A. PHẦN MỞ ĐẦU
Giáo dục mầm non là giai đoạn đầu tiên của hệ thống giáo dục quốc dân, đặt nền
móng đầu riên cho sự hình thành và phát triển nhân cách con người Việt Nam đầu
thế kỉ XXI, đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
như: chủ động, thích ứng, sáng tạo và hợp tác. Một trong những mục tiêu giáo
dục trẻ mẫu giáo là phát triển một số giá trị, nét tính cách phẩm chất và năng lực
như mạnh dạn, tự tin, tự lực sáng tạo, linh hoạt, dễ hòa nhập, dễ chia sẻ, hợp
tác…tạo điều kiện thuận lợi cho trẻ tham gia vào cuộc sống, chuẩn bị tốt cho trẻ
vào học lớp một và các bậc học sau có kết quả. Cùng với sự phát triển của xã hội
trong giai đoạn công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, sự nghiệp giáo dục mầm
non đòi hỏi có những hướng đi nhất định nhằm nâng cao chất lượng giáo dục,
thực hiện mục tiêu GDMN đã đề ra. Một trong những nhân tố quyết định đến chất
lượng giáo dục mầm non là tổ chức các hoạt động giáo dục cho trẻ ở trường mầm
non.
Trong số các hoạt động của trẻ mầm non, hoạt động tạo hình là một hoạt
động thể hiện rất rõ các đặc điểm sự phát triển tâm lý, sự sáng tạo và trí tưởng
tượng của trẻ . Đây là một hoạt động vô cùng hấp dẫn đối với trẻ. Với sự phong
phú của các thể loại như vẽ, nặn, , chắp ghép, xếp dán …,hoạt động tạo hình giúp
cho trẻ mẫu giáo không những được tiếp cận một cách tích cực với thế giới xung
quanh mà còn là cơ hội để trẻ thể hiện tình cảm, cảm xúc và suy nghĩa của bản
thân. Những sản phẩm nghệ thuật của trẻ rất ngây thơ và “trẻ con”, nhưng trong
cái non nớt ấy là cả sự tưởng tượng diệu kỳ, tự do tìm kiếm, thử nghiệm và nhờ
đó mà thoả mãn những nhu cầu khám phá cái chưa biết, nhu cầu tạo ra cái đẹp
đang không ngừng nảy sinh và phát triển ở trẻ. Chính vì vậy, hoạt động tạo hình
là mảnh đất mầu mỡ để ươm mầm và nẩy nở những mầm mống đầu tiên của tính
1
sáng tạo, phát triển tình yêu với cái đẹp, thể hiện sự sáng tạo, trí tưởng tượng
phong phú của trẻ.
Trên cơ sở tiếp thu chuyên đề “Phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ em
trong hoạt động tạo hình.” cùng với việc tìm hiểu các tài liệu và thực tiễn việc
tổ chức hoạt động tạo hình ở một số trường mầm non thành phốThanh Hóa, từ đó
có thể đưa ra một số kết luận về những phương pháp tổ chức giáo dục nhằm phát
triển khả năng sáng tạo trong hoạt động tạo hình của trẻ. Từ tìm hiểu về lí luận và
thực tiễn em đề xuất một số biện pháp nhằm phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ
trong hoạt động tạo hình, những cách thức và tiêu chuẩn cần thiết để đánh giá khả
năng sáng tạo của trẻ trong hoạt động tạo hình ở trường mầm non.
Trong giới hạn của bài điều kiện em xin trình bày một số vấn đề như sau:
1. Phân tích về lý luận và thực tiễn về tổ chức hoạt động tạo hình cho trẻ ở
trường mầm non nhằm phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ
2. Đánh giá hình thức, phương thức và hiệu quả của việc phát triển khả năng sáng
tạo của trẻ ở trường mầm non
3. Đề xuất các biện pháp nhằm tăng cường khả năng sáng tạo cho trẻ trong hoạt
động tạo hình ở trường mầm non.
2
B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG TẠO HÌNH VÀ KHẢ
NĂNG SÁNG TẠO TRONG TẠO HÌNH CỦA TRẺ EM
1. Lý luận về hoạt động tạo hình của trẻ em lứa tuổi mầm non
1.1. Khái niệm hoạt động tạo hình
Trong Từ điển Tiếng Việt, tác giả Hoàng Phê đã giải thích tạo hình là tạo ra
các hình thể bằng đường nét, màu sắc, hình khối.
Hoạt động là tiến hành những việc làm có quan hệ với nhau chặt chẽ nhằm
đạt được một mục đích nhất định trong đời sống xã hội.
Từ hai khái niệm trên, tác giả Nguyễn Thị Yến Phương trong luận án tiến sĩ
của mình đã đưa ra khái niệm “Hoạt động tạo hình” như sau:
Hoạt động tạo hình là một hoạt động nhận thức đặc biệt mang tính sáng
tạo, nó phản ánh hiện thực cuộc sống bằng những hình tượng nghệ thuật, trong đó
con người không chỉ khám phá và lĩnh hội thế giới mà còn cải tạo nó theo quy
luật của cái đẹp, gửi gắm vào đó tình cảm và tâm hồn người nghệ sĩ.
1.2. Đặc điểm của hoạt động tạo hình
Hoạt động tạo hình là một hoạt động nghệ thuật mà bản chất của nó là sáng
tạo ra cái đẹp. Đây cũng là hoạt động chỉ có trong xã hội loài người, nó được
truyền từ đời này sang đời khác như một bản năng vốn có của con người. Hoạt
động tạo hình luôn phát triển cùng sự phát triển của xã hội loài người nhằm thỏa
mãn những nhu cầu về cái đẹp của con người trên hai lĩnh vực:
- Đưa cái đẹp
vào cuộc sống
- Tạo ra các tác phẩm nhằm thỏa mãn nhu cầu thẩm mỹ đồng thời nâng cao
chất lượng cuộc sống của con người.
3
Hoạt động tạo hình là một hoạt động sáng tạo đặc biệt vì trong đó con
người không chỉ phản ánh thế giới xung quanh mà còn thể hiện cả thái độ với thế
giới đó, tức là nó mang cái nhìn chủ quan, độc đáo của riêng người sáng tác. Hoạt
động tạo hình không chỉ nhằm thể hiện, trình bày những cái xảy ra mà nó còn chú
trọng tới cái tất yếu xảy ra. Thông qua hoạt động tạo hình, con người phản ánh
thế giới không phải bằng khái niệm, quy luật, định luật mà bằng các hình tượng
nghệ thuật: đường nét, màu sắc, hình khối, mối tương quan tỷ lệ…
1.3. Vai trò của hoạt động tạo hình trong đời sống nói chung và trong đời
sống của trẻ em nói riêng
1.3.1. Vai trò của hoạt động tạo hình trong đời sống của con người.
* Hoạt động tạo hình đối với sự phát triển trí tuệ, nhận thức
Hoạt động tạo hình là một hoạt động nhận thức đặc biệt mang tính hình
tượng. Trong hoạt động tạo hình, trẻ có nhiều cơ hội tìm hiểu, nghiên cứu các đối
tượng miêu tả để có được hiểu biết, sự hình thành về các đối tượng đó, từ đó xây
dựng các biểu tượng, hình tượng. Từ đó, khẳng định hoạt động tạo hình là một
trong những hoạt động tích cực để phát triển ở trẻ các khả năng hoạt động trí tuệ.
