Nhóm 8:
GVHD: Trịnh Công Tráng
Thành viên nhóm:
1.
2.
3.
4.
5.
Trần Minh Sang
Nguyễn Thị Kiều
Phạm Phương Trinh
Nguyễn Thị Anh Thùy
Nguyễn Thiện Luân
1
Phụ lục
LỜI MỞ ĐẦU
Trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước đi liền với việc phát triển
kinh tế, chính trị, xã hội, giáo dục, pháp luật… thì văn hóa là một trong những yếu tố
quan trọng hàng đầu và không thể thiếu mà mỗi đất nước, mỗi dân tộc cần phải chú
trọng phát huy. Đây được coi là bước nền móng trong giai đoạn phát triển, văn hóa đã
chứng tỏ vai trò của nó trong hội nhập kinh tế. Như chúng ta đã biết, mỗi dân tộc, mỗi
quốc gia trên thế giới đều có những bản sắc văn hóa riêng. Cốt là để phân biệt dân tộc
này với dân tộc khác. Những giá trị truyền thống được chắt lọc lâu đời đã tạo cho Việt
Nam có nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Đóng góp vào nhiều lĩnh vực
của đời sống xã hội, văn hóa đã đi sâu vào lòng người, góp phần đáng kể tạo ra những
giá trị tinh thần và hình thành nhân cách trong mỗi con người. Vậy trong "giáo dục"môi trường học đường của sinh viên đại học, cụ thể là đại học Nha Trang, văn hóa đã
phát huy vai trò của mình như thế nào?
I.
Cơ sở lý thuyết
1. Khái niệm về văn hóa
2
Văn hóa là khái niệm mang nội hàm rộng với rất nhiều cách hiểu khác nhau,
liên quan đến mọi mặt đời sống vật chất và tinh thần của con người. Trong cuộc sống
hàng ngày, văn hóa thường được hiểu là văn học, nghệ thuật như thơ ca, mỹ thuật, sân
khấu, điện ảnh... Các "trung tâm văn hóa" có ở khắp nơi chính là cách hiểu này. Một
cách hiểu thông thường khác: văn hóa là cách sống bao gồm phong cách ẩm thực,
trang phục, cư xử và cả đức tin, tri thức được tiếp nhận... Vì thế chúng ta nói một
người nào đó là văn hóa cao, có văn hóa hoặc văn hóa thấp, vô văn hóa. Trong nhân
loại học và xã hội học, khái niệm văn hóa được đề cập đến theo một nghĩa rộng nhất.
Văn hóa bao gồm tất cả mọi thứ vốn là một bộ phận trong đời sống con người. Văn
hóa không chỉ là những gì liên quan đến tinh thần mà bao gồm cả vật chất. Và văn hoá
là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra bằng lao động
và hoạt động thực tiễn trong quá trình lịch sử của mình. Tóm lại, văn hóa là sản phẩm
của loài người, văn hóa được tạo ra và phát triển trong quan hệ qua lại giữa con người
và xã hội. Song, chính văn hóa lại tham gia vào việc tạo nên con người, và duy trì sự
bền vững và trật tự xã hội. Văn hóa được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông
qua quá trình xã hội hóa. Văn hóa được tái tạo và phát triển trong quá trình hành động
và tương tác xã hội của con người. Văn hóa là trình độ phát triển của con người và của
xã hội được biểu hiện trong các kiểu và hình thức tổ chức đời sống và hành động của
con người cũng như trong giá trị vật chất và tinh thần mà do con người tạo ra.
2) Bản sắc dân tộc là những đặc trưng, cơ bản và độc đáo để nhận diện một dân tộc và
phân biệt dân tộc này với dân tộc khác.
“Bản sắc dân tộc là tổng thể những phẩm chất, tính cách, khuynh hướng cơ bản
thuộc sức mạnh tiềm tàng và sức sáng tạo của một dân tộc trong lịch sử tồn tại và phát
triển của dân tộc đó, giúp cho dân tộc đó giữ vững được tính duy nhất, tính thống
nhất, tính nhất quán so với bản thân mình trong quá trình phát triển”
Bản sắc văn hóa dân tộc là toàn bộ những hoạt động sáng tạo , giá trị của nhân
dân một nước , một dân tộc về mặt sản xuất vật chất và tinh thần trong quá trình dựng
nước và giữ nước từ những sản phẩm tinh vi, hiện đại nhất đến những phong tục tập
quán , lối sống và tín ngưỡng
Đó là tổng thể các giá trị đặc trưng bản chất của văn hóa dân tộc, được hình
thành, tồn tại và phát triển suốt quá trình lịch sử lâu dài của đất nước, các giá trị đặc
trưng ấy ở "tầng nền" mang tính bền vững, trường tồn, trừu tượng và tiềm ẩn. Do vậy,
muốn nhận biết nó, phải thông qua vô vàn các sắc thái văn hóa, với tư cách là sự biểu
hiện của BSVH ấy. Nếu BSVH là cái gì trừu tượng, tiềm ẩn, bền vững, thì các sắc thái
biểu hiện của nó thường tương đối cụ thể, bộc lộ và khả biến hơn.
Từ quan niệm chung như vậy, chúng ta có thể xem xét các sắc thái văn hóa vô
cùng phong phú và đa dạng của BSVH Việt Nam, như là chủ nghĩa yêu nước, tính
cộng đồng, tinh thần cởi mở, dễ hòa hợp, thích ứng trong giao lưu văn hóạ.., tính duy
3
tình (tình thương) trong các cư xử xã hội, tính thích ứng và hài hòa trong ứng xử với
tự nhiên...
3) Việc phân tích, trình bày quan điểm của C.Mác về văn hóa với tư
cách là phương thức hoạt động sống đặc thù của con người để tạo dựng nền tảng
tinh thần cho sự phát triển xã hội “theo các quy luật của cái đẹp” là việc làm vừa
có ý nghĩa lý luận, vừa có ý nghĩa thực tiễn quan trọng.
