I.
Tóm tắt tiểu thuyết “Những người khốn khổ”
“Những người khốn khổ” được thai ngén từ 1829 và hoàn thành sau 33 năm. Cốt truyện
được đặt vào thời gian mấy chục năm đầu thế kỉ XIX. Jean Valjean là một người lao động
nghèo khổ vì đập vỡ tủ kính và lấy cắp một chiếc bánh mì để cho đàn cháu nhỏ mà dẫn đến
năm năm tù khổ sai. Sau nhiều lần vượt ngục không thành án tù đó tăng lên con số mười chín
năm. Ra tù, tại thị trấn Digne, anh ta bị từ chối, không cho ngủ đêm vì tấm thông hành màu
vàng ngoại trừ vị giám mục Miryel có lòng tốt. Nhưng Jean Valjean lại phản bội lòng thánh
thiện của vị giám mục bằng cách ăn cắp một số đồ vật bằng bạc của nhà thờ. Khi bị cảnh sát
bắt được và bị đưa trở lại nhà thờ, vị giám mục đã che chở cho kẻ phạm tội bằng cách nói
rằng đó là các món quà tặng. Jean Valjean đã được giám mục Miryel cảm hóa, trở thành
người tốt sau khi phạm thêm tội cướp đồng hào của bé Gervais. Ông đổi tên là Madeleine, mở
nhà máy, trở nên giàu có, luôn giúp đỡ mọi người, mang lại thịnh vượng cho thị xã Montreil
và được cử làm thị trưởng. Nhưng thanh tra mật thám Javert dưới quyền ông vẫn nghi ngờ,
rình mò, theo dõi. Fantine là người phụ nữ gặp nhiều oan trái. Trên đường đi tìm việc, Fantine
đã giao đứa con gái Cossette cho vợ chồng gã chủ quán trọ lưu manh Thénadier. Fantine tìm
đến làm việc trong nhà máy của ông Madelein nhưng về sau bị sa thải. Cô quay sang nghề
làm điếm để lấy tiền nuôi con và nuôi thân. Vì phản ứng lại gã vô lại trêu chọc tàn nhẫn trong
lúc chị đang đau ốm nên liền bị Javert bắt bỏ tù, may nhờ có Madeleine can thiệp mới được
thoát nạn, rồi lại được Madelein đưa vào nằm bệnh xá. Đang lúc hết lòng cứu giúp Fantine,
Madelein lại quyết định ra tòa tự thú để cứu Champmathieu bị bắt oan. Jean Valjean trở lại
với tên thật của mình, vào tù, rồi lại vượt ngục, tìm đến chuộc bé Cosette đang sống khổ sở
tại nhà chủ quán Thénadier, giữ lời hứa với Fantine lúc chị qua đời. Ông đưa Cosette lên Paris
sống lẩn tránh trong nhiều năm. Jean Valjean có mặt trên chiến lũy của cuộc khởi nghĩa của
nhân dân chống lại chính quyền tư sản nổ ra ở Paris vào tháng sáu năm 1832 với những nhân
vật như chàng sinh viên Enjolras, cụ già Mabeuf, chú bé Gavroche... Ông cứu sống Marius,
người yêu của Cosette và tha chết cho Javert. Sau khi cuộc khởi nghĩa bị dập tắt, ông vun đắp
tình yêu cho Marius với Cosett. Việc phải sống xa Cosette đã làm héo hon Jean Valjean. Rồi
Thénadier do vô tình, đã cho Marius biết rằng người cứu mạng Marius nơi hầm cống chính là
Jean Valjean. Sự việc này đã khiến cho Marius và Cosette tìm đến an ủi Jean Valjean trước
lúc ông qua đời.
1
II.
Nghệ thuật tương phản trong “Những người khốn khổ”
Nghệ thuật tương phản là một sở trường của Victor Hugo và cũng là một thủ pháp
nghệ thuật quan trọng của chủ nghĩa lãng mạn. Nghệ thuật tương phản như một biện pháp
nghệ thuật chính yếu, hệ thống và nhất quán trên nhiều phương diện cảu tác phẩm: Tương
phản giữa tính cách và hoàn cảnh, tương phản giữa các nhân vật với nhau, tương phản ngay
trong một nhân vật... Victor Hugo thường dùng thủ pháp này để hình thành tính cách nhân
vật, tô đậm các tình huống và làm nổi rõ khuynh hướng tư tưởng tác phẩm. Với việc sử dụng
nhuần nhuyễn bút pháp tương phản, các nhân vật trong bộ tiểu thuyết “Những người khốn
khổ” của Victor Hugo đã hiện lên một cách chân thực và sống động nhất.
1) Trước hết là sự tương phản giữa tính cách và hoàn cảnh của mỗi nhân vật. Điều này
được thể hiện ở những con người khốn khổ như Jean Valjean, Fantine, Cosette, Gavroche.
Họ là những người nghèo khổ, bị đối xử một cách bất công, bị đẩy xuống bùn nhơ của cuộc
đời nhưng họ lại là những người có đạo đức, có tình thương, có tâm hồn cao thượng, trong
sạch, vị tha, giàu đức hi sinh.
Jean Valjean là một người lao động lương thiện. Số phận đã cướp đi của Jean Valjean
cả cha lần mẹ, anh sống cùng chị gái và đàn cháu nhỏ, chưa bao giờ mơ tới tình yêu đôi lứa....
Vì đập vỡ kính, ăn cắp một ổ bánh mì, Jean Valjean bị kết án mười chín năm tù khổ sai. Nhà
tù đã thay đổi hoàn toàn số phận và cướp đi lương thiện của một con người, không những thế
còn tách biệt họ khỏi xã hội. Với tấm giấy thông hành màu vàng, đi đến đâu Valjean cũng bị
xua đuổi. Cả phần đời còn lại là chuỗi dài những cuộc rượt đuổi và trốn tránh, lạnh lẽo và cô
độc. Nhưng đối lập với cuộc đời khốn cùng đó là một tâm hồn rộng lớn với tình yêu thương
và đức hi sinh. Trong những ngày trốn chạy Jean Valjean cũng trải hết tấm lòng thương yêu
của mình để đem lại cuộc sống sung sướng cho người dân thị xã Montreil, dốc lòng cứu vớt
chăm sóc Fantine, cứu lấy một con người bị hàm oan, gắn kết cuộc đời với Cosette với tất cả
tình yêu thương... Hoàn cảnh không còn là gì đối với lòng nhân hậu và trái tim yêu thương
của Jean Valjean. Jean Valjean sau khi hối cải sống với chỉ một lý tưởng yêu thương là tha
thứ.
