Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Chứng Khoán 6 Tháng Đầu Năm 2007

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (418.47 KB, 26 trang )

VIỆT NAM
Nền Kinh Tế và Thị Trường
Chứng Khoán 6 Tháng Đầu
Năm 2007

Công ty Cổ Phần Chứng Khoán Bảo Việt

Bước chuẩn bị cho sự phát triển lâu dài
Private and confidential

Ngày 31 tháng 07 năm 2007
Công ty Cổ Phần Chứng Khoán Bảo Việt
94 Bà Triệu, Hà Nội
Tel: (84 4) 943 3016
Fax:(84 4) 943 3012

Sự bùng nổ của TTCK Việt Nam trong
năm 2006 đem lại điểm đến mới cho nhiều
tổ chức tài chính quốc tế.

Bộ phân thực hiện:
Phòng phân tích chi nhánh Tp.HCM
Nguyễn Văn Khánh
Phạm Vũ Phương Linh
Nguyễn Quang Minh
Đỗ Trọng Quang
Vũ Thị Thanh Quyên








Báo cáo này chỉ nên được sử dụng như một nguồn tham khảo độc lập cho các quyết
định của nhà đầu tư. BVSC không chịu trách nhiệm đối với bất kỳ tổn thất nào phát
sinh từ các quyết định dựa trên báo cáo này.

BVSC – Chìa Khóa Vàng Dẫn Đến Thành Công


Bảng giải thích thuật ngữ
GDP
GSO
ML
UBS
JPM
Citibank
NHNN
KCN
BĐS
TTCK
IPO
SPO
CP
SH
LH
ĐTTC
LNTT
LNST
ĐBSCL

PVD
SAM
PPC
STB
REE
KDC
DHG
VNM
FPT
VSH
ITA
GMD
SJS
MPC
SABECO
CADIVI

Tổng thu nhập quốc nội
Tổng cục thống kê Việt Nam
Tập đoàn đầu tư tài chính Merill Lynch
Tập đoàn đầu tư tài chính UBS
Tập đoàn đầu tư tài chính JP Morgan
Ngân hàng Citibank
Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam
Khu công nghiệp
Bất động sản
Thị trường chứng khoán
Đấu giá lần đầu ra công chứng (Initial Public Offering)
Phát hành thứ cấp
Cổ phiếu/Cồ phần

Sở hữu
Lưu hành
Đầu tư tài chính
Lợi nhuận trước thuế
Lợi nhuận sau thuế
Đồng Bằng Sông Cửu Long
Tổng công ty cổ phần khoan và kỹ thuật khoan dầu khí
Công ty cổ phần cáp và vật liệu viễn thông
Công ty cổ phần Nhiệt Điện Phả Lại
Ngân hàng thương mại cổ phần Thương Tín
Công ty cổ phần cơ điện lạnh
Công ty cổ phần Kinh Đô
Công ty cổ phần dược Hậu Giang
Công ty cổ phần sữa Việt Nam
Công ty cổ phần Phát triển Đầu tư Công nghệ FPT
Công ty cổ phần thủy điện Vĩnh Sơn-sông Hinh
Công ty Cổ Phần Khu Công Nghiệp Tân Tạo (ITACO)
Công ty cổ phần đại lý liện hiệp vận chuyển (Gemadept)
Công ty cổ phần ĐTPT đô thị & KCN Sông Đà
Công ty cổ phần thủy sản Minh Phú
Tổng Công ty Bia - Rượu - Nước giải khát Sài Gòn
Công ty TNHH một thành viên Dây và Cáp điện Việt Nam


Chìa Khóa Vàng Dẫn Đến Thành Công
NỘI DUNG

Trang

A. Tổng quan nền kinh tế và

Thị trường chứng khoán

01

1. Nền kinh tế

01

2. Thị trường chứng khoán

03

2.1 Thị trường niêm yết

03

2.2 Các đợt IPO và phát
hành thêm 6 tháng đầu năm

10

2.3 Hiệu quả hoạt động 6
tháng đầu năm của các công
ty lớn

12

A. Nhìn nhận tổng quan về nền kinh
tế và thị trường chứng khoán
1. Nền kinh tế

Kinh tế Việt Nam tiếp tục tăng trưởng ổn định với tốc độ tăng trưởng cao trong
6 tháng đầu năm 2007. Tổng thu nhập quốc nội (GDP) 6 tháng đầu năm 2007
đạt xấp xỉ 31 tỷ USD, tăng 7,87% so với cùng kỳ năm 2006. Đây là mức tăng
trưởng cao nhất trong vòng 6 năm gần đây mà đóng góp là sự tăng trưởng của
các ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ. Theo Tổng Cục Thống Kê Việt

B. Dự báo tình hình kinh tế
và TTCK 6 tháng cuối năm

15

1. Dự báo nền kinh tế

15

2. Dự báo về TTCK

18

3. Điểm tựa cho những dự báo

19

Phụ lục

25

Nam (GSO), 6 tháng đầu năm ngành công nghiệp và xây dựng tăng 9,88%, tiếp
theo là ngành dịch vụ tăng 8,41% và nông-lâm-ngư nghiệp chỉ tăng 2,8%.
Bảng 1: Tốc độ tăng trưởng GDP và sự đóng góp của 3 nhóm

ngành chính
Tốc độ tăng trưởng %

6 tháng 04

6 tháng 05

6 tháng 06

6 tháng 07

GDP

7,00

7,63

7,40

7,87

Nhóm ngành Nông-Lâm-Ngư nghiệp

2,00

4,23

3,00

2,8


Nhóm ngành Công nghiệp-Xây dựng

10,00

9,50

9,30

9,88

Nhóm ngành dịch vụ

7,00

7,60

7,70

8,41

Nguồn: Tổng Cục Thống Kê Việt Nam qua các năm 2004, 2005, 2006

Thâm hụt thương mại tăng lên 4,78 tỷ USD trong 6 tháng đầu năm 2007. Đây là
kết quả của kim ngạch nhập khẩu tăng 30,4% trong khi xuất khẩu chỉ tăng
19,4%. Đáng chú ý là sự giảm sút của khối lượng xuất khẩu dầu thô trong 6
tháng đầu năm xuống còn 7,6 triệu tấn (đạt khoảng 43,4% so với kế hoạch cả
năm là 17,5 triệu tấn), chỉ đem lại 3,76 tỷ USD (đạt khoảng 46% so với kế
hoạch cả năm là 8 tỷ USD). Nhìn chung, ngoài xuất khẩu cà phê tăng đột biến,
hầu hết các mặt hàng xuất khẩu chính đều có mức tăng khá thấp trong 6 tháng

đầu năm. Thực tế này khiến giá trị xuất khẩu trong 6 tháng qua chỉ đạt 48% kế
hoạch của cả năm 2007.
Tuy nhiên, sự thâm hụt thương mại này là do sự gia tăng nhập khẩu máy móc,
thiết bị, sắt thép cho việc xây dựng các công trình, nhà máy và nguyên vật liệu
cho sản xuất trong 6 tháng đầu năm, điều này đem lại tín hiệu khả quan cho sự

Bộ phận phân tích

1

Báo cáo thị trường 6 tháng


Chìa Khóa Vàng Dẫn Đến Thành Công

tăng trưởng tốt của nền kinh tế trong 6 tháng cuối năm. Thêm vào đó, xuất
khẩu, cả về mặt sản lượng và giá trị thường có khuynh hướng tăng cao hơn vào
6 tháng cuối năm so với 6 tháng đầu năm.
Biểu đồ 2: Cán cân thương mại 6 tháng đầu năm 2007
30.00
25.00
20.00
15.00
10.00
5.00
0.00
-5.00

6 tháng 04


6 tháng 05

6 tháng 06

6 tháng 07

-10.00
Xuất khẩu

Nhập khẩu

Cán cân thương m ại

Nguồn: Tổng Cục Thống Kê Việt Nam qua các năm 2004, 2005, 2006

Đầu tư trực tiếp từ nước ngoài tăng cao hơn nhiều so với cùng kỳ năm ngoái,
FDI của Việt Nam tăng 74% từ 2,26 tỷ USD của 6 tháng đầu năm 2006 lên 3,93
tỷ USD trong 6 tháng đầu năm 2007. Dự kiến, trong thời gian tới, vốn FDI vào
Việt Nam sẽ tiếp tục tăng lên cả về số đăng ký mới cũng như số thực hiện.
Sức mua và tiêu thụ nội địa tiếp tục đà đi lên với tổng doanh thu bán lẻ hàng
hóa và dịch vụ tăng 22,9% so với cùng kỳ năm trước.
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 6 năm 2007 tiếp tục tăng 5,6% so với tháng 12 năm
2006 và 7,8% so với cùng kỳ năm trước.