Với quan điểm duy vật lịch sử, C.Mác đã đi đến kết luận: sản xuất vật chất là
cơ sở, nền tảng, là yếu tố quyết định sự tồn tại, vận động và phát triển của xã hội, của
lịch sử nhân loại. Không chỉ thế, C.Mác còn đưa ra quan điểm duy vật về văn hóa và
đi đến kết luận quan trọng về vai trò cơ sở, nền tảng tinh thần của văn hóa đối với sự
tồn tại, vận động và phát triển của xã hội, của lịch sử nhân loại.
C.Mác coi văn hóa là toàn bộ những thành quả được tạo ra nhờ hoạt động lao
động sáng tạo của con người - hoạt động sản xuất vật chất và tái sản xuất ra đời sống
hiện thực của con người(1). Khi coi “giới tự nhiên thứ hai” với tư cách là “tác phẩm”,
“thực tại” của con người - giới tự nhiên được con người cải biến, nhân hóa, mang ý
nghĩa và nội dung con người là văn hóa, C.Mác đã đồng nhất văn hóa với phương
thức hoạt động sống đặc thù, phương thức hoạt động sống riêng có của con người. Đó
là phương thức mà con người sử dụng lao động sáng tạo của mình để biến đổi và cải
tạo giới tự nhiên, “vận dụng bản chất cố hữu của mình” để cải tạo hiện thực khách
quan, “nhào nặn”, “xây dựng” thực tại khách quan cho chính mình “theo các quy luật
của cái đẹp”(2).
Như vậy, trong quan niệm của C.Mác, văn hóa là cái phản ánh tính đặc thù của hoạt
động con người và sự tồn tại, vận động, phát triển cùng với tính đặc thù như vậy của
con người trong thế giới.
Văn hóa chỉ xuất hiện khi con người ý thức rõ ràng về đời sống xã hội của họ,
về hoạt động tự do, hoạt động lao động sáng tạo để không những cải tạo và biến đổi tự
nhiên vì sự tồn tại, phát triển của chính mình, vì cuộc sống ngày một tốt đẹp hơn của
chính mình, mà còn để “làm cho bản thân hoạt động sinh sống của mình trở thành đối
tượng của ý chí và của ý thức của mình” (3). Nói cách khác, văn hóa là cái phản ánh
việc con người tự ý thức về vai trò độc lập của mình, về khả năng và năng lực sáng tạo
của mình trong việc cải tạo và biến đổi tự nhiên.
Trong quan niệm của C.Mác, chủ thể sáng tạo văn hóa là con người. Con người sử
dụng văn hóa đó để phát triển năng lực của mình trong quá trình cải tạo và biến đổi tự
nhiên, đồng thời cải tạo chính bản thân mình.
Trong quá trình cải tạo tự nhiên, xã hội và chính mình, con người ngày càng ý
thức một cách rõ ràng hơn sức mạnh xã hội của lao động và ý thức đầy đủ hơn khả
năng, năng lực sáng tạo mang bản chất người của mình - sáng tạo văn hóa, tái sản xuất
ra giới tự nhiên, “xây dựng” giới tự nhiên cho chính mình “theo các quy luật của cái
4
đẹp”. Bằng hoạt động lao động sáng tạo đó và với chính sự tồn tại, phát triển của mình
trong thế giới hiện thực, con người đã tự xác định cho mình cái ranh giới để phân biệt
phương thức hoạt động sống của mình với phương thức hoạt động sinh tồn của loài
vật.
Theo đó, trong quan niệm của C.Mác, văn hóa là cái thể hiện sự giải phóng và
tự giải phóng con người khỏi sự ràng buộc, thống trị với một sức mạnh bí ẩn của thế
giới tự nhiên và thế giới thần thánh mà con người tưởng tượng ra do sự bất lực của
mình trước giới tự nhiên đầy bí ẩn. Văn hóa là cái ghi nhận lĩnh vực hiện thực được
quy định không phải bởi tính thiết yếu tự nhiên và sự tiên định của thượng đế hay một
đấng sáng thế nào đó, mà bởi hoạt động lao động sáng tạo của con người với tư cách
là một thực thể độc lập, có ý thức, có năng lực tư duy và khả năng lao động sáng tạo.
Như vậy, theo quan niệm của C.Mác, thế giới văn hóa là thế giới con người, do
con người tạo ra cho chính mình - thế giới mà trong đó, “con người nhân đôi mình
không chỉ về mặt trí tuệ như xảy ra trong ý thức nữa, mà còn nhân đôi mình một cách
hiện thực, một cách tích cực”, để rồi “ngắm nhìn bản thân mình trong thế giới do mình
sáng tạo ra”(4). Con người sáng tạo ra thế giới văn hóa cho mình bằng hoạt động có ý
thức và hơn nữa, đó là hoạt động có ý thức một cách tích cực, sáng tạo. Do vậy, khi
nói tới văn hóa không phải là nói tới cái thế giới sự vật và các tư tưởng tự nó, mà là
nói tới con người đã tạo ra nó. Song, sự phát triển của con người lại chính là kết quả
của quá trình hoạt động có ý thức, của quá trình lao động sáng tạo của bản thân con
người và do vậy, khi nói tới văn hóa là nói tới hoạt động có ý thức, hoạt động lao động
sáng tạo của con người và kết quả của hoạt động đó. Cũng do vậy, qua hình thức văn
hóa của vật thể, chúng ta có thể phán xét về con người đã tạo ra các vật thể văn hóa
đó, về những đặc trưng, tính chất của thời đại đã sản sinh ra chúng, về trình độ phát
triển trí tuệ, đạo đức, thẩm mỹ của con người trong một thời đại lịch sử nào đó.
Không chỉ thế, quan niệm của C.Mác về văn hóa còn cho thấy, văn hóa là cái thể hiện
sức mạnh xã hội của hoạt động lao động sản xuất của con người. Hoạt động lao động
sản xuất tạo ra toàn bộ sự phong phú, đa dạng cho tồn tại của con người, hình thành
mối quan hệ của con người với thế giới tự nhiên xung quanh và quan hệ của con
người với con người trong cộng đồng xã hội - chính là cội nguồn của văn hóa. Song,
nội dung của văn hóa không chỉ thể hiện ở đó, mà còn thể hiện ở sự phát triển của
bản thân con người, ở sự phát triển và hoàn thiện của con người cả về thể xác lẫn tâm
hồn, cả về đạo đức lẫn năng lực trí tuệ và trình độ thẩm mỹ.
