Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

MÔN ĐƯỜNG LỐI NGUỒN NHÂN LỰC TRONG THỜI KỲ CNHHĐH HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (245.37 KB, 22 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong thời kì công nghiệp hóa- hiện đại hóa, nguồn nhân lực là yếu tố quan
trọng quyết định sự phát triển của đất nước. Điều kiện để nâng cao năng suất lao
động, tăng trưởng và phát triển kinh tế không chỉ cần có các phương tiện công
nghệ hiện đại mà quan trọng nhất là có nguồn nhân lực tương xứng đủ lực để sử
dụng các phương tiện đó.
Việt Nam được thế giới đánh giá có lợi thế dân số đông, đang trong thời kì
“dân số vàng” nên lực lượng trong độ tuổi lao động khá dồi dào. Đây là nguồn
lực quan trọng để nước ta thực hiện thành công chiến lược phát triển kinh tế- xã
hội giai đoạn 2011-2020 đã được Đại hội Đảng XI thông qua ngày 16/2/2011.
Tuy nhiên, ở nước ta hiện nay chất lượng nguồn nhân lực chưa được quan tâm
đúng mức và còn tồn tại nhiều yếu kém, hạn chế.
Trong thời kì hội nhập và xu thế toàn cầu hóa tạo ra rất nhiều cơ hội nhưng
kèm theo đó là những thách thức lớn. Dân tộc ta từ xưa đã khẳng định: “ Hiền
tài là nguyên khí quốc gia” – phát triển nguồn nhân lực là yếu tố mang tính
quyết định đến sự thành bại và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Nắm bắt
được tầm quan trọng đó nhóm 1 đã lựa chọn đề tài “ Phát triển nguồn nhân lực
trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay ở Việt Nam” để có thể
tìm hiểu và có cái nhìn thực tế về nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay với
đường lối phát triển của Đảng.
Tuy đã hoàn thành bài thảo luận nhưng đề tài của nhóm không thể tránh khỏi
những thiếu sót nhất định, mong thầy xem xét và bổ sung thêm để đề tài của
nhóm 1 được hoàn thiện hơn. Chúng em xin chân thành cảm ơn thầy !


I.
1.

LÝ LUẬN CHUNG.
Khái niệm:


- Nguồn nhân lực: Theo định nghĩa liên hợp quốc: “ Nguồn nhân lực là trình độ
lành nghề, là kiến thức và năng lực của toàn bộ cuộc sống con người hiện có
thực tế hoặc tiềm năng để phát triển kinh tế- xã hội trong một cộng đồng.
Nguồn nhân lực theo nghĩa hẹp và để có thể lượng hóa được trong công tác kế
hoạch hóa ở nước ta được quy định là một bộ phận của dân số bao gồm những
người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động theo quy định của Bộ luật lao
động Việt Nam( Nam đủ 15 tuổi đến hết 60 tuổi, nữ đủ 15 tuổi đến hết 55 tuổi).
Trên cơ sở đó một số nhà khoa học Việt Nam đã xác định nguồn nhân lực hay
nguồn lực con người bao gồm lực lượng lao động và lao động dự trữ. Trong đó
lực lượng lao động được xác định là người lao động làm việc và người trong độ
tuổi lao động có nhu cầu nhưng không có việc làm( người thất nghiệp).Lao động
dự trữ bao gồm học sinh trong độ tuổi lao động.
- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện
các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội, từ sử
dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sưc lao động
với công nghệ, phương tiện với phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát
triển công nghiệp và tiến độ khoa học, công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã
hội cao.
2. Con người là mục tiêu của sự nghiệp Công nghiệp hóa- Hiện đại hóa
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Muốn chủ nghĩa cộng sản thực hiện đang cần
phải có kỹ nghệ, nông nghiệp và tất cả mọi người đều được phát triển hết khả
năng của mình”. Đó chính là mục tiêu mà chủ nghĩa xã hội hướng tới: giải
phóng con người nhằm phát triển mọi tiềm năng, giá trị nhân cách của con
người. Trong sự nghiệp đổi mới đất nước Đảng Việt Nam xác định: “ Phát triển
con người, với tư cách vừa là động lực, vừa là mục đích của cách mạng, của sự


nghiệp đổi mới đất nước”. Đây cũng là mục tiêu nhân văn của nền văn hóa tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc: “ Nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhằm mục

tiêu tất cả vì con người, vì hạnh phúc và sự phát triển phong phú, tự do, toàn
diện của con người”.
Con người trong quan niệm của Hồ Chí Minh và của Đảng ta không phải là con
người trừu tượng mà là những các nhân, những tập thể, những tầng lớp người cụ
thể. Vì hạnh phúc của mỗi người “dân” của “đồng bào” và của cả dân tộc Việt
Nam là mục tiêu phấn đấu của Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Ngay trong thời kỳ cách mạng giành độc lập cho dân tộc, Hồ Chí Minh đã nói: “
Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được
hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm no, áo
mặc, ai cũng được học hành”. Ngày nay trong sụ nghiệp Công nghiệp hóa-Hiện
đại hóa đất nước để đi lên Chủ Nghĩa Cộng Sản, mục tiêu xây dựng con người
được đặt ra một cách thiết thực, trực tiếp.
Vấn đề con người là mục tiêu của sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội ở nước ta
là một vấn đề có tính chiến lược. Đại hội của Đảng đã đề ra đường lối và chiến
lược phát triển kinh tế xã hội:
Xuất phát từ tình hình hiện nay và yêu cầu phát triển đất nước trong thời kỳ mới,
đường lối kinh tế của Đảng ta được xác định là đẩy mạnh Công nghiệp hóa-Hiện
đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ đưa nước ta thành một nước công
nghiệp, ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất phù hợp theo định hướng Xã Hội
Chủ Nghĩa, phát huy cao nội lực đồng thời tranh thủ nguồn lực từ bên ngoài và
chủ động hội nhập kinh tế để phát triển văn hóa, từng bước cái thiện cơ sở vật
chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và
cải thiện môi trường; kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường quốc
phòng, an nhinh và trật tự xã hội.


