ĐỔI MỚI
PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
VÀ ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ
HỌC TẬP MÔN GDCD
CẤP THCS
Tháng 11 năm 2009
1
I. ĐẶC ĐIỂM :
* Trọng tâm của môn GDCD là phát triển ở học sinh :
- hệ thống thái độ, xúc cảm, tình cảm, niềm tin đạo đức ;
- hình thành ý thức tự giác tuân thủ pháp luật, tích cực tự nguyện thực
hiện nghĩa vụ trách nhiệm, quyền hạn của công dân;
- hình thành hành vi, thói quen theo các chuẩn mực đạo đức xã hội, những
qui định của pháp luật và cộng đồng.
* Chương trình môn GDCD được xây dựng dựa trên cơ sở các môn khoa học
cơ bản như Đạo đức học, Luật học và một số chủ trương, chính sách của Đảng
và Nhà nước Việt Nam.
* Môn GDCD là môn học tích hợp nhiều nội dung giáo dục xã hội cần thiết
cho công dân trẻ tuổi như : giáo dục kĩ năng sống, giáo dục môi trường, giáo
dục văn hóa hòa bình, giáo dục giới tính - sức khỏe sinh sản vị thành niên, giáo
dục phòng tránh HIV/AIDS,...
Vì vậy đòi hỏi thầy cô giáo có kiến thức rộng nhiều lĩnh vực, đặc biệt cần
có kiến thức xã hội, có nghệ thuật dạy học - giáo dục và có tâm hồn trong sáng.
Đặc điểm về vị trí môn học.
+ Trước hết GDCD là một môn học, chương trình nội dung các bài được
sắp xếp theo một cấu trúc lôgic chặt chẽ, được thực hiện theo quy trình tổ chức
của quá trình dạy học.
+ GDCD là một môn học đặc biệt, là một bộ phận của quá trình giáo dục
các giá trị nhân cách (đạo đức, pháp luật, lối sống…) vì mục tiêu của môn học
chính là thực hiện mục tiêu của quá trình giáo dục đạo đức, lối sống cho học
sinh. Đó là vị trí đặc biệt của môn GDCD so với các môn học khác ở phổ thông.
+ Do vị trí đó nên môn GDCD có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình
phát triển thái độ, tình cảm, niềm tin, nâng cao nhận thức xã hội ở học sinh, tạo
ra động cơ đúng đắn giúp học sinh tự điều chỉnh hành vi, thói quen trong hoạt
động và cuộc sống hàng ngày của các em.
Hiểu vị trí, ý nghĩa đặc biệt của môn GDCD, giáo viên sẽ sáng tạo, chủ
động trong việc tổ chức hoạt động dạy học và giáo dục.
2 - THCS
II. ĐỔI MỚI PPDH MÔN GDCD THCS
- Phương pháp dạy học
PPDH là lĩnh vực rất phức tạp và đa dạng. Có nhiều quan niệm, quan
điểm khác nhau về PPDH. Ở đây, PPDH được hiểu là cách thức, là con đường
hoạt động chung giữa GV và HS, trong những điều kiện dạy học xác định, nhằm
đạt tới mục đích dạy học.
PPDH có ba cấp độ:
- Cấp độ vĩ mô là quan điểm về PPDH. Ví dụ: Dạy học hướng vào người
học, dạy học phát huy tính tích cực của HS,…
- Cấp độ trung gian là PPDH cụ thể. Ví dụ: đóng vai, kể chuyện, thảo
luận, nghiên cứu trường hợp điển hình, xử lí tình huống, trò chơi, …
- Cấp độ vi mô là kĩ thuật dạy học. Ví dụ: kĩ thuật chia nhóm, kĩ thuật giao
nhiệm vụ, kĩ thuật đặt câu hỏi, kĩ thuật phản hồi tích cực,...
Kĩ thuật dạy học là những biện pháp, cách thức hành động của GV trong
các tình huống nhỏ nhằm thực hiện và điều khiển quá trình dạy học.