Do vậy, trong quan niệm của C.Mác, văn hóa với tư cách là phương thức hoạt
động sống đặc thù của con người cần được hiểu là, hoạt động đó không chỉ là hoạt
động lao động sản xuất nhằm tạo ra những vật phẩm thiết yếu cho cuộc sống con
người, mà còn là hoạt động tinh thần, hoạt động giáo dục và khai sáng theo nghĩa
rộng nhất của từ này, để tạo nên những sản phẩm tinh thần cho con người. Nói cách
khác, văn hóa chính là cái làm nên nền tảng tinh thần của xã hội, ghi nhận tầm cao và
chiều sâu phát triển của cộng đồng xã hội, tạo ra hệ các giá trị nhân đạo, nhân văn cho
một cộng đồng xã hội và kết tinh những giá trị tốt đẹp nhất trong quan hệ giữa con
người với con người, với xã hội và với tự nhiên.
5
Song song với điều đó, C.Mác còn quan niệm: văn hóa là lĩnh vực hoạt động mà nhờ
đó, con người sản xuất và tái sản xuất ra bản thân mình với tư cách là một thực thể xã
hội. Đó là hoạt động của con người nhằm tạo ra một hệ thống giá trị mang tính định
hướng cho sự phát triển ý thức con người và cho lối ứng xử của con người trong cộng
đồng xã hội. Với hệ thống giá trị định hướng này, mỗi nền văn hóa trở thành một hệ
thống biểu tượng bao hàm trong đó các khuôn mẫu ứng xử xã hội của con người. Đó
còn là hoạt động của con người nhằm tạo ra một hệ thống những thể chế mà qua đó,
những giá trị cao đẹp, mang tính định hướng được giữ gìn, lưu truyền và phổ biến
trong cộng đồng xã hội, trở thành tài sản của mỗi người, của tất cả mọi mgười trong
cộng đồng xã hội ấy và làm nên truyền thống văn hóa cho một cộng đồng xã hội.
Coi văn hóa là phương thức hoạt động sống đặc thù của con người - hoạt động
lao động sản xuất và hoạt động tinh thần, C.Mác còn chỉ rõ, hai phương thức hoạt
động nền tảng này của con người tồn tại không tách rời nhau mà gắn bó, thống nhất
với nhau trong một chỉnh thể văn hóa để tạo nên và tái tạo nên con người với tư cách
là một thực thể sinh học - xã hội. Bằng những hoạt động nền tảng này, con người tạo
nên nền văn hóa của mình, sống trong nền văn hóa đó và làm cho nền văn hóa đó
ngày một phát triển, hoàn thiện, vì cuộc sống ngày càng cao đẹp của mình, vì một xã
hội nhân đạo, nhân văn, công bằng, dân chủ. Đồng thời, thông qua kết quả của những
hoạt động nền tảng đó, con người phán xét toàn bộ lịch sử sinh thành và phát triển của
nhân loại, thẩm định hệ thống những giá trị con người - những giá trị định hướng cho
hoạt động con người, xác định cả nội hàm lẫn ngoại diên của hệ thống những giá trị ấy
và thể hiện chúng qua nền văn hóa của mình. Nhờ đó, kết quả hoạt động của con
người trong các lĩnh vực kinh kế, chính trị, khoa học, v.v. cũng được phản ánh trong
nền văn hóa nhân loại và trở thành yếu tố cấu thành nền văn hóa ấy khi chúng mang ý
nghĩa và nội dung con người, thể hiện bản chất con người.
Như vậy, trong quan niệm của C.Mác, văn hóa không chỉ đóng vai trò là cơ sở,
nền tảng tinh thần của xã hội, của lịch sử nhân loại, mà còn là lĩnh vực luôn có ảnh
hưởng, tác động đến tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại, đến sự phát triển xã
hội. Trong sự tác động và ảnh hưởng đó, văn hóa không chỉ tác động, ảnh hưởng đến
nguyên nhân sinh ra nó - đến tồn tại xã hội, đến quá trình sản xuất vật chất của con
người, mà còn góp phần quyết định phương thức vận động và phát triển của lịch sử
nhân loại, của xã hội loài người. Văn hóa còn đem lại cho con người sự điều chỉnh và
định hướng hoạt động của mình và qua đó, điều tiết quá trình sản xuất vật chất, điều
tiết sự phát triển xã hội, trở thành nguồn lực nội sinh cho sự phát triển xã hội bền vững
- phát triển vì mục tiêu nhân văn, vì giá trị nhân đạo.
4. Quan điểm của Đảng về xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc:
a. Quá trình đổi mới về tư duy xây dựng và phát triển nền văn hoá:
Cùng với quá trình đổi mới toàn diện đất nước được khởi xướng tại Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12/1986), Đảng dần đi tới những nhận thức mới,
6
quan điểm mới về văn hoá. Việc coi trọng các chính sách đối với văn hoá, đối với con
người thực chất là trở về tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là cơ sở cho những nhận
thức mới, quan điểm mới về văn hoá của Đảng.
Về vai trò của văn hoá, Đại hội VI(1986) đánh giá "không hình thái tư tưởng
nào có thể thay thế được văn học và nghệ thuật trong việc xây dựng tình cảm lành
mạnh, tác động sâu sắc vào việc đổi mới nếp nghĩ, nếp sống của con người". Đại hội
VI cũng đề cao vai trò của văn hoá trong đổi mới tư duy, thống nhất về tư tưởng,
khẳng định đồng thời với xây dựng kinh tế, phải coi trọng các vấn đề văn hoá, tạo ra
môi trường văn hoá thích hợp cho sự phát triển.