Đây là con đường phát triển bền vững đất nước ta nhằm mục tiêu: “Dân
giàu,nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Hay nói cách khác là
con đường phát triển nhắm tới một mục tiêu kép: vừa phát triển kinh tế, vừa phát
triển con người và xã hội, vừa phấn đấu để dân giàu, nước mạnh, công bằng xã

hội và dân chủ, văn minh.Lấy phát triển con người làm mục tiêu chiến lược,
chúng ta cần chú ý đến những vấn đề sau:
Cần quan tâm đến lượi ích của con người, gồm lợi ích vật chất và lợi ích tinh
thần, trước hết là lợi ích vật chất. Hồ Chí Minh cho rằng: “ Không có chế độ nào
tôn trọng con người, chú ý xem lợi ích cá nhân đúng đắn và bảo đảm cho nó
được thỏa mãn bằng chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa”.
Cần bảo đảm và phát huy quyền dân chủ của nhân dân trong đời sống xã hội bắt
đầu từ cơ sở trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội. Đặc biệt phát huy tinh
thần làm chủ của nhân đan trong sự nghiệp đổi mới Công nghiệp hóa-Hiện đại
hóa đất nước, Hồ Chí Minh đã khẳng định:
“Bao nhiêu lợi ích đều vì dân
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân
Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân.
Sự nghiệp kháng chiến kiến quốc là công việc của dân” .
Cần bảo đảm và thực hiện sự bình đẳng giữa nhứng cá nhân, nhóm cộng đồng
về cơ hội phát triển, tạo điều kiện cho mọi người và các nhóm, cộng đồng có
điều kiện phát triển kinh tế- xã hội trong từng giai đoạn cụ thể.
Cần phát huy sức mạnh của nhân dân, của khối đoàn kết dân tộc, xây dựng nhà
nước của dân, do dân, vì đan. Phát triển kinh tế đi đôi với bảo vệ Tổ quốc vì
hạnh phúc của nhân dân.
3. Vai trò của con người trong quá trình Công nghiệp hóa- Hiện đại hóa.


Từ cách tiếp cận mới, Đảng ta chỉ ra vai trò quyết định của con người trong quá
trình Cộng nghiệp hóa- Hiện đại hóa đất nước. Con người không chỉ là trung
tâm của sự phát triển kinh tế - xã hội với tư cách là mục tiêu mà còn là động lực
và là nhân tố bảo đảm cho quá trình Công nghiệp hóa- Hiện đại hóa đất nước
thành công.
Nói con người là động lực của sự phát triển là nói tới vai trò của nguồn lực cong
người bao gồm các yếu tố tri thức, kỹ năng, ý chí, tình cảm, đạo đức… của con

người trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Nghị quyết của Hội
nghị lần thứ 5 Ban Chấp Hành TW khóa VIII đã chỉ rõ điều đó : “Đẩy mạnh
Công nghiệp hoa- Hiện đại hóa đất nước, thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây
dựng và bảo vệ Tổ Quốc vì : “dân giàu , nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn
minh”, là sự nghiệp xây dựng và sáng tạo to lớn của nhân dân ta, đồng thời là
một quá trình cải biến của xã hội sâu săc, đòi hỏi phát huy hết khả năng và trí
tuệ ở con người Việt Nam.
Để phát triển kinh tế xã hội ở nước ta trong thời kỳ quá độ lên Chủ Nghĩa Xã
Hội, chúng ta cần rất nhiều nguồn lực như: Nguồn lực khoa học và công nghệ;
nguồn lực tài chính; nguồn lực tài nguyên thiên nhiên; nguồn lực lao động…
Trong các nguồn lực trên đều có vai trò của con người, con người với tu cách là
nhân tố liên kết tích hợp, tổng hợp các nguồn lực thành động lực thúc đẩy sự
phát triển kinh tế-xã hội. Hay có thể nói đó chính là nguồn lực giúp con người
tham gia vào quá trình phát triển và đóng vai trò chủ đạo trong quá trình đó.
Yếu tố đầu tiên của nguồn lực con người là tri thức, kỹ năng nghề nghiệp bí
quyết hành nghề. Trong thời đại khoa học, công nghệ và sự biến đổi liên tục của
nền kinh tế thị trường thì mới đảm bảo cho nền kinh tế phát triển bền vững và ổn
định.
Ngày nay, trong nền kinh tế tri thức, khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực
tiếp. Sản sinh, truyền bá và sử dụng tri thức là yếu tố quyết định nhất đối với
tăng trưởng kinh tế, làm giàu của cải vật chất, nâng cao chất lượng sống. Kinh tế


tri thức là giai đoạn phát triên mứi của lực lượng sản xuất của loài người, từ chỗ
chủ yếu sử dụng nguồn lực vật chất sang nguồn lực trí tuệ. Tri thức là yếu tố
quyết định đối với sự tăng trưởng kinh tế, làm giàu của cải vật chất.
II. THỰC TRẠNG NGUỒN NHÂN LỰC TRONG THỜI KỲ CNH, HĐH
TẠI VIỆT NAM:
1. Điểm mạnh ( ưu thế ) nguồn nhân lực nước ta hiện nay
Dân số Việt Nam, 2000-2018

Năm

Dân số (triệu người)

Tỷ lệ phát triển (%)