Các kĩ thuật dạy học chưa phải là các PPDH độc lập mà là những thành
phần của PPDH. Ví dụ, trong PP thảo luận nhóm có các kĩ thuật dạy học như: kĩ
thuật chia nhóm, kĩ thuật khăn trải bàn, kĩ thuật phòng tranh,... Tuy nhiên sự
phân biệt giữa kĩ thuật dạy học và PPDH nhiều khi không rõ ràng.
1. Thế nào là đổi mới PPDH ?
* Mục đích của đổi mới PPDH là nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy
học.
* Đổi mới PPDH là sử dụng các PPDH một cách tích cực và hiệu quả, phát
huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của HS; phù hợp với đặc điểm HS và
đặc điểm của từng lớp học, môn học.
* Đổi mới PPDH không có nghĩa là phủ định hoàn toàn các PPDH truyền
thống và tuyệt đối hóa các PPDH hiện đại. Trong đổi mới PPDH cần phải khai
thác những yếu tố tích cực của các PPDH truyền thống; sử dụng nó một cách
hợp lí, có hiệu quả trong sự kết hợp hài hòa với cscs PPDH hiện đại.
3 - THCS
2. Vì sao phải đổi mới phương pháp dạy học ?
a) Cơ sở tâm lí - giáo dục
- Tri thức của nhân loại qua các thời kì phát triển ngày càng đồ sộ; sự bùng
nổ thông tin ngày nay khiến người ta phải nghĩ đến một chiến lược dạy học mới;
- Những đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi HS rất thuận lợi cho việc đổi mới
phương pháp dạy học, đồng thời đặt ra yêu cầu phải đổi mới phương pháp dạy
học cho phù hợp với nhu cầu chính đáng của học sinh.
- Mặt khác, XH phát triển nhanh đòi hỏi con người phải thích ứng với những
yêu cầu : - Tự học suốt đời; - Năng động sáng tạo; - Tự lực giải quyết những vấn
đề của cuộc sống.
Từ đó ta thấy phương pháp dạy học cũ theo lối thụ động là chưa phù hợp với
bản chất của lao động học tập và chưa đáp ứng được mục tiêu giáo dục của xã
hội hiện đại và phải có sự đổi mới.
b) Cơ sở kinh tế - xã hội
Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đòi hỏi phải có những con
người lao động có chất lượng cao, năng động, sáng tạo, có đủ sức giải quyết
những vấn đề đặt ra trong thực tiễn phát triển của đất nước.
3. Thực trạng dạy học môn GDCD hiện nay
(Kết luận của Thứ trưởng Nguyễn Vinh Hiển tại Hội thảo về đánh giá hiệu
quả dạy học môn GDCD tổ chức tại Lâm Đồng ngày 20 và 21/4/2009).
- Về phương pháp dạy học : giáo viên GDCD đã có nhiều cố gắng trong
việc đổi mới phương pháp dạy học. Tuy nhiên, hiện tượng dạy học lệ thuộc vào
sách giáo khoa và sách giáo viên còn phổ biến. Việc rèn luyện kỹ năng và giáo
dục thái độ và hành vi của học sinh trong dạy học trong môn GDCD thực hiện
chưa đạt được yêu cầu đề ra của chương trình.
- Về kiểm tra đánh giá : còn có hiện tượng kiểm tra nặng về yêu cầu tái
hiện kiến thức, chưa chú ý đến yêu cầu học sinh vận dụng kiến thức để giải
quyết các vấn đề, tình huống thực tế. Việc kết hợp câu hỏi tự luận và trắc
nghiệm khách quan trong kiểm tra đánh giá ở nhiều nơi là chưa hợp lý.
4 - THCS
4. Định hướng đổi mới PPDH môn GDCD
a) Một số quan điểm về đổi mới PPDH môn GDCD
* Đổi mới PPDH môn GDCD trường THCS phải phát huy tính tích cực,
chủ động, sáng tạo của HS
* Dạy học GDCD thông qua các hoạt động của HS. Các hoạt động dạy
học phải được GV thiết kế đan xen nhau một cách hợp lí trong tiết học, để vừa
bảo đảm thực hiện được mục tiêu bài học, vừa gây được hứng thú học tập cho
HS.