Trong quá trình tri giác các đối tượng miêu tả, các tính chất, các thuộc tính
của các sự vật hiện tượng như màu sắc, hình dạng, kích thước, tỷ lệ,…được trẻ
tích cực ghi nhận, đối chiếu với các chuẩn mực cảm giác mà trẻ đã biết, để tiếp
đó được trẻ phân loại, bổ sung và hình thành những biểu tượng, dần dần đến
những hình tượng mang tính nghệ thuật. Qúa trình này đòi hỏi hoạt động nỗ lực
các thao tác trí tuệ như phân tích, so sánh, tổng hợp, khái quát hóa, cụ thể hóa…
Hoạt động tạo hình giúp trẻ tiếp thu, mở rộng và hệ thống hóa các chuẩn
cảm giác, tri giác, màu, kích thước, hình khối, tỷ lệ… Nhờ quá trình quan sát đối
tượng miêu tả mà trẻ thường xuyên sử dụng tích cực các chuẩn cảm giác để tìm
hiểu, khám phá những điều chưa biết về các sự vật hiện tượng. Từ đó, trẻ tích lũy
4
được một lượng lớn các thông tin hình ảnh cùng những hiểu biết về các sự vật,
hiện tượng trong cuộc sống xung quanh. Chính trên cơ sở sự hiểu biết sâu sắc về
các đặc điểm, tính chất của các sự vật, hiện tượng mà trẻ có dịp nắm biết về các
mối quan hệ có tính chất quy luật của mọi vật trong thế giới xung quanh.
Khi thực hiện các nhiệm vụ tạo hình, trẻ cần huy động vốn hiểu biết, vốn
biểu tượng đã tích lũy được để “ nhào nặn ”, “ chế biến ” thành những hình tượng
mới. Các điều kiện và yêu cầu sáng tạo của hoạt động tạo hình làm cho các biểu
tượng được hình thành ở trẻ trong quá trình tri giác sẽ luôn được đổi mới, bổ sung
và trở thành phong phú hơn. Như vậy là, chính nhờ hoạt động tạo hình mà hiểu
biết của trẻ về thế giới xung quanh luôn được tăng lên, ngày càng trở nên giàu có
hơn cả về lượng lẫn về chất.
Quá trình vẽ, nặn, xếp dán, thiết kế chắp ghép đòi hỏi trẻ phải luôn tìm
hiểu, khám phá, phát hiện ra tính chất của các loại vật liệu cũng như khả năng tạo
hình, khả năng tạo ra sức truyền cảm của chúng. Trong quá trình tạo hình trẻ
được lĩnh hội các kỹ năng sử dụng các loại dụng cụ, chất liệu như những công cụ
lao động của con người. Đây chính là điều kiện rất thuận lợi cho sự phát triển trí
tuệ và nhân cách.
* Hoạt động tạo hình đối với việc giáo dục tình cảm, đạo đức, kỹ năng
giao tiếp xã hội
Hoạt động tạo hình có một vai trò lớn trong việc giáo dục đạo đức cho trẻ
nhỏ. Tham gia vào hoạt động tạo hình, trẻ có nhiều điều kiện tiếp thu các chuẩn
mực thẩm mỹ - đạo đức trong xã hội, trải nghiệm các xúc cảm, tình cảm trong
giao tiếp, học hỏi về các kỹ năng xã hội và đánh giá các hành vi văn hóa xã hội
qua các hình tượng, các sự kiện, hiện tượng được miêu tả.
Quá trình tạo hình của trẻ mầm non thường và có thể được tổ chức như một
hoạt động cùng nhau tạo nên sản phẩm chung. Sự tương tác, hợp tác trong các
hoạt động tập thể có ảnh hưởng tích cực tới sự hình thành ở trẻ các phẩm chất đạo
5
đức như: tính kiên trì, thói quen làm việc đến nơi đến chốn, khả năng vượt khó để
đạt mục đích, thói quen biết nhường nhịn, giúp đỡ bạn, biết cùng nhau làm việc
và điều hòa giữa lợi ích chung với lợi ích của cá nhân. Hoạt động tạo hình chính
là môi trường lý tưởng để hình thành ở trẻ ý thức lao động, hình thành hứng thú,
lòng yêu lao động và thái độ trân trọng đối với sản phẩm lao động, với người lao
động.
* Vai trò của hoạt động tạo hình đối với việc giáo dục thẩm mỹ cho trẻ
Ở lứa tuổi mầm non, các nhà giáo dục có thể thông qua rất nhiều các hoạt
động như: hoạt động vui chơi, hoạt động âm nhạc, hoạt động văn học, làm quen
với toán…nhằm giúp cho trẻ biết cảm thụ cái đẹp trong thiên nhiên, trong lao
động, trong đời sống xã hội, trong nghệ thuật và biết tự sáng tạo ra cái đẹp trong
cuộc sống của mình. Trong đó, hoạt động tạo hình là một trong những hoạt động
có ý nghĩa giáo dục thẩm mỹ. Với tư cách là một hoạt động nghệ thuật, hoạt động
tạo hình tạo nên những điều kiện thuận lợi nhất cho sự phát triển của cảm giác, tri
giác thẩm mỹ: việc quan sát, tìm hiểu các sự vật hiện tượng giúp trẻ nhận ra các
đặc điểm thẩm mỹ (hình dáng, màu sắc, cấu trúc…), nhận ra được những nét độc
đáo tạo nên sức hấp dẫn của đối tượng miêu tả.
Các đặc điểm thẩm mỹ phong phú, đa dạng của các đối tượng miêu tả là
những yếu tố kích thích sự xuất hiện những rung động, những xúc cảm thẩm mỹ
(cảm xúc về vẻ đẹp của hình, màu, nhịp điệu, vẻ cân đối, hài hòa…). Từ các xúc
cảm thẩm mỹ mà hình thành nên những tình cảm thẩm mỹ và thái độ thẩm mỹ,
giúp trẻ biết thưởng thức cái đẹp từ thiên nhiên và các tác phẩm nghệ thuật. Sự
phối hợp của khả năng tri giác thẩm mỹ, nhận thức thẩm mỹ với yếu tố tình cảm
thẩm mỹ với thái độ thẩm mỹ sẽ làm cho quá trình tiếp xúc, quan sát, tìm hiểu
các đối tượng miêu tả trong tạo hình thực sự trở thành môt quá trình cảm thụ
thẩm mỹ.
6
Quá trình thể hiện các sản phẩm tạo hình (vẽ, nặn, xếp hình, xé, dán…) là
điều kiện thuận lợi cho trẻ vận dụng tích cực vốn biểu tượng hình tượng đã tích
lũy được để phối hợp, xây dựng hình tượng mới làm cho các sản phẩm tạo hình
của trẻ ngày càng trở nên sinh động, đầy sức hấp dẫn và mang màu sắc nghệ
thuật. Sự thể hiện nội dung tạo hình bằng phương tiện truyền cảm mang tính trực
quan ( đường nét, hình dạng, màu sắc) sẽ làm cho cảm xúc thẩm mỹ của trẻ ngày
càng trở nên sâu sắc hơn, trí tưởng tượng mang tính nghệ thuật của trẻ ngày càng
phong phú hơn.