Bộ phận phân tích

2

Báo cáo thị trường 6 tháng



Chìa Khóa Vàng Dẫn Đến Thành Công

Biểu đồ 3: So sánh tốc độ tăng trưởng GDP, giá tiêu dùng
bình quân và doanh thu bán lẻ
25.00%
20.00%
15.00%
10.00%
5.00%
0.00%
6 tháng 05
Tăng trưởng GDP

6 tháng 06
Tổng doanh thu bán lẻ

6 tháng 07
Giá tiêu dùng trung bình

Nguồn: Tổng Cục Thống Kê Việt Nam qua các năm 2004, 2005, 2006

Chính phủ vẫn đang tiếp tục nỗ lực kiềm chế lạm phát dưới mức tăng trưởng
thực của GDP. Nguồn cung ngoại tệ tăng cao do đầu tư gián tiếp cùng với sự
gia tăng của dòng vốn đầu tư FDI trong 6 tháng đầu năm buộc ngân hàng Nhà
Nước phải hạn chế sự tăng giá của đồng Việt Nam bằng cách mua vào đồng
USD. Trong 5 tháng đầu năm, Ngân hàng Nhà Nước đã mua vào khoảng 7 tỷ
USD, tương đương khoảng 112 ngàn tỷ đồng được đưa vào thị trường tiền tệ
làm cung nội tệ tăng mạnh.


2. Thị trường chứng khoán
2.1 Diễn biến thị trường niêm yết
Thị trường niêm yết – Tăng và giảm. Năm 2006 vừa qua là năm phát triển
mạnh nhất của thị trường chứng khoán Việt Nam trong sáu năm lịch sử thành
lập. Thị trường chứng khoán Việt Nam trong năm vừa qua tăng trưởng về mọi
mặt từ số lượng các công ty niêm yết, số lượng các công ty chứng khoán mới ra
đời, quỹ đầu tư, đến tổng giá trị vốn hóa thị trường, chỉ số index, giá trị và khối
lượng giao dịch bình quân hàng ngày của các nhà đầu tư trong nước và đặc biệt

Bộ phận phân tích

3

Báo cáo thị trường 6 tháng


Chìa Khóa Vàng Dẫn Đến Thành Công

là của nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, với sự tác động của nhiều yếu tố khác
nhau, thị trường chứng khoán Việt Nam trong 6 tháng đầu năm 2007 đã và đang
có những dấu hiệu của sự chuyển mình sang một giai đoạn phát triển mang tính
ổn định và bền vững hơn. Diễn biến thị trường trong 6 tháng đầu năm 2007 có
thể chia thành hai giai đoạn: giai đoạn tăng giá liên tục của thị trường từ đầu
năm với những dấu hiệu đã được dự báo trước từ cuối năm 2006 cho đến giữa
tháng 3/2007 và giai đoạn điều chỉnh sau đó chuẩn bị cho một thị trường phát
triển bền vững lâu dài.

2.1.1

Giai đoạn bùng nổ từ đầu năm 2007 đến giữa tháng

3 năm 2007

Trong giai đoạn này, chỉ số VN-Index của cả hai sàn Hà Nội, TP.HCM cũng
như giá cổ phiếu trên thị trường OTC tăng giá mạnh với đỉnh điểm của HaSTCIndex đạt 459,36 điểm, tăng 90 % so với cuối năm 2006 (29/12/2006), giá trị
giao dịch đạt 510,3 tỷ đồng (khoảng 31,9 triệu USD) vào ngày 19/03/2007. Tại
sàn TPHCM, vào ngày 12/3, VN-Index (hay HoSTC-index) đạt 1170,67 điểm,
tăng 56% so với cuối năm 2006 (29/12/2006) với tổng giá trị giao dịch vào
khoảng 1.637 tỷ đồng (khoảng 102,3 triệu USD).
Biểu đồ 4: Chỉ số VN-Index và tổng khối lượng giao dịch hằng
ngày trong giai đoạn từ đầu năm 2007 đến giữa tháng 03/2007
Khối lượng cổ phiếu

Bộ phận phân tích

VN-Index

4

Báo cáo thị trường 6 tháng


Chìa Khóa Vàng Dẫn Đến Thành Công

Số lượng các Công ty niêm yết và đăng ký giao dịch trong giai đoạn này là 107
công ty, 2 chứng chỉ quỹ tại sàn giao dịch thành phố Hồ Chí Minh (HoSTC) và
86 công ty tại sàn giao dịch Hà Nội (HaSTC). Tổng mức vốn hóa thị trường của
cổ phiếu niêm yết trong giai đoạn đầu đạt trên 300 nghìn tỷ đồng (tương đương
khoảng 20 tỷ USD), trong đó đỉnh điểm vào phiên giao dịch ngày 27/02/2007
tổng mức vốn hóa cả 2 thị trường là 398 nghìn tỷ đồng (24,88 tỷ USD) chiếm
khoảng 31% GDP (2006) và vượt qua mốc 30% mà Chính phủ đã định hướng

cho giai đoạn phát triển của thị trường chứng khoán đến năm 2010. So với cuối
năm 2006 tổng mức vốn hóa thị trường tăng hơn 36%. Điều đáng lưu ý ở đây
là sự tăng trưởng này chủ yếu do sự tăng giá của các loại cổ phiếu chứ
không phải tăng khối lượng cổ phiếu do có thêm công ty niêm yết trên sàn
như vào thời điểm cuối năm 2006.
Tổng giá trị mua trung bình của nhà đầu tư nước ngoài trong giai đoạn này tại
sàn HoSTC cũng tăng cao và đạt khoảng 15,44 ngàn tỷ đồng (965 triệu USD)
chiếm khoảng 30% tổng giá trị giao dịch của sàn HoSTC. Mức giao dịch bình
quân 1 ngày là 359 tỷ đồng (22,4 triệu USD). Mức cao nhất là trong phiên giao
dịch ngày 01/02/2007, với giá trị giao dịch của nhà đầu tư nước ngoài là khoảng
836,4 tỷ đồng (52,3 triệu USD). Trong giai đoạn này, nhà đầu tư nước ngoài tập
trung chủ yếu vào các doanh nghiệp niêm yết có quy mô vốn lớn, có thương
hiệu và có kết quả kinh doanh tốt như: VNM (12,7 triệu cổ phiếu), PPC (11,5
triệu cổ phiếu), VSH (9,6 triệu cổ phiếu), PVD (5,8 triệu cổ phiếu), FPT (5,3
triệu cổ phiếu), CII (4,7 triệu cổ phiếu), GMD (4,7 triệu cổ phiếu), ITA (3,3
triệu cổ phiếu), TDH (3,2 triệu cổ phiếu), BMP (3,1 triệu cổ phiếu) (Số lượng
mua đến ngày 12/03/2007).
Như vậy, trong giai đoạn này có một số yếu tố khách quan thuận lợi, tạo điều
kiện cho thị trường chứng khoán phát triển. Trong đó, đáng kể là số lượng cổ
phiếu còn được phép mua của các cổ phiếu blue-chips trên thị trường dành cho
nhà đầu tư nước ngoài vẫn còn nhiều, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư
nước ngoài mua vào. Bên cạnh đó, việc Việt Nam tham gia nhập WTO cũng
như các hành lang pháp lý về chứng khoán và thị trường chứng khoán tạo tiền
đề tốt cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư mạnh vào thị trường.
Không kém phần quan trọng là việc giai đoạn Quý I/2007 là thời điểm các Công

Bộ phận phân tích

5


Báo cáo thị trường 6 tháng


Chìa Khóa Vàng Dẫn Đến Thành Công

ty niêm yết công bố kết quả tài chính của năm 2006 (Lợi nhuận của các công ty
trên sàn TP.HCM tăng trưởng trung bình khoảng 49% so với năm 2005, không
bao gồm VSH và PPC vì 2 công ty này thay đổi phương thức hoạch toán kế
toán nên lợi nhuận năm 2006 tăng đột biến so với năm 2005). Hầu hết, các công
ty đặc biệt là các Công ty blue-chips có tốc độ tăng trưởng tốt về doanh thu lẫn
lợi nhuận.
Sự tăng trưởng nóng trên thị trường niêm yết đã dần tác động đến thị trường
OTC và các đợt IPO làm cho giá cổ phiếu của các công ty cùng ngành với các
công ty trên sàn tăng theo (giá đấu thành công bình quân của các đợt IPO giai
đoạn này khá cao, ở mức 15-16 lần so với giá trị khởi điểm). Thêm vào đó, việc
nhiều nhà đầu tư cá nhân thu được những khoản lợi nhuận khổng lồ từ thị
trường chứng khoán trong năm 2006 cũng tạo tiếng vang lớn thu hút thêm một
lượng lớn những nhà đầu tư mới tham gia thị trường làm khối lượng tài khoản
tăng lên từ khoảng 106.000 tài khoản vào cuối năm 2006 lên tới trên 200.000
vào đầu năm 2007.