Các hoạt động dạy học môn GDCD rất phong phú, đa dạng, bao gồm những
hình thức hoạt động như:
- Thảo luận lớp, thảo luận nhóm; Đóng vai, diễn tiểu phẩm.
- Quan sát, phân tích các tranh ảnh, băng hình, tiểu phẩm; Xử lí tình huống.
- Nhận xét, phân tích, đánh giá các ý kiến, quan điểm, các hành vi, việc làm,
các trường hợp điển hình, các thông tin, sự kiện, các hiện tượng trong đời sống
thực tiễn có liên quan đến các chuẩn mực ĐĐ và PL đã học.
- Sưu tầm, tìm hiểu các tranh ảnh, bài báo, các tư liệu có liên quan đến nội
dung bài học và trình bày, giới thiệu sản phẩm sưu tầm được.
- Xây dựng kế hoạch hành động của HS.
- Xây dựng và thực hiện các dự án thực tiễn.
- Chơi các trò chơi học tập …
* Đổi mới PPDH GDCD theo quan điểm hợp tác
Trong dạy học môn GDCD, GV cần tạo cơ hội cho HS được hợp tác với GV
và với nhau trong lớp, trong nhóm nhỏ.
Cần tạo cơ hội cho HS được bày tỏ quan điểm, ý kiến cá nhân về vấn đề
đang học; được nêu những băn khoăn, vướng mắc, đặt câu hỏi cho thầy, cho
bạn; được trao đổi, tranh luận, chia sẻ ý kiến, kinh nghiệm; được phản hồi và
thu nhận thông tin phản hồi từ GV và bạn bè; được cùng nhau xây dựng kế
hoạch, chuẩn bị, thực hiện và đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ học tập đã
được giao.
5 - THCS
* Dạy học GDCD phải gắn với thực tiễn cuộc sống của học sinh
Về bản chất, GDCD là môn học giáo dục HS cách sống và ứng xử phù hợp
với các giá trị xã hội, với quyền và nghiã vụ của người công dân. Chính vì vậy,
để dạy học môn GDCD có hiệu quả cần gắn nội dung bài học với thực tiễn cuộc
sống của HS. Cụ thể là GV cần tăng cường sử dụng các tình huống, các trường
hợp điển hình, các hiện tượng thực tế, các vấn đề bức xúc trong đời sống xã hội
để phân tích, đối chiếu, minh hoạ cho bài giảng. Đồng thời cũng cần khuyến
khích HS liên hệ, tự liên hệ; tiến hành điều tra, tìm hiểu, phân tích, đánh giá các
sự kiện trong đời sống thực tiễn của lớp học, nhà trường, địa phương, đất nước
trong quá trình học tập.
* Dạy học GDCD phải kết hợp giữa PPDH và phương pháp giáo dục
đạo đức, giữa các PPDH hiện đại và PPDH truyền thống.
Phương pháp và hình thức dạy học môn GDCD rất phong phú, đa dạng, bao
gồm cả PPDH và PP giáo dục đạo đức (như: nêu gương, thuyết phục, khen
thưởng- trách phạt, luyện tập, tổ chức chế độ sinh hoạt, giáo dục bằng truyền
thống, giáo dục bằng viễn cảnh,...); bao gồm cả các PP hiện đại (thảo luận
nhóm, đóng vai, giải quyết vấn đề, nghiên cứu trường hợp điển hình, trò chơi,
dự án, động não,…) và các PP truyền thống (thuyết trình, đàm thoại, kể chuyện,
…); bao gồm cả hình thức dạy học theo lớp, theo nhóm nhỏ và cá nhân; hình
thức dạy học ở trong lớp, ngoài lớp và ngoài trường. Mỗi PP dạy học đều có
mặt tích cực và hạn chế riêng, phù hợp với từng loại bài và đòi hỏi những điều
kiện thực hiện riêng. Vì vậy, GV không nên phủ định hoặc quá lạm dụng một
PPDH nào. Điều quan trọng là cần căn cứ vào nội dung, tính chất từng bài, căn
cứ vào trình độ nhận thức của HS và năng lực, sở trường của GV, căn cứ vào
điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của lớp, của trường mà lựa chọn và sử dụng phối
hợp các PPDH một cách hợp lí.