* Vai trò của hoạt động tạo hình đối với sự phát triển thể chất của trẻ
Hoạt động tạo hình cũng có vai trò rất to lớn đối với sự phát triển thể chất
của trẻ. Những giờ hoạt động tự do trong môi trường thẩm mỹ, trong bầu không
khí thoải mái sinh động sẽ tạo cho trẻ niềm vui sướng. Chính sự vui vẻ, phấn khởi
này tác động rất tích cực tới hoạt động của tim mạch, điều hòa hoạt động của hệ
thần kinh, điều chỉnh toàn bộ hoạt động của cơ thể. Mặt khác, nhờ có hoạt động
tạo hình mà kỹ năng vận động tinh của trẻ ngày càng trở nên thuần thục và tinh
khéo hơn, góp phần rèn luyện sự vận động và phối hợp các cơ nhỏ của bàn tay,
ngón tay. Ngoài ra, hoạt động tạo hình còn được ví như những biện pháp tâm lí trị
liệu rất có hiệu quả trong việc nâng cao sức khỏe và điều trị cho những trẻ em
khuyết tật, những trẻ em mắc một số bệnh có nguồn gốc tinh thần.
* Vai trò của hoạt động tạo hình đối với việc chuẩn bị cho trẻ bước vào trường
phổ thông
Hoạt động tạo hình chính là một môi trường, một phương tiện để hình
thành ở trẻ những cơ sở ban đầu của hoạt động học tập trong trường phổ thông.
Trong hoạt động tạo hình, trẻ được bối dưỡng khả năng độc lập tổ chức một quá
trình hoạt động nhận thức, hoạt động thực tiễn để tạo nên các sản phẩm vật thể.
Hoạt động tạo hình giúp hình thành và rèn luyện ở trẻ khả năng đánh giá và
tự đánh giá. Hoạt động tạo hình góp phần không nhỏ trong việc chuẩn bị cho trẻ
7
một vốn kiến thức sơ đẳng về tự nhiên, xã hội, về khoa học kỹ thuật để giúp trẻ
nhanh chóng làm quen với các môn học mới mẻ ở trường phổ thông.
Hoạt động tạo hình giúp phát triển khả năng phối hợp, điều chỉnh hoạt
động của mắt và tay, rèn luyện sự khéo léo, linh hoạt trong vận động của tay, từ
đó giúp cho việc học viết ở trường phổ thông sẽ đạt kết quả tốt. Hoạt động tạo
hình góp phần chuẩn bị về mặt tâm lý cho trẻ bước vào trường phổ thông.
Tóm lại, hoạt động tạo hình có vai trò vô cùng to lớn đối với sự phát triển
toàn diện nhân cách trẻ. Vì vậy, nhiệm vụ của các nhà giáo dục là phải làm sao để
tổ chức hoạt động này một cách hiệu quả, mang lại những giá trị quý báu cho
những mầm non tương lai.
1.4. Hoạt động tạo hình của trẻ em lứa tuổi mầm non
1.4.1. Đặc điểm hoạt động tạo hình của trẻ em lứa tuổi mầm non
Hoạt động tạo hình là hoạt động sáng tạo nghệ thuật, nó cũng như các hoạt
động sáng tạo nghệ thuật khác như: Âm nhạc, văn thơ, kịch, điện ảnh… đều là
những hoạt động sáng tạo tạo ra các giá trị vật chất và tinh thần mang ý nghĩa xã
hội. Hoạt động tạo hình là một loại hoạt động sáng tạo đặc biệt trong đó con
người không chỉ nhận thức được cái đẹp của thế giới xung quanh mà còn cải tạo
nó theo quy luật của cái đẹp.
Tạo hình là một loại nghệ thuật rất hấp dẫn đối với trẻ em. Có thể nói
không có em nhỏ nào lại không thích ngắm nhìn những bức tranh , những đồ chơi
đẹp. Đặc biệt trẻ thích tự mình vẽ, nặn, xé dán ra những con người, con vật hay
những đồ vật, khung cảnh mà mình thích. Chúng ta thường hay bắt gặp những
“hoạ sĩ” tí hon say sưa ngồi vẽ hàng giờ đồng hồ. Chúng vẽ la liệt ở khắp mọi nơi
trên giấy, trên bảng, trên sàn...và bằng các phương tiện: phấn, que, bút than, bút
chì, bút mực...
8
Hoạt động tạo hình của trẻ lứa tuổi mẫu giáo bao gồm: các loại hình hoạt
động như: vẽ, nặn, xé dán, làm mô hình... Những hoạt động này đã tạo cho trẻ
xem xét sự vật mà mình định thể hiện và nghiên cứu sự vật một cách tỉ mỉ là qúa
trình trẻ phản ánh những ấn tượng từ cuộc sống xung quanh cùng những suy
nghĩ, tình cảm của trẻ bằng các chất liệu nghệ thuật khác nhau, các phương tiện
khác nhau thông qua hiện tượng mang tính nghệ thuật. Nhưng hoạt động tạo hình
của trẻ mẫu giáo chưa phải là hoạt động sáng tạo thực thụ, nó không nhằm mục
đích tạo nên những sản phẩm phục vụ xã hội, cải tạo thế giới hiện thực mà kết
quả lớn nhất của nó là sự biến đổi, phát triển chính bản thân chủ thể hoạt động.
Cũng như hoạt động ngôn ngữ, mối quan tâm chính của hoạt động tạo hình
của trẻ tập chung vào sự thể hiện, biểu cảm chứ chưa phải là giá trị nghệ thuật
thực sự của tác phẩm. Trẻ càng nhỏ càng ít quan tâm tới người xem mà chỉ cố
gắng truyền đạt suy nghĩ, thái độ, tình cảm của mình trước những gì được miêu tả
bằng con mặt tạo hình của trẻ thơ. Khi quan sát quá trình tạo hình của trẻ trên tiết
học chúng ta thấy nếu không diễn tả thành công bằng hình tượng tạo hình về đối
tượng miêu tả thì trẻ sẽ tích cực bù đắp bằng âm thanh, lời nói, cử chỉ, điệu bộ…
bên cạnh đó do sự chú tâm vào ý tưởng tạo hình mà trẻ thường hài lòng với
những hình vẽ, sơ đồ đơn giản.
Hoạt động tạo hình mang tính sáng tạo rất cao, trong hoạt động này không những
bao gồm việc sử dụng các vật thể sẵn có mà còn bao gồm cả việc làm ra cái gì đó
mới mẻ, bao gồm cả sự chế tạo ra một sản phẩm nhất định như bức vẽ, nặn…
bằng cách thực hiện dự kiến nảy ra trong óc đứa trẻ. Mặc dù hoạt động tạo hình
của trẻ mẫu giáo còn rất đơn giản và không hoàn hảo, song trong đó đang nảy
sinh mầm mống của những nét đặc trưng sau này sẽ phát triển hơn nữa trong hình
thức cao hơn của hoạt động con người, đang phát triển khả năng hình dung trước
được cái gì cần phải làm và xuất hiện nguyện vọng sáng tạo cái mới.
9
Tóm lại, hoạt động tạo hình của trẻ em lứa tuổi mầm non cũng là một hoạt
động sáng tạo nghệ thuật nhưng nó không nhằm mục đích tạo ra những sản phẩm
phục vụ xã hội, cải tạo hiên thực. Mục đích lớn nhất của nó là tạo ra sự biến đổi,
phát triển của chính bản thân các em.