Fantine là một người phụ nữ đẹp, vì bị người tình phụ bạc, phải đau lòng gửi con cho
người khác để đi tìm việc làm. Số phận bất hạnh lại bị xã hội thành kiến đè nặng, Fantine
phải đi đến tận cùng của những đau khổ. Chị phải bán răng, bán tóc, bán cả danh dự và nhân
phẩm để lấy tiền gửi nuôi đứa con gái Cosette tội nghiệp của mình. Chị đâu biết rằng trong
nhà của vợ chồng chủ quán Thénardier con chị cũng chịu sự hành hạ tủi cực muôn phần. Đến
lúc chết Fantine chỉ có một mong ước được gặp lại con nhưng cuối cùng cũng không thực
hiện được. Fantine chết trong đau khổ. Tuy vậy ở Fantine, bên cạnh quãng đời bất hạnh của
2
chị là một tấm lòng yêu thương con hết mực, một tình Mẹ bao la, rộng lớn. Fantine đã làm tất
cả vì Cosette. Fantine dường như quên đi tất cả mọi vất vả, đau đớn, ê chề... Tất cả mọi hành
động, suy nghĩ và việc làm của chị đều hướng về Cosette, cho đến cả phút giây cuối cùng, khi
chị đã không đủ sức gánh nỗi những đau khổ của đời mình.
Cosette cũng chịu chung số phận mồ côi như các nhân vật khác, nhưng cô có một tuổi
thơ cay đắng hơn gấp nhiều lần. Cô phải mặc “những đồ thải của hai đứa con mụ chủ, váy cũ,
áo rách, toàn đồ tã”, ăn “cơm thừa canh cặn của cả nhà, có hơn con chó một chút nhưng còn
kém con mèo”. Chưa đầy năm tuổi đã phải làm đầy tớ cho nhà Thénadier, bị đối xử tàn tệ.
thường xuyên bị mụ Thénadier đánh đập, chửi mắng, bị hai đứa con mụ hắt hủi sỉ nhục. Sự
đối lập tương phản giữa một bên là. Eponine và Azelma được nuông chiều, ăn sung mặc
sướng với một bên là Cosette phải làm quần quật và chịu sự hành hạ của cả nhà càng làm cho
số phận của cô thêm đau đớn. Người ta gọi Cosette là con chim sơn ca nhưng không phải vì
cô bé hát hay mà vì nó “không lớn hơn con chim, run lẩy bẩy, lúc nào cũng sợ sệt, giật mình
trong nhà và cả trong làng sáng tinh sương chưa có ai dậy, đã thấy nó ở ngoài đường hay ra
đồng rồi”. Tuổi thơ nhọc nhằn đã khiến Cosette trở thành một đứa bé xấu xí, “mắt nó to, sâu
lõm vào, nó khóc lắm nên hai bên mắt dại hẳn đi. Hai bên mép có nếp nhăn…Hai bàn tay thì
nứt nẻ. Ánh lửa lúc này chiếu vào nó làm nổi rõ những đầu xương, thân hình gầy guộc của nó
càng thêm ghê sợ”. Cosette lớn lên, đã lấy lại được vẻ đẹp ngoại hình của mình vào tuổi
mười lăm “màu tóc nàng hung nâu đẹp vô cùng với những đường vân vàng óng ả, trán nàng
như cẩm thạch, má mơn mởn như cánh hồng, thắm nhạt và trắng mượt mà. Miệng xinh nở nụ
cười trong sáng, giọng nói êm như tiếng đàn”. Cosette đẹp một cách dịu dàng, đằm thắm với
tâm hồn trong trắng của thiếu nữ mới lớn. Số phận của cô gái là minh chứng cho sự chiến
thắng của cái đẹp trước số phận. Khi Cosette được hưởng hạnh phúc cũng là lúc tất cả mọi
người trên thiên đường, những người đã hi sinh vì cô được hạnh phúc. Cuộc đời của cô chính
là hiện thân niềm mơ ước của người lao động: cái đẹp trong cuộc chiến với luật pháp và định
kiến phải chịu nhiều tổn thất, nó có thể tạm thất bại nhưng không bao giờ bị hủy diệt. Cosette
là mầm sống của cái đẹp sẽ lớn dần để tiếp tục đấu tranh, chiến thắng số phận, hạnh phúc của
cô là minh chứng sống cho sự trường tồn bất diệt của nó.
Gavroche xuất hiện trong tác phẩm là “tên trộm cắp bé con hào hiệp”, là “con ruồi của
bánh xe cách mạng vĩ đại”, là “hạt bụi” sẽ “hóa thân vào bão táp”. Cậu bé có một số phận bất
hạnh. Cậu “có cha có mẹ mà lại mồ côi”, bị đẩy ra khỏi nhà từ bé, không ai chăm sóc nuôi
nấng, phải lấy đường phố làm nhà, lăn lộn để kiếm từng bữa ăn. Nhưng cuộc sống thiếu tình
yêu thương không làm chú chai sạn, “trái tim em không hoàn toàn âm u và trống rỗng”. Trái
lại, cậu sống hồn nhiên, lạc quan và đầy bản lĩnh, cao thượng, “đó là một chú bé vui nhộn,
3
xanh xao, nhanh nhẹn, tinh khôn, ưa chế giễu…vui vẻ như con mèo hay con chim sẻ”.
Gavroche được xây dựng theo kiểu “nhân vật nổi loạn” của chủ nghĩa lãng mạn, mang hình
ảnh người anh hùng đơn độc chống lại xã hội. Giống như Jean Valjean, vẻ đẹp của Gavrốt
cũng là sự hội tụ của cái hùng, cái cao cả trong một số phận bất hạnh.
2) Ngoài ra còn có sự tương phản giữa các nhân vật với nhau.
Đối lập với những người khốn khổ là những nhân vật thuộc tầng lớp trên của xã hội.