* Dạy học GDCD phải chú trọng sử dụng có hiệu quả các thiết bị dạy
học
Việc đổi mới PPDH môn GDCD cần phải gắn liền với đổi mới phương
tiện dạy học. Trong quá trình dạy học môn GDCD, GV cần lựa chọn và sử dụng
hợp lí, có hiệu quả các thiết bị dạy học đã được cung cấp theo danh mục cũng
6 - THCS
như các thiết bị, đồ dùng dạy học do GV, HS tự làm; đặc biệt khuyến khích
GV sử dụng công nghệ thông tin trong dạy học.
* Dạy học GDCD cần phải phối, kết hợp các lực lượng giáo dục trong và
ngoài nhà trường, nhằm xây dựng môi trường dạy học, giáo dục lành mạnh.
Khác với các môn học khác, hiệu quả dạy học môn GDCD đòi hỏi phải có
môi trường dạy học, môi trường giáo dục lành mạnh, khép kín. Chính vì vậy,
trong quá trình dạy học, cần phải phối, kết hợp các lực lượng giáo dục trong nhà
trường (BGH, GV bộ môn, GVCN, CB Đoàn, ...) và ngoài nhà trường (phụ
huynh, chính quyền địa phương,...) nhằm tạo ra những tác động giáo dục cùng
chiều, những tấm gương sống và ứng xử phù hợp với các chuẩn mực đạo đức và
pháp luật để HS noi theo; những sự động viên, giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi
cho HS thực hành những điều đã học trong cuộc sống;...
b) Yêu cầu cụ thể đối với giáo viên
* Thiết kế, tổ chức, hướng dẫn HS thực hiện các hoạt động học tập với các
hình thức đa dạng, phong phú, có sức hấp dẫn phù hợp với đặc trưng bài học,
với đặc điểm và trình độ HS, với điều kiện cụ thể của lớp, trường và địa
phương.
* Động viên, khuyến khích, tạo cơ hội và điều kiện cho HS được tham gia
một cách tích cực, chủ động, sáng tạo vào quá trình khám phá và lĩnh hội nội
dung bài học; chú ý khai thác vốn kiến thức, kinh nghiệm, kĩ năng đã có của
HS; bồi dưỡng hứng thú, nhu cầu hành động và thái độ tự tin trong học tập cho
HS; giúp các em phát triển tối đa tiềm năng của bản thân.
* Thiết kế và hướng dẫn HS thực hiện các dạng bài tập phát triển tư duy và
rèn luyện kĩ năng; hướng dẫn sử dụng các thiết bị, đồ dùng học tập; hướng dẫn
HS có kĩ năng vận dụng kiến thức đã học vào giải quyết các vấn đề thực tiễn.
III. ĐỔI MỚI KIỂM TRA ĐÁNH GÍA KẾT QUẢ HỌC TẬP MÔN GIÁO
DỤC CÔNG DÂN.
1. Kiểm tra
Kiểm tra là phương tiện và hình thức của đánh giá. Việc kiểm tra cung cấp
những dữ kiện, những thông tin cần thiết làm cơ sở cho việc đánh giá. Trong
7 - THCS
dạy học có 4 loại kiểm tra là : Kiểm tra thăm dò ; kiểm tra kết quả ; kiểm tra xếp
thứ bậc và kiểm tra năng lực tổng thể có định hướng. Thi cũng là kiểm tra
nhưng có ý nghĩa và tầm quan trọng đặc biệt.
2. Đánh giá
Trong giáo dục đánh giá được hiểu là quá trình thu thập và xử lí kịp thời, có
hệ thống thông tin về hiện trạng, khả năng hay nguyên nhân của chất lượng và
hiệu quả giáo dục, căn cứ vào mục tiêu dạy học (mục tiêu đào tạo) làm cơ sở
cho những chủ trương, biện pháp và hành động giáo dục tiếp theo.