2000

80.285

1,32

2005

84.203

0,96

2009
2010
2012
2015
2016
2017

86.025
88.357
88,773
93.447
94.444

95.414

1,06
0,97
1,06
1,13
1,07
1,03

Nguồn: Tổng cục Thống kê, Số liệu Thống kê Việt Nam, 2000-2017; Tổng điều
tra dân số và nhà ở 2000-2010; Niên giám Thống kê 2017.
Theo Tổng cục Thống kê, năm 2018, Việt Nam có khoảng 94 triệu lao động,
trong đó, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên chiếm khoảng 55,16 triệu người.
Tỷ lệ lao động 15 tuổi trở lên có việc làm năm 2018 ước tính là 54 triệu người,
bao gồm 20,9 triệu người đang làm việc ở khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản
(chiếm 38,6%); khu vực công nghiệp và xây dựng 14,4 triệu người (chiếm
26,7%); khu vực dịch vụ 18,7 triệu người (chiếm 34,7%).
Đồng thời, năng suất lao động của Việt Nam thời gian qua đã có sự cải thiện
đáng kể theo hướng tăng đều qua các năm và là quốc gia có tốc độ tăng năng
suất lao động cao trong khu vực ASEAN. Theo Tổng cục Thống kê, năng suất
lao động toàn nền kinh tế theo giá hiện hành năm 2018 ước tính đạt 102 triệu


đồng/lao động (tương đương 4.512 USD), tăng 346 USD so với năm 2017. Tính
theo giá so sánh, năng suất lao động năm 2018 tăng 5,93% so với năm 2017,
bình quân giai đoạn 2016-2018 tăng 5,75%/năm, cao hơn mức tăng 4,35%/năm
của giai đoạn 2011-2015.
Song song với đó, chất lượng lao động Việt Nam trong những năm qua cũng đã
từng bước được nâng lên; Lao động qua đào tạo đã phần nào đáp ứng được yêu
cầu của doanh nghiệp và thị trường lao động. Lực lượng lao động kỹ thuật của

Việt Nam đã làm chủ được khoa học - công nghệ, đảm nhận được hầu hết các vị
trí công việc phức tạp trong sản xuất kinh doanh mà trước đây phải thuê chuyên
gia nước ngoài…
2. Điểm yếu ( hạn chế ) nguồn nhân lực nước ta hiện nay
a. Về số lượng lao động
Lực lượng lao động nước ta hiện nay khoảng 52.207.000 người; hàng năm
trung bình có khoảng 1,5-1,6 triệu thanh niên bước vào tuổi lao động.
Quy mô dân số đông, lực lượng dồi dào đó là sức mạnh của quốc gia, là
yếu tố cơ bản để mở rộng và phát triển sản xuất. Nhưng đối với các nước có
nền kinh tế chưa phát triển mạnh mẽ, trong đó có nước ta, khả năng mở rộng
và phát triển sản xuất rất hạn chế, nguồn vốn trang thiết bị, nguyên nhiên vật
liệu thiếu thốn, cơ sở hạ tầng yếu kém,….thì nguồn lao động đông, thiếu việc
làm là bài toán nan giải mà nước ta đã đang và sẽ tiếp tục giải quyết trong thời
gian tới.


Tỷ lệ thiếu việc làm, tỷ lệ thất nghiệp trong tuổi lao động theo quý năm
2017 và năm 2018

b.Về chất lượng nguồn nhân lực con người


Về thể lực:

Theo kết quả điều tra của các cơ quan chức năng, mặc dù thể lực và tầm vóc
người Việt Nam đã có được bước phát triển khá trong những năm gần đây,
nhưng so với các tiêu chuẩn chung của quốc tế thì vẫn còn khiêm tốn, thua
kém nhiều nước ngay trong khu vực như Thái Lan, Singapore hay châu lục
như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc. Bởi vậy, nếu chậm được khắc phục,
tình trạng này sẽ ảnh hưởng xấu tới chất lượng nguồn nhân lực trong quá trình

hội nhập kinh tế quốc tế cũng như công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa
đất nước.


Về trí lực


Trình độ văn hóa của lực lượng lao động

Nhìn vào bảng số liệu trên,có thể thấy trình độ học vấn cấp THCS ở nước ta
là cao nhất (chiếm 30.3%), số người không biết chữ chiếm tỷ lệ nhỏ(3.7%
trên cả nước). Mặc dù tỷ lệ người biết chữ khá là cao nhưng trình độ chuyên
môn kỹ thuật của nước ta còn thấp(chỉ đạt 18.2%). Cụ thể: lao động nam
chiếm 20.4% cao hơn so với lao động nữ (15.8%), tỷ lệ lao động nữ được
đào tạo có trình độ chuyên môn kỹ thuật rất ít và còn chênh lệch khá nhiều
so

với

nam

giới.

Vì vậy, phát triển giáo dục, đào tạo lao động có trình độ chuyên môn cao là
việc làm cần thiết hiện nay đặc biệt là lao động nữ.
Số lượng nhân lực được tuyển để đào tạo ở các cấp tăng nhanh. Điều này có
thể được xem như là một thành tựu quan trọng trong lĩnh vực đào tạo nhân
lực. Theo số liệu thống kê sơ bộ năm 2018, số sinh viên đại học và cao đẳng
là 2.058.922 người, số tốt nghiệp là 405.900 người; số học sinh các trường
trung cấp chuyên nghiệp là 421.705 người. Tuy nhiên, chất lượng đào tạo, cơ

cấu theo ngành nghề, lĩnh vực, sự phân bố theo vùng, miền, địa phương,…
chưa đồng nhất, chưa thực sự phù hợp với nhu cầu sử dụng của xã hội, gây
lãng phí nguồn lực của Nhà nước và xã hội.