Tuy nhiên ở họ lại là tâm hồn thấp kém, ích kỷ, độc ác, tàn nhẫn như Javert. Nếu Jean Valjean
là hiện thân của sự cao cả thì Javert là hiện thân của cái tầm thường. Javert chỉ biết đến thứ
luật pháp lạnh lùng, tàn nhẫn, thiếu tình tình người. Cả cuộc đời Javert là hiện thân của một
kiểu con người công cụ, tuyệt đối trung thành với nhiệm vụ. Toàn bộ con người Javert không
thể hiện chút niềm tin vào con người cho đến khi lòng độ lượng của jean Valjean khiến hắn
hoang mang. Javert là bức tranh tương phản sáng tối bên cạnh Jean Valjean để tô đậm thêm tư
tưởng mà V.Hugo thể hiện trong tác phẩm này.
Fantine được đặt trong thế tương phản với mụ vợ Thénardier. Người đàn bà thô lỗ,
cục cằn đó đối lập với chị cả về ngoại hình và nhân cách. Mụ cũng yêu con, nhưng là tình yêu
bệnh hoạn gắn với thứ tiểu thuyết rẻ tiền mà mụ hay đọc. Mụ chỉ yêu hai đứa con gái đầu và
đặt tên cho chúng theo kiểu tiểu thuyết là Eponine và Azelma. Ba đứa con trai sau bị mụ hắt
hủi, đẩy ra khỏi nhà, mặc chúng sống chết thế nào mụ không cần quan tâm. Nếu như Fantine
tìm mọi cách kiếm tiền nuôi con thì mụ dùng con như một món hàng để kiếm lời. Xây dựng
hình ảnh hai người mẹ đối lập với nhau, tác giả không chỉ phê phán, lên án sự tàn nhẫn, xấu
xa của mụ vợ Thésnadier mà lấy đó như tấm gương phản chiếu, ngợi ca, khẳng định vẻ đẹp
trong tâm hồn, tình cảm, phẩm chất của Fantine.
Hình tượng Cosette luôn được đặt cạnh Eponine và Azelma (các con gái của mụ
Thénardier) trong một sự tương phản, giữa một bên thì khổ cực, một bên thì sung sướng; một
bên xinh xắn, áo quần sang trọng với một bên xấu xí, rách rưới; một bên luôn nhận được sự
vuốt ve,âu yếm với một bên chỉ nhận được lời mắng chửi, đánh đâp; một bên luôn được
nuông chiều với một bên phải làm việc quần quật, chịu sự hành hạ của cả nhà. Sự đối lập
tương phản giữa một bên là Eponine và Aaelma, một bên là Cosette càng làm nổi bật tuổi thơ
cay đắng, khủng khiếp của Cosette hơn bất cứ một sự miêu tả nào. Trong đó Cosette được đặt
trong thế tương phản với Eponine về mọi mặt. Nếu như hồi bé Eponine xinh đẹp, được chiều
chuộng còn Cosette xấu xí, bị hành hạ, đánh đập thì khi lớn lên Eponine mất tất cả còn
4
Cosette lại được mọi thứ, trong đó có cả tình yêu của Marius. Đó là sự đền đáp xứng đáng
dành cho cô gái lương thiện này.
3) Bên cạnh đó bên trong mỗi nhân vật cũng tồn tại sự tương phản.
Vitor Hugo đã sử dụng bút pháp tương phản đối lập giữa quá khứ và hiện tại để thấy
được quá trình vận động vượt lên trên số phận, bước từ bóng tối ra ánh sáng của nhân vật.
Trước khi gặp giám mục Miryel, Valjean nuôi lòng thù hận với xã hội, bị xã hội xa lánh. Anh
mang trong mình tâm trạng hằn học, chỉ muốn trả thù cuộc đời và những bất công mà anh đã
gánh chịu một cách vô lý. Sau khi gặp Giám mục Miryel và được cảm hóa bởi hành động
nhân từ của ông, Jean Valjean đã hối cải, thức tỉnh, lột xác thành con người khác – thị trưởng
Madenlein. Hết lần này đến lần khác, Jean Valjean đã vượt lên mọi nguy hiểm để tự cứu
mình, tự tìm một chỗ đứng trong xã hôi, để thực hiện lời hứa với người đã khuất, để cứu một
kẻ vô tội bị hàm oan, để mang hạnh phúc cho Cosette... Jean Valjean đã đánh đổi cả tài sản,
tên tuổi, mạng sống, hi sinh cả niềm vui, hạnh phúc riêng của mình, toàn tâm toàn ý thực hiện
lý tưởng của mình.
Nghệ thuật tương phản là thành công lớn nhất trong các tiểu thuyết của
V.Hugo. “Những người khốn khổ” đã tạo ra sư tương phản trắng – đen mạnh mẽ, hòa quyện
vào nhau, tạo nên chất kịch tính cao, gây ấn tượng sâu sắc cho độc giả. V.Hugo đã đứng về
phía người lao động nghèo khổ, đặt niềm tin ở quần chúng vào sự tiến bộ, vào sức mạnh tinh
thần của họ. Ông đã xây dựng thành công những nhân vật chính diện, đó là người tù khổ sai,
một cô gái điếm, những đứa trẻ mồ côi... Ở những con người dưới đáy xã hội này toát lên vẻ
đẹp khiến chúng ta tin yêu vào con người, vào nhân loại tiến bộ. Ngược lại là sự tàn nhẫn của
xã hội tư sản ích kỉ, tán ác. Những trang văn của V.Hugo thực sự mang đậm màu sắc lãng
mạn.
5
III. Nhân vật tiêu biểu
1. Jean Valjean
Jean Valjean là một người lương thiện, kiếm sống bằng nghề xén cây, chăm chỉ làm
việc nuôi bảy đứa cháu nhỏ và người chị góa chồng, đến từng miếng ăn cũng nhường cho
cháu. Nhưng cuộc sống không bình dị trôi đi khi chính quyền kết án và bắt giam ông suốt 19
năm chỉ vì ăn cắp một cái bánh mỳ cho những đứa cháu đang đói lả ở nhà. Pháp luật xóa mờ
cả tên tuổi và quãng đời trước kia của ông, chỉ còn lại một con số “24601”. Jean Valjean bị
tách biệt hoàn toàn khỏi những người thân, trong suốt thời gian ở tù ông chỉ nghe được tin tức
của họ đúng một lần và mãi mãi về sau không gặp lại họ nữa. Ông phải làm việc cật lực, đến
đêm thì bị cùm chân, ngủ trên những tấm phản lạnh lẽo, ăn thứ cơm của loài vật. Sau 19 năm
tù khổ sai trở về ông gần như bị đẩy ra ngoài lề xã hội khiến cho “lúc vào tù Jean Valjean run
sợ, khóc lóc, đến khi ra, anh thành người thản nhiên, trơ như đá”, “con người bị pháp luật hất
ra ngoài xã hội ấy, nhìn loài người với cặp mắt giận dữ”.
