ của nước Lâm Ấp. Đến năm 808, Lâm Ấp đổi tên là Chiêm
Thành, Quảng Bình nằm trong 2 châu: Châu Bố Chinh và Châu Địa Lý.[12]
Năm 1069, để phá tan âm mưu cấu kết xâm lược của nhà Tống và Chiêm
Thành; một đạo quân Đại Việt do Lý Thánh Tông cầm đầu và tướng Lý Thường
Kiệt chỉ huy, đã tiến đánh vào tận kinh thành Chăm-pa, bắt được vua Chiêm là Chế
Củ. Để chuộc tội, vua Chiêm cắt dâng 3 châu: Bố Chinh, Ma Linh, Địa Lý (gồm
Quảng Bình - Quảng Trị) cho nhà Lý. Quảng Bình được sáp nhập trở về với Đại
Việt.[12]
Năm 1075, Lý Thường Kiệt đổi tên châu Bố Chinh thành châu Bố Chính,
châu Địa Lý thành châu Lâm Bình. Mảnh đất Quảng Bình từ đó chính thức được
đưa vào bản đồ nước ta. Chính Lý Thường Kiệt là người có công đầu xác định và

đặt nền móng đầu tiên của vùng đất Quảng Bình trọn vẹn cương vực lãnh thổ như
ngày nay. Sau thời Lý Thường Kiệt, cương vực và tên vùng đất này lại có nhiều
thay đổi, năm 1361 vua Trần Duệ Tông đổi châu Lâm Bình thành phủ Tân Bình,
năm 1375 Trần Duệ Tông đổi phủ Lâm Bình thành phủ Tân Bình.[12]
Dưới triều Lê, đời Lê Thánh Tông (1460-1497), phủ Tân Bình thuộc thừa
tuyên Thuận Hoá. Đến thời Nguyễn Hoàng làm Trấn thủ Thuận Hóa và Quảng Nam
(1558 - 1604) vùng đất Bắc sông Gianh gọi là châu Bố Chính Bắc, vùng Nam sông
Gianh gọi vào tới Nhân Trạch gọi là châu Bố Chính Nam. Năm 1605 Nguyễn
Hoàng đổi phủ Tiên Bình thành phủ Quảng Bình, cái tên Quảng Bình có từ đó. Sau
7


45 năm nội chiến không phân thắng bại, hai thế lực phong kiến Trịnh - Nguyễn phải
ngừng chiến lấy song Gianh làm ranh giới phân chia đất nước. Từ phía bắc sông
Gianh trở ra gọi là Đàng Ngoài; từ Nam sông Gianh trở vào gọi là Đàng Trong.
Tình trạng chia cắt Đàng trong và Đàng ngoài cũng làm cho Quảng Bình bị chia cắt
thành 2 châu Bố Chính (khu vực từ phía nam đèo Ngang vào đến bờ bắc sông
Gianh gọi là châu Bắc Bố Chính nằm trong trấn Nghệ An thuộc Đàng Ngoài. Khu
vực từ bờ nam sông Gianh trở vào đến Nam Trạch gọi là châu Nam Bố Chính nằm
trong xứ Thuận Hóa, thuộc Đàng Trong. Nguyễn Huệ là người có công chấm dứt
nội chiến Nam Bắc phân tranh hơn 200 năm, thống nhất đất nước, Ông sáp nhập 2
châu Bắc, Nam Bố Chính lại thành lập Châu Thuận Chính (Thuận có nghĩa là hòa
thuận chấm dứt chiến tranh).[12]
Năm 1802, sau khi đàn áp phong trào Tây Sơn, lập ra triều Nguyễn, Nguyễn
Phúc Ánh lên ngôi lấy niên hiệu Gia Long. Vua Gia Long đã tách châu Thuận
Chính ra thành 2 châu. Khu vực phía Bắc Thuận Chính được gọi là châu Bố Chính
Ngoại; khu vực phía Nam sông Gianh được gọi là châu Bố Chính nội.[12]
Năm 1832, đời vua Minh Mạng, Vùng đất phủ Quảng Bình được Minh Mạng
đặt tên là tỉnh Quảng Bình (tên tỉnh Quảng Bình là một đơn vị hành chính bắt đầu từ
đây). Từ đây cho đến thời vua Thiệu Trị toàn tỉnh có 2 phủ, 6 huyện (phủ là đơn vị

hành chính bao gồm 2 hoặc nhiều huyện). Phủ Quảng Ninh có 3 huyện: Phong Lộc,
Phong Đăng và Lệ Thủy (Đồng Hới thuộc phủ Quảng Ninh). Phủ Quảng Trạch gồm
3 huyện: Bố Trạch, Bình Chánh và Minh Chánh. [12]
1.3. Khái quát văn hóa
Dãi đất Quảng Bình như một bức tranh hoành tráng, có rừng, có biển với
nhiều cảnh quan thiên nhiên đẹp, thắng cảnh nổi tiếng: đèo Ngang, đèo Lý Hoà, cửa
biển Nhật Lệ, phá Hạc Hải, Cổng Trời… và Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng
được công nhận là Di sản Thiên nhiên thế giới, Hang Sơn Đoòng được công nhận là
hang động lớn nhất thế giợí. Với hệ thống hang động phong phú tìm thấy cho đến
nay, Quảng Bình đã được mọi người gọi là Vương quốc hang động. Ngày
13/5/2015, Hang Sơn Đoòng của Quảng Bình xuất hiện trên chương trình Good
Morning American trên kênh ABC của nước Mỹ đã đưa Quảng Bình và du lịch
Quảng Bình đến gần hơn với bạn bè quốc tế. Gần đây đoàn làm phim bom tấn nổi
tiếng thế giới Kong; Skull Island đến từ Hollywood Mỹ đã thực hiện nhiều cảnh
quay tại hệ thống hang động Quảng Bình ra mắt những thước phim mãn nhãn vào
ngày 10/3/2017[12]
Quảng Bình là vùng đất văn vật, nổi tiếng với di chỉ văn hóa Bàu Tró, các di
chỉ thuộc nền văn hóa Hòa Bình,Đông Sơn và Sa Huỳnh, nhiều di tích lịch sử như:
8