 Về phẩm chất đạo đức-tinh thần của con người Việt Nam.
Phẩm chất về văn hóa nghề nghiệp
Trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường và nền sản xuất công
nghiệp hiện đại, lao động nước ta cũng bộc lộ những nhược điểm rất cơ bản.
Từ nền sản xuất nông nghiệp tự cung, tự cấp chuyển sang nền sản xuất hàng
hóa và công nghiệp hiện đại, người lao động còn bị ảnh hưởng nặng nề tư
tưởng, thói quen của nền sản xuất tiểu nông manh mún, thiếu tính toán hiệu
quả kinh tế, lãng phí ...; tác phong công nghiệp chưa trở thành phổ biến, nên
tính tự do, ý thức chấp hành luật pháp, kỷ luật trong lao động còn yếu...; khả
năng làm việc theo nhóm, làm việc trong môi trường đa văn hóa, đa sắc tộc...
còn rất hạn chế, đặc biệt là những rào cản về văn hóa, về ngôn ngữ khi có yếu
tố lao động nước ngoài hoặc làm việc ở nước ngoài
Phẩm chất về năng lực thích ứng và năng động
Phẩm chất này của người lao động thể hiện ở sự định hướng đúng nghề
nghiệp để học lấy một nghề phù hợp với tư chất, sở thích, năng lực bản thân,
hoàn cảnh gia đình và nhu cầu của thị trường; ở ý thức và ý chí quyết tâm
trong học tập, học tập suốt đời; kỹ năng nắm bắt nhanh nhậy thông tin thị
trường; kỹ năng trả lời phỏng vấn, đàm phán, thỏa thuận; khả năng sẵn sàng
di chuyển, thay đổi việc làm trên thị trường lao động; khả năng ứng phó với
các cú sốc, các rủi ro trong kinh tế thị trường, nhất là do doanh nghiệp phá
sản, khủng hoảng kinh tế, cải cách thể chế...dẫn đến bị sa thải, bị thiếu việc
làm và thất nghiệp.
3. Nguyên nhân nguồn lực nước ta còn yếu kém , chưa khai thác tối đa và hiệu
quả nguồn nhân lực
Tuy Việt Nam là nước phát triển theo hướng CNH, HĐH nhưng nông nghiệp

vẫn là ngành kinh tế quan trọng nhất . Tính chất nông thôn và sự phụ thuộc vào
nông nghiệp thể hiện ở một tỉ trọng lớn trong tổng số người có việc làm nằm ở
hai nhóm chỉ số về vị thế việc làm , đó là lao động tự làm và lao động gia đình
không được trả công và trả lương. Hai nhóm người này chiếm 2/3 đến 3/4 tổng


số người có việc làm năm 2009 , có nghĩa là một tỉ lệ lớn trong tổng số việc làm
là dễ bị tổn thương, có nguy cơ thiếu việc làm bền vững , những chỉ số này là
một trong những nguyên nhân làm nguồn nhân lực của Việt Nam bị yếu kém.
Ngân hàng Thế giới đánh giá Việt Nam đang thiếu lao động có trình độ tay nghề,
công nhân kỹ thuật bậc cao. Trình độ ngoại ngữ của lao động Việt Nam chưa cao
nên gặp nhiều khó khăn trong quá trình hội nhập. Những hạn chế, yếu kém của
nguồn nhân lực là một trong những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến năng lực
cạnh tranh của nền kinh tế.
Nghiên cứu của Viện Khoa học, Lao động và Xã hội (2016) cũng cho thấy, mức
độ đáp ứng về kỹ năng do thay đổi công nghệ của lao động trong các doanh
nghiệp điện tử và may rất thấp.
Trừ kỹ năng an toàn và tuân thủ kỷ luật lao động có tỷ lệ doanh nghiệp được
khảo sát đánh giá tốt và rất tốt về mức độ đáp ứng kỹ năng của lao động so với
yêu cầu công nghệ mới khá cao (72% với ngành điện tử và 50% với ngành may
mặc), các kỹ năng còn lại đều có tỷ lệ doanh nghiệp đánh giá tốt/rất tốt là khá
thấp, đặc biệt đối với ngành may mặc.
Mặc dù tăng nhanh nhưng quy mô lao động trình độ tay nghề cao vẫn còn nhỏ
bé so với yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc
tế.
Số lao động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật, thậm chí nhóm có trình độ
chuyên môn cao có khuynh hướng hiểu biết lý thuyết khá, nhưng lại kém về
năng lực thực hành và khả năng thích nghi trong môi trường cạnh tranh công
nghiệp; vẫn cần có thời gian bổ sung hoặc đào tạo bồi dưỡng để sử dụng hiệu
quả.

Khả năng làm việc theo nhóm, tính chuyên nghiệp, năng lực sử dụng ngoại ngữ
là công cụ giao tiếp và làm việc của nguồn nhân lực còn hạn chế.
Mặt khác, tỷ lệ lao động có kỹ năng cao trong các ngành sản xuất chủ lựccủa
Việt Nam rất thấp. Theo báo cáo lao động và việc làm của Tổng cục Thống kê,
năm 2014, Việt Nam có gần 5,4 triệu lao động có trình độ kỹ năng cao, trong đó


tập trung nhiều nhất trong ngành GD-ĐT (chiếm 30% số lao động trình độ cao,
tỷ trọng lao động trình độ cao chiếm 88,4% lao động của ngành), hoạt động của
Đảng, tổ chức chính trị xã hội, quản lý Nhà nước và an ninh quốc phòng (chiếm
19%), y tế và hoạt động trợ giúp xã hội (chiếm 8%).
Tuy nhiên, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo – là ngành chủ lực trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa chỉ chiếm 9% tổng số lao động trình độ cao,
trong khi với các nước phát triển tỷ lệ này lên đến 40 – 60%.
Thực trạng nguồn nhân lực của Việt Nam hiện nay cho thấy trong số những lao
động có kỹ năng cao, có đến gần 1,4 triệu người (tương đương 1/4) không có
bằng cấp hoặc chỉ có bằng sơ cấp, trung cấp; người có trình độ đào tạo CĐ trở
lên chiếm 74,3% lao động có kỹ năng cao.
4. Giải pháp, đề xuất nhằm phát huy nguồn lực nước ta.
a. Gắn kết chiến lược phát triển nhân lực và kinh tế