2.1.2

Giai đoạn điều chỉnh bắt đầu từ giữa tháng 3/2007

Sau khi chứng kiến thị trường chứng khoán tăng trưởng một cách chóng mặt
trong giai đoạn đầu năm, các nhà đầu tư sớm nhận ra rằng thị trường nhanh
chóng rơi vào tình trạng quá nóng và giá cả các cổ phiếu niêm yết trở nên quá
đắt đỏ. Các yếu tố này cùng với những khuyến cáo của Chính phủ và các tin
hành lang về việc Chính phủ sẽ đưa ra các biện pháp kiềm chế sự tăng nóng

của thị trường chứng khoán như biện pháp kiểm soát nguồn vốn (capital
control) hoặc thuế đánh vào lợi nhuận đầu tư (capital gain taxations) đã nhanh
chóng đưa Việt Nam vào một giai đoạn điều chỉnh từ giữa tháng 3/2007.
Trong giai đoạn này, chỉ số chứng khoán của cả hai sàn Hà Nội, TP.HCM và
giá cả trên thị trường OTC đều giảm mạnh vào cuối tháng 3 và tháng 4 sau đó
dao động xung quanh mức 1.000 điểm với VN-Index và 300 điểm với HaSTCIndex.

Bộ phận phân tích

6

Báo cáo thị trường 6 tháng


Chìa Khóa Vàng Dẫn Đến Thành Công

Biểu đồ 5: Chỉ số VN-Index và tổng khối lượng giao dịch
VN-Index

Khối lượng cổ phiếu

Số lượng các Công ty niêm yết và đăng ký giao dịch trong giai đoạn này là 107
công ty, 2 chứng chỉ quỹ tại sàn HoSTC và 87 công ty tại sàn HaSTC. Tổng giá
trị vốn hóa của thị trường cổ phiếu niêm yết thành phố Hồ Chí Minh trong giai
đoạn cuối tháng 6/2007 vào khoảng 207,4 nghìn tỷ đồng (tương đương khoảng
12,96 tỷ USD) giảm 23.3% so với ngày 12/03/2007.
Tổng giá trị mua trung bình của nhà đầu tư nước ngoài trong giai đoạn này tại
sàn HoSTC giảm đáng kể và đạt khoảng 12,8 ngàn tỷ đồng (801 triệu USD)
chiếm khoảng 17 % tổng giá trị giao dịch của sàn HoSTC. Và giá trị giao dịch
(mua) bình quân một ngày vào khoảng 170,8 tỷ đồng (10,7 triệu USD) giảm

52% so với giai đoạn 1.
Các đợt IPO cũng diễn ra trong tình trạng khá ảm đạm, thậm chí có những cổ
phiếu giá trúng nhỉnh hơn giá khởi điểm không đáng kể, việc nhà đầu tư cá
nhân bỏ cọc diễn ra khá phổ biến.

Bộ phận phân tích

7

Báo cáo thị trường 6 tháng


Chìa Khóa Vàng Dẫn Đến Thành Công

Những nguyên nhân chính dẫn đến tình hình thị trường
giai đoạn này
Những thông tin về tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp niêm yết chưa
có gì nổi bật. Hầu hết các thông tin khả quan đều đã được thông báo trong Quý
I, vì vậy, không có động lực để đẩy thị trường đi lên trong giai đoạn này. Thêm
vào đó, chỉ số P/E toàn thị trường dao động trong khoảng từ 40-43 lần giai đoạn
tháng 3/2007 cũng làm giảm tính hấp dẫn đối với không ít nhà đầu tư. Tuy
nhiên, cũng cần chú ý rằng, trong quá khứ, hầu hết ở những thị trường mới nổi –
như thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay – thì tình trạng tăng trưởng đột
biến, dẫn đến chỉ số P/E được đẩy lên cao trong một khoảng thời gian ngắn đã
là một nét đặc trưng không thể thiếu. Chính vì thế, việc so sánh P/E trong giai
đoạn này với các thị trường khác trong khu vực – vốn đang ở những giai đoạn
phát triển khác nhau – sẽ là một hành động không mấy ý nghĩa.
Trong giai đoạn này, Chính phủ có những cảnh báo về tình hình phát triển quá
nóng của thị trường, các tổ chức tài chính lớn cũng đưa ra những nhận định
không khả quan về thị trường. Chính những điều này đã tác động không nhỏ

đến tâm lý của nhà đầu tư cá nhân trong nước, và là một trong những nguyên
nhân chính dẫn đến sự suy giảm của thị trường.
Một lượng vốn lớn từ các nhà đầu tư nước ngoài vẫn chưa thể giải ngân vì tỷ lệ
phần trăm nắm giữ cổ phiếu của hầu hết các công ty blue-chip đã đạt tới giới
hạn tối đa là 49%.
Chỉ thị số 03/2007/CT-NHNN của Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam ban hành
vào thời điểm cuối tháng 6/2007 về việc “khống chế dư nợ tín dụng cho vay
cầm cố chứng khoán ở mức dưới 3% tổng dư nợ tín dụng của ngân hàng” đã
ảnh hưởng đáng kể đến việc cho vay tiền mua chứng khoán của các ngân hàng
đối với các nhà đầu tư (đặc biệt là các nhà đầu tư cá nhân – một chủ thể chiếm
tỷ trọng không nhỏ trong giao dịch trên thị trường). Hầu hết các ngân hàng quốc
doanh không mặn mà với việc cho vay để kinh doanh cổ phiếu. Trong khi đó,
các ngân hàng thương mại cổ phần thì quan tâm hơn, nhưng dư nợ cho vay lại
nhỏ (tổng tài sản của các ngân hàng thương mại cổ phần chỉ bằng 30% tổng tài

Bộ phận phân tích

8

Báo cáo thị trường 6 tháng


Chìa Khóa Vàng Dẫn Đến Thành Công

sản của khối ngân hàng). Do vậy, hầu hết các ngân hàng thương mại cổ phần
đều có tỷ lệ cho vay đầu tư chứng khoán vượt quá tỷ lệ theo quy định tại chỉ thị
03. Thực trạng này đã ảnh hưởng đến lượng tiền đầu tư vào thị trường chứng
khoán khi việc vay tiền đầu tư vào các cổ phiếu niêm yết và chưa niêm yết trở
nên khó khăn hơn.
Có thể thấy rằng, việc phát hành cổ phiếu ồ ạt của các doanh nghiệp, kể cả niêm

yết lẫn chưa niêm yết trong giai đoạn này phần nào dẫn đến xu thế đi xuống của
thị trường. Có đến hơn 90% các doanh nghiệp niêm yết trên sàn giao dịch
chứng khoán Hồ Chí Minh phát hành thêm cổ phiếu với mục đích đầu tư vào
ngành bất động sản (chủ yếu là để xây cao ốc và văn phòng cho thuê). Trên thực
tế, tình hình thiếu minh bạch của thị trường bất động sản cùng với nhu cầu đang
tăng khá mạnh đã đẩy giá cho thuê văn phòng ở Việt Nam lên mức gần như cao
nhất ở thị trường Đông Nam Á vào khoảng 40-42 USD/m2 đối với văn phòng
loại A (chỉ sau Singapore). Tuy nhiên, mức tăng cầu của thị trường bất động sản
không thể ở mức cao như hiện nay trong dài hạn. Khi nhu cầu trở nên bão hòa,
việc các doanh nghiệp bỏ quên lĩnh vực hoạt động chính của mình để đầu tư vào
thị trường bất động sản có thể đem lại kết quả không khả quan. Bên cạnh đó,
hầu hết tất cả những doanh nghiệp lớn hiện nay điều có chiến lược giống nhau
là đa dạng hóa ngành nghề và chủ yếu nhắm vào đầu tư tài chính, thành lập
ngân hàng, công ty chứng khoán như: SAM, REE, FPT, SJS, ITA, MPC, GMD.
Trong khi tiềm năng phát triển trong các lĩnh vực hoạt động chính của các
doanh nghiệp này vẫn còn rất cao. Điều này thể hiện một sự luẩn quẩn trong
việc hoạch định chiến lược phát triển và sử dụng nguồn vốn của các doanh
nghiệp. Chính vì vậy, một sự tập trung vào lĩnh vực kinh doanh chính mà công
ty đang có sẵn kinh nghiệm và lợi thế, tránh xao lãng vào những lĩnh vực ngoài
tầm hiểu biết, mặc dù đem lại mức lợi nhuận cao trong ngắn hạn là điều đáng để
xem xét khi ra quyết định đầu tư.