Quảng Bình Quan, Luỹ Thầy, Rào Sen, Thành Nhà Ngo, Thành Khu Túc-Chămpa,
thành quách của thời Trịnh - Nguyễn, nhiều địa danh nổi tiếng trong hai cuộc kháng
chiến chống xâm lược của dân tộc như Cự Nẫm, Cảnh Dương, Cha Lo, Cổng Trời,
Xuân Sơn, Long Đại, đường Hồ Chí Minh v.v... Trong quá trình lịch sử, đã hình
thành nhiều làng văn hóa nổi tiếng và được truyền tụng từ đời này sang đời khác
như "Bát danh hương": "Sơn- Hà- Cảnh - Thổ- Văn- Võ- Cổ - Kim". Nhiều danh
nhân tiền bối học rộng, đỗ cao và nổi tiếng xưa và nay trên nhiều lĩnh vực quân sự,
văn hoă - xã hội như Dương Văn An, Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh, Tuy Lộc
hầu Đặng Đại Lược, Lãnh Đức hầu Đặng Đại Độ, Sư bảo Nguyễn Đăng

Tuân, Nguyễn Hàm Ninh, Hoàng Kế Viêm, Võ Nguyên Giáp, Hoàng Thanh Đạt, Lê
Vũ Hoàng, Nguyễn Thế Quỳnh...
Quảng Bình là vùng giao thoa của hai nền văn hóa cổ Việt - Chămpa, thể hiện ở
những di chỉ có niên đại 5 nghìn năm đã khai quật được ở Bàu Tró, phía bắc Đồng
Hới[12].

CHƯƠNG 2 TÌM HIỂU TRI THỨC LỊCH SỬ VÀ VĂN HÓA MỘT SỐ
LÀNG XÃ QUA NGUỒN TƯ LIỆU SẮC PHONG CHO THÀNH HOÀNG
CÒN LẠI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG BÌNH
2.1. Khái niệm, nguồn gốc Thành hoàng
2.1.1. Khái niệm Thành hoàng

9


Thành hoàng (chữ Hán: 城 城 ) là vị thần được tôn thờ chính trong đình
làng Việt Nam. Vị thần này dù có hay không có họ tên và lai lịch, dù xuất thân bất
kỳ từ tầng lớp nào, thì cũng là chủ tể trên cõi thiêng của làng và đều mang tính chất
chung là hộ quốc tỳ dân (hộ nước giúp dân) ở ngay địa phương đó [14].
Thành hoàng xuất phát từ chữ Hán: “Thành là cái thành, hoàng là cái hào bao
quanh cái thành; và khi ghép chung lại thành một từ dùng để chỉ vị thần coi giữ, bảo
trợ cho cái thành” [14].
Nhà văn Sơn Nam cho biết thêm: “Ông thần ở đình làng gọi là thần Thành
hoàng, cai quản khu vực trong khung thành. Thoạt tiên là thần ngự trị nơi thị tứ,
sau áp dụng (cả) nơi thôn xóm, (vì) vẫn có điếm canh bố trí bao quanh...”5
Cũng theo Sơn Nam, thần Thành hoàng, theo thông lệ, thờ thần đàn ông, vì
khí Dương đem sức mạnh cho muôn loài, muôn vật. Và gọi ông Thần hoàng là sai
nghĩa, vì cái tên này chỉ là thứ nghi lễ đốt tờ giấy vàng, tức bản sao sắc phong do
nhà vua tặng cho cha mẹ, ông bà đã qua đời của quan chức cao cấp thời phong kiến;
và tục này ở Nam Bộ không có [14]. Bởi vậy, khi trích lại đoạn viết về tục "thờ

thần" ở trong sách Việt Nam phong tục của Phan Kế Bính, nhà văn Sơn Nam đã sửa
từ "Thần hoàng" ra "Thành hoàng" cốt để người đọc không còn lầm lẫn giữa hai
thứ. Tuy nhiên, xét trong sách Việt Nam phong tục, lễ Thần hoàng được xếp vào
mục Phong tục trong gia tộc; còn việc thờ phụng Thần hoàng được xếp vào
mục Phong tục hương đảng, thì rõ là tác giả sách đã chỉ ra đó là hai thứ khác nhau.
Điểm đáng chú ý khác nữa, vì là vùng đất mới nên ở Nam Bộ nhiều đình
làng, thần chỉ có tên là Bản cảnh Thành hoàng hay Thành hoàng Bản cảnh (城城城
城). Theo sách Minh Mạng chính yếu, quyển thứ 12, năm Minh Mạng thứ 20 (1839),
thì nhà vua đã chuẩn y lời tâu của Bộ Lễ xin hạ lệnh cho các địa phương lập thêm
thần vị Bản cảnh. Đây là chức vụ mới, lúc trước không phổ biến. Lê Phục Thiện,
người dịch sách trên chú giải: Thành hoàng là vị thần coi một khu vực nào. Bản
cảnh là cõi đất nơi mình được thờ. Nhà văn Sơn Nam cho biết bởi đây là dạng viên
chức được vua ủy quyền trừu tượng, trong rất nhiều trường hợp, không phải là con
người lịch sử bằng xương bằng thịt. Do vậy, đa phần không có tượng mà chỉ thờ
một chữ "thần" ( 城 ) và thường cũng chỉ có mỹ hiệu chung chung là "Quảng hậu,
chính
trực, đôn ngưng" (tức rộng rãi, ngay thẳng, tích tụ).[14].
Tóm lại Thành Hoàng là vị thần bảo trợ của 1 làng, xã, thôn, ấp của Việt Nam
thời kỳ trước cách mạng tháng Tám. Đây là vị thần được thờ ở gian chính của nơi
đình làng.
2.1.2. Nguồn gốc của Thành hoàng
10