Suốt quãng đời còn lại, ông phải sống lẩn trốn trong bóng tối vì định kiến xã hội. Tất
cả chỉ vì một lí do duy nhất: luật pháp tư sản đánh đồng những người bất hạnh với kẻ phạm
tội, chỉ biết trấn áp mà không biết tha thứ, không cho con người cơ hội để sửa chữa lỗi lầm.
Thời gian làm thị trưởng ở Montreil , 5 năm sống trong nhà tu và những năm tháng ở Paris,
lúc nào Jean Valjean cũng phải che giấu thân phận. Lúc là Madelein , lúc thì là .... em, ông
không thể sống dưới tên thật của mình. Chỉ vì sự kì thị và những định kiến của xã hội mà một
người trót lầm lỗi phải chấp nhận số phận sống trong bóng tối, cả đời chịu sự truy đuổi,
không được sống đàng hoàng với tên họ của chính mình.
Jean Valjean rất ít nói, ít cười và chẳng mấy khi giao lưu với mọi người, tác giả ít
miêu tả ngôn ngữ mà chủ yếu khắc họa nhân vật qua hành động. Nhưng đối lập với vẻ ngoài,
càng ít nói và đơn độc bao nhiêu thì tình yêu thương và đức hi sinh của Jean Valjean càng lớn
bấy nhiêu. Ông có một sự xám hối rất lớn, ngay sau khi những giọt nước mắt thức tỉnh rơi
xuồng, ông đã chạy đến bên Chúa để thú tội. Kể từ đó ông sống với một đức hi sinh cao cả,
ban phát mọi thứ mình có để đền bù cho những lầm lỗi mà ông đã phạm phải. Trong thời gian
làm thị trưởng ở Montreil ông “đã cho dân trong thành phố và những người nghèo khó đến
hơn một triệu phơrăng”, ngoài ra ông còn “quyên thêm mười giường bệnh”, “dựng hai trường
mới”, “lập một nhà phúc, có lẽ khắp nước Pháp chưa đâu có, và một quỹ cứu tế cho thợ già
yếu tàn tật”. Nhà máy của ông là nơi cưu mang tất cả những kẻ khốn khổ “ai túng đói cứ tìm
đến đó, chắc chắn có việc làm và cơm ăn”. Đối với người dân Montreil, Jean Valjean thực sự
là một vị thánh từ trên trời hiện xuống cứu giúp dân chúng, “bác trước là một ân nhân sau là
một vị cứu tinh”. Trong suốt chặng đường sau này, cứ đi đến đâu là Jean Valjean lại cứu giúp
6
và ban phát cho người khác đến đó. Không chỉ Cosette, Fantine, Marius mà bất cứ kẻ khốn
khổ nào gặp được trên đường ông cũng giúp đỡ. Chính Thénardier cũng từng được Jean
Valjean cứu giúp dưới vai trò một nhà từ thiện.
Để chống lại quan điểm mỹ học thiếu dân chủ của chủ nghĩa cổ điển, Victor Hugo xây
dựng Jean Valjean là một hình tượng kép, hòa lẫn giữa cái cao cả và thấp hèn trong một nhân
vật, điều mà văn học cổ điển không có. Jean Valjean xuất thân từ tầng lớp thấp kém trong xã
hội, khoác áo tù khổ sai nhưng đồng thời mang một nhân cách cao cả sánh ngang đức Chúa.
Qua đó, tác giả ca ngợi vẻ đẹp của nhân dân lao động, cái đẹp không bắt nguồn từ giai cấp,
tầng lớp mà xuất phát từ chính tâm hồn con người. Hành trình đi từ nạn nhân trở thành vị cứu
tinh của Jean Valjean chính là sự khẳng định sức mạnh, sự vươn lên của người lao động và
niềm tin của Hugo vào bản chất tốt đẹp của họ.
Lòng cao cả của Jean Valjean mỹ học gọi là cái đẹp vượt độ có quy mô, tầm vóc to
lớn, vượt khỏi khuôn khổ thông thường, chứa đựng những ý nghĩa trọng đại và cũng là cái
quan trọng nhất đưa nhân vật trở thành một vị thánh. Sự cao cả được thể hiện qua lòng vị tha
và những hành động nghĩa hiệp, cao đẹp của ông. Bị xã hội tư sản ruồng bỏ và vùi dập, Jean
Valjean không quay lưng lại mà vẫn tha thứ cho xã hội. Tha thứ là phương châm hành động
và là triết lí sống của Jean Valjean. Bị Javert truy đuổi và cản trở con đường tìm về cõi thiện
khiến mình phải sống lẩn tránh, nhưng chưa một lần nào Jean Valjean tỏ ra thù ghét Javert mà
trái lại, ông sẵn sàng tha chết cho hắn và trả lại cho hắn tự do. Đó là sự trả thù cao thượng
“lấy ơn trả oán, lấy lòng tha thứ đáp lại lòng căm thù, ưa thương người chứ không ưa báo
oán”. Khi lên chiến lũy, Jean Valjean không bắn chết hay bị thương một ai mà chỉ bắn dọa,
ông biết coi trọng sinh mệnh của tất cả mọi người, “thà hy sinh thân mình chứ không màng
hại kẻ địch”. Toàn bộ số tiền kiếm được, Jean Valjean dành để cứu giúp người nghèo và lo
cho Cosette chứ không tiêu xài một đồng, bản thân ông vẫn sống đạm bạc với bánh mỳ đen
và nước trắng trong một căn phòng đơn sơ.