1.4.2. Các phương tiện biểu cảm trong hoạt động tạo hình của trẻ MN
Mỗi loại hình nghệ thuật đều có ngôn ngữ riêng, nếu như ngôn ngữ của âm
thanh là giai điệu, tiết tấu, ngôn ngữ văn học là những câu văn, câu thơ giàu cảm
xúc mang tính biểu cảm thì ngôn ngữ của hoạt động tạo hình là đường nét, hình
khối, màu sắc, bố cục…
Hình thức được thể hiện qua ngôn ngữ của hội hoạ, một tác phẩm có hình
thức thể hiện tốt là tác phẩm được hoạ sỹ sử dụng ngôn ngữ hội hoạ một cách
sáng tạo, thể hiện được nội dung của chủ đề, tạo cho tác phẩm một bố cục đẹp có
sự kết hợp phong phú hài hoà giữa hình mảng đậm nhạt, đường nét, màu sắc thu
hút người xem.. Phương tiện biểu cảm mà trẻ sử dụng trong hoạt động sáng tạo
nghệ thuật tạo hình bao gồm:
Đường nét, hình dạng: Đường nét, hình dạng là những dấu hiệu đầu tiên
giúp trẻ nhận ra và hiểu được mối liên hệ giữa vật thật và hình ảnh biểu đạt nó.
Đường nét cũng chính là những kí hiệu, quy ước để biểu hiện hình dáng của con
người, đồ vật và tình cảm của người vẽ.
Khác với người hoạ sĩ khi dựng hình họ luôn suy tính lựa chọn từng yếu tố
cẩn thận để tạo nên hình tượng. Còn trẻ mẫu giáo lại thường tạo nên hình tượng
từ những chi tiết ngẫu nhiên nào đó mà chúng liên hệ từ những đường nét, hình
thù méo mó, lộn xộn rồi bổ sung, làm cho đối tượng miêu tả của mình đầy đủ hơn
bằng các âm thanh, lời nói, thái độ rồi các tên gọi…
Các hình vẽ ban đầu của trẻ thường gồm các đường nét ban đầu rời rạc,
đơn giản mang tính khái quát. Dần dần các đường nét hình thù được dính kết một
cách có chủ định và cùng với sự tăng lên của vốn hiểu biết hình vẽ sẽ phức tạp
10
dần lên bởi sự bổ sung các chi tiết đường nét thể hiện ở sự liên kết hợp lí của các
yếu tố vào một chỉnh thể chọn vẹn tương đối chính xác, ở tính mềm mại, liên tục
của các đường nét tạo nên dáng vẻ sinh động thể hiện trạng thái vận động của sự
vật cũng như suy nghĩ, thái độ và tình cảm của trẻ.
Màu sắc: Màu sắc là phương tiện biểu cảm gây ấn tượng mạnh trong nghệ
thuật hội hoạ nói riêng và nghệ thuật tạo hình nói riêng nhất là đối với kiểu tư duy
trực quan hình tượng như trẻ mẫu giáo
Bố cục: Bố cục là sự sắp xếp các hình mảng đậm nhạt, màu sắc một cách
cân đối hợp lí trên khuôn khổ của giấy vẽ, thể hiện được nội dung và ý đồ của các
tác giả. Trong những bức vẽ vad cắt dán các hình hay nặn các con vật, đồ vật trẻ
mấu gíáo không sao chụp cách sắp xếp không gian như trong thực tế mà luôn tìm
cách bố trí hình ảnh của các sự vật trong phạm vi tờ giấy cho phù hợp với nội
dung mà chúng suy nghĩ
Tóm lại, để hoạt động tạo hình một cách có kết quả đòi hỏi không chỉ hiểu
biết về đường nét, hình dạng, màu sắc mà còn phụ thuộc rất nhiều vào việc sử
dụng các phương pháp, biện pháp của giáo viên và sự lựa chọn góc độ nhìn và
khả năng và khả năng cảm nhận của trẻ, vẻ đẹp của thế giới xung quanh, đồng
thời vào khả năng tưởng tượng sáng tạo biến đổi hình tượng và xúc cảm của trẻ
trên cơ sở tính linh hoạt, thành thạo của các kỹ năng, kỹ xảo tạo hình.
2. Sự phát triển khả năng sáng tạo trong hoạt động tạo hình của trẻ mầm
non
2.1 Khái niệm sáng tạo
“Hoạt động sáng tạo có ảnh hưởng to lớn không chỉ đến tiến bộ khoa học kĩ
thuật mà còn đến toàn bộ xã hội nói chung, và dân tộc nào biết nhận ra nhân cách
sáng tạo một cách tốt nhất , biết phát huy phát triển họ và biết tạo ra một cách tốt
nhất cho họ những điều kiện tốt nhất thì dân tâọ đó sẽ có những ưu thế lớn lao”
11
Do đó ,tính sáng tạo được coi như một phẩm chất quan trọng không thể thiếu
được của người lao động mới
Sáng tạo là một vấn đề được các nhà khoa học ở nhiều nước và nhiều lĩnh vực
quan tâm nghiên cứu. ở thế giới có các nhà tâm lí như: P.A. Rudich, X.L.
Rubinstein, M,Vecgâmor…. Ở Việt Nam có một số tên tuổi như: Nguyễn Huy Tú,
Đức Uy, GS.VS Nguyễn Cảnh Toàn, …
Quan điểm duy tâm thì “sự sáng tạo là trạng thái tâm linh quyến rũ”
(Platon). Thuyết phân tâm học của S.Freud cho rằng bản năng, đặc biệt là bản
năng tình dục là nguyên nhân, động lực của mọi hoạt động con người kể cả hoạt
động sáng tạo. Các quan điểm này đều hoàn toàn sai lầm vì không nhìn thấy được
bản chất cũng như hoạt động tích cực của con người trong quá trình sáng tạo.
Quan điểm Macxit thì “tất cả các sức mạnh tinh thần của con người, kể cả
những tưởng tượng cũng như trình độ điêu luyện có được trong học tập và trong
thực tiễn cần có thể thực hiện ý định sáng tạo đều tham gia quá trình sáng tạo.”
Các khả năng hoạt động sáng tại là tuỳ thuộc vào các quan hệ xã hội.
L.X.Vưgotxki trong cuốn “Trí tưởng tượng và sáng tạo ở lứa tuổi thiếu niên”
có đưa ra quan niệm: Chúng ta gọi hoạt động sáng tạo là bất cứ hoạt động nào
của con người tạo ra được một cái gì mới, không kể rằng cái được tạo ra ấy là
một vật của thế giới bên ngoài hay một cấu tạo nào đó của trí tuệ hoặc tình cảm
chỉ sống và biểu lộ trong bản thân con người.
Theo Từ điển Tiếng Việt: Nói đến sáng tạo là nói đến việc làm ra cái mới
chưa ai làm, hoặc là việc tìm tòi làm cho tốt hơn mà không bị gò bó.
Trong cuốn khơi dậy tiềm năng sáng tạo của tác giả Nguyễn Cảnh Toàn cho
rằng: sáng tạo có nghĩa là tìm ra cái mới không bị gò bó và phụ thuộc vào cái có
sẵn. Như óc sáng tạo, áp dụng có sáng tạo kinh gnhiệm của người nước ngoài.