2.2 Các đợt IPO và phát hành thêm giai đoạn 6
tháng đầu năm 2007
Cung về chứng khoán trong giai đoạn này đã tăng lên rõ rệt với hàng loạt các
đợt phát hành cổ phiếu ra công chúng và bán bớt phần vốn Nhà nước của các

Bộ phận phân tích

9


Báo cáo thị trường 6 tháng


Chìa Khóa Vàng Dẫn Đến Thành Công

doanh nghiệp niêm yết và chưa niêm yết. Hầu hết các công ty đều có kế hoạch
phát hành thêm cổ phiếu, đặc biệt là các ngân hàng thương mại cổ phần.
Bảng 6: Khối lượng cổ phiều phát hành thêm và thưởng của
một số doanh nghiệp tiêu biểu
Mã CK

Số lượng LH
Phát hành thêm
đầu năm

Tên công ty

DHG

Công ty cổ phần Dược Hậu Giang

FPT
GMD

8.000.000

1.466.000

Công ty đầu tư phát triển công nghệ FPT


60.810.230

30.405.114

Công ty CP đại lý liên hiệp vận chuyển Gemadept

32.470.539

10.976.966

ITA

Khu Công Nghiệp Tân Tạo

45.000.000

25.000.000

KDC

Công ty cổ phần Kinh Đô

PPC (*)

Nhiệt Điện Phả Lại

29.999.980

5.999.685


307.196.006

15.535.000

PVD

Công ty khoan và kỹ thuật khoan dầu khí

68.000.000

51.659.730

REE

Công ty Cơ Điện Lạnh REE

33.723.684

23.536.704

STB

Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín

208.941.281

234.014.235

VNM


Công ty cổ phần Sữa Việt Nam

159.000.000

16.275.670

(*) Bán bớt phần vốn Nhà nước

Ngoài ra, còn một loạt các đợt IPO lớn như: Vietcombank, Ngân hàng phát triển
nhà ĐBSCL, SABECO... đã không được thực hiện vào giai đoạn 6 tháng đầu
năm như kế hoạch đặt ra. Việc chuẩn bị phát hành cổ phiếu của các doanh
nghiệp này vào cuối năm 2007 cũng là nguyên nhân làm cho một bộ phận
không nhỏ các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư tổ chức, giảm dần mối
quan tâm vào các cổ phiếu blue-chips niêm yết trên sàn mà đang có khuynh
hướng chờ đợi đợt phát hành của các doanh nghiệp này để hạn chế rủi ro.
Trong 6 tháng đầu năm, mới chỉ hơn 40 doanh nghiệp đã được tổ chức đấu giá
cổ phần hóa nhưng đã cung cấp cho thị trường một lượng lớn hàng hóa, trong
đó điển hình một số trường hợp phát hành cổ phiếu có quy mô lớn như sau:
Bảng 7: Thống kê giá khởi điểm, số lượng trúng, ngày đấu, giá
trúng bình quân của các công ty IPO tiêu biểu
Giá khởi
điểm
(000VND)

Cổ phiếu/ Trái phiếu

Ngày đấu
giá


Số lượng
đấu giá
(000cp)

Số lượng lưu
hành (000cp)

Công ty bảo hiểm dầu khí

11.5

160.250

30/12/2006

11.729,9

500.000

KCN Hiệp phước

14.5

225.659

15/01/2007

2.295,3

6.000


11

185369

30/01/2007

3.423,6

160.000

10.5

115.113

02/03/2007

4.226

135.000

CADIVI
Công ty kinh doanh khí
hóa lỏng Miền Bắc

Bộ phận phân tích

Giá
trúng
BQ


10

Báo cáo thị trường 6 tháng


Chìa Khóa Vàng Dẫn Đến Thành Công
Giá khởi
điểm
(000VND)

Cổ phiếu/ Trái phiếu
Công ty kinh doanh khí
hóa lỏng Miền Nam
Công ty Nhiệt điện Ninh
Bình
Công ty Phân Đạm và Hóa
Chất Dầu Khí
Công ty Kinh doanh Khí
hóa lỏng Miền Nam
Tổng công ty Bảo Hiểm
Việt Nam
Công ty cổ phần Nam Việt

Giá
trúng
BQ

Ngày đấu
giá


Số lượng
đấu giá
(000cp)

10.5

177.814

09/03/2007

4.703,8

150.000

15

28.648

18/04/2007

4.088

12.900

50

54.403

21/04/2007


128.627

380.000

10.5

57.479

24/05/2007

4.704

15.000

30.5

73.910

31/05/2007

59.440

680.000

Số lượng lưu
hành (000cp)

100


113.234

21/06/2007

6.000

60.000

Công ty Thuỷ điện Thác


20

36.786

29/06/2007

4.659

70.000

Công ty cổ phần Vincom

80

119.479

30/07/2007

5.000


60.000

Công ty Tư vấn Xây dựng
Điện 1

11

31.357

06/07/2007

1.447

10.000

Công ty Nhiệt điện Bà Rịa

15.75

39.425

09/07/2007

4.804

60.500

Nguồn: Ủy ban Chứng Khoán Nhà Nước


► Việc nguồn cung tăng lên nhanh chóng trong khi đó mức cầu lại bị hạn chế
do chủ trương xiết chặt tín dụng của Ngân hàng Nhà nước đã tạo ra sự điều
chỉnh của thị trường. Bên cạnh đó, các quỹ đầu tư được quản lý bởi các ngân
hàng đầu tư nước ngoài vẫn hạn chế tham gia thị trường OTC như ML, UBS,
JPM, Citibank,v.v… Bởi những nguyên nhân trên, giá đấu thành công bình
quân của các đợt IPO bị điều chỉnh tại những mức giá gần với mức giá khởi
điểm và đôi lúc, thấp hơn rất nhiều so với giá giao dịch trên thị trường OTC thời
điểm ngay trước khi đấu giá. Điều này cũng là nguyên nhân kéo theo việc giảm
giá của các công ty niêm yết trên thị trường đặc biệt là các cổ phiếu trong
ngành. Sự xuất hiện của những hàng hóa tốt, với mặt bằng giá không cao đã
đem lại sức hấp dẫn mới cho thị trường. Sức kháng cự của thị trường thể hiện rõ
khi VN-Index giảm xuống gần mức 900 điểm, các lệnh mua lớn lập tức xuất
hiện và đẩy thị trường quay đầu.
Như vậy, xét trên bình diện chung, tại thời điểm tháng 7/2007, thị trường chứng
khoán đang dần chuyển biến với những đặc điểm hấp dẫn riêng. Hiện tại, mức
sinh lời không thực sự hấp dẫn của tiền gửi ngân hàng trong điều kiện lạm phát
tăng cao sẽ góp phần thúc đẩy sự quan tâm nhiều hơn đến thị trường chứng
khoán vào 6 tháng cuối năm. Các nhà đầu tư nước ngoài vẫn đang tăng cường
mua vào rất nhiều mã cổ phiếu trên cả 2 sàn giao dịch. Thời điểm này đang tạo

Bộ phận phân tích

11

Báo cáo thị trường 6 tháng


Chìa Khóa Vàng Dẫn Đến Thành Công

ra những cơ hội cho những nhà đầu tư chuyên nghiệp. Chính vì vậy, một sự

nhìn nhận lại về hiệu quả kinh doanh của các công ty trước khi ra quyết định
đầu tư là điều cần thiết.