Một biểu hiện đặc biệt của cái cao cả trong Jean Valjean là phẩm chất anh hùng, nhân
vật được xây dựng như một hình mẫu mang vẻ đẹp lí tưởng của chủ nghĩa lãng mạn, là kiểu
chiến sĩ đấu trong chống lại toàn xã hội và cứu vớt nhân loại. Jean Valjean được đặt vào nhiều
hoàn cảnh đặc biệt để bộc lộ vẻ đẹp phi thường của mình. Từ một người tù khổ sai, bằng trí
tuệ và lao động sáng tạo, Jean Valjean đã trở thành thị trưởng, đem công sức và tiền bạc cứu
giúp dân chúng, mang lại sự phồn thịnh cho cả một vùng. Thành phố Montreil tuy được xây
dựng theo kiểu xã hội không tưởng nhưng là một minh chứng cho phẩm chất phi thường của
Jean Valjean. Việc thú nhận thân phận để cứu .... cũng thể hiện sự cao thượng của Jean
Valjean, sẵn sàng hi sinh mọi thứ mình có, hi sinh con đường hướng thiện của mình, chấp
7
nhận quay lại ngục tù để cứu một kẻ không quen biết. Nhưng sau đó, Jean Valjean đã thực
hiện một cuộc vượt mình thoát khỏi nhà tù, cứu Cosette và lẩn trốn sự truy đuổi của Javert.
Một phẩm chất đáng quý mà người anh hùng nào cũng có là trọng danh dự, giừ lời hứa. Jean
Valjean đã giữ trọn lời hứa với Fantine, không chỉ cứu Cosette, ông còn mang lại hạnh phúc
cho cô bé, nuôi dưỡng cái đẹp phát triển. Trong chiến lũy, chỉ có một mình Jean Valjean còn
lành lặn, lần thứ ba ông thực hiện cuộc vượt mình một cách phi thường trong cống ngầm để
cứu Marius, “người bê bết từ đầu đến chân, nhưng tâm hồn chói lọi một thứ ánh sáng lạ
lùng”. Sự hi sinh lớn lao, cao cả nhất của người anh hùng Jean Valjean là đối với Marius. Đầu
tiên, ông coi Marius như kẻ thù đã cướp mất tình yêu lớn nhất của đời ông là Cosette. Nhưng
rồi ông lại bỏ qua tất cả, cứu Mariust, chấp nhận cuộc hôn nhân của hai người và tự mình rút
lui trong cô độc. Tuy cho đi rất nhiều, nhưng Jean Valjean luôn hành động âm thầm lặng lẽ,
luôn chịu đựng một mình chứ không nói với ai nửa lời. Bởi lẽ, ông là hiện thân của người lao
động, vẻ đẹp của ông là vẻ đẹp của người lao động chân chính.
Qua những điều trên ta thấy Jean Valjean là nhân vật lý tưởng của tác phẩm. Đây cũng
là kiểu nhân vật lãng mạn tiêu biểu của chủ nghĩa lãng mạn.
2. Fantine
Fantine là nhân vật có số phạn bất hạnh nhất trong tác phẩm. Ở Fantine ta có thể nhận
thấy hai vẻ đẹp lớn nhất là tình yêu chung thủy và tình mẫu tử thiêng liêng. Gắn liền với nó là
hai nỗi bất hạnh lớn: bị người tình phụ bạc và phải xa con. Cuộc đời đầy đau khổ của chị tạo
nên một ám ảnh xoáy sâu trên từng trang giấy, những câu văn viết về chị như có máu chảy ở
đầu ngọn bút khiến người đọc không khỏi rơi lệ.
Giống như những nhân vật khác, nỗi đau đầu tiên của Fantine là không có cha mẹ, chị
sống cô độc không nơi nương tựa, đến tên họ cũng không có, “nàng hứng một cái tên như
người ta hứng một giọt mưa từ trên trời rơi xuống”. Tuy vậy, Fantine lại có vẻ đẹp cả ngoại
hình lẫn tâm hồn. Chị là một người phụ nữ xinh đẹp: “nàng rất đẹp. Nàng cố giữ cho mình
trong trắng. Nàng có vàng ngọc làm của riêng như ai, những vàng của nàng xếp trên mái tóc,
ngọc của nàng giắt ở sau môi”... Fantine mang trong mình vẻ đẹp thánh thiện, ngây thơ
“trong tâm hồn còn thoang thoảng mùi hương trinh thục”, đẹp như “một bông hoa mọc lên từ
trong quần chúng”. Tuy không được ai nuôi dạy, nhưng Fantine lại biết sống rất đúng mực,
không lả lơi ong bướm. Trong bốn cô gái chơi với nhau, chỉ mình Fantine là “gái ngoan” còn
ba cô kia là “gái khôn”. Một vẻ đẹp đáng quý trong tâm hồn của Fantine là chị biết yêu hết
mình và yêu chung thủy, nhưng đó cũng là bất hạnh lớn nhất trong cuộc đời chị. Với tình yêu
chân thật, chị đã trao tất cả những gì mình có cho .... và có con với hắn. Nhưng tên sở khanh
chỉ coi Fantine như một “thói quen phong nguyệt”, hắn ruồng bỏ chị, để măc cho người mẹ
8
trẻ phải đơn độc xoay sở với cuộc sống khắc nghiệt. Fantine đã trả giá cho tình yêu của mình
với sự ra đời của đứa con vô thừa nhận. Nỗi bất hạnh bị người yêu ruồng bỏ là mở màn cho
một chuỗi đau khổ khác đến với số phận của Fantine.
Chính vì định kiến xã hội, sự dè bỉu của người đời mà Fantine phải rời bỏ “báu vật”
mà chị yêu quý nhất là Cosette và cũng chính vì nó mà chị bị đuổi khỏi nhà máy, phải sống
vất vả, cơ cực, phải làm việc đến lao lực. Thân phận và nhân phẩm của chị bị cả xã hội coi rẻ.