Ở Trung Quốc thời nhà Chu, thế kỷ VI-V trước Công Nguyên, để bảo vệ
thành, hào, các bá Vương chư Hầu đã đặt ra thần Thành hào (hào có nước gọi là trì,
không nước gọi là hoàng). Như vậy, Thành hoàng xuất hiện ở Trung Quốc cổ đại
với tính chất là thần coi giữ, bảo vệ cho cái thành [10].
Ở Việt Nam, Thành hoàng là vị thần được tôn thờ chính trong các đình làng,
là vị thần linh cai quản toàn bộ thôn xã, là thần hộ mệnh, phù hộ và che chở cũng

như ban phúc cho dân làng [10].
Danh hiệu Thành Hoàng xuất hiện vào năm 822, Thời Đường Mục Tông và
vị Thành Hoàng đầu tiên ở nước ta là vị nhân thần tên là Tô Lịch. Thái thú nhà
Đường khi ấy là Lý Nguyên Gia, thấy ngoài cửa bắc thành Long Biên có một dòng
nước chảy ngược mà địa thế khả quan, mới tìm và chọn một nơi cao ráo để dời phủ
lỵ đến đó…Nhân dịp ấy, y giết trâu đặt rượu, mời khắp các vị kỳ lão hương thôn
đến dùng và thuật rõ là muốn tâu vua Tàu xin phụng Vương (thần sông Tô Lịch)
làm Thành Hoàng [10]
Đến khi Cao Biền đắp thành Đại La, nghe đủ sự linh dị, thì lập tức sắm lễ
điện tế, dâng cho hiệu là Đô Phủ Thành Hoàng Thần Quân. Đời Lý Thái Tổ lúc dời
đô (năm 1010), thường mộng thấy một cụ đầu bạc, phảng phất trước bệ rồng… (Sau
khi hỏi rõ lai lịch) nhà vua liền sai quan Thái Chúc đưa rượu chè đến tế, phong làm
Quốc Đô Thăng Long Thành Hoàng Đại Vương. Dân cư đến cầu đảo hay thề
nguyền điều chi, thì lập tức họa phúc linh ứng ngay. Sau đó, các triều đại độc lập
tiếp tục duy trì và phát triển bằng nhiều đợt sắc phong. Thời nhà Trần, Tô Lịch lại
được phong thêm các mỹ tự: “Bảo Quốc vào năm Trùng Hưng thứ nhất, Hiển linh
vào năm Trùng Hưng thứ tư, Định bang vào năm Hưng Long thứ 21. Đời Lê (1442)
cho lập các đàn thờ các thần thiên nhiên để cúng tế. Vào thời Nguyễn, quan niệm
chính thống về Thành Hoàng được duy trì và mở rộng ra các trấn, tỉnh. Dân ta tin
rằng: Đất có Thổ công, sông có Hà bá; cảnh thổ nào phải có Thần hoàng ấy; vậy
phải thờ phụng để thần ủng hộ cho dân, vì thế mỗi ngày việc thờ thần một thịnh…
[10]
Như vậy, việc thờ Thành hoàng xuất hiện ở nước ta ban đầu là ở đô thị do nhu
cầu cần có một vị thần bảo hộ cho một thành trì. Còn ở các làng quê, nông thôn Việt
Nam thì thật khó có thể xác định chính xác niên đại của các Thành hoàng. Theo các
nguồn tư liệu khác nhau thì có lẽ Thành hoàng du nhập về nông thôn nước ta từ vào
khoảng thế kỷ 13 đến thể kỷ 15. Tuy nhiên, đặc điểm nổi bật của Thành hoàng nông
thôn Việt Nam là những vị thần đã được nhân dân thờ từ trước, sau đó mới được
vua phong tước với danh vị Thành hoàng.
2.2.Vai trò và ý nghĩa của Thành hoàng đối với đời sống nhân dân

2.2.1 Thành hoàng có vai trò liên kết cộng đồng
11


Tín ngưỡng Thành hoàng đóng vai trò liên kết cộng đồng người trong một
cộng đồng lãnh thổ nông nghiệp hữu hạn, làm nơi quy tụ tâm linh cho cư dân.
Thành hoàng chứng kiến đời sống của dân làng, ban phúc độ trì cho những
người trung hiếu, hiền lành, giáng họa trừng phạt những kẻ độc ác vô luân. Có tai
biến, người ta thường đến lễ bái cầu xin thần che trở. Có việc oan ức, người ta
thường lễ bái cầu xin thần chứng giám chuyển giữ hóa lành, giải oan cho người đó.
Mọi người trong cộng đồng luôn tuân thủ theo luật lệ, đạo đức vì họ luôn tâm niệm
rằng thần luôn giám sát những hoạt động của từng thành viên trong cộng đồng.
Thần còn là lực lượng tiếp sức cho nhân dân trong các cuộc chống ngoại xâm, dập
tắt thiên tai, bệnh dịch bằng con đường âm phù. Thần được dân làng hàng năm cúng
tế và được triều đình phong kiến sắc phong thêm các mỹ tự sau mỗi lần cầu đảo linh
nghiệm.
Nhà nước phong kiến Việt Nam chọn lọc và phong sắc cho Thành hoàng làng
nhằm mục đích đoàn kết và động viên toàn bộ sức mạnh của cộng đồng làng, xã và
dân tộc thành một khối, đồng thời thực hiện việc quản lý xã hội đến cơ sở xã hội.
Và ngôi đình xuất hiện lúc ban đầu với chức năng làm trụ sở hành chính – công sở
của nhà nước phong kiến ở làng, xã dần dần trở thành nơi thờ cúng Thành hoàng và
hội họp của chức dịch, dân làng.
Cùng với việc phong kiến hóa đình làng và thần làng, triều đình phong kiến
đã tiến hành việc quản lý thống nhất trên cả nước. Các thần làng trở thành Thành
hoàng làng. Các thần làng có công âm phù giúp vua dẹp giặc, giúp dân trừ thiên tai
bệnh dịch hay những công thần của triều đình đều được sắc phong làm Thành
hoàng. Ngôi đình làng không chỉ là nơi thờ cúng các Thành hoàng làng mà đây còn
là nơi tụ họp dân làng khi có việc chung, là chốn vui chơi của cả làng vào các dịp lễ
hội. Ngôi đình xưa kia vừa là “trụ sở hành chính” của làng, vừa là “tòa án” xử kiện
của xã và những ngày nhộn nhịp vào đám, sân đình trở thành “sàn diễn”, “sân khấu”

cho các sinh hoạt văn hóa nghệ thuật như hát chèo, hát đúm, hát trống quân, cũng
như các hoạt động thể thao như đấu vật, múa lân, kéo co, đánh cờ, thi thổi cơm…
Trong nhiều thế kỷ, mãi tới mấy thập niên đầu thế kỷ 20, chức năng chính của ngôi
đình miền Bắc vẫn là “hội trường lớn của làng”.
Nếu như sự thờ cúng gia tiên là nền tảng gắn kết mọi thành viên trong gia
đình; thì sự thờ cúng thần Thành hoàng là nền tảng gắn kết mọi thành viên trong
cộng đồng làng, xã. Trên cơ sở những nguyện vọng, mong ước của các thành viên
trong làng hội tụ ở thần.
2.2.2. Thành hoàng làng duy trì và bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống

12


Thành hoàng làng là một trong những thành tố văn hóa mà người nông dân
Việt Nam đã sáng tạo ra qua bao nhiêu thế hệ. Gắn với Thành hoàng là hội làng một hoạt động văn hóa truyền thống mang đậm bản sắc của từng địa phương.
Những năm gần đây, các làng xã theo nhau khôi phục sinh hoạt văn hóa lễ hội. Vào
đầu xuân hàng năm, làng Đồng Kỵ, xã Đồng Quang, huyện Từ sơn, tỉnh Bắc Ninh
lại tổ chức lễ hội tưởng nhớ công đức Thượng đẳng Thành hoàng là danh tướng
Thiên Cương thời vua Hùng. Tuy nay đã bỏ tục đốt pháo nhưng Đồng Kỵ vẫn tổ
chức lễ rước pháo trọng thể, tưng bừng, và trong đình vẫn bảo tồn hình quả pháo
khổng lồ bằng mã rực rỡ sắc màu, lễ rước pháo vẫn tấp nập đông vui thu hút hàng
ngàn du khác trong và ngoài nước.
2.2.3. Là chỗ dựa tinh thần vững chắc
Thành hoàng đã trở thành một biểu tượng tâm linh, một chỗ dựa tinh thần
vững chắc của người dân. Bởi với họ, chỉ có thần mới có thể giúp cho mưa thuận
gió hòa, mùa màng tươi tốt; giúp cho cuộc sống của họ ngày một thêm ổn định,
thịnh vượng, nên làng xã nào không có Thành Hoàng thì làng xã đó bất an.
Tuy ngày nay khoa học đã phát triển, nhưng con người vẫn gặp phải rất
nhiều trắc trở trong cuộc sống như các bệnh hiểm nghèo, vô sinh,…mà y học phải
bó tay. Hoặc như khi xảy ra hỏa hoạn, thiên tai bất ngờ: động đất, sóng thần, lũ lụt,

…hàng năm đã cướp đi biết bao sinh mạng con người. Khi đó, con người lại phải
nương nhờ vào thần thánh, cầu xin sự che chở của thần thánh.
Tóm lại, tín ngưỡng thờ thần nói chung và tín ngưỡng thờ thờ Thành hoàng
làng của người Việt thực chất là thờ phúc thần, nó đóng vai trò liên kết cộng đồng
trong làng xã và mở rộng ra cả nước, nhằm giáo dục lòng yêu nước, nhân nghĩa,
hướng đến những điều tốt đẹp. Đó là những giá trị văn hóa truyền thông vô cùng
quý báu của dân tộc mà ngày nay chúng ta cần thừa kế và phát huy.
2.3. Thành hoàng ở Quảng Bình
2.3.1. Thành hoàng ở Quảng Bình
2.3.1.1. Phân loại Thành hoàng
Ở Quảng Bình, Thành hoàng có nguồn gốc khá đa dạng, thể hiện nét văn
hóa đặc sắc của cộng đồng dân cư trong tỉnh. Để thấy được diện mạo cũng như sự
phân bố thờ tự, tôi chia thành các loại chính, gồm:
+ Thành hoàng có nguồn gốc thiên thần: tức là các vị thần có nguồn gốc từ
trời, trong đó kể cả các vị thần chưa được “nhân hóa” hay đã được nhân hóa (mang
dáng vẻ của con người, thậm chí sống đời sống của con người)[9;79]
+ Thành hoàng có nguồn gốc nhiên thần: tức là các vị thần mang dạng thần
Núi (Sơn thần), thần Nước (Thủy thần), thần Đất (Thổ thần) được tôn thờ tại các
13


đình làng trong tỉnh Quảng Bình, góp phần phản ảnh được bản chất tư duy tôn giáo
tín ngưỡng ở Quảng Bình nói riêng và ở Việt Nam nói chung [9; 81].
+ Thành hoàng có nguồn gốc nhân thần: tức là các vị thần có nguồn gốc là
con người (nhân dân), là người trong làng, khi chết thì hiển linh phù hộ cho nhân
dân trong làng. Thành hoàng có nguồn gốc nhân thần chiếm số lượng lớn so với hai
loại Thành hoàng có nguồn gốc trên.
2.3.1.2. Các vị thần Thành hoàng tiêu biểu của mỗi loại
+ Thành hoàng có nguồn gốc thiên thần
Thôn Vĩnh Sơn, xã Quảng Đông, huyện Quảng Trạch có lập đền phụng thờ