2.3 Hiệu quả hoạt động của các công ty lớn trong 6
tháng đầu năm 2007
Những tín hiệu lạc quan của một số công ty tiêu biểu trên thị trường chứng
khoán
Bảng 8: So sánh tốc độ tăng trưởng lợi nhuận 6 tháng năm
2007 với 6 tháng năm 2006 của 10 công ty có vốn hóa lớn nhất

chứng
khoán

Vốn
hóa thị
trường

1.59

Tỷ
đồng
1.753

10%

420

572

36%


Lợi
nhuận
từ
ĐTTC
Tỷ
đồng
165

608

912

50%

202

436

116%

-14.8
-66.5

Vốn
2006

Vốn
2007


Tăng/
(giảm)

Lợi nhuận
6 tháng
năm 2006

Lợi nhuận
6 tháng
năm 2007

Tăng/
(giảm)

%

Tỷ đồng

Tỷ đồng

%

VNM

Triệu
USD
1.961

FPT


1.653

PPC

1.155

NA

3.227

NA

508

563

11%

STB

803

2.089

2.089

0%

354


536

51,4%

Tỷ đồng

PVD

701

680

680

0%

35

214

509%

0.99

KDC

535

300


360

20%

33

73

118%

16.5

REE

523

337

573

70%

119

216

82%

184


VSH

477

1.242

1.25

1%

200

164

-18%

2.2

ITA

473

450

600

33%

33


150

359%

6

GMD

398

325

434

34%

68

108

58,8%

20.2

Tổng
cộng

8.679

1.972


3.032

53,8%

313,6

(Chiếm 68% thị trường niêm
yết:12.830 tỷ đồng)

Nguồn: BVSC tổng hợp

Như vậy, với 10 công ty hàng đầu trên thị trường niêm yết (chiếm 68% vốn hóa
thị trường niêm yết), lợi nhuận 6 tháng đầu năm 2007 đã tăng so với cùng kỳ
năm trước xấp xỉ 54%.
Dẫn đầu về tăng trưởng với mức tăng ấn tượng 509% là PV Drilling (So cùng
kỳ năm 2006), cổ phiếu có mức P/E cao nhất trên thị trường hiện nay. Lợi
nhuận sau thuế này chưa bao gồm khoản lợi nhuận sau thuế sẽ được chia trong
6 tháng đầu năm từ Liên doanh BJ-PV Drilling là 12,21 tỷ đồng.
PV-Drilling hoạt động trong lĩnh vực khoan và thăm dò dầu khí, đây là ngành
có tốc độ tăng trưởng cao trong trung dài hạn do nhu cầu về năng lượng sẽ còn

Bộ phận phân tích

12

Báo cáo thị trường 6 tháng


Chìa Khóa Vàng Dẫn Đến Thành Công


gia tăng theo sự phát triển chung của đất nước, kéo theo những đòi hỏi về các
hoạt động khoan tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí – những lĩnh vực thế
mạnh của PV Drilling. Hiện nay, tiềm năng về dầu khí vẫn còn rất lớn với tổng
tiềm năng dầu khí tại các bể trầm tích: Sông Hồng, Phú Khánh, Nam Côn Sơn,
Cửu Long, Ma lay - Thổ Chu, Vùng Tư Chính - Vũng Mây... đã được xác định
là từ 0,9 đến 1,2 tỷ m3 dầu và từ 2.100 đến 2.800 tỷ m3 khí (Nguồn: Bộ Ngoại
Giao). Trong đó, trữ lượng đã được xác minh là gần 550 triệu tấn dầu và trên
610 tỷ m3 khí. Tuy nhiên, ngành dầu khí Việt nam mới khai thác được hơn 205
triệu tấn dầu thô và hơn 30 tỷ m3 khí (khoảng 1,4% trữ lượng khí tiềm năng).
Như vậy, vẫn còn rất nhiều cơ hội cho sự phát triển trong tương lai cho PV
Drilling. Bên cạnh thị trường nội địa, PV-Drilling vẫn đang tiếp tục chinh phục
thêm các thị trường nước ngoài. Một số thị trường PVD đã có văn phòng điều
hành dự án là Malaysia, Algeria và sắp tới đây là miền Nam Iraq.
Đứng kế tiếp là Công ty Cổ Phần Khu Công Nghiệp Tân Tạo (ITACO) với mức
lợi nhuận 2 quý đầu năm 2007 tăng gấp hơn 3 lần so với cùng kỳ năm ngoái, đạt
50% kế hoạch cả năm. Mới đây, Quỹ cơ sở hạ tầng Việt Nam (Vietnam
Infrastructure Ltd. – VNI) đã mua 2,5 triệu cổ phiếu của ITACO trị giá 14,06
triệu USD (tương đương khoảng 2,71% giá trị vốn hóa của ITACO). ITACO
hiện sở hữu nhiều khu công nghiệp tại những vùng trọng điểm quanh Thành
phố Hồ Chí Minh. Trong giai đoạn 2007-2008, ITACO cần huy động đầu tư
5.000 tỷ đồng (312,50 triệu USD) để thực hiện các dự án của mình. Doanh thu
và lợi nhuận năm 2007 ước tính lần lượt là 532 tỷ đồng (33,25 triệu USD) và
300 tỷ đồng (18,75 triệu USD).
Tiếp theo là Công ty cổ phần Kinh Đô với mức tăng trưởng lợi nhuận và doanh
thu thuần lần lượt là 118% và 32.4% so với cùng kỳ năm trước. Đạt được sự
tăng trưởng cao trong 6 tháng đầu năm như vậy là nhờ hệ thống bán bánh mì
Kinh Đô (Bakery) ngày càng mở rộng nên thị phần bánh kẹo của Kinh Đô ngày
càng tăng và từ việc nhượng quyền Kinh Đô Bakery (Franchise). Năm nay sẽ là
năm bản lề của Kinh Đô với một loạt cột mốc cho sự phát triển như tiến hành

sát nhập với NKD, Kido, đưa vào hoạt động Công ty cổ phần Kinh Đô Bình
Dương và đầu tư vào lĩnh vực bất động sản.

Bộ phận phân tích

13

Báo cáo thị trường 6 tháng


Chìa Khóa Vàng Dẫn Đến Thành Công

Doanh thu của Vinamilk trong 6 tháng đầu năm đạt 3.121 tỷ đồng, chỉ tăng
trưởng 10,1% so với cùng kỳ năm 2006. Nguyên nhân là do doanh thu xuất
khẩu giảm mạnh trong khi sức tiêu dùng hàng hóa nội địa của người dân tăng
22,9% nên doanh thu nội địa vẫn đạt được mức tăng trưởng Quý II so với cùng
kỳ năm trước khoảng 26%. Do giá nguyên vật liệu nhập khẩu tăng mạnh nên lợi
nhuận gộp của công ty trong 6 tháng đầu năm chỉ tăng 12,3% nhưng lợi nhuận
sau thuế đã được bù đắp bởi lợi nhuận từ hoạt động đầu tư tài chính và hoạt
động khác nên vẫn đạt 571 tỷ đồng, tăng 36% so với cùng kỳ năm 2006. Chính
vì vậy, Vinamilk cần chú trọng hơn về việc phát triển hoạt động kinh doanh
chính đặc biệt là ổn định nguồn nguyên vật liệu nếu muốn tiệp tục phát triển ổn
định trong thời gian tới.
Nhìn chung, hầu hết các công ty đặc biệt là các công ty blue-chip trên thị trường
chứng khoán Việt Nam đã có một kết quả tăng trưởng khả quan trong giai đoạn
6 tháng đầu năm mặc dù nguồn vốn huy động của các doanh nghiệp vẫn chưa
đóng góp vào kết quả kinh doanh này. Điều này dự báo cho một tiềm năng tăng
trưởng mạnh trong những năm tới.