Đánh giá kết quả học tập
Đánh giá kết quả học tập là quá trình thu thập và xử lí thông tin về trình độ,
khả năng thực hiện mục tiêu học tập của HS, về tác động và nguyên nhân của
tình hình đó nhằm tạo cơ sở cho những quyết định sư phạm của giáo viên và nhà
trường, cho bản thân học sinh để họ học tập ngày một tiến bộ hơn.
Căn cứ vào mục đích đánh giá mà người ta phân thành 3 loại hình khác nhau:
- Đánh giá chẩn đoán: được tiến hành trước một giai đoạn giáo dục nhất
định nhằm đưa ra các chứng cứ để có thể dự kiến kết quả học tập cho giai đoạn
đó.
- Đánh giá quá trình: được tiến hành trong quá trình giáo dục nhằm cung
cấp thông tin về những gì HS đã học được, vạch ra hành động tiếp theo (nội
dung nào nên dạy và cách tiếp cận nào nên sử dụng,…) của quá trình dạy học
đó.
- Đánh giá tổng kết: được tiến hành tại cuối mỗi giai đoạn học tập, nhằm
tổng kết thành tích học tập của học sinh một cách có hệ thống.
Ví dụ:
+ đầu năm lớp 9 người ta sử dụng đánh giá chẩn đoán thông qua hình thức
kiểm tra chất lượng đầu năm nhằm đánh giá chất lượng đầu vào và dự kiến
thành tích học tập của HS cuối năm học;
+ sử dụng đánh giá quá trình thông qua hình thức kiểm tra thường xuyên,
định kì (miệng, 15 phút, 45 phút,…) nhằm đánh giá kết quả học tập tại từng thời
điểm của năm học, từ đó ra quyết định điều chỉnh hoạt động dạy của GV và hoạt
động học của HS theo định hướng đạt được mục tiêu đã định ban đầu;
8 - THCS
+ sử dụng đánh giá tổng kết thông qua hình thức kiểm tra học kì, cuối năm
nhằm đánh giá kết quả học tập sau khi học sinh đã nỗ lực phấn đấu và điều
chỉnh hoạt động của mình trong cả năm học, ra quyết định về việc mỗi em có
đạt được mục tiêu của chương trình môn học đã qui định hay không, lập kế
hoạch giáo dục trong giai đoạn tiếp theo.
Vì kiểm tra là phương tiện và hình thức của hoạt động đánh giá nên muốn đổi
mới đánh giá kết quả học tập của học sinh thì trước tiên phải đổi mới việc kiểm tra.
3. Mục đích kiểm tra đánh giá kết quả học tập
Việc kiểm tra kết quả học tập của học sinh có những mục đích sau :
- Xác định thực trạng mức độ đạt được về kiến thức, kĩ năng, thái độ của học
sinh so với mục tiêu và chuẩn chương trình.
- Giúp học sinh nhận ra sự tiến bộ cũng như tồn tại của mình, khuyến khích,
thúc đẩy việc học tập của HS.
- Tìm ra nguyên nhân của mức độ chất lượng mà học sinh đạt được ; phán
đoán những khả năng phát triển về kiến thức và các kĩ năng mà học sinh có thể
đạt được trong giai đoạn tiếp theo.
- Giúp giáo viên và cán bộ quản lí giáo dục các cấp điều chinh việc tổ chức
hoạt động dạy và học cho phù hợp, tìm những biện pháp nhằm nâng cao chất
lượng, hiệu quả của việc dạy và học.
4. Vì sao phải đổi mới KTĐG kết quả học tập trong môn GGCD ?
Theo thứ trưởng Bộ GD-ĐT Nguyễn Vinh Hiển trong buổi hội thảo “Đổi mới
KTĐG thúc đẩy đổi mới PPDH”:
* Có nhiều yếu tố quyết định chất lượng dạy học: mục tiêu, nội dung,
phương pháp dạy học, thiết bị, cơ sở vật chất, tổ chức quản lý và kiểm tra đánh
giá. Trong thời gian qua, các yếu tố đều được quan tâm nhưng có một yếu tố
mang tính chất “điểm nhấn” chưa được quan tâm đúng mức, đó là yếu tố đổi
mới nội dung và hình thức kiểm tra, đánh giá.