Nhìn chung tất cả những quan điểm của các nhà nghiên cứu đã trình bày ở
trên về sáng tạo đều nhấn mạnh đến cái mới và ý nghĩa xã hội của sản phẩm sáng
12
tạo. Tuy mỗi tác giả phân tích vấn đề theo một hướng khác nhau, mặc dù có nhiều
điểm khác biệt, song hầu hết các tác giả đều nhấn mạnh ý nghĩa của hoạt động
sáng tạo, sản phẩm sáng tạo đối với sự phát triển con người và xã hội. Hay nói
cách khác sáng tạo là tạo ra cái mới - đó là quá trình con người vận dụng những
kinh nghiệm của bản thân, độc lập đưa ra những ý tưởng mới lạ hoặc cải tạo và
biến đổi những sản phẩm có sẵn để tạo ra những sản phẩm mới nhằm phục vụ
cho lợi ích chính đáng của bản thân và xã hội
2.2 . Ý nghĩa của hoạt động sáng tạo
Sáng tạo là một vấn đề rất quan trọng, không có sáng tạo xã hội không phát
triển được, cho nên có nhiều quan niệm cho rằng “Sáng tạo là cuộc sống, cuộc
sống là sáng tạo”
Sáng tạo là cơ chế của sự phát triển xã hội và cũng là sản phẩm của sự
phát triển đó. Sáng tạo tạo ra sự phát triển của xã hội và sự phát triển này được
biểu hiện trong mỗi con người, trong hoạt động của con người và xã hội nói
chung. Hoạt động sáng tạo có ý nghĩa to lớn đối với mỗi con người, nó tạo ra sự
biến đổi các chức năng tâm lý như: khả năng tư duy, tưởng tượng, trí nhớ...Đó là
những chức năng tâm lý cơ bản của con người, tạo ra trạng thái tâm lý tích cực ,
làm cho con người tìm cách tiến lên, nó giúp cho sự phát triển nhân cách của con
người đặc biệt là với trẻ em (nhân cách trẻ em chưa được phát triển một cách toàn
diện).
Như vậy, hoạt động sáng tạo không chỉ ảnh hưởng tích cực đến nhân cách
của mỗi cá nhân mà nó còn là nhân tố thúc đẩy xã hội phát triển, “Xã hội nào
thúc đẩy được sự sáng tạo của con người càng nhiều thì xã hội đó phát triển
càng mạnh"
13
2.3. Đặc điểm khả năng sáng tạo của trẻ em
Sự sáng tạo của trẻ em không giống như sự sáng tạo của người lớn. Sáng
tạo của người lớn là tạo ra cái mới, cái độc đáo, gắn với tính chủ đích, có tính bền
vững và thường là kết quả của quá trình nỗ lực tìm tòi... Sự sáng tạo của trẻ em
lại khác, thường bắt đầu từ sự tái tạo, bắt chước, mô phỏng… và thường không có
tính chủ đích. Sự sáng tạo của trẻ em phụ thuộc nhiều vào xúc cảm, vào tình
huống và thường kém bền vững.
Thực tiễn đã cho chúng ta thấy rằng sự sáng tạo dễ xuất hiện ở trẻ và đơn
giản hơn người lớn nghĩ rất nhiều. Trẻ 2 - 3 tuổi nghe người lớn nói một điều gì
đó, sau đó nó ứng dụng phù hợp với một ngữ cảnh, biết “cải biến” hoặc “cắt
may” cho phù hợp với tình huống để đạt mục đích đã được các nhà nghiên cứu
tâm lý trẻ em coi là hành vi sáng tạo. Sự sáng tạo của trẻ trải dài trên một phổ
hành vi từ đơn giản đến phức tạp.
Nhiều người quá hào phóng với hình phạt, chê bai trẻ và tiết kiệm quá đáng
những lời khen, sự khuyến khích. Điều này làm mất đi chất xúc tác kỳ diệu nuôi
dưỡng hành vi sáng tạo ở trẻ.
Người lớn không yêu cầu cao, không giao cho trẻ những nhiệm vụ đòi hỏi
sự mạo hiểm, sáng tạo... Điều này dẫn đến hệ quả là, làm trẻ có nguy cơ thiếu hụt
sự trải nghiệm cần thiết, ngăn trở trẻ nỗ lực tìm kiếm các giải pháp sáng tạo.
Nhiều khi người lớn vì sợ trẻ gặp nguy hiểm mà vô tình ngăn cản những
hành vi mạo hiểm cần thiết… để rèn luyện bản lĩnh sáng tạo cho trẻ. làm chúng
mất cơ hội để trải nghiệm, trở nên thụ động và kém tự tin.
Như vậy, có thể chính người lớn với những cách suy nghĩ, ứng xử không
hợp lý, có gốc rễ từ yếu tố tâm lý, văn hoá, lịch sử xã hội… là nguyên nhân chính
đang ngăn cản sự phát triển tính sáng tạo của trẻ.
Trẻ có thể sáng tạo đột nhiên, có cách làm việc tự do, không cần ghi nhớ,
không cần sự bắt chước, bất kì chỗ nào thiếu trí nhớ, những kỷ niệm bị rạn nứt
14
chỉ còn lại những yếu tố rời rạc thì óc tưởng tượng sẽ móc ghép theo cách riêng,
thế là có sáng tạo. Sáng tác của trẻ ít khi nghiền ngẫm lâu về tác phẩm của mình,
phần lớn trẻ sáng tác liền một mạch. Trẻ giải quyết nhu cầu sáng tạo của mình
nhanh chóng và triệt để những tình cảm đang tràn ngập trong lòng trẻ. Qua đó, ta
thấy trẻ em ở lứa tuổi mầm non là lứa tuổi tràn ngập xúc cảm, phát triển trí tò mò,
trí tưởng tượng bay bổng, khả năng liên tưởng mạnh. Vì vậy đây là giai đoạn tối
ưu, là giai đoạn vàng để hình thành và phát triển sự sáng tạo cho trẻ.
Mọi trẻ em đều tiểm ẩn năng lực sáng tạo, nhưng sáng tạo của trẻ em
không giống với sáng tạo của người lớn, sự sáng tạo chính là khi trẻ bắt đầu tái
tạo , bắt chước mô phỏng một điều gì đó và thường không có tính chủ đích. Sự
sáng tạo của trẻ em phụ thuộc nhiều vào xúc cảm, vào tính huống và thường kém
bền vững.
Sự sáng tạo của trẻ em bao giờ cũng xuất phát từ nhu cầu có trước, một nhu
cầu cấp bách tự nhiên và là điều kiện tồn tại của trẻ. Trẻ không bao giờ sáng tạo
cái gì nó chưa biết, không hiểu và không có hứng thú.
Sáng tạo của trẻ không mang tính chất tổng hợp các lĩnh vực trí tuệ, tình cảm,
ý chí và đặc biệt là tưởng tượng, sáng tạo. Trẻ có thể sáng tạo đột nhiên, có cách
làm việc tự do, không cần thuật nhớ, không cần bắt chước, bất kì chỗ nào thiếu trí
nhớ, những kỉ niệm bị rạn nứt chỉ còn lại yếu tô rời rạc thì óc tưởng tượng sẽ móc
ghép theo cách riêng. Thế là sáng tạo.
Chúng ta thấy rằng, so với người lớn thì tri thức và kinh nghiệm của trẻ còn ít, trí
tưởng tượng nghèo nàn, hứng thú đơn giản hơn, Nhưng do sự dễ dãi, sự mộc mạc
của trí tưởng tượng nên trẻ sống trong thế giới tưởng tượng và tin vào sản phẩm
của tưởng tượng nhiều hơn. Trẻ có thể thể hiện bất cứ một tưởng tượng nào của
mình thành những hình tượng và hành động sinh động.
Khi sáng tác trẻ ít nghiền ngẫm lâu về tác phẩm của mình, phần lớn trẻ sáng
tác liền một mạch. Trẻ giải quyết nhu cầu sáng tạo của mình nhanh chóng và triệt
15
để những tình cảm tràn ngập trong lòng của nó. Sản phẩm sáng tạo của trẻ có thể
không sáng tạo nhưng ưu thế là chúng được nảy sinh trong quá trình sáng tạo của
trẻ.