Liễu Hạnh công chúa, đền nằm ngay dưới chân Đèo Ngang, sát cung đường BắcNam trước đây. Ngoài ra còn có Thiên Y A Na thánh mẫu, có đền thờ ở làng An Xá,
tổng Đại Phong Lộc, huyện Lệ Thủy, phủ Quảng Ninh. Bên cạnh đó, có thể kể đến
Cửu Thiên Huyền Nữ, vị thần này có tận ba làng lập đền thờ phụng đó là : làng
Phan Xá, tổng Xuân Lai, huyện Phong Đăng, phủ Quảng Nình; thứ hai là ấp Tiền
Tiệp, huyện Phong Lộc, Phủ Quảng Ninh; và cuối cùng là phường Trung Bính, tổng
Vũ Xá, huyện Phong Lộc, phủ Quảng Ninh. Nói qua một chút về tiểu sử của vị thần
này: Cửu Thiên Huyền Nữ là một môn đồ của Tây Vương Mẫu, thường ứng hiện
giúp Hoàng Đế và những người hiền tài trong nước, giúp cung phi chế ra nghề nuôi
tằm lấy tơ dệt lụa, giúp ông Dung Thành chế ra máy Cai Thiên để xem thiên tượng,
…Chưa kể, đây còn là vị thần truyền khoa Lục nhâm độn giáp, và phép bói 64 quẻ
Dịch mà đoán cát hung [9;79]
Có thế thấy, việc thờ phụng các Thiên thần với tư cách là các vị Thành hoàngbảo hộ cho làng xã, là hoàn toàn dễ hiểu vì trong xã hội cổ truyền, cuộc sống của
người nông dân chủ yếu phụ thuộc hoàn toàn vào tự nhiên: Trời, đất, mây, mưa,
nắng,…hay các yếu tố mang hình dáng thiên nhiên khác.
+ Thành hoàng có nguồn gốc nhiên thần
Thành hoàng có nguồn gốc thiên thần tiêu biểu như là Thổ thần (hay còn gọi
là Thổ địa) có đến 9 địa phương lập đền thờ phụng, gồm: xã An Định, huyện Lệ
Thủy; làng An Xá, huyện Lệ Thủy; xã Hữu Lộc, huyện Phong Đăng; xã Lệ Kỳ,
huyện Phong Lộc;phường Phú Nhuận, huyện Phong Lộc; thông Quy Đức, huyện Bố
Trạch; xã Tiểu Ba, huyện Bố Trạch; xã Võ Xá, huyện Phong Lộc [9; 84-85]
Thần linh là tấm gương phản ánh cách ứng xử của con người với thực tế tự
nhiên, lịch sử, xã hội. Đây cũng là lí do khiến người dân Quảng Bình tôn sùng và
phụng thờ các vị thần Thành hoàng có nguồn gốc từ nhiên thần.
+ Thành hoàng có nguồn gốc nhân thần
Có thể kể tên một số vị Thành hoàng có nguồn gốc nhân thần là người bản
địa như: “Nguyễn Giảng (Nguyễn Đại lang), người Thuận Bài xưa gọi là làng An
14


Bài, tổng Thuận An. Ngài sinh vào khoảng triều Lê, khi còn là trai trẻ, ngài đến hỏi

vợ ở làng Thổ Ngõa. Về sau, ngài có công giúp dân làng An Bài mở rộng đất đai,
nên dân làng tôn làm Thành hoàng bổn thổ” [9; 91].
Đoàn Tất Đạt là danh tướng triều Lê có công khai khẩn lập ra làng Hòa Nình
về sau được sắc phong làm thành hoàng của làng Hòa Ninh.
Nhìn chung, đối tượng mà người dân Quảng Bình thờ cúng có nguồn gốc
Nhân thần đều là những nhân vật phi thường từ sức mạnh, năng lực, cho đến hình
hài nhưng vẫn vô cùng gần gũi với nhân dân. Họ là sự kết hợp của hai yếu tố thật và
ảo; sự kết hợp đó đã làm cho các đối tượng được thờ cúng trở nên linh thiêng, uy
lực và hiển linh hơn bao giờ hết.
2.3.2. Các sắc phong Thành hoàng làng và giá trị lịch sử, văn hóa được lưu
giữ đến nay
2.3.2.1. Thành hoàng Kim Linh thượng xã
Xã Kim Linh Thượng xưa, về sau đỏi tên thành Thọ Linh Thượng, hiện nay
là thôn Thọ Linh, xã Quảng Sơn, Thị xã Ba Đồn. Thành hoàng làng Kim Linh
thượng được Vương triều Nguyễn 3 lần sắc phong.
+ Sắc phong lần thứ nhất:

Dịch nghĩa:
“Ngày 21 tháng 11 năm Thiệu Trị thứ 5 (1845)
Sắc chỉ: Phong cho Kim Linh Bảo An Thành Hoàng chi thần đã từng linh
ứng giúp nước giúp dân có công lao. Vào năm Minh Mạng thứ 21, nhân lễ thọ 50
tuổi của Đức Thánh tổ Nhân hoàng đế huy hoàng của Trẫm, theo thông lệ cả nước
đều được ăn mừng, mọi thần dân, quan lại thảy được thăng thưởng.

15


Để tỏ rõ ơn vua, lộc nước, Trẫm gia phong cho thần làm Bảo an Chánh trực
tôn thần, và chuẩn cho xã Kim Linh thờ phụng thần như cũ, mong thần hãy bảo hộ
dân làng cho Trẫm.

Hãy kính theo!” [8; 9]
+ Sắc phong thứ hai:

Dịch nghĩa:
“Ngày 26 tháng Chạp năm Thiệu Trị thứ 5 (1845).
Sắc chỉ: Phong cho thần Thành Hoàng cuả xã Kim Linh từng được ban tước
hiệu Bảo An Chánh Trực Thành Hoàng tôn thần có công lao linh ứng giữ nước giúp
dân trước nay.
Để tưởng thưởng công lao to lớn của thần, Trẫm gia tăng Thần làm Bảo An
Chánh Trực Hữu Thiện Tôn Thần và chuẩn cho xã Kim Linh thờ phụng Thần như
cũ, mong Thần hãy bảo hộ dân lành cho Trẫm.
Hãy kính theo!” [8;11]
+ Sắc phong thứ ba:

16


Dịch nghĩa:
“Ngày 30 tháng 8 năm Tự Đức thứ 3 (1850).
Sắc chỉ: Phong cho Thành hoàng làng Kim Linh nguyên tặng Bảo An Chánh
trực Hữu thiện thôn thần đã hiển linh giữ nước yên dân, được trang nghiêm thờ
phụng. Nay để tưởng thưởng công lao, xứng đáng được gia phong tặng làm Bảo An
Chánh Trực Hữu Thiện Đôn Ngưng Tôn Thần. Mong Thần giúp đỡ bảo vệ dân lành
cho Trẫm.
Hãy kính theo!” [8;16]
Từ nội dung trên, chúng ta có được những thông tin sau:
* Về lịch sử:
Thần Thành hoàng làng Kim Linh ba lần được các vua Nguyễn sắc phong.
Lần thứ nhất vua Thiệu Trị sắc phong thần vào ngày 21 tháng 11 năm Thiệu Trị thứ
năm (11/1845), với cụm mỹ tự: “Bảo An Chánh Trực Tôn Thần”. Sắc phong của

nhà vua ca ngợi thần có công đức nổi bật là thần có công đức lớn bảo đẩm sự an
toàn cho dân cho nước, công minh chính trực.
Lần thứ hai, vua Thiệu trị ban sắc gia phong cho thần vào ngày 26 tháng
12 năm Thiệu Trị thứ 5 (1845) lên một bậc mới với cụm mỹ tự: "Bảo An Chánh
Trực Hữu Thiện Tôn Thần”. So với sắc phong thứ nhất thì sắc phong thứ hai thần
được gia thêm 2 mỹ tự là “Hữu thiện”. Sắc phong của nhà vua ca ngợi thần có
công đức nổi bật là bảo đảm sự an toàn cho dân, là bậc thần công minh chính trực,
lương thiện.
17


