Kể lại Chuyện người con gái Nam Xương qua lời của nhân vật Trương Sinh
Mở bài:
Chuyện ma quỷ hiện linh lưu truyền trong nhân gian xưa nay không hiếm, tôi chưa
hẳn đã tin. Nhưng cầm chiếc trâm cài trong tay, tôi mới hay Phan Lang quả thật đã
không nói dối. Chiếc trâm hoa này chính tôi đã mua tặng cho Vũ Nương khi cưới
nàng về là vợ. Nghĩ lại cảnh đời trớ trêu tôi càng ân hận và thấy thương Vũ Nương
vô cùng.
Thân bài:
Tôi là Trương Sinh, vốn sinh ra là con nhà hào phú. Cha tôi mất sớm, chỉ còn có
mẹ già nhưng gia cảnh vẫn hết sức sung túc. Thực hiện niềm mong mỏi của mẹ, có
người nối dõi tông đường về sau, tôi ngày đêm ưu tư, tìm kiếm người con gái thảo
hiền để mẹ có người bầu bạn sớm hôm cho đỡ hờn tủi.
Nghe ở huyện Nam Xương có một người con gái tên là Vũ Thị Thiết tôi đã đem
lòng yêu mến. Nàng tuy con nhà nghèo khó nhưng là người đã thùy mị nết na. Lại
thêm nàng là người có tư dung tốt đẹp. Nên tôi xin mẹ trăm lạng bac xin cưới nàng
về làm vợ.
Tôi từ lâu do được cha mẹ nuông chiều, lại sống trong phú quý nên tính tình có
phần kiêu hãnh, lại thêm hay đa nghi người khác. Hiểu được tính tôi, nàng cũng
giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hòa.
Cuộc đoàn viên chưa được mấy lâu thì giặc Chiêm Thành quấy nhiễu biên cương.
Triều đình bắt nhiều lính tráng đầu quân. Tôi tuy con nhà dòng, nhưng không có
học, tên đã ghi trong sổ khai tráng phải ra sung binh loạt đầu. Lo sợ tôi gặp hiểm
nguy nơi xa trường, không người thừa tự tông phả, mẹ tôi lo láng vô cùng. Nhiều
lần lo lót tiền bạc nhưng cũng không thể miễn được.
Ngày ra đi đất trời u ám. Xóm làng cũng ngậm ngùi đến tiễn đưa đứng kín cả sân
nhà. Mẹ tôi ngồi trên phản lớn, nước mắt lưng tròng dặn dò tôi hết sức chu đáo:
– Nay con phải tạm ra tòng quân, xa lìa dưới gối. Tuy là hội công danh từ xưa ít
gặp. Nhưng trong chỗ binh cách, phải lấy việc giữ mình làm trọng. Biết gặp nạn thì
lui, lượng sức mà đánh. Đừng nên tham miếng mồi thơm, để lỡ mắc vào lưới cá.
Quan cao tước lớn nhường để người ta. Có như thế thì mẹ ở nhà mới đỡ lo lắng vì
con được.
Tôi cũng chẳng tham gì công trạng. Từ lâu chỉ muốn sống yên thân, bó buộc nơi
thôn dã. Công danh sự nghiệp của người làm trai tuy có quan trọng nhưng phụng
dưỡng mẹ già chu toàn vẹn tất. Trọn đời chỉ mong thực hiện đạo hiếu với mẹ. Nắm
lấy tay mẹ, tôi quỳ xuống lạy tạ vâng lời, hứa sẽ trở về bình an. Mẹ tôi cũng yên
tâm phần nào.
Vũ Nương đứng cạnh cũng rót ly rượu từ biệt thiết tha:
– Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn hầu, mặc áo gấm trở
về quê cũ. Chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi. Chỉ e
việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường, rợ man chạy tội, vương sư uổng công. Lời
tâu công lớn phá giặc đã chầy. Kỳ hẹn thay quân hóa muộn, khiến thiếp ôm nỗi
quan hoài, mẹ già triền miên lo lắng. Trông mảnh trăng Trường An, nhanh tay đập
áo rét. Ngắm liễu tàn rủ bóng động nỗi niềm biên ải xa xôi. Giả sử có muôn hàng
thư tín, chỉ e không một tin về.
Nàng nói đến đấy, mọi người đều ứa hai hàng lệ.