B. Dự báo tình hình kinh tế và thị

trường chứng khoán
1. Dự báo nền kinh tế Việt Nam trong 6
tháng cuối năm 2007
Tốc độ tăng trưởng GDP 6 tháng đầu năm 2007 đạt 7,87% - đây là mức tăng
cao nhất so với cùng kỳ trong 5 năm gần đây. Để đạt được mục tiêu tăng trưởng
GDP 8,5% trong năm 2007, tốc độ tăng trưởng của GDP dự báo trong 6 tháng
cuối năm cần phải đạt được ở mức 9%. Để làm giảm lạm phát thì Chính phủ sẽ
không thực hiện biện pháp cắt giảm chi tiêu vì trong giai đoạn cuối năm còn khá
nhiều dự án trọng điểm cần phải giải ngân. Việc Ngân Hàng Trung ương chịu
sự lãnh đạo của Chính phủ sẽ cho phép Chính phủ tiếp tục tăng cường chi tiêu
nhưng vẫn kiểm soát lạm phát thông qua việc yêu cầu Ngân hàng Trung ương

Bộ phận phân tích

14

Báo cáo thị trường 6 tháng


Chìa Khóa Vàng Dẫn Đến Thành Công

xiết chặt tín dụng và hạn chế tăng giá đối với các mặt hàng trong diện kiểm
soát.
Mặc dù vậy, vẫn có một số tín hiệu đáng mừng làm đà cho sự tăng trưởng cho
6 tháng cuối năm: đó là sự gia tăng của đầu tư nước ngoài, xuất khẩu và mức
tiêu dùng. Dự báo, tốc độ tăng trưởng của GDP năm nay sẽ được hỗ trợ chính
bởi khu vực công nghiệp và xây dựng (ước tăng 10,6%) và dịch vụ (ước tăng
8,7%). Cơ cấu kinh tế có chuyển dịch tích cực theo hướng tăng tỷ trọng công
nghiệp và dịch vụ (trong đó, công nghiệp chiếm 42% và dịch vụ chiếm 38%).
Tuy nhiên, ngay cả với những tín hiệu khả quan trên thì khả năng đạt được mức

tăng trưởng GDP ở mức 8,5% là khó thực hiện, trong khi mức tăng trưởng 8,2%
thì khả thi hơn.
Vốn đầu tư nước ngoài ước tính năm nay đạt 16 tỉ USD, tăng 57% so với năm
2006. Kết quả trên nhiều khả năng đạt được chính là nhờ vào các yếu tố chính
sau đây:
-

Việt Nam nằm trong khu vực kinh tế năng động nhất thế giới;

-

Với chi phí lao động thấp và năng suất lao động tương đối cao đã
giúp Việt Nam trở thành nguồn gia công khả dĩ thứ hai cho các công
ty nào không muốn tập trung tất cả nguồn lực vào thị trường Trung
Quốc;

-

Nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư của Chính phủ.

Tổng kim ngạch xuất khẩu cả năm ước đạt 47,9 tỷ USD, tăng xấp xỉ 19.4% so
với năm 2006. Một số mặt hàng chủ lực vẫn duy trì được mức tăng cao như:
hàng thủy sản, cà phê, dệt may, điện tử, sản phẩm gỗ… Riêng ngành thủy sản,
tuy chịu sự kiểm tra chặt chẽ hơn về chất lượng, nhưng được dự báo là vẫn tiếp
tục tăng trưởng tương đối cao. Chỉ tiêu 3,6 tỷ USD giá trị xuất khẩu thủy sản
trong năm nay là hoàn toàn có thể đạt được.
-

Tổng kim ngạch xuất khẩu của ngành thủy sản trong 6 tháng
đầu năm đã đạt 1,65 tỉ USD, tăng 17% so với cùng kỳ năm

2006, đạt 46% kế hoạch xuất khẩu cả năm. Dẫn đầu danh sách

Bộ phận phân tích

15

Báo cáo thị trường 6 tháng


Chìa Khóa Vàng Dẫn Đến Thành Công

các doanh nghiệp xuất khẩu thủy hải sản có kim ngạch xuất
khẩu cao vẫn là Công ty cổ phần Nam Việt với hơn 90,5 triệu
USD, chiếm 5.5% tổng kim ngạch xuất khẩu toàn ngành (1.600
triệu USD). Thị trường xuất khẩu thủy hải sản Việt nam vẫn tập
trung vào 3 thị trường lớn là EU (26,1%), Mỹ (18,5%) và Nhật
Bản (18,2%). Dự báo trong thời gian tới, việc đẩy mạnh khối
lượng hàng hóa xuất khẩu cùng với đà tăng trưởng xuất khẩu
vào thị trường EU và Mỹ trong 6 tháng đầu năm, kim ngạch
xuất khẩu thủy sản trong 6 tháng cuối năm sẽ tiếp tục tăng
trưởng cao hơn năm 2006
-

Giá trị sản xuất công nghiệp dệt may trong 6 tháng đầu năm
ước đạt 6.409,7 tỷ đồng, tăng 10,8% so với cùng kỳ 2006. Giá
trị xuất khẩu dệt may đạt 3,43 tỷ USD tăng 25,2% so với cùng
kỳ 2006 và chiếm 15% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước. Thị
trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam là Mỹ, chiếm 58,5%
kim ngạch xuất khẩu và tăng 34% so với cùng kỳ năm trước.
Hai thị trường lớn tiếp theo cũng đạt tốc độ tăng trưởng khá là

EU (485 triệu USD, tăng 17,6%) và Nhật Bản (271 triệu USD,
tăng 13,4%).

-

Ngành chế biến gỗ đã có sự tăng trưởng vượt bậc trong thời
gian qua, cụ thể năm 2004, toàn ngành đạt kim ngạch xuất khẩu
1,1 tỷ USD, tăng 88% so với năm 2003. Đến năm 2006, kim
ngạch xuất khẩu gỗ đã đạt được 1,93 tỷ USD, gấp bốn lần năm
2003, trở thành một trong hai nước xuất khẩu đồ gỗ lớn nhất
khu vực Ðông-Nam Á và đứng thứ 2 thế giới sau Trung Quốc.
Sáu tháng đầu năm 2007, ngành thực hiện kim ngạch xuất khẩu
khoảng 1,12 tỷ USD gần bằng cả năm 2004. Trong tương lai
với việc Trung Quốc tăng thuế xuất khẩu gỗ sẽ là cơ hội cho
ngành chế biến và xuất khẩu gỗ của Việt Nam vươn lên đứng
đầu thế giới

Bộ phận phân tích

16

Báo cáo thị trường 6 tháng


Chìa Khóa Vàng Dẫn Đến Thành Công

Bảng 9: Kim ngạch xuất khẩu của một số ngành trọng điểm
Đơn vị tính: Triệu USD

Dầu thô


3,759

-10,8%

%
Kế
hoạch
2007
44%

May mặc

3,432

25,2%

47%

3,868

Giày dép

1,928

12,9%

48%

2,072


Thuỷ sản

1,648

17%

46%

1,952

Cà phê

1,217

102,0%

92%

1,300

Sản phẩm gỗ

1,128

22,3%

43%

1,472


Điện tử, máy tính

935

21,6%

35%

1,715

Gạo

731

-7,9%

52%

675

Các mặt hàng chủ
yếu

QI+QII
2007 Ước tính
(Triệu USD)

(+/-) %
cùng kỳ


QIII+QIV
2007
(dự báo)
4,600

Cao su

527

8,4%

39%

842

Than đá

508

21,5%

100%

N/A

6,642

44,7%


N/A

N/A

22,455

19,9%

48%

25,520

Khác
TỔNG CỘNG

Nguồn: Tổng Cục Thống Kê quý I, II 2007 theo số liệu ước tính

2. Dự báo thị trường vốn Việt Nam, đặc
biệt là thị trường chứng khoán
Tỷ lệ tiết kiệm xã hội cao (khoảng 30% GDP), cùng với làn sóng đầu tư gián
tiếp nước ngoài vào Việt Nam tăng mạnh mẽ góp phần thúc đẩy thị trường
chứng khoán phát triển nhanh.
Quy mô thị trường: thị trường chứng khoán niêm yết (HoSTC) sẽ đạt mức vốn
hóa 310.000 tỷ đồng (tương đương 19.3 tỷ USD), khoảng 28% GDP vào cuối
năm nay với khoảng 125 công ty niêm yết, số lượng nhà đầu tư đạt khoảng
300.000 nhà đầu tư, đáng chú ý là xu hướng tăng số lượng nhà đầu tư chuyên
nghiệp, có tổ chức.
Các công ty blue-chips có thể đạt kết quả khả quan vào cuối năm 2007.

Bộ phận phân tích


17

Báo cáo thị trường 6 tháng


Chìa Khóa Vàng Dẫn Đến Thành Công

Bảng 10: Dự báo doanh thu và lợi nhuận trước thuế của 10
công ty có vốn hóa lớn nhất

Mã chứng
khoán

Doanh thu 2007 (dự báo)

Lợi nhuận 2007 (dự báo)

Giá trị
(tỷ đồng)

Giá trị
(tỷ đồng)

(+/-)% so với
2006

(+/-)% so với
2006


VNM

7.612,0

15,0%

901,9

23%

FPT

32.500,8

51,8%

749,3

40%

PPC

8.918,4

147,2%

1.067,5

9%


STB

3.178,7

100,0%

1.200,0

194%

PVD

2.072,3

39,1%

523,0

320%

KDC

1.300,0

29,3%

240,0

49%


REE

1.293,8

25,0%

340,5

25%

VSH

855,4

109,0%

284,0

5%

ITA

532,0

45,0%

300,0

95%


GMD

1.336,4

25,0%

232,6

45%

Tổng

59.281,4

5.694,8
Nguồn: BVSC dự báo

VN-Index được tin tưởng sẽ ở xu hướng tăng, khả năng xoay quanh mức
1.000 điểm vào cuối năm là rất lớn, khi đó, tỉ lệ P/E ở khoảng 26 -27 lần.