Cương lĩnh năm 1991 lần đầu tiên đưa ra quan niệm nền văn hoá Việt Nam có
đặc trưng tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
+ Cương lĩnh chủ trương xây dựng nền văn hoá mới, tạo ra đời sống tinh
thần cao đẹp, phong phú, đa dạng, có nội dung nhân đạo, dân chủ, tiến bộ, khẳng định
và biểu dương những giá trị chân chính, bồi dưỡng cái chân, cái thiện, cái mỹ theo
quan điểm tiến bộ, phê phán những cái lỗi thời thấp kém.
+ Cương lĩnh khẳng định tiếp tục tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa
trên lĩnh vực tư tưởng và văn hoá, làm cho thế giới quan Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội.
+ Cương lĩnh xác định giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là
quốc sách hàng đầu.
Đại hội VII đến đại hội X và nhiều Nghị quyết Trung ương tiếp theo đã xác
định văn hoá vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Trong đó:
+ Đại hội VII (6/1991) và Đại hội VIII (6/1996) của Đảng khẳng định: khoa
học và giáo dục đóng vai trò then chốt trong toàn bộ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội và bảo vệ tổ quốc. Do đó phải coi sự nghiệp giáo dục - đào tạo cùng với khoa học
và công nghệ là quốc sách hàng đầu để phát huy nhân tố con người, động lực trực tiếp
của sự phát triển xã hội.
+ NQTƯ 5 khoá VIII (7/1998) nêu ra 5 quan điểm cơ bản chỉ đạo, 10 nhiệm vụ
cụ thể và 4 giải pháp lớn để xây dựng và phát triển nền văn hoá trong thời kỳ mới.
* Năm quan điểm chỉ đạo:
1. Văn hoá là nền tảng tinh thần xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực
thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Thiếu nền tảng tinh thần lành mạnh và tiến bộ thì
không có sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Xây dựng và phát triển kinh tế phải
nhằm mục tiêu văn hoá, vì xã hội công bằng, văn minh, con người phát triển toàn
diện.
2. Nền văn hoá Việt Nam là nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
7
3. Nền văn hoá Việt Nam là nền văn hoá thống nhất mà đa dạng trong cộng
đồng các dân tộc Việt Nam.
4. Xây dựng và phát triển nền văn hoá là sự nghiệp của toàn dân, do Đảng
lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.
5. Văn hoá là một mặt trận, xây dựng và phát triển văn hoá là sự nghiệp
cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì, thận trọng.
* Mười nhiệm vụ cụ thể:
1. Xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới với những
đức tính: tinh thần yêu nước, có ý thức tập thể, có lối sống lành mạnh...
2. Xây dựng môi trường văn hoá.
3. Phát triển sự nghiệp văn học - nghệ thuật.
4. Bảo tồn và phát huy các di sản văn hoá.
5. Phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo và khoa học công nghệ.
6. Phát triển đi đôi với quản lý tốt hệ thống thông tin đại chúng.
7. Bảo tồn, phát huy và phát triển văn hoá các dân tộc thiểu số.
8. Chính sách văn hoá đối với tôn giáo.
9. Mở rộng hợp tác quốc tế về văn hoá.
10. Củng cố, xây dựng và hoàn thiện thể chế văn hoá.
*Bốn giải pháp lớn:
1. Mở cuộc vận động giáo dục chủ nghĩa yêu nước với thi đua yêu nước và
phong trào: “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”.
2. Tăng cường xây dựng, ban hành luật pháp và các chính sách về văn hoá.
3. Tăng cường nguồn lực và phương tiện cho hoạt động văn hoá.
4. Nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hoá.
+ Đến HNTƯ 9 khoá IX (1/2004) xác định thêm "phát triển văn hoá đồng bộ với
phát triển kinh tế".
8
+ HNTƯ 10 khoá IX (7/2004) đặt vấn đề đảm bảo sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển
kinh tế là trung tâm; xây dựng chỉnh đốn Đảng là then chốt với nhiệm vụ không
ngừng nâng cao văn hoá - nền tảng - tinh thần xã hội. Đồng thời cũng nhận định: cơ
chế thị trường đã làm thay đổi mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng, thúc đẩy dân
chủ đời sống xã hội, đa dạng hoá thị hiếu và phương thức sinh hoạt văn hoá. Do đó
phạm vi, vai trò của dân chủ hoá - xã hội hoá văn hoá và của cá nhân ngày càng tăng
lên và mở rộng là những thách thức mới đối với sự lãnh đạo và quản lý công tác văn
hoá của Đảng và Nhà nước ta.
b. Quan điểm của Đảng về xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc:
Những vấn đề đặt ra trước tiên trước sự nghiệp xây dựng nền văn hóa tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Sự nghiệp xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH: to lớn, lâu dài, phức
tạp đòi hỏi phát huy vai trò của văn hóa Việt Nam, con người Việt Nam.
- Việc mở cửa, hội nhập với thế giới để tiếp thu, tiếp biến các thành tựu văn hóa, văn
minh của nhân loại vào công cuộc xây dựng đất nước.
- Việc khắc phục sự suy thoái tư tưởng, đạo đức và lối sống là vấn đề cấp bách hiện
nay.
- Khắc phục mặt trái của xu thế toàn cầu hoá, giao lưu quốc tế dẫn đến sự áp đặt văn
hóa, “đế quốc chủ nghĩa trong văn hóa”.
Các quan điểm về xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc : (6 quan điểm).
- Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực
thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
- Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc.
- Nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng
đồng các dân tộc Việt Nam.
- Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp chung của toàn dân do Đảng
lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.
- Giáo dục và đào tạo, cùng với khoa học và công nghệ được coi là cuốn sách
hàng đầu.
- Văn hóa là một mặt trận, xây dựng và phát triển văn hóa là một sự nghiệp
cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì, thận
trọng.
Tìm hiểu sâu hơn về quan điểm thứ 2 của Đảng: Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là
nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.Các khái niệm “tiên tiến”, “đậm đà bản
sắc dân tộc”, và “nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” đã nêu nêu ra ở phần
1.