* Cụ thể :
9 - THCS
- Việc kiểm tra GDCD vẫn nặng về thuộc lòng, thậm chí học vẹt, ít yêu cầu
vận dụng kiến thức, rèn luyện kỹ năng sống.
- Học sinh làm bài không phát huy tính chủ động, sáng tạo, không bày tỏ
chính kiến, không thể hiện trách nhiệm công dân mà chỉ trả lời theo cách giáo
điều, máy móc.
* Hậu quả :
- Điều đó triệt tiêu hứng thú học tập của các em, thậm chí giảm cả niềm tin
vào tri thức.
- Học sinh tích cực đổi mới phương pháp học tập không được điểm cao,
người học thụ động lại có điểm tốt.
Do đó :
@ Kết quả thi không phản ánh kết quả giáo dục, không đánh giá chính xác
mức độ tiếp thu của người học.
Vì vậy : Đổi mới phương pháp dạy học và đổi mới kiểm tra đánh giá, cái
nào cũng quan trọng, phải làm đồng bộ. Không đổi mới PPDH thì kết quả
KTĐG thực chất sẽ thấp, ngược lại, không đổi mới KTĐG thì không ai đổi mới
PPDH cả, vì thiếu động lực .
5. Định hướng đổi mới KTĐG kết quả học tập trong môn GGCD.
a) Yêu cầu chung :
1. Phải đảm bảo thực hiện đúng và đủ các tiết KT viết, KTHK như
trong phân phối chương trình;
2. Việc kiểm tra phải góp phần quan trọng vào việc rèn luyện
phương pháp học tập cho HS. Cụ thể không chỉ kiểm tra kiến thức, mà quan
trọng là phải kiểm tra các kĩ năng (kĩ năng nhận xét, đánh giá, các kĩ năng vận
dụng bài học để giải quyết các vấn đề, tình huống và thực hành trong cuộc
sống). Vì thế, kiểm tra không chỉ dừng lại ở mức độ biết, mà cần thiết hơn
phải kiểm tra việc thông hiểu và vận dụng của HS.
3. Phải căn cứ vào chuẩn kiến thức, kĩ năng, thái độ của môn học để
xây dựng đề kiểm tra, từ đó mới xác định được mức độ đạt yêu cầu của
chuẩn.
10 - THCS
4. Việc kiểm tra phải bao quát được chương trình, bảo đảm tính
khách quan, nghiêm túc, trung thực. Cụ thể kiểm tra phải đưa lại những
thông tin chính xác, phản ánh đúng kết quả của cả quá trình học tập của học
sinh để trên cơ sở đó giáo viên có sự điều chỉnh phù hợp về phương pháp dạy
học, điều chỉnh nhận thức, thái độ, hành vi của học sinh.
5. Phái có sự phân hoá mức độ cho các loại đối tượng học sinh khác
nhau nhằm khuyến khích HS phấn đấu vươn lên. Nhìn chung, đề kiểm tra
phải phù hợp với số đông HS (đại trà) và dành một số nội dung cho HS khá và
giỏi (khoảng 25% tổng số điểm).
6. Đổi mới công cụ kiểm tra, cụ thể là đổi mới các hình thức đề kiểm
tra, kết hợp giữa hình thức trắc nghiệm khách quan, tự luận và hình thức quan
sát hoạt động thực hành ( điều tra thực trạng, sưu tầm tư liệu, viết thu hoạch cá
nhân, thực hiện dự án nhỏ,...), nghiên cứu sản phẩm thực hành (các tư liệu sưu
tầm, bài thu hoạch cá nhân, thơ, truyện ngắn, vẽ tranh, tiểu phẩm.... ) của học
sinh. GV phải nhận xét và sửa lỗi khi chấm bài kiểm tra nhằm giúp HS
nhận thức những hạn chế cần khắc phục.(Bản thân GV cũng rút ra những hạn
chế của mình trong giảng dạy).