3. Điểm tựa cho những dự báo về TTCK
giai đoạn 6 tháng cuối năm 2007
Tiềm năng tăng trưởng trung và dài hạn là yếu tố hỗ trợ tâm lý tốt cho
những nhà đầu tư chuyên nghiệp. Không thể phủ nhận kết quả lạc quan
của nền kinh tế năm 2006, cũng như diễn biến tích cực trên thị trường chứng
khoán những tháng cuối năm 2006 và kéo dài tới giữa tháng 3/2007 đã tạo cơ
hội tốt cho các doanh nghiệp tiến hành tái cấu trúc vốn theo hướng tăng vốn cổ
phần và giảm bớt gánh nặng vốn vay. Thực tế cho thấy 6 tháng đầu năm là giai
đoạn hầu hết các doanh nghiệp đầu tàu trên sàn đều tiến hành những đợt tăng
vốn lớn, tạo nền tảng tài chính hỗ trợ cho những dự án kinh doanh mới. Sự lo

ngại về việc tăng vốn quá nhanh sẽ ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng lợi nhuận
tính trên cổ phiếu là có thật. Tuy nhiên, nếu không chỉ nhìn vào khả năng sinh
lời trong ngắn hạn mà quan tâm đến tương lai xa hơn, nhà đầu tư sẽ nhìn thấy

Bộ phận phân tích

18

Báo cáo thị trường 6 tháng


Chìa Khóa Vàng Dẫn Đến Thành Công

nhiều tín hiệu lạc quan đi cùng nỗ lực tăng vốn của doanh nghiệp. Việc tăng
vốn, kết hợp với quản lý số vốn tăng thêm một cách hiệu quả sẽ giúp doanh
nghiệp tăng quy mô sản xuất, đa dạng hóa sản phẩm, v.v… tạo tiền đề cho việc
giữ vững và mở rộng thị trường trước sức ép từ những doanh nghiệp 100% vốn
nước ngoài khi việc gia nhập WTO có hiệu lực hoàn toàn.

Bảng 11: So sánh tốc độ tăng trưởng lợi nhuận và vốn

CK

Tên công ty

VNM

Công ty sữa Việt Nam

Vốn

Tăng/ (giảm) so với 6
hoá
tháng cùng kì năm 06
(Mil USD)
Vốn chủ SH
LNST
**
1.961
10%
36%

FPT

Công ty cổ phần Phát triển Đầu tư Công nghệ

1.653

50%

PPC

Nhiệt điện Phả Lại

1.155

NA

116%
11%


STB

Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín

803

0%

51,4%

PVD

Cty khoan và dịch vụ dầu khí PVD

701

0%

509%

KDC

Kinh Đô miền Nam

535

20%

118%


REE

Cty Cơ Điện Lạnh REE

523

70%

82%

VSH

Vĩnh Sơn Sông Hinh

477

1%

-18%

ITA
GMD

Khu Công Nghiệp Tân Tạo

473

33%

359%


Công ty cổ phần đại lý liên hiệp vận chuyển

398

34%

58,8%

Chiếm 68% vốn thị
trường niêm yết
TP.HCM
** Tính đến thời điểm 30/06/07

Tổng
cộng

8.679

Kết quả kinh doanh của các công ty trên thị trường OTC cũng có những dấu hiệu
khả quan. Thị trường này đang ấm dần lên thông qua sự tăng giá của những cổ
phiếu hàng đầu. Đặc biệt là các cổ phiếu ngân hàng – là những cổ phiếu có tính
thanh khoản tốt và tốc độ tăng giá khá cao. So với đầu tháng 7, nhiều cổ phiếu đã
tăng từ 5% đến 10%. Điển hình là trường hợp Eximbank, 16 cổ đông chiến lược
là các doanh nghiệp lớn tại Việt Nam đã chi ra 4.000 tỷ đồng (khoảng 17,9% giá
trị vốn hóa thị trường của Eximbank) để mua 500.000 cổ phiếu với giá trung
bình 8 triệu đồng/cổ phần. Nguồn vốn đóng băng trong thị trường OTC những
tháng đầu năm một khi được phục hồi, sẽ tác động tích cực đến thị trường niêm
yết.


Bộ phận phân tích

19

Báo cáo thị trường 6 tháng


Chìa Khóa Vàng Dẫn Đến Thành Công

Bảng 12: Lợi nhuận trước thuế 6 tháng 2007 của một số ngân
hàng tiêu biểu
Tên Ngân hàng
Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu (ACB)
Ngân hàng TMCP Kỹ Thương Việt Nam (Techcombank)
Ngân hàng Xuất Nhập Khẩu Việt Nam (Eximbank)
Ngân hàng Quân Đội (MB)
Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội (Habubank)

LNTT 6
tháng 2007
(tỷ đồng)
880
314.8
317
318

% Kế
hoạch
2007
59%

140%
52%
76%

236.6

54%

Nguồn: BVSC tổng hợp

Nguồn cung vốn cho thị trường chứng khoán vẫn rất dồi
dào
9 Nội địa: hiện nay một lượng vốn tiết kiệm lớn vẫn còn tồn tại trong dân
chúng, chưa đưa vào kinh doanh. Đây chính là nguồn cung vốn đáng kể cho thị
trường chứng khoán. Theo báo cáo nghiên cứu thị trường của AC Nelson, số
lượng người Việt Nam tham gia thị trường chứng khoán hiện mới chiếm
khoảng 26% dân số. Tính đến ngày 29/6/2007, lượng tài khoản mở tại các
công ty chứng khoán đã đạt con số hơn 240.000, trong đó có trên 5.000 tài
khoản của nhà đầu tư cá nhân và tổ chức nước ngoài. Con số này còn rất
khiêm tốn so với dân số Việt Nam. Đồng thời, việc lãi suất ngân hàng trở nên
kém hấp dẫn cũng như tính thanh khoản không cao của thị trường bất động sản
khi đã phát triển quá nóng là nhân tố khiến dòng chảy vốn dịch chuyển vào thị
trường chứng khoán một khi những dấu hiệu tốt trở nên rõ ràng.
9 Nước ngoài: chỉ tính từ tháng 4/2007 đến cuối tháng 6 đã có thêm 13 quỹ
đầu tư mới đi vào hoạt động, nâng tổng số quỹ thành lập từ đầu năm đến nay
lên con số 22. Tổng số quỹ hiện diện và hoạt động tại Việt Nam như vậy vào
khoảng 55 quỹ với tổng tài sản tương đương 6 tỉ USD. Sáu tháng đầu năm,
nguồn cung ngoại tệ dồi dào nên tỉ giá mua vào USD/VND của các ngân hàng
thương mại luôn ở mức kịch sàn cho phép. Nguyên nhân của nguồn cung
ngoại tệ tăng cao được xác định là từ các luồng vốn đầu tư trực tiếp nước

ngoài, kiều hối và đặc biệt là từ vốn gián tiếp. Như vậy, có thể thấy rằng hầu
hết các quỹ đầu tư lớn mới được thành lập đang có sẵn lượng vốn lớn và chờ
để giải ngân vào các đợt phát hành cổ phiếu lần đầu (IPO) của các doanh
nghiệp Nhà Nước lớn sắp tới.