Bảo đảm quyền tự do kinh doanh và bình đẳng giữa các thành phần kinh

tế. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp
nhà nước, nhất là các tập đoàn kinh tế và các tổng công ty. Sớm hoàn thiện thể
chế quản lý hoạt động của các tập đoàn, các tổng công ty nhà nước. Đẩy mạnh
cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước; xây dựng một số tập đoàn kinh tế mạnh, đa
sở hữu, trong đó sở hữu nhà nước giữ vai trò chi phối. Phân định rõ quyền sở
hữu của Nhà nước và quyền kinh doanh của doanh nghiệp, hoàn thiện cơ chế

quản lý vốn nhà nước trong các doanh nghiệp. Tạo điều kiện thuận lợi để kinh tế
tập thể phát triển đa dạng, mở rộng quy mô; có cơ chế, chính sách hợp lý trợ
giúp các tổ chức kinh tế hợp tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, mở rộng thị trường,
ứng dụng công nghệ mới, tiếp cận vốn. Khuyến khích phát triển các loại hình
doanh nghiệp, các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh với sở hữu hỗn hợp,
nhất là các doanh nghiệp cổ phần.


Hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát triển mạnh kinh tế tư nhân theo quy

hoạch và quy định của pháp luật, thúc đẩy hình thành các tập đoàn kinh tế tư
nhân, khuyến khích tư nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước. Thu hút


đầu tư nước ngoài có công nghệ hiện đại, thân thiện môi trường và tăng cường
sự liên kết với các doanh nghiệp trong nước. Thực hiện Chương trình quốc gia
về phát triển doanh nghiệp gắn với quá trình cơ cấu lại doanh nghiệp. Hỗ trợ
phát triển mạnh các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Tạo điều kiện để hình thành các
doanh nghiệp lớn, có sức cạnh tranh trên thị trường. Phát triển doanh nhân về số
lượng và năng lực quản lý, đề cao đạo đức và trách nhiệm xã hội. Hoàn thiện
khuôn khổ pháp luật để tăng cường sự gắn bó giữa người sử dụng lao động và
người lao động.


Chú trọng phát triển công nghiệp phục vụ nông nghiệp, nông thôn, năng

lượng sạch, năng lượng tái tạo và vật liệu mới đi đôi với áp dụng công nghệ tiết
kiệm năng lượng, nguyên liệu. Từng bước phát triển công nghiệp sinh học và
công nghiệp môi trường. Tiếp tục phát triển phù hợp các ngành công nghiệp sử
dụng nhiều lao động.



Đa dạng hoá hình thức đầu tư, khuyến khích và tạo điều kiện cho các

thành phần kinh tế, kể cả đầu tư nước ngoài tham gia phát triển kết cấu hạ tầng.
Nâng cao vị thế của người lao động trong quá trình sx, tạo điều kiện cho mọi
người dân làm chủ cụ thể những tư liệu sản xuất của toàn xã hội, ở mọi thành
phần kinh tế. Huy động mọi người dân đóng góp ý kiến xây dựng kế hoạch phát
triển inh tế xã hội của đất nước, địa phương, của đơn vị mình. Phát huy sáng
kiến của người lao động, động viên mọi người dân bỏ vốn để sản xuất kinh
doanh, phát huy trình độ tay nghề, năng lực quản lý của mỗi thành viên trong xã
hội, để cùng nhà nước giải quyết những khó khăn của đất nước. Tăng cường
giáo dục đạo đức, khơi dậy lương tâm nghề nghiệp, nêu cao trách nhiệm của mỗi
người trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Điều đó vừa tạo điều kiện cho xã
hội phát triển, vừa là điều kiện sản xuất kinh doanh có hiệu quả.


Hoàn thiện cơ chế để nhân dân đóng góp ý kiến, phản biện xã hội và giám

sát công việc của Đảng và Nhà nước, nhất là về các chính sách kinh tế, xã hội,
về quy hoạch, kế hoạch, chương trình và dự án phát triển quan trọng. Quy định
chế độ cung cấp thông tin và trách nhiệm giải trình của cơ quan nhà nước trước


nhân dân. Hoàn thiện và thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở. Phát huy vai trò
của các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và của mỗi người dân trong
việc quản lý và tổ chức đời sống cộng đồng theo quy định của pháp luật.
b. Phát triển toàn diện các lĩnh vực văn hóa, xã hội hài hoà với phát triển
kinh tế



Tạo bước phát triển mạnh mẽ về văn hóa, xã hội. Tăng đầu tư của Nhà

nước, đồng thời đẩy mạnh huy động các nguồn lực của xã hội để phát triển văn
hóa, xã hội. Hoàn thiện hệ thống chính sách, kết hợp chặt chẽ các mục tiêu,
chính sách kinh tế với các mục tiêu, chính sách xã hội; thực hiện tốt tiến bộ,
công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển phù hợp với điều
kiện cụ thể, bảo đảm phát triển nhanh, bền vững.