Lần thứ 3, Thần được vua Tự Đức gia phong vào ngày 30 tháng 8 năm Tự
Đức thứ 3 (1850) với cụm mỹ tự mới : “Bảo An Chánh Trực Hữu Thiện Đôn
Ngưng Tôn Thần”. So với sắc phong thứ hai thì sắc phong thứ ba nhà vua gia tăng
cho thần thêm 2 mỹ tự mới nữa là: “Đôn ngưng”. Sắc phong của nhà vua ca ngợi
thần có công đức nổi bật là bảo đảm sự an toàn cho dân, là bậc thần công minh,
chính trực, lương thiện và giữ vai trò thúc đẩy sự phát triển của quê hương.
* Về văn hóa:
Ba bản sắc phong của triều Nguyễn cho Thành hoàng làng Kim Linh đã
chứng tỏ tín ngưỡng thờ thành hoàng ở xã Kim Linh là một tín ngưỡng văn hóa tâm
linh quan trọng trong đời sống tinh thần của người dân địa phương này. Mặt khác,
Thành hoàng làng Kim Linh đã từng rất được người dân thời bấy giờ tôn sùng.
2.3.2.2. Thành hoàng làng Hòa Ninh
Làng Hòa Ninh xưa, hiện nay là thôn Hòa Ninh xã Quảng Hòa, thị xã Ba
Đồn.
+ Sắc phong thứ nhất:

Dịch nghĩa:
“Ngày rằm tháng 11 năm Tự Đức thứ 5 (1852).
Sắc chỉ: Phong cho Thành hoàng làng Thị Lễ nguyên tặng làm Bảo an

Chánh trực Hữu thiện tôn thần đã linh ứng giúp nước yên dân xứng đáng được
phong thưởng. Nay Trẫm gia phong cho Thần làm Bảo an Chánh trực Hữu thiện
Đôn ngưng tôn thần, cùng chuẩn y cho thôn Hòa Ninh, làng Thị Lễ, huyện Minh
Chánh được tiếp tục thờ phượng, mong Thần giúp đỡ bảo hộ dân lành của Trẫm.
Hãy kính theo!” [8;18]

18


Sắc phong thứ 2:
Dịch nghĩa:
“Ngày 24 tháng 11 năm Tự Đức thứ 33 (1880).
Sắc chỉ: Phong cho Bảo an Chánh trực Hữu thiện Đôn ngưng (Dực Bảo
Trung Hưng Thành Hoàng) tôn thần vốn được thôn Hòa Ninh thuộc xã Thị Lễ,
huyện Minh Chánh của tỉnh Quảng Bình thờ phượng trước nay rất linh thiêng, xứng
đang được khen thưởng, tiếp tục phụng thờ
Vào năm Tự Đức thứ 31, nhân đại lễ mừng thọ Trẫm 50 tuổi, theo thông lệ
mọi thần dân đều được ăn mừng, các quan lại thần thành thảy được thăng thưởng.
Nay ban Chiếu quý ơn dày, dịp lễ lớn phong thêm chức tước. Đặc chuẩn
phụng sự thần linh như cũ để tỏ rõ sự trân quý của nước nhà qua nền nếp để đền thờ
Thần thêm rạng rỡ.
Hãy kính theo!” [8; 27]
+ Sắc phong thứ ba:

19


Dịch nghĩa:
“Ngày mồng một tháng 7 năm Đồng Khánh thứ 2 (1887)
Sắc chỉ: Phong cho Bảo an Chánh trực Hữu thiện Đôn ngưng Thành Hoàng

làng Hòa Ninh trước nay đã rất linh thiêng giúp nước yên dân, xứng đáng được ban
Sắc cho tiếp tục được thờ phụng. Để thưởng công lao, trẫm gia tăng tước Dực Bảo
Trung Hưng tôn Thần và chuẩn cho làng Hòa Ninh thuộc huyện Tuyên Chánh của
tỉnh Quảng Bình tiếp tục thờ phượng Thần chu đáo như cũ, mong Thần hãy bảo hộ
dân lành cho Trẫm.
Hãy kính theo!” [8;30]
Từ nội dung trên chúng ta có được những thông tin:
* Về lịch sử:
Thành hoàng Hòa Ninh ba lần được các vua của vương triểu Nguyễn sắc
phong.
Theo nội dung sắc phong thứ nhất của vua Tự Đức chúng ta biết thêm thông
tin là: Trước khi được vua Tự Đức ban phong thì Thành hoàng làng Hòa Ninh đã
được các triều đại trước đây phong là “Bảo an Chánh trực Hữu thiện tôn thần” và
thần rất linh thiêng. Năm 1852 vua Tự đức đã gia phong thần thêm 2 chữ “Đôn
ngưng” tức là có công thúc đẩy sự phát triển quê hương.
Đến năm 1880, Thành hoàng làng Hòa Ninh tiếp tục được vủa Tự Dức
sắc phong lần thứ hai và khẳng định lý do là thần có công lao đáng khen thưởng.
Do đó vua vẫn khẳng định lại cụm mỹ tự đã phong ở sắc phong thứ nhất và yêu cầu
dân làng phải tiếp tục duy trì việc thờ cúng thần như trươc.
Năm 1887, Thành hoàng làng Hòa Ninh lại được vua Đồng Khánh sắc
phong mỹ tự mới lên “Dực Bảo Trung Hưng Tôn Thần” nghĩa là thần không chỉ có
công bảo trợ dân làng mà còn có công lớn giúp cho nước nhà được phục hưng.
Qua nghiên tìm hiểu từ tài liệu lịch sử thì làng Hòa Ninh, dưới triều
Nguyễn là thôn Hòa Ninh nằm trong tổng Thuận Thị của phủ Quảng Trạch. Làng
Hòa Ninh còn có tên dân gian là Làng Đoàn. Nhân dân làng Hòa ninh đã tôn vinh
hai vị khai canh, khai khẩn dựng nên xóm thôn, đuồng ruộng làm Thành hoàng Bổn
Thổ. Hai vị Thành Hoàng của Hòa Ninh có tên là Đoàn Tất Đạt và Nguyễn Sum.
Hai ông đều là danh tướng làm quan dưới triều vua Lê Thánh Tông. Sau khi tham
gia cuộc chinh phạt Chiêm Thành thắng lợi, hai ông được Nhà vua sai đóng quân ở
Châu Bố Chính. Hai vị đã cùng nhau khai rừng phá đá, san lấp đầm lầy lập ra làng