Người ta không hiểu được đức hi sinh lớn lao của Fantine, trong mắt mọi người, chị chỉ là
một “con điếm mạt hạng”. Khi Fantine phản ứng lại một tên tư sản thì chính chị lại trở thành
kẻ có tội vì pháp luật tư sản chỉ bảo vệ quyền lợi cho giai cấp tư sản. Chỉ có người lao động
khốn khổ là có tội và không được quyền lên tiếng. Mặc cho Fantine khóc lóc van xin, Javert
vẫn nhất quyết bắt chị về đồn và hành hạ chị. Nếu các nhân vật khác đều được hưởng một cái
chết vinh quang (Jean Valjean chết trong tay các con và linh hồn thanh thản về với Chúa;
Epnine được chết trong tay người mình yêu; Enjolras, cụ Mabeuf, chú bé Gavroche hi sinh
anh dũng trên chiến trường…) thì duy nhất có Fantine là phải nhận một cái chết đau đớn nhất.
Chị chết mà không được nhìn mặt con, chết trong sự hoảng loạn, khiếp sợ vì phải trông thấy
tên “quỷ dữ” Javert và chết trong đau đớn của bệnh tật. Cái chết cuả Fantine là một sự tố cáo
sâu sắc pháp luật và định kiến xã hội. Nhưng có lẽ vì Fantine cũng là nhân vật mang vẻ đẹp
sánh tựa với thánh thần nên tác giả vẫn muốn để cái chết đau thương của chị có được chút
hào quang. Trước khi chết chị đã mỉm cười, đó là nụ cười thanh thản bởi chị biết Jean Valjean
sẽ thay chị nuôi dưỡng Cosette, nuôi dưỡng cái đẹp. Linh hồn chị sẽ được hóa thân trên thiên
đường.
Tuy số phận cay đắng và bị đày đọa, nhưng Fantine lại có một tinh thần chịu đựng, hi
sinh và ban phát vô cùng cao cả. Bao nhiêu tình yêu trong cuộc đời, Fantine dồn cả vào
Cosette, chị sẵn sàng hi sinh tất cả cho con mình. Để có tiền lo cho Cosette, chị đã phải chấp
nhận từ bỏ mọi thú vui khác, sống một cuộc sống kham khổ “Mùa đông Fantine tập bỏ hẳn lò
sưởi. Fantine dứt được với con chim nuôi chơi… chị học cách lấy váy làm chăn và lấy chăn
làm váy, cách ghé cửa sổ để ăn cơm dưới ánh đèn hàng xóm cho đỡ tốn nến nhà mình”. Chị
phải làm việc cật lực, vắt kiệt sức lao động của mình, “cứ ngày ngủ năm giờ, còn thì ngồi mà
khâu may” với cái giá mười hai xu một ngày chẳng thể đủ mà mua cơm ăn. Fantine chẳng hề
nghĩ đến bản thân mà chỉ lo lắng cho con, mỗi lần vợ chồng Thénadier viện cớ đòi tiền nuôi
Cosette chị lại phải tất tả kiếm tiền bằng mọi cách gửi cho chúng. Hugo tái hiện thành công
và sâu sắc tâm trạng lạ lùng của Fantine mỗi khi nàng nhận được thư cửa vợ chồng Thénadier
gửi đến đòi tiền: nàng đọc đến nhàu nát những bức thư trong đó báo tin con nàng bị rét vì
thiếu áo, bị bệnh mà không có tiền mua thuốc...nàng cười rộ lên như điên hoặc chạy ra phố,
9
vừa chạy vừa cười khanh khách... Vì con, chị chấp nhận bán răng, bán tóc là hai tài sản quý
giá của mình, không có việc gì chị không dám làm để cho con được sung sướng: “con ta
không rét nữa, ta đã lấy tóc dệt cho con ta rồi” Rồi bán cả răng cũng không đủ, cuối cùng chị
phải bán thân.. Trong thân hình tiều tụy với cái “đầu trọc” nàng vẫn xinh đẹp là thường. Nét
đẹp ấy không đơn thuần là vẻ đẹp ngoại hình nữa mà tỏa sáng lấp lánh vẻ đẹp tâm hồn người
mẹ.
Tình thương con đã chi phối toàn bộ suy nghĩ và hành động của Fantine. Giữa cảnh
bùn nhơ mà Fantine bị đẩy vào, nàng sáng lên như một biểu tượng của tình mẫu tử thiêng
liêng, biểu tượng về tấm lòng của người Mẹ.
3. Javert
Javert là một thanh tra đại diện cho công lý và dành ra không biết bao nhiêu năm
thắng để truy đuổi Jean Valjean, Javert là một “bóng ma” luôn rình rập cuộc sống của Jean.
Javert hiện lên trong tác phẩm với một chân dung hung tợn. Tác giả miêu tả bộ dạng,
ngôn ngữ, hành động, thái độ của hắn không khác gì một con ác thú giữ nhà cho chính quyền
tư sản: “ khi hắn cười thì đôi môi mỏng dính dang ra, phơi bày nào răng nào lợi. Lúc ấy xing
quanh cái mũi là cả một vết nhăn nhúm man rợ, trông như mõm ác thú. Javert mà nghiêm nét
mặt thì là một con chó dữ. Khi cười thì lại là một con cọp....cả người hắn toát ra một vẻ oai
nghiêm tàn ác”. Đó là chân dung một con người – thú, một con chó giữ nhà trung thành của
chính quyền tư sản nước Pháp đương thời hiện lên qua biện pháp so sánh, phóng đại mang
tính ẩn dụ rõ nét. Thủ pháp thú vật hóa khiến bức chân dung của Javert là hiện thân của
những gì tối tăm, lạnh lùng, tàn nhẫn, độc ác mà một thanh tra mất thám cần phải có.
Javert làm nhiệm vụ thực thi công bằng của luật pháp nhưng lại máy móc, cứng nhắc,
không một chút tình cảm, “không khoan thứ một ngoại lệ nào”. Thực ra, hắn cũng không phải
là kẻ xấu xa. Hắn sống rất khổ hạnh, cô độc, quên mình, trong sạch, không bao giờ vui đùa.
Hắn là hiện thân của nhiệm vụ tuyệt đối...”là sựu rình mò không hở một phút...là sự công lí
dưới mặt mũi một hung thần”. Ở hắn có hai ý thức đơn giản: “tuyệt đối phục tùng cấp trên”
và “thù hằn, khinh bỉ, ghê tởm tất cả những ai trót có lần phạm vào pháp luật”. Cả đời hắn thu
gọn trong hai chữ tỉnh táo và canh phòng. Hắn làm mật thám kính cản như người ta làm mục
sư.