9
Bản sắc dân tộc và tính chất tiên tiến của nền văn hóa phải được thấm đượm
trong mọi hoạt động xây dựng, sáng tạo vật chất, ứng dụng các thành tựu khoa học,
công nghệ, giáo dục, đào tạo…sao cho trong các hoạt chúng ta vừa có tư duy độc lập,
cách làm hiện đại vừa mang sắc thái Việt Nam. Đi vào kinh tế thị trương, mở rộng
giao lưu quốc tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước phải tiếp thu những tinh hoa
của nhân loại, song phải luôn phát huy những giá trị tốt đẹp của dân tộc.
Để xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc chúng ta vừa chủ
trương vừa bảo vệ bản sắc dân tộc, vừa mở rộng giao lưu, tiếp thu những tinh hoa
nhân loại. Chủ động tham gia hội nhập và giao lưu văn hóa với các quốc gia để xây
dựng những giá trị mới của văn hóa Việt Nam đương đại. Xây dựng Việt Nam thành
một địa chỉ giao lưu văn hóa khu vực và quôc tế.
Giữ gìn bản sắc dân tộc phải đi liền với loại bỏ những cái lạc hậu, lỗi thời trong
phong tục, tập quán và lề thói cũ.
Mục tiêu của việc xây dựng văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc:
- Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của cộng đồng các
dân tộc Việt Nam, tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, ngăn chặn và
hạn chế ảnh hướng tiêu cực của văn hóa lai căng, độc hại, phản văn hóa.
- Xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, vì lợi ích chân chính và
phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày
càng cao trở thành yêu cầu, mục tiêu của phát triển văn hóa và là những nhân
tố góp phần hình thành hệ giá trị chuẩn mực văn hóa của con người Việt Nam
trong thời đại Hồ Chí Minh.
- Củng cố và phát huy lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần
đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc;
lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý; đức tính cần cù, sáng tạo
trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giải dị trong lối sống... của dân
tộc Việt Nam. Qua đó tạo môi trường xây dựng Việt Nam ấm no, tiến bộ, hạnh
phúc; xây dựng con người phát triển toàn diện.
Đánh giá thực hiện quan điểm của Đảng:
a. Tích cực:
+ Môi trường văn hóa có những chuyển biến tích cực, củng cố niềm tin của
nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, hợp tác hóa quốc tế được mở rộng.
+ Giáo dục và đào tạo có những bước phát triển mới; quy mô giáo dục và
đào tạo tăng ở các cấp.
+ Khoa học – Công nghệ có bước phát triển mới, phục vụ cho sự phát triển
Kinh tế.
10
+ Nhiều giá trị văn hóa và sản phẩm văn hóa mới được hình thành, nâng cao
đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân.
b. Hạn chế:
+ Những thành tựu đạt được trong lĩnh vực văn hóa còn chưa tương xứng và
vững chắc so với yêu cầu của thời kỳ đổi mới.
+ Sự suy thoái về phẩm chất, đạo đức, lối sống tiếp tục diễn biến phức tạp,
có một số mặt nghiêm trọng hơn, tổn hại không nhỏ đến uy tín của Đảng
và Nhà nước, niềm tin của nhân dân.
+ Khoảng cách chênh lệch về hưởng thụ văn hóa giữa các vùng miền, khu
vực, tầng lớp xã hội tiếp tục tăng.
+ Sự phát triển của văn hóa chưa đồng bộ và tương xứng với tăng trưởng
kinh tế, thiếu gắn bó với nhiệm vụ xây dựng Đảng, môi trường văn hóa
còn bị ô nhiễm bởi các tệ nạn xã hội.
+ Việc xây dựng thể chế văn hóa còn chậm, chưa đổi mới, làm hạn chế tác
dụng của văn hóa đối với các lĩnh vực quan trọng trong đời sống.
+ Tình trạng nghèo nàn, thiếu thốn lạc hậu về đời sống văn hóa tinh thần ở
nhiều vùng vẫn chưa được khắc phục.
5. Vai trò của văn hóa đối với giáo dục:
- Văn hóa là nền tảng của giáo dục.
Con người là nhân tố quyết định cho sự hưng, suy của một dân tộc,con người tạo ra
của cải vật chất. Chính vì thế, con người là chủ thể cho mọi hoạt động. Việc thiết lập
một hệ thống giáo dục ảnh hưởng trực tiếp tới lối sống, cách ứng xử giữa người với
người. Giáo dục phát triển trước hết phải có văn hóa. Văn hóa hướng giáo dục tới
những gì tốt đẹp nhất từ đó sẽ tác động đến con người. Giáo dục dạy cho con người ta
cách đối nhân xử thế, mà những điều đó đều bắt nguồn từ văn hóa. Như Khổng Tử đã
nói: "Tiên học lễ, hậu học văn" có nghĩa là đầu tiên phải học lễ nghi, văn hóa ứng xử,
sau đó mới học tới những điều khác.
- Văn hóa tạo nên những giá trị tốt đẹp trong giáo dục. Giáo dục là để hướng con
người tới chân-thiện-mỹ, tới những gì tốt đẹp nhất của cuộc sống. Khi con người học
được văn hóa ứng xử, văn hóa giao tiếp, cũng chính là lúc văn hóa phát huy giá trị của
nó trong giáo dục. Con người ta được giáo dục hoàn thiện và hiểu được ỹ nghĩa của
văn hóa thì mới tạo nên cái gốc làm người.
Văn hóa là chìa khóa để phát huy vai trò của giáo dục. Giáo dục dù có tốt tới đâu mà
không có yếu tố văn hóa thì cũng không phát huy được vai trò của nó.
11
- Hiện nay, giáo dục được chú trọng phát triển ở khắp nơi trên thế giới vì nó tạo nên trí
tuệ cho con người, mở rộng tầm hiểu biết của con người. Nhưng dù cho con người ta
có trí tuệ đến mấy mà thiếu mất "văn hóa" thì cũng không trở thành tài.