Nâng cao thu nhập và chất lượng cuộc sống của nhân dân. Tạo cơ hội

bình đẳng tiếp cận các nguồn lực phát triển và hưởng thụ các dịch vụ cơ bản, các
phúc lợi xã hội. Thực hiện có hiệu quả hơn chính sách giảm nghèo phù hợp với
từng thời kỳ; đa dạng hóa các nguồn lực và phương thức để bảo đảm giảm
nghèo bền vững, nhất là tại các huyện nghèo nhất và các vùng đặc biệt khó
khăn. Khuyến khích làm giàu theo pháp luật, tăng nhanh số hộ có thu nhập trung
bình khá trở lên. Có chính sách và các giải pháp phù hợp nhằm hạn chế phân
hoá giàu nghèo, giảm chênh lệch mức sống giữa nông thôn và thành thị.


Hoàn thiện hệ thống chính sách và cơ chế cung ứng dịch vụ công cộng

thích ứng với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước
không ngừng nâng cao mức bảo đảm các dịch vụ công cộng thiết yếu cho nhân
dân.


Thực hiện tốt các chính sách về lao động, việc làm, tiền lương, thu nhập


nhằm khuyến khích và phát huy cao nhất năng lực của người lao động. Bảo đảm
quan hệ lao động hài hoà, cải thiện môi trường và điều kiện lao động. Đẩy mạnh
dạy nghề và tạo việc làm. Nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động đưa người
lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài. Hỗ trợ học nghề và tạo việc làm
cho các đối tượng chính sách, người nghèo, lao động nông thôn và vùng đô thị


hoá. Phát triển hệ thống an sinh xã hội đa dạng, ngày càng mở rộng và hiệu quả.
Phát triển mạnh hệ thống bảo hiểm như bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp,
bảo hiểm tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp... Khuyến khích và tạo điều kiện
thuận lợi để người lao động tiếp cận và tham gia các loại hình bảo hiểm. Thực
hiện tốt các chính sách ưu đãi và không ngừng nâng cao mức sống đối với người
có công. Mở rộng các hình thức trợ giúp và cứu trợ xã hội, nhất là đối với các
đối tượng khó khăn.


Tập trung xây dựng đời sống, lối sống và môi trường văn hóa lành mạnh;

coi trọng văn hóa trong lãnh đạo, quản lý, văn hóa trong kinh doanh và văn hóa
trong ứng xử. Chú trọng xây dựng nhân cách con người Việt Nam về lý tưởng,
trí tuệ, đạo đức, lối sống, thể chất, lòng tự tôn dân tộc, trách nhiệm xã hội, ý thức
chấp hành pháp luật, nhất là trong thế hệ trẻ. Phát huy giá trị truyền thống tốt
đẹp, xây dựng gia đình Việt Nam ấm no, tiến bộ, hạnh phúc; thực hiện tốt bình
đẳng giới, sự tiến bộ của phụ nữ; chăm sóc, giáo dục và bảo vệ quyền trẻ em.
Bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân theo quy định của pháp
luật. Khuyến khích tự do sáng tạo trong hoạt động văn hóa, văn học nghệ thuật
để tạo ra nhiều sản phẩm có giá trị cao, có sức lan tỏa lớn, xứng đáng với tầm
vóc của dân tộc. Xây dựng và nâng cấp đồng bộ hệ thống thiết chế văn hóa, thể
thao. Coi trọng bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa dân tộc. Nâng cao mức
hưởng thụ văn hóa của nhân dân.



Nâng cao chất lượng hệ thống thông tin, báo chí, internet, xuất bản. Bảo

đảm quyền được thông tin và cơ hội tiếp cận thông tin của nhân dân, đặc biệt ở
các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc. Tiếp tục đổi mới cơ chế và nâng
cao hiệu quả quản lý, đẩy mạnh xã hội hóa các lĩnh vực văn hóa, thông tin, hình
thành thị trường văn hóa lành mạnh. Đấu tranh chống các biểu hiện phi văn hóa,
suy thoái đạo đức, lối sống, tác động tiêu cực của các sản phẩm văn hóa thông
tin đồi trụy, kích động bạo lực. Đẩy mạnh phòng, chống tội phạm và các tệ nạn
xã hội; giảm tệ nạn ma túy, mại dâm; ngăn chặn có hiệu quả tai nạn giao thông.
Nâng cao chất lượng phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa;


xây dựng xã, phường, khu phố, thôn, bản đoàn kết, dân chủ, kỷ cương, văn
minh, lành mạnh.
c. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đổi mới toàn diện và phát triển nhanh
giáo dục và đào tạo


Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực

chất lượng cao là một đột phá chiến lược, là yếu tố quyết định đẩy mạnh phát
triển và ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô
hình tăng trưởng và là lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, bảo đảm cho phát triển
nhanh, hiệu quả và bền vững. Đặc biệt coi trọng phát triển đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý giỏi, đội ngũ chuyên gia, quản trị doanh nghiệp giỏi, lao động lành
nghề và cán bộ khoa học, công nghệ đầu đàn. Đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng
yêu cầu đa dạng, đa tầng của công nghệ và trình độ phát triển của các lĩnh vực,
ngành nghề. Thực hiện liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp, cơ sở sử dụng

lao động, cơ sở đào tạo và Nhà nước để phát triển nguồn nhân lực theo nhu cầu
xã hội. Thực hiện các chương trình, đề án đào tạo nhân lực chất lượng cao đối
với các ngành, lĩnh vực chủ yếu, mũi nhọn. Chú trọng phát hiện, bồi dưỡng, phát
huy nhân tài; đào tạo nhân lực cho phát triển kinh tế tri thức.


Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Đổi mới căn bản, toàn diện nền

giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hóa
và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội
ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt. Tập trung nâng cao chất
lượng giáo dục, đào tạo, coi trọng giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo,
kỹ năng thực hành, khả năng lập nghiệp. Đổi mới cơ chế tài chính giáo dục.
Thực hiện kiểm định chất lượng giáo dục, đào tạo ở tất cả các bậc học. Xây
dựng môi trường giáo dục lành mạnh, kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường với gia
đình và xã hội.


Mở rộng giáo dục mầm non, hoàn thành phổ cập mầm non 5 tuổi. Thực

hiện phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở với chất lượng ngày càng cao.
Phát triển mạnh và nâng cao chất lượng dạy nghề và giáo dục chuyên nghiệp. Rà


soát, hoàn thiện quy hoạch và thực hiện quy hoạch mạng lưới trường đại học,
cao đẳng và dạy nghề trong cả nước. Thực hiện đồng bộ các giải pháp để nâng
cao chất lượng giáo dục đại học, bảo đảm cơ chế tự chủ gắn với nâng cao trách
nhiệm xã hội của các cơ sở giáo dục, đào tạo. Tập trung đầu tư xây dựng một số
trường, khoa, chuyên ngành mũi nhọn, chất lượng cao.



Đổi mới mạnh mẽ nội dung, chương trình, phương pháp dạy và học ở tất

cả các cấp, bậc học. Tích cực chuẩn bị để từ sau năm 2015 thực hiện chương
trình giáo dục phổ thông mới. Mở rộng và nâng cao chất lượng đào tạo ngoại
ngữ. Nhà nước tăng đầu tư, đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa, huy động toàn xã
hội chăm lo phát triển giáo dục. Phát triển nhanh và nâng cao chất lượng giáo
dục ở vùng khó khăn, vùng núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Đẩy mạnh
phong trào khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập; mở rộng các
phương thức đào tạo từ xa và hệ thống các trung tâm học tập cộng đồng, trung
tâm giáo dục thường xuyên. Thực hiện tốt bình đẳng về cơ hội học tập và các
chính sách xã hội trong giáo dục.
d. Bảo đảm an ninh chính trị và trật tự, mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động
hội nhập quốc tế


Tăng cường tiềm lực quốc phòng, bảo đảm vững chắc độc lập, chủ quyền,

thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia cả ở đất liền, vùng trời, vùng biển và
hải đảo. Giữ vững hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước.


Bố trí thế trận quốc phòng, an ninh phù hợp với tình hình mới. Gắn kết

quốc phòng với an ninh. Kết hợp chặt chẽ quốc phòng, an ninh với phát triển
kinh tế-xã hội trên từng địa bàn lãnh thổ, trong công tác quy hoạch, kế hoạch và
các chương trình, dự án. Bảo đảm an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội,
quan tâm đặc biệt đến các vùng, địa bàn trọng điểm. Mở rộng phương thức huy
động nguồn lực xây dựng công nghiệp quốc phòng và nâng cao khả năng bảo
đảm của công nghiệp quốc phòng. Lồng ghép các chương trình để xây dựng các

khu kinh tế - quốc phòng ở vùng biên giới, hải đảo. Xây dựng lực lượng Quân
đội nhân dân và Công an nhân dân vững mạnh toàn diện, cách mạng, chính quy,


tinh nhuệ, từng bước hiện đại; bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân
dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững ổn định chính trị và trật tự, an toàn xã
hội; làm thất bại mọi âm mưu chống phá của các thế lực thù địch và mọi ý đồ,
hành động xâm phạm chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ; không để bị động, bất
ngờ.


Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp

tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội
nhập quốc tế; Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy và là thành viên có trách nhiệm
trong cộng đồng quốc tế; tạo môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát
triển đất nước.


Tăng cường quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước láng giềng; thúc đẩy

giải quyết các vấn đề còn tồn tại về biên giới, lãnh thổ, ranh giới biển và thềm
lục địa với các nước liên quan trên cơ sở luật pháp quốc tế và quy tắc ứng xử
của khu vực. Xây dựng đường biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác cùng phát
triển. Chủ động, tích cực và có trách nhiệm cùng các nước xây dựng cộng đồng
ASEAN vững mạnh. Kết hợp chặt chẽ đối ngoại của Đảng với ngoại giao của
Nhà nước và ngoại giao nhân dân, giữa ngoại giao chính trị với ngoại giao kinh
tế và ngoại giao văn hóa, giữa đối ngoại với quốc phòng, an ninh. Nâng cao hiệu
quả hội nhập quốc tế, góp phần xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và phát
triển nhanh, bền vững. Phát huy vai trò và nguồn lực của cộng đồng người Việt

Nam ở nước ngoài vào phát triển đất nước.


Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi để thu hút

mạnh các nguồn vốn quốc tế; thu hút các nhà đầu tư lớn, có công nghệ cao, công
nghệ nguồn; mở rộng thị trường xuất khẩu.
e. LIÊN HỆ : PHÁT HUY NGUỒN NHÂN LỰC TRONG SỰ NGHIỆP CNH,
HĐH CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI.
Trường Đại học Nội vụ Hà Nội là cơ sở giáo dục đại học công lập trực thuộc Bộ
Nội vụ, có chức năng tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực có trình độ đại
học và thấp hơn trong lĩnh vực công tác nội vụ và các ngành nghề khác có liên