“Javert là nô lệ của luật pháp” Cho tới giây phút khi Javert quyết định thả tự do cho
Jean Valjean, Javert vẫn “sống với một niềm tin mù quáng” vào luật pháp. Nhưng từ khi phải
đối diện với một thực tại kinh hãi rằng Jean Valjean thật sự là người tốt, rằng tất cả những gì
ông ta đã làm không phải là lừa đảo và dối trá thì những giá trị tuyệt đối trong cuốn sách
“thánh kinh” của Javert bổng trở nên vô dụng, tất cả những sự thật mà Javert hằng tin tưởng
10
vào một cách tuyệt đối bỗng vỡ tan như những chiếc bong bóng bọt xà phòng. “Những sự thật
mà hắn không muốn thừa nhận đang bao vây lấy hắn, không khoan nhượng. Từ đây trở đi,
hắn phải là một người khác hẳn. Hắn đang phải chịu những cơn đau kỳ lạ của một lương tâm
bất thình lình được giải phẫu để gỡ bỏ lớp màn đục che khuất”.
Javert phải tìm đến cái chết vì hắn là một kiểu người công cụ, khi chấp nhận từ bỏ chức
năng mà pháp luật giao cho là truy đuổi Jean Valjean cũng là lúc số phận của hắn kết thúc. Có
thể nói Jean Valjean đã ban cho Javert một cái chết nhưng đồng thời cũng là một sự giải thoát,
cứu vớt linh hồn hắn. Javert chết nhưng trong lòng cảm thấy khâm phục Jean Valjean hơn bao
giờ hết. Cái chết tự nguyện bất ngờ của Javert mang dấu hiệu về niềm tin ở con người.
11
III.
Giá trị nội dung, nghệ thuật và đóng góp
1. Nội dung
“Những người khốn khổ” là đỉnh cao nghệ thuật văn xuôi của Victor Hugo. Quan bản
“anh hùng ca” của những người lao động bình thường này, nhà văn biểu lộ tấm lòng yêu
thương vô hạn đối với những nạn nhân khổ đau của xã hội tư sản.
“Những người khốn khổ” vừa là một tiểu thuyết hiện thực, vừa là một tiểu thuyết sử thi,
tiểu thuyết xã hội và cũng là một bài ca về tình yêu.
Trên khía cạnh hiện thực, tiểu thuyết “Những người khốn khổ” đã miêu tả cả một thế giới
của những con người nghèo khổ, đó là bức tranh cực kì chân thực về cuộc sống ở nước Pháp
nói chung và ở Paris nghèo khổ nói riêng nửa đầu thế kỉ XIX. Bức tranh đó được V.Hugo
phản ánh sinh động qua thế giới nhân vật của tác phẩm. Họ là những người nghèo khổ với đủ
các tầng lớp xã hội, đủ mọi lứa tuổi, trẻ, già, gái trai...tạo thành một bề rộng với sự đồ sộ của
tác phẩm. Thế giới nhân vật mà V.Hugo xây dựng mang đặc điểm chung: con người tì vết,
con người khốn cùng, con người cô độc, con người bị xua đuổi. Họ là những kẻ mồ côi, đói
rách, lang thang nhưng tâm hồn luôn hướng thiện.
Từ đó V.Hugo lên án thế lực đen tối đang thống trị toàn xã hội thông qua hệ thống cai trị
khủng khiếp của nó: pháp luật tàn nhẫn, cực kì hà khắc; chế độ nhà tù hủy hoại mọi khả năng
sống của con người, khiến họ trở thành những kẻ chỉ chứa đầy lòng thù hận; cảnh sát, quan
tòa thì bảo vệ quyền lợi của những kẻ có tiền tài, thế lực. Chân lý của những kẻ điều hành bộ
máy nhà nước được biểu hiện qua suy nghĩ của Javert “Người viên chức nhà nước không thể
lầm, ông quan tòa không bao giờ xử vô lý” còn “đứa phạm tội thì trọn đời mãi kiếp là đồ bỏ
đi. Không mong gì ở chúng được”. Đáng sợ hơn là cái xã hội tư sản ghẻ lạnh, đầy định kiến
nghiệt ngã, không có lối thoát nào cho những kẻ khốn cũng gục ngã đứng dậy (chi tiết tấm
thẻ thông hành màu vàng). Ngoài ra tác giả cũng tố cáo những kẻ xấu xa – con đẻ của cái xã
hội bất nhân ấy: gã sở khanh Tolimiette, tên vô công rỗi nghề đểu cáng Bamataboa và đậm
nét hơn cả, đáng khinh hơn cả là tên lưu manh, trộm cắp, lừa đảo đọc ác Thénardier, vì tiền
đến cả con mình hắn cũng ruồng bỏ.
Trên khía cạnh là một tiểu thuyết sử thi, tác phẩm đã miêu tả những bức tranh chân thực
của lịch sử nước Pháp, đó là trận Waterloo, cuộc nổi dậy của những người cộng hòa ở Paris
năm 1832 và cuộc chạy trốn trong cống ngầm của Jean Valjean. Tính sử thi của tiểu thuyết
cũng thể hiện qua việc miêu tả những xung đột bên trong tâm hồn con người, đó là xung đột
giữa cái thiện và cái ác bên trong Jean Valjean, đó là xung đột trong suy nghĩ của Javert trước
sự tôn trọng pháp luật và sự tôn trọng đạo lý con người.
12
“Những người khốn khổ” cũng là tác phẩm ca ngợi tình yêu: Tình yêu đối với các con
chiên của linh mục Myriel, tình yêu tuyệt vọng của Fantine và Eponine, tình phụ tử của Jean
Valjean với Cosette. Bên cạnh đó, “Những người khốn khổ” cũng là một trong những tác
phẩm hay nhất của văn học Pháp khi thể hiện tình yêu Tổ quốc. Trong tâm trang của một
người tị nạn, Victor Hugo đã ghi lại từ trí nhớ và trái tim mình những cảnh vật nước Pháp mà
ông yêu quý, đặc biệt là những hình ảnh về Paris, phông nền chính cho cả tác phẩm.