7. Phối hợp các lực lượng trong việc kiểm tra, đánh giá.
Môn GDCD là một môn học có tính giáo dục và tính thực tiễn cao, đòi hỏi
học sinh phải biết vận dụng bài học trong cuộc sống và thực hành các chuẩn mực
bài học, có sự thống nhất giữa nhận thức và hành vi. Để củng cố và tăng cường ý
thức rèn luyện của học sinh ở mọi nơi, mọi lúc theo yêu cầu trên, trong đổi mới
kiểm tra môn Giáo dục công dân cần có sự phối hợp tham gia của các lực lượng
khác (giáo viên chủ nhiệm, các giáo viên bộ môn khác, cán bộ Đoàn, Đội, Hội
Cha mẹ học sinh..)
b) Hình thức kiểm tra :
* Kiểm tra thường xuyên : KT miệng, KT 15 phút;
* Kiểm tra định kỳ : KT giữa HK, KT cuối HK.
Ngoài những hình thức kiểm tra dạy học trên, môn GDCD cần phải tiến hành
kiểm tra hiệu quả chất lượng dạy học qua các hình thức sau đây:
11 - THCS
* Kiểm tra thực hành trên lớp: Loại kiểm tra thực hành trong môn Giáo dục công
dân nhằm kiểm tra kĩ năng vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn, thái độ và hành
vi của học sinh đối với các chuẩn mực bài học.
Việc kiểm tra thực hành có thể tiến hành trên lớp, có thể ở ngoài lớp, ở địa điểm
tham quan.
* Kiểm tra đánh giá sản phẩm của học sinh qua hoạt động thực tiễn
* Kiểm tra đánh giá qua việc giải quyết các tình huống giáo dục trong và ngoài
lớp ...
Lưu ý: Cần đa dạng hoá hình thức kiểm tra đánh giá để học sinh được bộc lộ
thái độ và có cơ hội rèn luyện kỹ năng.
c) Phạm vi kiến thức cần kiểm tra :
* Kiểm tra miệng, kiểm tra 15 phút : nội dung đã học hoặc đang học;
* Kiểm tra giữa học kỳ : nội dung các bài đã học từ đầu học kỳ đến bài trước khi
kiểm tra;
* Kiểm tra cuối học kỳ : nội dung các bài đã học từ đầu mỗi học kỳ đến bài cuối
mỗi học kỳ.
Lưu ý :
* Kiểm tra giữa học kỳ : trắc nghiệm hay tự luận hoặc vừa tự luận vừa trắc
nghiệm theo tỷ lệ 7 / 3;
* Kiểm tra cuối học kỳ : tự luận;
* Đề kiểm tra theo "dạng mở" và cần có nhiều câu hỏi (ít nhất là 4 câu – tăng
cường câu hỏi mức độ thông hiểu và vận dụng, hạn chế câu hỏi nhận biết, tái hiện
kiến thức).
* Nội dung kiểm tra phải dàn trãi ở tất cả các bài.
* Kiểm tra đánh giá môn GDCD có đặc thù riêng : không chỉ kiểm tra kiến thức
đã học, mà còn chú trọng đến kiểm tra thái độ, khả năng vận dụng và thực hành kiến
thức đã học vào cuộc sống (những bài tập tình huống và chính quá trình hoạt động
của học sinh).
12 - THCS
Điểm thực hành nên đưa vào điểm KT 15 phút.
d. Câu hỏi kiểm tra : Cần phối hợp câu hỏi tự luận với trắc nghiệm theo hướng
hạn chế câu hỏi tái hiện kiến thức, tăng cường câu hỏi thông hiểu và vận dụng kiến
thức trong cuộc sống.
Hiện nay, thường sử dụng câu hỏi tự luận và câu hỏi trắc nghiệm.
CÂU HỎI TỰ LUẬN :
* Phân loại câu hỏi tự luận theo 6 mức độ từ thấp đến cao của B.S
Bloom: nhận biết, thông hiểu, vận dụng, phân tích, tổng hợp, đánh giá . Hiện
nay, ở cấp THCS, THPT, đang sử dụng phổ biến các câu hỏi tự luận theo 3
mức độ : nhận biết, thông hiểu, vận dụng.