II. Thực trạng áp dụng quan điểm và văn hóa trong trường đại học Nha Trang
Văn hóa học đường có vị trí hàng đầu trong quá trình hình thành nhân cách văn hóa
cho các thế hệ người Việt Nam trong suốt 60 năm qua. Trong xã hội hiện đại ngày nay,
khi mà tri thức trở nên quan trọng hơn, thì môi trường nhà trường- văn hóa học đường
ngày càng chiếm giữ ưu thế, có ý nghĩa quyết định nhất đối với tương lai phát triển xã
hội.
Những thành tựu và tính ưu việt trong quá trình hình thành nhân cách văn hóa của
nền giáo dục, của môi trường văn hóa học đường là điều đã được khẳng định. Phần
lớn sinh viên, thanh niên tri thức vẫn giữ được lối sống tình nghĩa, trong sạch, lành
mạnh, khiêm tốn luôn cần cù, sáng tạo trong học tập, có trí lập thân lập nghiệp năng
động nhạy bén, dám đối mặt với thử thách, dám chịu trách nhiệm, không ỉ lại và luôn
gắn bước với nhân dân, đồng hành cùng dân tộc phấn đấu cho sự nghiệp dân giàu
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh. Sinh viên biết sống kính trên
nhường dưới, hiếu thảo kính trọng ông bà, cha mẹ, anh, chị em, thầy cô. Trong các giờ
kiểm tra thi cử sinh viên chấp hành kiểm tra nghiêm túc cuộc vận động ‘ Nói không
với tiêu cực, trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục’, do Bộ giáo dục và Đào
tạo phát động triển khai trong các bài học, tích cực chủ động nghiên cứu, tìm tòi bài
về nhà. Sinh viên làm các đề tài nghiên cứu, đề án khoa học và đã có nhiều đề tài được
áp dụng thành công trong thực tế. Nhiều sinh viên có hoàn cảnh gia đình khó khăn
nhưng vẫn biết cố gắng vươn lên, khắc phục và đạt được thành quả cao trong học tập.
Những nghĩa cử cao đẹp của sinh viên Việt Nam như : hiến máu tình nguyện, tham gia
hướng dẫn giao thông, sinh viên học tập, sống làm theo khuôn khổ của phát luật chấp
hành cuộc vận động ‘ văn hóa giao thông’. Sinh viên Việt Nam đang không ngừng học
tập, rèn luyện tu dưỡng đạo đức, có lối sống lành mạnh, giản dị, bài trừ các tệ nạn để
góp phần xây dựng nước nhà có thể sánh vai với cường quốc năm châu như Bác đã
dạy.
Tuy nhiên,cũng phải thừa nhận rằng cho bối cảnh khủng hoảng giáo dục hiện
nay, môi trường văn hóa học đường cũng đang có những biểu hiện không lành mạnh,
nếu không nói là đã ít nhiều bị các thế lực phản văn hóa tấn công, tạo nên các khoảng
trống làm cho một số bộ phận, một số mặt bị xuống cấp. Đó là sự tụt hậu, sự khập
khiểng trong môi trường giáo dục, sự không minh bạch, gian dối trong việc dạy, học,
thi cử và nạn bạo lực trong nhà trường .. là sự sa ngã nhân phẩm của một số nhà giáo
và học sinh, sinh viên.
Về giao tiếp và ứng xử của sinh viên với giảng viên : Có rất nhiều sinh viên
hiện nay quan niệm quá trình học tập, rèn luyện tại trường đại học chỉ là học để có
12
nghề nghiệp, học để chỉ lấy tấm bằng đại học. Họ (một bộ phận sinh viên) chỉ coi cán
bộ giảng viên trong nhà trường là người làm công tác giảng dạy và đào tạo cho
mình. Từ thực tế đó, họ đã đánh mất đi những nét đẹp, xa rời trong cách ứng xử
chuẩn mực với thầy cô giáo vốn đã được giáo dục ở THPT. Đó là thái độ không tôn
trọng giảng viên trong giờ học và những biểu hiện cụ thể: Cãi lại lời giảng viên khi
bản thân có lỗi và bị phê bình; là không đứng dạy chào giảng viên khi họ lên lớp; là
trả lời câu hỏi của giảng viên một cách cộc lốc, thờ ơ cho qua, không có chủ -vị ngữ
và nói ngang bằng với giảng viên; là không đứng dậy trả lời câu hỏi xây dựng bài khi
giảng viên yêu cầu; là tự do đi lại trong lớp, ra vào không xin phép; hay khi làm bài
kiểm tra bị điểm kém không vừa ý mình thì sinh viên thể hiện sự vô văn hóa của mình
là xé bài kiểm tra của mình trước mạt thầy cô để tỏ ra thái độ. Những hành vi sử dụng
điện thoại làm việc riêng (ngủ gật, ăn quà vặt, đánh điện tử, chơi cờ ca rô…), nói
chuyện riêng, để chuông điện thoại reo trong giờ học, tình trạng không chuẩn bị khăn
lau bảng, phấn viết bảng,…từ những chi tiết nhỏ như vậy cũng thể hiện được sự ứng
xử chưa văn hóa của sinh viên.
Về giao tiếp và ứng xử sinh viên với nhau: Trong thời gian gần đây đã có nhiều
sự thay đổi, nhất là cách giao tiếp nơi công cộng. Nếu lắng nghe những cuộc đối thoại
của sinh viên( nam và nữ) ta sẽ nhận thấy dễ dàng là ngày nay các bạn thường sử dụng
từ lóng, tiếng lóng để nói với nhau mà nếu không phải là người trong cuộc thì khó mà
hiểu được. Những lời nói, câu thơ được đạo lại một cách vô văn hóa luôn luôn xuất
hiện với những từ ngữ đệm vào nghe không có ý nghĩa gì trong câu nói cứ lặp đi lặp
lại như là sự mở đầu cho mọi câu nói. Sự cẩu thả trong giao tiếp bằng ngôn ngữ, thiếu
sự tinh tế trong lựa chọn ngôn từ, sự sáng tạo ra nhiều từ ngữ mới chẳng những không
làm phong phú vốn từ của cá nhân mà đôi khi còn làm nghèo nàn thêm vốn ngôn ngữ
của chính người sử dụng và sự trong sáng của tiếng Việt, đồng thời cũng tạo nên một
không khí mang tính chất’ chợ búa’ ngay tại môi trường giáo dục đại học.