2. Nghệ thuật
“Những người khốn khổ” là tác phẩm kết tinh đặc trưng và thủ pháp nghệ thuật của nhà
văn lãng mạn V.Hugo.
a) Bộ tiểu thuyết “Những người khốn khổ” về mắt cấu trúc phức tạp hơn nhiều so với
“Thằng gù nhà thờ Đức Bà”. Bộ tiểu thuyết được chia làm năm phần:
Phần thứ nhất: Fantine
Phần thứ hai: Cosette
Phần thứ ba: Marius
Phần thứ tư: Tình ca phố Plumet và anh hùng ca phố Saint Denis..
Phần thứ năm: Jean Valjean
Trong năm phần trên, có đến bốn phần tác giả lấy tên nhân vật mà đặt tên. Những nhân
vật này, trừ Marius xuất thân từ tầng lớp quý tộc, còn lại đều có nguồn gốc từ tầng lớp người
nghèo khổ, những người dưới đáy xã hội. V.Hugo chọn đối tượng phản ánh thuộc về những
con người như thế, phần nào đã thể hiện được thái đố, tình cảm và tấm lòng của ông dành cho
họ. Ông thể hiện sự ưu ái cho những người khốn khổ.
Một điều có thể thấy là cách sắp xếp cấu trúc tác phẩm có phần lạ lùng khi Jean Valjean
lại được đặt tên ở phần cuối trong khi đó là nhân vật trung tâm, xuất hiện từ đầu đến cuối tác
phẩm, trong khi đó Fantine, Cosette lại được đặt ở các phần đầu. Đây chính là dụng ý nghệ
thuật của Victor Hugo. Ông muốn xâu chuỗi toàn bộ những sự kiện, những hoàn cảnh mà
Jean Valjean bắt đầu cuộc đời, đến khi ra tù gặp giám mục Miryel rồi sau đó gắn kết cuộc đời
với Fantine, Cosette hay Marius...đến phần cuối này mới thực sự là một Jean Valjean trọn
vẹn. Qua đó làm nổi bật lên hành trình tìm đến con đường hướng thiện của Valjean, đồng thời
đó cũng là con đường mà tác giả muốn vạch ra cho nhân loại tiến bộ.
“Những người khốn khổ” đã mang trong nó nhiều loại hình nghệ thuật của văn chương
như tiểu thuyết, truyện ngắn, truyện vừa xen kẽ với những chương đoạn bình luận ngoại đề.
Với một kết cấu đồ sộ nó đã chuyển tải nội dung vô cùng lớn: phong tục, tôn giáo, lịch sử,
chính trị... Đó là những câu chuyện kể về đức giám mục Miryel, Jean Valjean, Thesesnardier,
13
Gavroche, Marius, Fantine....có cả những câu chuyện khởi nghĩa... Đọc vào người đọc có cảm
giác những câu chuyện rời rạc nhưng nó được liên kết một cách chặt chẽ với những nhân vật
chi phối và gắn kết câu chuyện ở từng phần. Ở đây ta có thể thấy nghệ thuât ráp nối, liên kết
các câu chuyên rất tài tình, chặt chẽ khéo léo. Kết cấu tác phẩm như thế đã phần nào làm nổi
bật tư tưởng của tác giả: đề cao nhân đạo với tấm lòng thương cảm, yêu mến nhân dân sâu
sắc.
b) Trong “Những người khốn khổ” ta có thể thấy nghệ thuật xây dựng nhân vật thành
các cặp đối lập
- Miryel – Jean Valjean: người cảm hóa – người được cảm hóa.
- Jean Valjean – Fantien: ân nhân – nạn nhân.
- Jean Valjean – Sansmachie: người thật – người nhại ( đây là phép thứ của lương tâm
khiến cho cuộc đấu tranh nội tâm của hai con người trong Jean Valjean càng thêm hấp dẫn)
- Jean Valjean – Thénardier: thiện –ác ( đây là sự chạm trán làm hoàn thiện hơn bản
chất tốt đẹp của lương tâm con người)
- Jean Valjean – Cosette: vị cứu tinh – kẻ bất hạnh
- Jean Valjean – Javert: kẻ bị truy nã – kẻ truy nã ( sự tương phả giữa ánh sáng và bóng
tối, thể hiện tính chất khắc nghiệt của định mệnh, qua đó khẳng định chiến công của tình
thương. Jean Valjean luôn vượt qua cái vật cản ấy trên đường tìm về cái thiện chân chính của
mình và hoàn tất quá trình hướng thiện thiêng liêng ấy).
c) Việc xây dựng các nhân vật cụ thể làm nổi bật chủ đề tư tưởng của tác phẩm cũng là
một thành công của tác phẩm. Nó lại được đặt trong một không gian nghệ thuật đa chiều, vận
động từ lý tưởng đến hiện thực và ngược lại, từ bề nổi đến bề sây, từ bên ngoài đến không
gian tâm lý bên trong, từ bóng tối ra ánh sáng, từ không gian hẹp đến không gian rộng, từ
không gian đời thường đến khôn gian lịch sử.... gợi lên được bầu không khí sử thi, phù hợp
với bức tranh hoành tráng cảu nó.
14
Ngoài ra V.Hugo còn xây dựng kiểu nhân vật lãng mạn đặc trưng (Jean Valjean, Đức giám
mục Miryel, Gavroche.... Hugo xây dựng nên các nhân vật lãng mạn để thực hiện hoài bão
dùng giải pháp tình thương, dùng công lý tha thứ để cải tạo, để làm thay đổi xã hội.
d) Tiểu thuyết “ Những người khốn khổ” là tiểu thuyết mang đậm chất thơ. Toàn bộ tác
phẩm chứa chan tinh thần nhân bản và tinh thần lãng mạn của Victor Hugo. Có thể thấy “tình
thương” là nguyên tắc thẩm mĩ cơ bản mà ông thể hiện xuyên suốt trong tác phẩm. Chất thơ
còn thể hiện ở niềm tin là lòng tin đối với Cách mạng. Cách mạng sẽ giái phóng con người ra
khỏi cuộc sống phi nhân bản của xã hội tư sản, mang đến xã hội lý tưởng mà trong đó tình
thương sẽ là nguyên tắc cao nhất.
Bên cạnh đó là những bút pháp nghê thuật đặc trưng của V.Hugo được vận dụng trong
một tác phẩm có quy mô đồ sộ như “Những người khốn khổ”
15