Tầm nhìn và thế giới xung quanh của trẻ còn hạn chế nên hầu như trẻ chưa
biết phân tích các mối liên hệ khác nhau các sáng tác của chúng còn mang tính
ước lệ và rất ngây thơ. Song ở trẻ mẫu giáo đã mang trong mình những mầm
mống sáng tạo nhất định
Lứa tuổi mầm non là lứa tuổi tràn ngập cảm xúc, phát triển trí tò mò, trí tưởng
tượng bay bổng, khả năng liên tưởng mạnh. Vì vậy đây là giai đoạn tối ưu, là
mảnh đất mầu mỡ nhất để gieo “mầm” sáng tạo.
2.4. Hoạt động tạo hình và sự phát triển khả năng sáng tạo trong hoạt động
tạo hình của trẻ
2.4.1 Nguồn gốc sáng tạo nghệ thuật trong hoạt động tạo hình của trẻ em
* Một số thành phần tâm lí cơ bản trong hoạt động tạo hình của trẻ em: Có
bốn yếu tố quan trọng: Cảm giác, tri giác, tư duy, tưởng tượng
-Vưgotxki coi tri giác là quá trình quan trọng ban đầu, là nền tảng hỗ trợ
cho hoạt động tư duy. Tri giác trong tạo hình:
Nhìn: Bằng mắt nhưng khác bình thường. Nhìn bình thường là quá trình
nắm bắt các đặc điểm của sự vật, hiện tượng. Nhìn trong tạo hình là quá trình liên
quan chặt chẽ đến xúc cảm, tình cảm, cái nhìn thẩm mĩ. Cái nhìn trong tạo hình là
cái nhìn hình tượng: Vừa phân tích tỏng hợp để tìm ra cái bản chất vừa tìm ra mối
liên hệ giữa các bộ phận trong chỉnh thể, vừa phát hiện ra caí độc đáo, thú vị
Cảm xúc: là nền tảng để chủ thể tiến hành các hoạt động nghệ thuật, xúc
cảm tình cảm không phải tự nhiên mà có mà nó phải nảy sinh trong hoàn cảnh va
chạm, đối diện với thực tiễn. Nó kích thích tính tích cực của tư duy.
16
Tưởng tượng: Là quá trình xây dựng hình ảnh mới có mục đích và khá tích
cực. tưởng tượng trong sáng tạo nghệ thuật đôi khi khó phân biệt được hoặc
không chủ định vì nó bị dẫn dắt bởi cảm xúc
* Cơ sở của sự hình thành khả năng sáng tạo trong hoạt động tạo hình của
trẻ em
Nhìn chung, sự sáng tạo xuất hiện từ rất sớm, sáng tạo mang tính nghệ
thuật của trẻ em là phổ biến và đơn giản. Tuy nhiên có nhiều quan điểm khác
nhau, trong đó nói nhiều đến quan điểm: Coi cội nguồn, cơ sở để hình thành khả
năng sáng tạo xuất hiện từ bên trong (bẩm sinh). Do đó không thể điều khiển
được, không nên can thiệp. Cơ sở của sự sáng tạo là cuộc sống và nền văn hoá
nghệ thuật xung quanh trẻ, có 2 quan điểm:
- Có thể chỉ là môi trường sư phạm, môi trường nghệ thuật người ta tạo ra
cho trẻ.
- Chú trọng những tác động trực tiếp tới trẻ (chú trọng tới những phương
pháp tác động )
Tóm lại, trong cơ sở, nguồn gốc của sự hình thành sáng tạo của trẻ em có
sự tổng hợp, hoà quyện của nhiều yếu tố: Cơ sở trò chơi, cơ sở hoạt động nghệ
thuật, hoạt động giao tiếp.
2.4.2 Ý nghĩa của hoạt động tạo hình đối với sự phát triển của trẻ mẫu giáo
nói chung và sự phát triển khả năng sáng tạo nói riêng
Hoạt động tạo hình có ý nghĩa to lớn trong việc hình thành và giáo dục
nhân cách cho trẻ. Thông qua sản phẩm hoạt động tạo hình, trẻ thể hiện được
những suy nghĩ và đặc điểm tâm lí của bản bản thân, nhà giáo dục sẽ dựa trên cơ
sở phân tích, đánh giá các sản phẩm đó để phân loại được các kiểu nhân cách hay
kiểu tâm lí của trẻ. Hiện nay trên thế giới, các nhà tâm lí học, giáo dục học đã có
17
các công trình nghiên cứu về tranh vẽ của trẻ để từ đó đưa ra được những biện
pháp giáo dục nhân cách phù hợp.
Đối với sự phát triển nhận thức và trí tuệ, thông qua các hoạt động cắt, dán,
vẽ, nặn, trẻ hình thành được những thao tác tư duy như so sánh, phân tích, tổng
hợp đồng thời phát triển được trí tưởng tượng phong phú của bản thân. Tưởng
tượng là một trong những thuộc tính tâm lí cơ bản là cơ sở quan trọng cho quá
trình sáng tạo.
Đối với sự phát triển ngôn ngữ, hoạt động tạo hình là một trong những hoạt
động không chỉ nâng cao khả năng ngôn ngữ nói mà còn nâng cao ngôn ngữ tạo
hình cho trẻ. Ngôn ngữ tạo hình là một phương tiện giao tiếp vô cùng quan trọng
và có ý nghĩa đặc biệt là đối với những trẻ có xu hướng rụt rè, nhút nhát hay có
các vấn đề khiếm khuyết về ngôn ngữ nói. Đồng thời khi diễn đạt nội dung tạo
hình của sản phẩm mà mình đã tạo ra, vốn ngôn ngữ mạch lạc của trẻ sẽ phát
triển và khả năng sử dụng ngôn ngữ biểu cảm sẽ tăng lên rõ rệt.
Đối với sự phát triển xúc cảm tình cảm, hoạt động tạo hình giúp trẻ có
được những cảm xúc thẩm mỹ rất tích cực. Việc làm quen với các tác phẩm nghệ
thuật giúp trẻ cảm nhận được vẻ đẹp của tự nhiên, của cuộc sống xung quanh
thông qua các đường nét, màu sắc, hình ảnh và mong muốn được tái tạo lại được
những nét đẹp đó thông qua các tác phẩm của mình.
Thông qua hoạt động tạo hình còn giúp trẻ hình thành và phát triển các kỹ
năng như: kỹ năng cầm bút, kỹ năng vẽ, kỹ năng nặn. xé dán…
Như vậy đối với trẻ lứa tuổi mẫu giáo, hoạt động tạo hình có một vai trò vô
cùng quan trọng trong việc giáo dục toàn diện cho trẻ. Nhà giáo dục phải nắm
được các đặc điểm phát triển của trẻ để có thể tổ chức các hoạt động tạo hình
nhằm giúp trẻ phát triển một cách toàn diện cả về trí tuệ lẫn tâm lí tình cảm.
18
2.4.3. Những cơ sở của sự hình thành khả năng sáng tạo trong hoạt động tạo
hình của trẻ em
Có nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề này nhưng nhìn chung sự sáng tạo
mang tính chất biểu hiện là phổ biến. Các ý kiến này được chia thành 2 quan
điểm lớn:
Quan điểm thứ nhất coi cơ sở, cội nguồn hình thành khả năng sáng tạo là
sức mạnh tự sinh từ bên trong như bẩm sinh di truyền, cho nên sự xuất hiện và
kết quả của hoạt động sáng tạo phụ thuộc vào hoạt động tự phát. Vì thế, quá trình
phát triển khả năng sáng tạo của trẻ là quá trình không điều kiển được và không
cần sự điều khiển của người lớn.