Về trang phục và cách ăn mặc của sinh viên hiện nay. Vẫn còn rất nhiều tình
trạng sinh viên không mang đồng phục, tóc để quá dài hoặc nhuộm đủ màu không hợp
với văn hóa người Việt. Trang phục đẹp là một nhu càu hoàn toàn chính đáng, trang
phục có thể làm người ta đẹp hơn, duyên dáng hơn che lấp một số khuyết điểm của cơ
thể. Trang phục đẹp không những phù hợp với cơ thể người mặc mà còn thể hiện được
tính lịch sự, trang trọng, phù hợp với môi trường xung quanh, môi trường làm việc và
đáp ứng được quan niệm thẩm mĩ của cộng đồng.
Vấn đề thái độ và ứng xử của sinh viên trong môi trường cảnh quan: Trong quan
hệ với môi trường tự nhiên, thông qua hành vi của mình, con người thể hiện văn hóa
đối với môi trường, thể hiện trình độ nhận thức của bản thân. Đối với học đường, đó là
hành vi, thái độ bảo vệ môi trường canh quan.Đó là hành vi không hái hoa, bẻ cành ,
không làm hư hỏng hoặc sai lệch cấu trúc của các trang bị cũng như cơ sở vật chất nói
13
chung. Đó là không được sử dụng các trang thiết bị của nhà trường sai mục đích, có ý
thức giữ gìn và bảo vệ tài sản của nhà trường.
Nguyên nhân :
Từ phía gia đình: Gia đình chính là một phần tử của xã hội, gia đình mà tốt đẹp
thì xã hội mới có thể tốt đẹp được. Thế nhưng ngược lại gia đình trong xã hội ngày
naycủa chúng ta có ngững “lỗ hổng” rất lớn và hầunhư mỗi người chỉ biết sống
cho mình, coi trọng vào công việc kiếm đồng tiền, vật lộn với cuộc sống;chính vì
thế họ ít quan tâm đến con cái, xây dựng nếp sống gia đình có văn hóa, cha mẹ
thiếu gương mẫu trong giao tiếp ứng xử hằng ngày.
Gia đình cũng là một yếu tố quan trọng tác động đến việc giáo dục, bồi dưỡng ứng
xử có văn hóa cho sinh viên. Do đó, các bậc phụ huynh phải hết sức chú
trọng trong giao tiếp ứng xử với nhau, với con cái, với họ hàng, láng giềng,
đồng nghiệp….Ứng xử của cha mẹ, ông bà là ứng xử mà các em sớm tiếp nhận
nhất trong cuộc đời và trực tiếp nhất, có ảnh hưởng nhiều nhất. Cha mẹ ứng xử với
nhau thiếu văn hóa thì làm sao con có thể ứng xử có văn hóa được. Ngày một ngày
hai, ứng xử của gia đình đã thành nếp ứng xử của các em. Do đó, hơn bao giờ hết,
gia đình phải là nơi thể hiện sự ứng xử có văn hóa để sinh viên dễ dàng tiếp nhận
nó.
Từ phía nhà trường: Có nhiều nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trong ứng xử
của sinh viên. Trước hết là do nhà trường chưa chú trọng vấn đề này trong đào tạo, bồi
dưỡng. Nhà trường chủ yếu chú trọng dạy chữ, chưa thực sự xem trọng việc dạy
người, trong đó có vấn đề trang bị cho sinh viên kỹ năng mềm nói chung và kỹ năng
giao tiếp ứng xử nói riêng. Đoàn thanh niên nhà trường chưa chú trọng đẩy mạnh sinh
hoạt văn hóa trong sinh viên, chưa định hướng cho sinh viên trong ứng xử.
Về vấn đề ứng xử với môi trường cảnh quan: thể hiện sự lệch lạc trong quan
niệm của một bộ phận không nhỏ những sinh viên có học thức. Những việc làm sai
trái nếu được lặp đi lặp lại nhiều lần sẽ khiến người ta coi nó là bình thường và người
ta lại không thấy sợ, không thấy làm xấu hổ vì điều họ làm, lâu dần sẽ trở thành thói
quen. Và điều này vô cùng tai họa.
Về trang phục và cách ăn mặc: do những người trẻ tuổi thường thích theo đuổi
những trào lưu mới, do vậy văn hóa ăn mặc du nhập từ nước ngoài và được sinh viên
tiếp nhận là điều không thể tránh. Đặc biệt sinh viên luôn mang trong mình suy nghĩ ‘
tôi mặc những gì tôi thích’ và tư tưởng không muốn thua kém bạn bè.
14
Về giao tiếp của các sinh viên: vấn đề này thường xảy ra phổ biến trong hầu hết
các trường. Do trào lưu, sinh viên giao tiếp với nhau, thường sử dụng những câu tục
để nhấn mạnh những điều mình muốn nói, sử dụng các từ lóng để trêu đùa nhau, lâu
dần thành thói quen không bỏ được.
III. Giải pháp để xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc
dân tộc trong trường Đại học Nha Trang
Đối với nhà trường: để góp phần thực hiện phương hướng và giải pháp xây
dựng, phát triển nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc tại trường đại học Nha
Trang, chúng ta cần phải thực hiện những giải pháp cụ thể sau:
Điều quan trọng đầu tiên, nhà trường phải nắm bắt được tình hình thực tế thông qua
những nghiên cứu, khảo sát thực trạng của sinh viên hiện nay tại trường cũng như là
ưu nhược điểm của sinh viên và trường đại học. Hơn nữa dựa trên những sự khảo sát
đó để xây dựng nên những chính sách, chuẩn mực phù hợp với mọi đối tượng sinh
viên , tình hình cụ thể của trường, có thể áp dụng trong khoảng thời gian dài và đặc
biệt là có thể đáp ứng được xu hướng chung của đất nước.