Bộ phận phân tích

20

Báo cáo thị trường 6 tháng


Chìa Khóa Vàng Dẫn Đến Thành Công

9 Tuy nhiên, việc dãn kế hoạch IPO của các doanh nghiệp lớn trong năm
2007 đang được cân nhắc. Ủy ban Chứng khoán Nhà Nước (UBCKNN) đã ban
hành Công văn số 1028/UBCK-QLPH gửi các công ty đại chúng, công ty
chứng khoán, khuyến nghị các công ty cân nhắc thời điểm chào bán chứng
khoán ra công chúng. Như vậy, chưa thể có nhận định rõ ràng về việc IPO của
các doanh nghiệp lớn. Chính phủ, với mong muốn phát triển thị trường chứng
khoán như một kênh huy động vốn hiệu quả, cần có cách để thị trường tiếp tục
xu hướng tăng trưởng mà vẫn đảm bảo được tiến độ cổ phần hóa như đã đề ra.
Điều tiết cung cổ phiếu nhằm tránh nguồn cung hàng hóa ồ ạt trong giai đoạn
thị trường đang điều chỉnh sẽ cần cân nhắc đến thái độ của nhà đầu tư, đặc biệt
là nhà đầu tư nước ngoài vốn đang chờ các kế hoạch chào bán ra công chúng
của các Tổng công ty Nhà Nước hay các ngân hàng lớn.

Nguồn cung hàng hóa tốt là yếu tố không thể không nhắc đến.
Dự kiến đến cuối năm, có khoảng 15 công ty sẽ niêm yết, trong đó điển hình là
các công ty trong ngành bất động sản (Vincom, Hòa Phát), ngành hóa chất dầu

khí (Đạm Phú Mỹ), ngành thủy sản (Nam Việt, Vĩnh Hoàn, Cửu Long, đặc
biệt đáng chú ý là Công ty Cổ phần Nam Việt là công ty có kim ngạch xuất
khẩu cá tra, ba sa lớn nhất Việt Nam chiếm 24% kim ngạch xuất khẩu cá tra,
cá basa Việt Nam năm 2006)
Bảng 13: Một số chỉ tiêu tài chính 2006 và 6 tháng đầu năm 2007 của các
công ty dự kiến niêm yết cuối năm
Đơn vị tính: tỷ đồng

STT
1

Vốn chủ sở
hữu (tỷ đồng)
12.800

Tên Công ty
Ngân hàng Ngoại thương Việt nam (Vietcombank)

2

Ngân hàng Phát triển Nhà Đồng Bằng Sông Cửu Long (MHB)

3

Tổng Công ty Bia - Rượu - Nước giải khát Sài Gòn (Sabeco)

5.500

900


4

Ngân hàng Công thương Việt Nam (Incombank)

5.328

5

Tổng Công ty Bia - Rượu - Nước giải khát Hà Nội

2.000

Chú ý hơn cả là nguồn cung từ việc cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước
lớn vào thời điểm cuối năm như: Vietcombank, MHB, Incombank, BIDV,
Mobifone, Sabeco…

Bộ phận phân tích

21

Báo cáo thị trường 6 tháng


Chìa Khóa Vàng Dẫn Đến Thành Công

Bảng 14: Một số công ty dự kiến cổ phần hóa trong hai quý cuối năm 2007

Công ty CP Nam Việt

7.500


2.707

123%

277,9

277%

LNTT
6 tháng
2007
204

Công ty CP Vĩnh Hoàn

1.800

1.516

199%

87,5

18.638%

70.85

Công ty CP Vincom
Công ty Phân đạm và Hoá chất

Dầu khí
Công ty CP Dịch vụ Kỹ thuật Dầu
khí PTSC
Công ty CP Hòa Phát

9.600

563

311%

343,7

402%

70

20.710

3.543

30%

1.161.5

47%

NA

12.800


4.000

13%

285

34%

100

10.320

1.330

46%

74,5

2.659%

254

1.895

445

177.15%

54


1.291%

103

Tên công ty

Mức
vốn hoá

Doanh thu
2006

% tăng

LNTT
2006

Công ty CP Điện Quang

% tăng so
với 2005

Nguồn: BVSC tổng hợp

Môi trường chính trị ổn định, sự hiệu quả trong điều hành của chính phủ
cũng là một trong những yếu tố thu hút nhà đầu tư tham gia vào TTCK và giúp
thị trường phát triển. Tuy còn những vấn đề cần được khắc phục, song TTCK
Việt Nam vẫn chỉ ra những ưu điểm so với các nước khác trong khu vực.
Security risk được đánh giá điểm A, mức độ an toàn cao nhất so với điểm B, C

và C của Trung Quốc, Thái Lan và Indonesia. Tương tự, sự ổn định về chính trị
cũng được đánh giá ở mức C, cao hơn so với mức D của Thái Lan và ngang
bằng với Trung Quốc. Môi trường pháp lý đạt điểm C, đồng hạng với Thái Lan
và nhỉnh hơn so với điểm D của Trung Quốc và Indonesia. Đây là những điểm
rất quan trọng ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn môi trường đầu tư của nhà
đầu tư nước ngoài – vốn chiếm một vị trí khá quan trọng trong thị trường chứng
khoán Việt Nam. Để giữ vững và phát huy lợi thế này, Chính phủ cần rất cẩn
thận khi ra các quy định điều chỉnh liên quan đến hoạt động của nhà đầu tư.
Những văn bản luật, quy định điều chỉnh cần hết sức uyển chuyển và khéo léo,
tránh những tác động cứng rắn có thể ảnh hưởng trực tiếp đến nhà đầu tư, đặc
biệt là nhà đầu tư nước ngoài.
Bảng 15: Bảng đánh giá của Economist Intelligence
Chỉ tiêu đánh giá

VIỆT NAM

TRUNG QUỐC

THÁI LAN

Security risk

A

18

B

25


C

57

Political stability risk

C

55

C

60

D

75

Government effectiveness risk

D

75

D

79

D


75

Legal & regulatory risk

C

53

D

68

C

58

Ghi chú: E = rủi ro cao nhất; 100 = rủi ro cao nhất. Nguồn: Economist Intelligence

Bộ phận phân tích

22

Báo cáo thị trường 6 tháng


Chìa Khóa Vàng Dẫn Đến Thành Công

Trình độ nhận thức của nhà đầu tư: được gia tăng đáng kể sẽ đóng góp tích
cực thúc đẩy thị trường phát triển. Thực vậy, giai đoạn tăng giá nhanh của thị
trường chứng khoán Việt Nam, tính từ tháng 11/2006 đến khoảng giữa tháng

3/2007, đã chứng kiến sự gia tăng đột biến các nhà đầu tư nhỏ lẻ, thiếu kinh
nghiệm thực tế cũng như kiến thức về tài chính. Thực trạng này dẫn đến những
quyết định đầu tư theo số đông, tranh mua và tranh bán vào cùng một thời điểm
trước những nguồn thông tin không chính xác. Có thể nhận thấy rất rõ tình trạng
“bầy đàn” thông qua diễn biến thị trường giai đoạn này. Những lệnh đặt mua
“trần”, bán “sàn” chiếm tỷ trọng chủ yếu đã khiến VN-Index liên tục tăng và
giảm ở mức xấp xỉ biên độ tối đa là 5% mỗi ngày bất kể tình hình kinh doanh
của doanh nghiệp tốt hay xấu. Tuy nhiên, đợt điều chỉnh sâu kéo dài từ giữa
tháng 3/2007 và khiến VN-Index chạm đáy vào ngày 24/4 ở mức 905,53 điểm
đã thanh lọc đáng kể số lượng những nhà đầu tư tay ngang. Phần lớn những nhà
đầu tư còn lại có chiến lược đầu tư lâu dài trong thị trường chứng khoán. Điều
này tạo áp lực cho những doanh nghiệp niêm yết trong hoạt động sản xuất kinh
doanh. Sẽ không dễ dàng trong trường hợp doanh nghiệp muốn tăng vốn nhưng
lại không chứng minh được một dự án kinh doanh khả thi nữa. Như vậy sự tăng
lên về chất của nhà đầu tư sẽ đặt các doanh nghiệp vào một thế cạnh tranh gay
gắt hơn và buộc phải tự cứu mình nếu không muốn các cổ đông quay lưng lại
với công ty mình.Bên cạnh đó, nỗ lực hoàn thiện thị trường như việc tiến hành
khớp lệnh liên tục vào cuối tháng 7 nhằm khắc phục tình trạng ứ đọng lệnh
cũng mang lại những khích lệ cho nhà đầu tư, góp phần lành mạnh hóa thị
trường. Như vậy, với những tín hiệu khả quan của thị trường như đã nêu
trên, cùng với nỗ lực cuả chính phủ trong việc đem lại một môi trường đầu tư
hiệu quả hơn, thị trường chứng khoán thời điểm 6 tháng cuối năm 2007 và
trong những năm tới được tin tưởng sẽ phát triển ổn định và bền vững hơn.

Bộ phận phân tích

23

Báo cáo thị trường 6 tháng



×