quan; hợp tác quốc tế; nghiên cứu khoa học và triển khai áp dụng tiến bộ khoa
học công nghệ phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Đóng vai trò quan trọng trong
công tác đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực có trình độ cho ngành nội vụ.
Trường có 7 khoa đào tạo chuyên ngành, 9 phòng chức năng, 4 trung tâm và 1
viện nghiên cứu.Các loại hình đào tạo của Trường Đại học Nội vụ Hà Nội bao
gồm cả đào tạo chính quy, liên thông, vừa làm vừa học. Hiện nay, Trường Đại
học Nội vụ Hà Nội đang đào tạo hơn 8.800 học viên, sinh viên và đáp ứng ngày
càng rộng rãi nhu cầu học tập của các tầng lớp dân cư trong xã hội.
Tính đến hết năm 2013 - 2014 Trường Đại học Nội vụ Hà Nội đã đào tạo được
1.950 cử nhân thuộc các hệ chính quy, vừa làm vừa học và trong đó 1.450 (đạt
74,3%) học viên, sinh viên tốt nghiệp loại giỏi và khá, 416 (chiếm 21,3%) học
viên, sinh viên tốt nghiệp loại 41 trung bình khá, còn lại 84 (chiếm 4,4%) học
viên, sinh viên nào tốt nghiệp loại trung bình.Quy mô đào tạo của Trường Đại
học Nội vụ ngày một tăng, nhà trường cũng có chính sách tăng cường, mở rộng
các loại hình đào tạo mới, các chương trình hợp tác quốc tế, cũng tức là số lượng
sinh viên, học viên trong tương lai sẽ ngày một tăng. Điều này sẽ dẫn đến xu thế

phải tăng lượng cán bộ quản lý và giảng viên để đảm bảo chất lượng đào tạo.
Từ năm 2011-2014 tăng từ 3.612 sinh viên lên 8.777 sinh viên tương ứng với
2,43%, hệ đại học chính quy cũng tăng từ 1.188 sinh viên lên 3.848 sinh viên
tương ứng với 3,24%.
Phát triển quy mô trong mối quan hệ với mở rộng cơ cấu ngành, chuyên ngành
đào tạo. Đảm bảo đến năm 2015 tăng bình quân ở mức 10 - 12%/năm cùng với
việc mở rộng các ngành và chuyên ngành đào tạo. Từ năm 2015 giữ ổn định ở
mức quy mô tối ưu trong khi vẫn mở rộng ngành và chuyên ngành theo sự phát
triển của nhu cầu KT - XH. Phấn đấu đến năm 2020 quy mô đào tạo là 12.000
SV đại học chính quy, 5.000 SV đại học vừa làm vừa học, 2.000 SV các hệ đào
tạo khác, 1000 SV cao đẳng nghề.


Để có phương pháp tự học một cách có hiệu quả nhất chúng ta cần phải
làm gì?


Học tập gắn liền với làm việc : Cần phải biết tư duy chủ động tránh tình

trạng thụ động trên giảng đường.


Đánh giá đúng, chính xác về bản thân mình : Sinh viên đánh giá trung

thực tự biết được mình đang ở vị trí nào, thứ bậc nào từ đó cải thiện nâng cao
trình độ, ý thức học.Chúng ta phải hết sức tránh lối học tập hình thức, học vì
bằng cấp.


Làm việc nhóm : Vận dụng trong việc nhóm đầu tiên, sinh viên cần phải


xây dựng vai trò chính trong nhóm, đó là, bầu ra một nhóm trưởng giúp phát
triển quá trình làm việc nhóm, biết giải quyết vấn đề, phân loại vấn đề sáng tạo
và kích thích tiềm năng, phát triển vào từng thế mạnh của mỗi thành viên phân
công cho từng thành viên các nhiệm vụ cụ thể khác nhau phù hợp với năng lực
của mỗi người, tìm ra được một người có khả năng thuyết trình với mục đích
cuối cùng đó là mang lại hiệu quả tốt nhất cho bài thảo luận, hiệu quả công việc
cao.


Trau dồi kinh nghiệm: các bạn sinh viên đã biết tham gia các câu lạc bộ,

tìm kiếm việc làm thêm,... khi đang còn ngồi trên ghế giảng đường. Như vậy sẽ
giúp các bạn có nhiều kinh nghiệm sống , kinh nghiệm làm việc dễ dàng cho
công trong việc chính, chuyên ngành của mình sau này khi ra trường .


Thầy và trò đã ra sức phấn đấu, học tập và làm theo tấm gương đạo đức

Hồ Chí Minh nhằm xây dựng một thế hệ thanh niên có tư tưởng CNXH,vừa có
đức vừa có tài. Như vậy mỗi sinh viên phải hội tụ trên hai mặt học tập và tu
dưỡng đạo đức. Trước hết, sinh viên cần phải học tập tốt, đây là nhiệm vụ hàng
đầu của chúng ta. Học tốt để có kiến thức, có khả năng tác nghiệp, khẳng định
được bản thân mình và cống hiến được cho đất nước, cho xã hội. Hai là sinh
viên nên trau dồi đạo đức, sống đẹp, sống lành mạnh, có kiến thức xã hội, có văn
hoá. Hai điều này bổ trợ cho nhau để hình thành nên một nhân cách một con
người.


KẾT LUẬN

Bất cứ một sự phát triển nào đó cũng đều phải có một động lực thúc đẩy phát
triển kinh tế - xã hội được dựa trên nhiều nguồn lực: nhân lực, vật lực, tài lực.
Song chỉ có nguồn lực con người mới tạo ra động học cho sự phát triển, những
nguồn lực khác muốn phát huy tác dụng chỉ có thể thông qua nguồn lực con
người. Do vậy trong bất cứ xã hội nào, một đất nước nào, vấn đề đào tạo nguồn
nhân lực cũng đóng một vai trò cực kỳ quan trọng. Đặc biệt ở nước ta, vấn đề
này lại càng được coi trọng hơn bao giờ hết. Con người Việt Nam đã làm được
những điều kỳ diệu trong lịch sử và con người Việt Nam chắc chắn cũng làm
được những điều kỳ diệu như thế trong tương lai, trong sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
HẾT



×