Hòa Ninh. Tuy vậy khi định cư ở Hòa Ninh thì chỉ có Đức ông Đoàn Tất Đạt là sinh
hạ ra nhiều con cháu do đó về sau dân Hòa Ninh đặt tên Nôm cho làng mình là
20


Làng Đoàn. Thông tin trên cũng giúp chúng ta xác định được thời gian thành lập
của làng Hòa Ninh là vào 3 thập niên cuối của thế kỷ XV. Như vậy Hòa Ninh là một
trong nhưng ngôi làng cổ có lịch sử trên 500 năm hình thành và phát triển.
* Về văn hóa:
Ba sắc phong vào ba thời điểm khác nhau chứng tỏ rằng: tín ngưỡng thờ
cúng Thành hoàng ở làng Hòa Ninh là một trong những tín ngưỡng văn hóa tâm
linh quan trọng dưới xã hội cũ của người dân Hòa Ninh. Tín ngưỡng thờ cúng
tThành hoàng là nét đẹp văn hóa tâm linh thể hiện truyền thống uống nước nhớ
nguồn của cư dân Quảng Bình. Đây cũng là một bằng chứng về cách lựa chọn thành
hoàng làng của cư dân Quảng Bình ưu tiên tiêu chí Thành hoàng phải là nhân vật
lịch sử có công với làng với nước để tôn vinh.
2.3.2.3. Thành hoàng làng Vĩnh Phước
Làng Vĩnh Phước xưa, hiện nay là thôn Vĩnh Phước xã Quảng Lộc thuộc thị
xã Ba Đồn.
+ Sắc phong thứ nhất:

Dịch nghĩa:
“Ngày mồng một tháng 7 năm Đồng Khánh thứ 2 (1887).
Sắc chỉ: Ban cho Bảo an Chánh trực Hữu thiện Đôn ngưng Thành hoàng
làng Vĩnh Phước trước nay đã rất linh thiêng giúp nước, yên dân , xứng đáng được
ban sắc cho tiếp tục được thờ phụng.
Để tưởng thưởng công lao, Trẫm gia tăng Dực bảo Trung hưng tôn thần và
chuẩn cho Làng Vĩnh Phước thuộc huyện Tuyên Chánh của tỉnh Quảng Bình tiếp
tục thờ phượng Thần chu đáo trang trọng như cũ, mong thần hãy tiếp tục bảo hộ dân
lành cho Trẫm.

Hãy kính theo!” [8; 29]
+ Sắc phong thứ hai:
21


Dịch nghĩa:
“ Ngày 11 tháng 8 năm Duy Tân thứ 3 (1909)
Sắc chỉ: Phong cho Thần Thành hoàng làng Vĩnh Phước thuộc huyện
Tuyên Chánh của tỉnh Quảng Bình với tước hiệu Bảo an Chánh trực Hữu thiện Đôn
ngưng Dực Bảo Trung Hưng Thành hoàng tôn Thần đã được thờ phụng trước nay
đã tỏ rõ sự linh ứng.
Năm Duy Tân thứ nhất, lễ lớn Trẫm lên ngôi, theo thông lệ thần dân đều
được ăn mừng, quan lại, thánh thần thảy được thăng thưởng để tỏ rõ giềng mối quốc
gia. Nay Trẫm ban chiếu quý ơn dày đặc chuẩn cho Thần được tiếp tục thờ phượng
trang nghiêm như cũ để bày tỏ sự trân quý của nước nhà qua nền nếp đền thờ Thần
thêm rạng rỡ” [8; 45].
+ Sắc phong thứ 3:

Dịch nghĩa:
22


“Ngày 25 tháng 7 năm Khải Định thứ 9 (1924)
Sắc chỉ: Phong cho Thần bổn thổ Thành hoàng thôn Vĩnh Phước thuộc xã
Thị Lễ phủ Quảng Trạch của tỉnh Quảng Bình nguyên được triều vua trước ban tặng
tước hiệu Bảo an Chánh trực Hữu thiện Đôn ngưng Dực Bảo Trung Hưng bổn thổ
Thành hoàng tôn Thần vốn được thờ phụng trước nay rất linh thiêng, có công lao
giúp nước yên dân, xứng đáng được ban cấp Sắc phong, chuẩn cho việc thờ tự.
Nhân dịp lễ lớn mừng thọ Trẫm 40 tuổi, theo thông lệ thần dân cả nước đều
được ăn mừng, nãy Trẫm ban chiếu quý ơn dày, lễ lớn có thăng thưởng. Để ghi nhớ