Quan điểm thứ hai lại tìm thấy cơ sở nguồn gốc sáng tạo của trẻ em là cuộc
sống và nền văn hoá xã hội xung quanh trẻ đặc biệt là điều kiện sư phạm. Điều
kiện sư phạm được tách ra 2 nhóm: nhóm 1 là tạo môi trường mang tính chất
nghệ thuật và nhóm 2 là chú trọng tác động trực tiếp với những qui trình chặt chẽ.
Sau này có nhiều nhà khoa học khác cũng nghiên cứu về khả năng sáng tạo
của trẻ em trong hoạt động tạo hình nhưng đa phần đều đi theo quan điểm thứ 2.
Phần lớn các công trình nghiên cứu đều cho rằng cơ sở đầu tiên là sự bắt chước
trong trò chơi. Đó là cội nguồn nhưng không phải sự bắt chước nào cũng dẫn đến
sáng tạo.
Từ cuối thế kỉ XIX đến đầu thế kỉ XX, A. Lêonchiev cho rằng cần phải tạo
môi trường có sự tác động, “Các nhà giáo dục không nên quên rằng hoạt động
nghệ thuật được bồi dưỡng trên cơ sở động cơ nghệ thuaatjchuws không chỉ là
động cơ khoa học”.
Theo ông, cơ sở ban đầu để tạo ra hoạt động sáng tạo cho trẻ đó là sự tái
tạo tức là tiếp thu văn hóa tạo hình và vận dụng nó. Có thể dạy trẻ tái tạo theo
khuôn mẫu hay dạy trẻ tái tạo bằng cách tìm hiểu các mẫu có sẵn, song không lặp
19
lại chúng mà biển đổi linh hoạt để tạo nên hình tượng mới, phương thức hành
động mới.
Và ông cho rằng cơ sở của sự sáng tạo không phải nảy sinh trong quá trình
học mà nó hình thành trong quá trình chơi. Trong các hình thức chơi có hình thức
chơi mang tính bắt chước nhưng mang tính phát triển đó là trò chơi đóng kịch.
Trò chơi đóng kịch không chỉ đơn thuần là sắm vai, thể hiện hình tượng nhân vật
chung chung mà đòi hỏi trẻ phải tưởng tượng, thể hiện hình tượng cụ thể.
Trong loại trò chơi không phải thể hiện nội dung trẻ phải quan tâm đến
chất lượng của sự thể hiện vai diễn cụ thể. Thể hiện cả nét đặc trưng ngoại hình
bên ngoài đến cách thể hiện nội tâm, cử chỉ, nét mặt…
Ngoài trò chơi đóng kịch Lêonchiev còn đưa ra 1 loại trò chơi nữa là trò
chơi bịa đặt mang tính chất giả tưởng, chơi trong giả tưởng các tình huống tưởng
tượng.
Chơi không phải là cơ sở duy nhất của sáng tạo nghệ thuật.
2.4.4. Mối quan hệ giữa khả năng sáng tạo trong hoạt động tạo hình với định
hướng giá trị nhân cách của trẻ
Định hướng giá trị nhân cách có vai trò to lớn trong việc con người tiếp thu
những chuẩn mực đạo đức, thẩm mỹ, hình thành nên giá trị của mình. Định
hướng giá trị nhân cách cũng ảnh hưởng tới khả năng sáng tạo thể hiện ở sự nỗ
lực của cá nhân.
Định hướng giá trị nhân cách trong quá trình hoạt động có ý nghĩa là đứa
trẻ coi cái gì là có giá trị, cái gì là trẻ quan tâm. Khi nghiên cứu tính sáng tạo
trong hoạt động tạo hình của trẻ em, người ta thấy rằng có những đứa trẻ đạt hiệu
quả cao trong đề tài này, có đứa trẻ đạt hiệu quả cao trong đề tài khác. Nếu nội
dung của hoạt động tạo hình phù hợp với nội dung của định hướng giá trị nhân
20
cách ở trẻ thì mọi đứa trẻ sẽ đạt thành tích cao trong hoạt động sáng tạo. Cụ thể
có các kiểu giá trị nhân cách:
1. Định hướng giá trị chức năng
2. Định hướng giá trị tuân thủ quy định
3. Định hướng giá trị quan hệ
4. Định hướng giá trị giao tiếp
5. Định hướng giá trị nhận thức
Ở nhóm trẻ loại 1: Trẻ vẽ những gì diễn ra trong đời sống hàng ngày có thể
lặp đi lặp lại nhiều lần. Thường chúng sử dụng những từ ngữ thông dụng, không
có từ tượng thanh, tượng hình, nội dung tạo hình nghèo nàn, không độc đáo, từ
ngữ đơn giản.
Ở nhóm trẻ loại 2: trẻ thường đưa vào nội dung tranh vẽ của mình những gì
mang tính chất quy tắc, khuôn mẫu, yêu cầu mà trẻ phải thực hiện trong phạm vi
chính sinh hoạt đời sống hàng ngày ở gia đình, nhà trường mà không có gì khác
biệt. Trẻ thường sử dụng những từ ngữ như: phải, làm như thế nào là đúng…
Ở nhóm trẻ loại 3: Ban đầu trẻ quan tâm đến mối quan hệ giữa người với
người trong phạm vi xã hội nhỏ của nó và dựa vào nội dung hoạt động tạo hình
có sự quan sát, suy nghĩ và bước đầu thể hiện thông tin bên trong. Đồng thời
trong ngôn ngữ nói chúng thường cố gắng chọn những từ chỉ xúc cảm, tình cảm
để đưa ra suy nghĩ riêng của mình, bắt đầu đã có sự bứt phá ra không vi phạm
quy định
Ở nhóm trẻ thứ 4: Trẻ thông minh, tương tác, nội tâm phát triển hơn. Tranh
vẽ có sự phân hoá ở trình độ cao do chính kinh nghiệm và nhu cầu giá trị cũng
như hình thức đối với đối tượng giao tiếp, không chỉ là mối quan hệ quảng cáo
các hoạt động. Nội dung tranh vẽ của trẻ thường có những sự kiện trong cộng
đồng, thông tin công cộng, trẻ nghe ngóng nhiều hơn, tiếp thu thông tin nhiều
21
hơn, vốn từ phong phú hơn và từ ngữ của chúng ban đầu hướng vào giá trị xã hội.
Nó dễ dàng vượt ra những nội dung tạo hình người ta cho trong chương trình.
Ở nhóm trẻ thứ 5: Loại này trẻ mầm non không nhiều lắm. Nội dung tạo
hình: Khả năng lựa chọn nội dung của những trẻ này khá phong phú, ở trong đề
tài chúng tưởng tượng đã có cái gì đó liên quan đến quá trình tưởng tượng đến thế
giới bên ngoài như chính cuộc phiêu lưu… hình ảnh này chúng được tiếp cận trên
tivi, phim hoạt hình, phim khoa học… thậm chí là hiện tượng thiên nhiên. Và
không phải ai cũng thích những sản phẩm tạo hình của trẻ loại này vì những thứ
chúng quan tâm đến quá viển vông, lãng mạn...Người ta không cho phép và
không muốn trẻ con có đặc điểm đó.
2.4.5 Một số quan điểm về phát triển khả năng sáng tạo của trẻ trong hoạt
động tạo hình
Hầu hết các nhà nghiên cứu đều khẳng định rằng: Trong hoạt động tạo hình
của trẻ mầm non đều có sự sáng tạo và đó là một hiện tượng xã hội. Nhiều nhà
khoa học trong nhiều lĩnh vực khác nhau đã nghiên cứu về tranh vẽ của trẻ em.