1.- Câu hỏi tự luận nhận biết.
Là loại câu hỏi chỉ yêu cầu học sinh trình bày lại nội dung đã học.
2.- Câu hỏi tự luận thông hiểu
Là câu hỏi yêu cầu học sinh dùng ngôn ngữ riêng để trình bày lại kiến thức
đã học, tự rút ra kết luận hoặc nhận xét, đánh giá, giải thích,... về một vấn đề
nào đó.
3.- Câu hỏi tự luận vận dụng
Loại câu hỏi này yêu cầu HS có thể liên hệ, phân tích, đánh giá một vấn đề
trong thực tế phù hợp với lứa tuổi hoặc đưa ra cách ứng xử phù hợp trong một
tình huống cụ thể (bài tập tình huống)
* Ưu điểm và nhược điểm của câu hỏi tự luận
- Ưu điểm:
+ Ít tốn thời gian công sức khi soạn đề.
+ Nếu sử dụng một cách hợp lí, câu hỏi tự luận có thể đánh giá được các
cấp độ tư duy ở mức độ cao và khả năng viết của học sinh.
+ Giúp GV dễ nhận thấy nhược điểm, hạn chế trong nhận thức, thái độ
cũng như trong tư duy của HS để kịp thời điều chỉnh việc dạy và học.
- Nhược điểm :
+ Câu hỏi tự luận thường chỉ kiểm tra được nội dung đã học trong một
phạm vi hẹp và HS mất nhiều thời gian để trả lời cho một câu hỏi;
13 - THCS
+ Các câu trả lời của học sinh có thể rất đa dạng, giáo viên mất nhiều
thời gian chấm bài nên việc đánh giá có thể thiếu chính xác.
CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM KHÁCH QUAN
* Phân loại :
- Trắc nghiệm lựa chọn
- Trắc nghiệm đúng - sai
- Trắc nghiệm ghép đôi
- Trắc nghiệm điền khuyết
* Ưu điểm, nhược điểm của trắc nghiệm khách quan
- Ưu điểm :
+ Chấm điểm nhanh, khá chính xác và khách quan.
+ Cung cấp phản hồi nhanh về kết quả học tập của học sinh.
+ Có thể kiểm tra, đánh giá trên diện rộng, trong một khoảng thời gian
ngắn.
+ Đánh giá được khả năng nhận thức, vận dụng kiến thức của học sinh,
hạn chế học tủ, học lệch.
- Nhược điểm :
+ Khó đánh giá những mức độ nhận thức cao hơn của học sinh như phân
tích, tổng hợp, đánh giá.
+ Dễ xảy ra lựa chọn theo cảm tính, dễ đoán mò, dễ quay cóp.
+ Khó đánh giá được khả năng tư duy, suy luận, kĩ năng viết, kĩ năng
nói… của học sinh.
+ Soạn đề kiểm tra khó, chuẩn bị đề kiểm tra mất nhiều thời gian.
+ Không tạo được điều kiện cho học sinh tự phát hiện và giải quyết vấn
đề.
Nhìn chung, càng nhiều câu hỏi ở mỗi nội dung, mỗi mức độ nhận thức
thì kết quả đánh giá càng có độ tin cậy cao ; hình thức câu hỏi đa dạng sẽ tránh
được sự nhàm chán đồng thời tạo hứng thú, khích lệ học sinh tập trung làm bài.
14 - THCS
e. Yêu cầu của đáp án (câu hỏi tự luận):
* Đối với dạng “đề mở”, giáo viên cần tôn trọng cách giải quyết vấn đề,
cách diễn đạt của học sinh;
* Không bắt buộc học sinh phải trả lời giống hoàn toàn đáp án mà chỉ cần
đảm bảo đúng và đủ ý;
* Nếu câu hỏi có yêu cầu học sinh phải trình bày ví dụ thì đáp án phải
chuẩn bị sẵn nhiều ví dụ.
ĐỀ KIỂM TRA VIẾT 1 TIẾT – LỚP 9
Tham khảo
-------------------------------------
15 - THCS