công ơn của Thần, Trẫm gia tặng cho Thần lên tước vị Tỉnh Hậu Trung đẳng thần,
chuẩn cho Thần được tiếp tục được phụng thờ trang nghiêm như cũ để tỏ rõ nền nếp
điển thờ của nước nhà thêm rạng rỡ.
Hãy kính theo!” [8; 97]
Từ phần dịch nghĩa ta có được những thông tin:
* Về lịch sử:
Thành hoàng làng Vĩnh Phước đã được Vương triều Nguyễn ba lần sắc
phong. Trong sắc phong thứ nhất, vua Đồng Khánh khẳng định: Thần được các triều
vua trước sắc phong mỹ tự: Bảo an Chánh trực Hữu thiện Đôn ngưng. Thành hoàng
làng Vĩnh Phước trước nay đã rất linh thiêng giúp nước, yên dân, xứng đáng được
ban sắc cho tiếp tục được thờ phụng. Do đó, Đến năm 1887, nhà vua gia phong thần
lên Dực bảo Trung hưng tôn thần. Cụm mỹ tự đó ca ngợi thần có công đức bảo trợ
dân lành, phù giúp cho nước nhà được chấn hưng. Đến năm 1909, Thần tiếp tục
được vua Duy Tân sắc phong mỹ tự: Bảo an Chánh trực Hữu thiện Đôn ngưng Dực
bảo Trung hưng Thành hoàng tôn thần.
Qua tài liệu lịch sử chúng ta có thêm thông tin về lịch sử của làng Vĩnh
Phước. Đây là ngôi làng được khai khẩn từ thời nhà Trần. Làng Vĩnh Phước có bề
dày lịch sử 695 năm. Thành hoàng làng Vĩnh Phước (hiện nay là thôn Vĩnh Phước
xã Quảng Lộc, Thị xã Ba Đồn) là một võ tướng của nhà Trần. Đại Việt sử ký toàn
thư chép: năm 1324, vua Trần Minh Tông “ban cho Trần Bang Cẩn làm Đại Hành
khiển Thượng thư tả bộc xạ là người tín thực gìn giữ, giản dị điềm tĩnh không xa
hoa”[4; 110]. Theo tài liệu hiện nay vẫn đang lưu truyề ở Vĩnh Lộc thì Trần Bang
Cẩn là vị tướng có công đánh dẹp quân Chiêm Thành xâm lấn, cướp phá ở Tân
Bình. Sau khi dẹp yên giặc giã, Ngài ra bắc chiêu mộ dân nghèo vào khai khần lập
xã Thị Lễ. Xã Thị Lễ sau này được chia thành các xã Quảng Lộc, Quảng Hòa và
Quảng Minh nằm trong đơn vị hành chính cấp huyện là thị xã Ba Đồn. Với công lao
đó sau khi mất Trần Bang Cẩn được nhân dân xã Thị Lễ tôn thờ làm Thành hoàng
Bản thổ. Xã Thị Lễ về sau phát triển và tách thành các làng Hòa Ninh, Vĩnh Phước,
Vĩnh Lộc
23



* Về văn hóa:
Qua việc thờ Thành hoàng ở làng Vĩnh Phước, chúng ta có thể khẳng định
rằng Thành hoàng làng Thị Lễ là một nhân vật lịch sử có tài về quân sự lại có công
khai khần và là người nổi tiếng về đạo đức. Ông được nhân dân kính phục tôn vinh
trở thành vị thần bảo trợ cho làng xã yên lành và phát triển. Việc tôn thờ những
người có công lao to lớn với làng, với nước, vinh danh họ thành vị thần để thờ cúng
là nét đẹp văn hóa tinh thần truyền thống khá phổ biến của nhân dân Quảng Bình.
2.3.2.4. Thành Hoàng làng Phù Trạch
Làng Phù Trạch xưa, hiện nay là thôn Phù Trạch xã Mỹ Trạch thuộc huyện
Lệ Thủy.
+ Sắc phong:

Dịch nghĩa:
“Ngày mồng 1 tháng 6 năm Thành Thái thứ 10 (1898).
Sắc chỉ: Phong cho Thần Thành hoàng làng Phù Trạch thuộc huyện Bình
Chánh của tỉnh Quảng Bình vốn được thờ phụng lâu nay rất linh thiêng giữ nước
yên dân song lại chưa được ban cấp sắc phong. Cho nên để tưởng thưởng công lao
điều binh khiển tướng ra trận công thành của Thần cho xứng đáng. Trẫm gia phong
cho Thần làm Bảo an Chánh trực Hữu thiện Đôn ngưng Dực Bảo Trung Hưng tôn
Thần. Đặc chuẩn cho Thần tiếp tục được thờ phụng trang trọng như cũ, mong thần
hãy bảo hộ dân lành cho Trẫm!
Hãy kính theo!” [8; 44].
Từ nội dung trên ta có được những thông tin:
* Về lịch sử: Nội dung sắc phong cho biết Thần Thành hoàng làng Phù Trịch
(nay là thôn Phù Trịch xa Quảng Lộc, thị xã Ba Đồn) là một vị tướng có công lao
đánh giặc giữ nước. Ông có tài điều binh khiển tướng từng tấn công thành trì đánh
24



bại quân thù. Năm 1898, Thành hoàng Phù Trạch đã được vua Thành Thái sắc
phong là: Bảo an Chánh trực Hữu thiện Đôn ngưng Dực bảo Trung Hưng tôn thần.
* Về văn hóa:
Theo quan niệm tâm linh của người xưa các nhân vật lịch sử sinh thời làm
quan to, có công vời làng với nước thì khi mất thường hiển linh thành thần. Do đó
tại các làng xã ở Quảng Bình xưa, nhiều nhân vật lịch sử có công khi qua đời
thường được nhân dân tôn vinh làm Thành hoàng làng. Khi gặp khó khăn hoạn nạn
hoặc trong các dịp lễ hội nhân dân thường cầu cúng các vị này phù trợ. Người dân
ở các làng xã xưa thường cho rằng các bậc tiền bối này rất linh thiêng và có uy lực
rất lớn trong việc yêu dân. Về sau các làng xã thường lập hồ sơ gửi lên triều đình đề
nghị triều đình ban sắc phong thần coi như hợp thức hóa ý nguyện của dân chúng.
2.3.2.5. Thành hoàng xã An Xá
Xã An Xá xưa, hiện nay là thôn An Xá, xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh
Quảng Bình. An Xá là quê hương của Đại tướng Võ Nguyên Giáp.
+ Sắc phong:

Dịch nghĩa:
“Ngày 25 tháng 7 năm Khải Định thứ 9 (1924)
Phong cho Bổn thổ Thành hoàng tôn Thần của xã An Xá thuộc tổng Đại
Phong, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình vốn được thờ phụng trước nay với tước
hiệu Bảo an Chánh trực Hữu thiện Đôn ngưng Dực bảo Trung hưng Bổn thổ Thành
hoàng tôn Thần đã có công giúp nước yên dân rất linh thiêng, xứng đáng được ban
cấp sắc phong, chuẩn cho việc thờ tự.
Nhân dịp lễ lớn mừng thọ Trẫm 40 tuổi, theo thông lệ thần dân cả nước đều
được ăn mừng. Để ghi nhớ công đức của Thần, Trẫm ban chiếu quý ơn dày, lễ lớn
25



×