Thêm vào đó, trường chúng ta có thể tham khảo học tập những chính sách, quy định
về văn hóa học đường tương tự từ những trường top quốc gia như Đại học Quốc gia
Hà Nội, Đại học Bách khoa Hà Nội,…
Bên cạnh đó, trường đại học Nha Trang có một lợi thể rất lớn. Đó là khuôn viên
trường rộng. Từ những thuận lợi về vị trí địa lý mà cơ sở vật chất, hạ tầng của trường
cũng tương đối đầy đủ. Với sự thay đổi, tu sửa qua các khóa học, kì học. Trường đại
học Nha Trang hiện nay, có thể nói là đã đáp ứng được cho nhu cầu hưởng thụ văn
hóa của sinh viên một cách thiết thực như thư viện, các giảng đường, khu tự học, sân
bóng. Tuy nhiên, tại một số giảng đường trang thiết bị vẫn còn bị lỗi và đang cần khắc
phục như hệ thống máy chiếu, micro và dây cáp chuyển đổi.
Ngoài ra, nhà trường cần tổ chức một cách hiệu quả các hoạt động thể thao, văn hóa,
văn nghệ để thu hút sự tham gia của sinh viên. Ví dụ như đoàn khoa ngoại ngữ đại học
Nha Trang chưa có các câu lạc bộ tình nguyện văn nghệ, âm nhạc hay câu lạc bộ tiếng
anh chỉ dừng ở giới hạn khoa viện,..chưa có tính phổ biến và sự tham dự của nhiều
sinh viên.
Nhà trường hiện nay đã và đang thực hiện nghiêm túc, chấn chỉnh nề nếp, tác phong
của sinh viên khi tới trường. Sinh viên phải mặc áo có cổ, không được mặc quần rách
ống hay phải đeo thẻ sinh viên khi đến lớp là điều bắt buộc. Tuy nhiên, vẫn có một số
sinh viên không thực hiện đúng quy định. Do đó, nhà trường nên có những biện pháp
thiết thực đối vơí những sinh viên này.
Bản thân mỗi sinh viên đã trưởng thành, đủ nhận thức để chịu trách nhiệm cho mỗi
hành động của mình. Tuy nhiên, nhà trường và đoàn thanh niên cũng nên chú trọng
15
quan tâm đến vấn đề xây dựng văn hóa học đường, tăng cường tuyên truyền, khuyến
khích sinh viên tự giác rèn luyện lối sống lành mạnh, xây dựng môi trường giáo dục
có văn hóa ứng xử trong giao tiếp. Ví dụ như lễ phép với giảng viên, không nói tục
chửi thề, giữ gìn trật tự vệ sinh nơi công cộng, thực hiện đúng nội quy của nhà trường,
không uống rượu, đánh bạc, không gian lận trong học tập, thi cử.
Đối với sinh viên: Bản thân mỗi sinh viên chúng ta sống trong một tập thể vì
thế mà chúng ta cần phải có ý thức đoàn kết, tập thể, phấn đấu vì lợi ích chung của cả
tập thể.
Chúng ta cần phải có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực,
sẵn sàng vì cộng đồng, có ý thức bảo vệ môi trường.
Sinh viên cần phải có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội
Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo, năng xuất cao vì
lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội.
Tham gia các hoạt động tình nguyện, văn nghệ phản ánh hiện thực sinh động, chân
thật, sâu sắc của sự nghiệp của nhân dân trong cách mạng và kháng chiến, trong xây
dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc.
Ví dụ như các hoạt động quyên góp, bảo vệ biển đảo hay các hoạt động văn nghệ liên
quan đến ngày ba mươi tháng tư.
Đấu tranh chống lại các thành phần phổ cập, tuyên truyền khuynh hướng trái với
đường lối văn nghệ của Đảng.
KẾT LUẬN
Nói tóm lại, văn hóa đóng vai trò quan trọng trong đời sống xã hội. Việc áp
dụng xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc trong môi trường đại học
là vô cũng cần thiết bởi nó ảnh hưởng trực tiếp tới một thế hệ trẻ của đất nước.Mỗi
chúng ta, những thế hệ tương lại của quốc gia cần phải chuẩn bị những hành trang cần
thiết để vào đời, việc phải tích lũy các kiến thức khoa học công nghệ, ngoại ngữ, tin
học…là những yếu tố bắt buộc cần có nhưng nếu chỉ dừng ở đó thôi mà không lưu
tâm hoặc bỏ qua việc trau dồi phẩm chất chính trị đạo đức, lối sống, văn hóa ứng xử,
văn hóa giao tiếp, ý thức pháp luật thì sẽ dẫn đến sự phát triển lệch lạc, phiến diện.
Như chủ tịch Hồ Chí Minh từng dạy:
"Có tài mà không có đức là người vô dụng
Có đức mà không có tài làm việc gì cũng khó"
Đó là con đường đẫn đến sự thiếu hụt những giá trị nhân văn trên con đường hình
16
thành nhân cách con người. Sự thiếu hụt đó là nguy cơ làm suy thoái thậm chí biến
dạng quá trình phát triển của cá nhân và cộng đồng. Đã đến lúc chúng ta phải ý thức
được mối quan hệ giữa văn hóa và giáo dục,nó hình thành và phát triển hài hòa, toàn
diện nhân cách của con người nhằm đáp ứng cho nhu cầu của sự nghiệp đổi mới. Từ
đó con người sẽ có ý thức trách nhiệm hơn, dám vì mình, vì mọi người và vì những
giá trị đích thực.
Danh mục tư liệu tham khảo
/> />
Bài giảng “ Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam”
Giáo trình “ Những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác Lenin
17
Nhóm 8:
GVHD: Trịnh Công Tráng
Thành viên nhóm:
6.
7.
8.
9.
10.
Trần Minh Sang
Nguyễn Thị Kiều
Phạm Phương Trinh
Nguyễn Thị Anh Thùy
Nguyễn Thiện Luân
18