Một số đông tác giả cho rằng: Khả năng sáng tạo trong hoạt động tạo hình của trẻ
em không kém người lớn và thậm chí có tác giả còn nói rằng sự sáng tạo này xuất
hiện ở mọi trẻ em
Học thuyết của Piagie: Nói về sự phát triển trí tuệ, nhận thức nhưng qua đó
mầm mống sáng tạo đã phát triển như thế nào? Ông chia các thời kỳ trong sự phát
triển trẻ em:
- Thời kỳ giác động (nhỏ - 2 tuổi)
- Thời kỳ tiền thao tác ( 2 - 7 tuổi)
- Thời kỳ thao tác (7 -11 tuổi)
Vưgotxki: Lý thuyết về vùng phát triển gần. Ông khẳng định về sự phát
triển của trẻ em, phát triển khả năng sáng tạo không thể tách rời mối quan hệ với
22
thế giới xung quanh, xã hội. Trẻ có thể tự kiến tạo nên hiểu biết của mình một
cách rất chủ động, tích cưc, sáng tạo ở trên mức bình thường mang tính đại trà.
Mọi sự phát triển trong đó có sự phát triển khả năng sáng tạo của trẻ em phải
được thực hiện thông qua chính hoạt động trong đó vui chơi là hoạt động nền
tảng để tạo nên điều đó. Sự sáng tạo không thể tự mình trẻ tách ra mà cần có sự
tương tác, phối hợp và cùng nhau chia sẻ. Chính gợi ý của Vưgotxki đã gợi ý ra
những hoạt động của các nhà sư phạm hiện nay có các phương pháp giáo dục:
học cộng tác, học theo dự án nhóm là hình thức học có thể đẩy người học tới
vùng phát triển gần nhất.
Theo Kerserrsenschâynhêrơ chúng ta có thể phân chia toàn bộ quá trình
phát triển sáng tạo trong hoạt động tạo hình của trẻ làm 4 giai đoạn như sau: Giai
đoạn sơ đồ: Ở giai đoạn này trẻ vẽ những hình sơ đồ về sự vật, không phụ thuộc
vào diễn tả giống thật vì giai đoạn này trẻ vẽ theo trí nhớ, vẽ điều mà trẻ biết về
sự vật chứ không phải cái mà trẻ nhìn thấy. Ở giai đoạn này trẻ vữ theo trí nhớ
không giống thật, mang tính chất phi lí. Ban đầu trẻ vẽ mà không có ý định gì cả,
như sau đó trẻ ngắm nghía những đường nét do mình vẽ ra và giải thích thế này
thế kia. Nói chung tranh vẽ của trẻ giai đoạn này dường như một sự liệt kê hay
nói một cách khác là sự kể lại, sự mô tả bằng đồ hoạ về sự vật.
Giai đoạn nảy sinh ý thức về hình thức và đường nét: giai đoạn này trẻ
không chỉ liệt kê các dấu hiệu cụ thể của đối tượng được miêu tả mà cả diễn tả
những tương quan hình thức giữa các bộ phận. Tranh của trẻ vừa mang tính chất
sơ đồ vừa xuất hiện mầm mống của cách miêu tả giống hiện thực. Hình vẽ của trẻ
ở giai đoạn này không tách biệt với giai đoạn trước nhưng hình vẽ của trẻ được
đặc trưng bởi số lượng chi tiết nhiều hơn, xếp đặt giống thật hơn.
Giai đoạn miêu tả giống thật: Giai đoạn này hình vẽ sơ đồ đã hoàn toàn
biến đổi khỏi bức tranh của trẻ.
23
Giai đoạn miêu tả tạo hình những bộ phận riêng biệt: Trong giai đoạn này
trẻ biết miêu tả đồ vật bằng cách diễn tả ánh sáng và bóng tối, phép phối cảnh
xuất hiện.
2.4.5. Các giai đoạn của hoạt động sáng tạo.
Có rất nhiều quan điểm bàn về các giai đoạn của hoạt động sáng tạo.
Theo M.A.Block chia quá trình sáng tạo làm 3 giai đoạn:
- Giai đoạn xuất hiện ý đồ, ý tưởng, giả thuyết sáng tạo.
- Giai đoạn chứng minh giả thuyết.
- Giai đoạn thực hiện
Theo tác giả I.X.Xumbaev chia làm 3 giai đoạn:
- Giai đoạn hình thành cảm hứng, tưởng tượng.
- Giai đoạn sắp đặt logic
- Giai đoạn thực hiện ý tưởng.
Theo A.N Luck chia làm 5 giai đoạn:
- Giai đoạn tích luỹ tri thức, kỹ năng cần thiết.
- Giai đoạn tập trung, tìm kiếm, bổ sung thông tin.
- Giai đoạn nung nấu, thai nghén vấn đề, nhiệm vụ.
- Giai đoạn linh cảm.
- Giai đoạn kiểm tra.
Hiện nay theo các nhà nghiên cứu ở Việt Nam thì quá trình sáng tạo được chia
thành các giai đoạn như:
- Giai đoạn chuẩn bị: là giai đoạn con người tích luỹ tri thức, nhận thức vấn đề,
tìm phương tiện phương pháp để giải quyết vấn đề. Hoạt động nhận thức là giai
đoạn chủ yếu của giai đoạn này.
- Giai đoạn phát sinh: đây là giai đoạn nung nấu, thai nghén vấn đề. Nhiều nhà
khoa học cho rằng linh cảm (trức giác) đóng vai trò quan trọng ở giai đoạn này.
24
tuy nhiên không phải tất cả linh cảm đều đúng. Vì vậy sau khi linh cảm xuất hiện
phải kiểm tra lại.
- Giai đoạn phát minh: là kết quả của giai đoạn phát sinh (chủ yếu được thực hiện
bằng trực giác), Ở đây vấn đề bất ngờ được giải quyết và nó được thể hiện một
cách rõ nét bằng việc giải phóng trạng thái căng thẳng của chủ thể. Có thể xem
đây là đỉnh điểm của sáng tạo.
- Giai đoạn thực hiện ,kiểm tra: Triển khai các bước mà chúng ta đã sắp đặt theo
đúng trình tự và trên cơ sở đó có thể kiểm tra, đánh giá.
3. Giáo dục và phát triển khả năng sáng tạo của trẻ trong hoạt động tạo hình
3.1 Các phương pháp tổ chức hoạt động tạo hình cho trẻ
- Khái niệm: Phương pháp là cách thức, con đường, cách thực hiện để đạt
được một mục đích nào đó hoặc để giải quyết những nhiệm vụ nhất định.
- Yêu cầu: + Phương pháp phải phù hợp với trẻ và phải xây dựng dựa vào
quá trình hoạt động của trẻ.
+ Tạo được hứng thú cho trẻ, không áp đặt, gò bó trẻ.
+ Phương pháp phải hướng tới đạt được mục đích và nhiệm vụ
dạy tạo hình cho trẻ.
* Phương pháp quan sát
Khái niệm: Phương pháp quan sát là phương pháp nhận thức cảm tính tích
cực, được tiến hành dưới sự chỉ đạo trực tiếp của giáo viên hoặc tiến hành độc lập
của trẻ nhằm giúp trẻ rút ra những nhận xét về đặc điểm, hình dáng, cấu trúc, màu
sắc của đồ vật, sự vật hiện tượng, con người…
* Cách quan sát:
- Trình tự quan sát: Đi từ bao quát đến chi tiết; từ cái chung, cái lớn, cái
tổng thể trước, sau đó mới đến cái riêng, cái chi tiết của từng bộ phận và đối
chiếu với cái tổng thể, cái chung đó.
25