Rồi đó, chén rượu tống tiễn tay đưa vừa cạn, dứt áo chinh phu. Ngước mắt trông
lên đã đẫm nỗi buồn ly biệt. Trống hội quân vang lên giục giã như cào xé trong
lòng. Dù hết sức điềm tĩnh nhưng tôi cũng không thể cầm được dòng nước mát
đang lăn chảy. Ra đi chuyến này muôn trùng cách trở, chưa biết ngày về mà nàng
lại đang có mang con nhỏ. Lại thêm mẹ già tuổi đã xế chiều, sức không còn khỏe
nhỡ có mệnh hệ gì thì biết làm sao.
Tôi suy nghĩ rất nhiều nhưng quân tình gấp gáp đành gác lại riêng tư lên đường
cho kịp ngày giờ. Thoáng một cái, gót ngựa đã đến nơi xa. Trong lại chỉ còn trong
thấy bóng quê nhà trong mịt mờ khói bụi. Từ đậy, chiến trận ác liệt nên tin tức quê
nhà cũng bặt vô âm tính.
Hai năm đằng đẵng trôi qua, cuối cùng giặc dữ cũng quy hàng. Cõi biên thùy lại
yên lặng sóng gió. Tôi trở về sau bao năm tháng ly biệt. Hai vợ chồng gặp nhau
mừng mừng tủi tủi. Nhìn đứa con thơ ngơ ngác lần đầu gặp cha toi vô cùng xúc
động. Lại thêm mẹ già cùng kiệt đợi con về mà không thấy đã sớm lìa đời, tôi vô
cùng đau đớn. Nhiều lần tự trách mình bất hiếu đã không thể làm tròn bổn phận
của người con. Mẹ tôi trước lúc lìa khỏi trần gian đã không được nhìn thấy đứa con
trai duy nhất. Tôi cũng không được thắp nén hương tiễn đưa vong linh người về
suối vàng.
Sáng hôm sau, tôi bế con trai ra viếng mộ mẹ, trong lòng trĩu nặng ưu tư. Lúc thắp
hương tưởng niệm, con trai tôi cứ quấy khóc không chịu ở lại, cứ nằng nặc đòi về.
Tôi nhẹ nhàng dỗ dành:
– Con nín đi, đừng khóc! Cha về bà đã mất, lòng cha đã buồn khổ lắm rồi! Con
đừng khóc thêm nữa!
Nào ngờ, con tôi buộc miệng ngây thơ khiến tôi không khỏi sửng sốt:
– Ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói, chứ không như cha trước kia chỉ nín thin
thít.
Tính tôi hay hoài nghi, lại rất hay ghen, từ trước vốn đã không nặng lòng tin tưởng
vợ tôi, nên khi nghe câu nói con trẻ khiến lòng ghen nỗi dậy nhấm chìm cả lí trí:
– Khi ông chưa về đây, thường có một người đàn ông, đêm nào cũng đến. Mẹ đi
cũng đi, mẹ ngồi cũng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả.
Vin vào lời con nói, tôi đinh ninh cho rằng Vũ Nương ở nhà đã không biết giữ gìn
trinh tiết, dan díu với gian tình, bôi nhọ gia phong, làm nhục gia thế. Trở về nhà,
tôi nặng lời mắng nhiếc thậm tệ, đánh đập cho bỏ tức. Nàng hết lời minh giải, gợi
nhắc tình xưa, than lời ai oán. Nàng thề đã giữ trọn tiết hạnh khả phong chẳng khi
nào sai trái. Hỏi có làm sao, tôi vẫn không nói. Hàng xóm cảm thương đến can
ngan, minh chứng tôi cũng không nghe. Giận qua mất khôn, tôi đã đuổi nàng đi, từ
nay đoạn tuyệt, không thèm nhìn nhận nữa.
Quá tuyệt vọng, nàng thốt lời đâu đớn:
– Thiếp sở dĩ nương tựa vào chàng, vì có cái thú vui nghi gia nghi thất, có sự yên
ổn được tựa bóng cây cao. Đâu ngờ ân tình tựa lá, gièm báng nên non. Nay đã bình
rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió; khóc tuyết bông
hoa gãy cuống, kêu xuân cái én lìa màn, nước thẳm buồm xa, đâu còn thể lại lên
núi Vọng Phu kia nữa.
Tôi chỉ nghĩ nàng sẽ đi đâu đó dăm ba ngày, đợi tôi hồi tỉnh sẽ trở về biện minh,
oan giải. Nào ngờ, nàng trong lúc bế tắc, lại bị chính chồng mình phủ nhận đã trầm
mình xuống sông xanh tận tuyệt, kết liễu cuộc đời trong phẫn uất.
Tôi tuy giận là thất tiết, nhưng thấy nàng tự tận, cũng động lòng thương. Tôi vội
tìm vớt thây nàng nhưng chẳng thấy tăm hơi đâu cả.
Khi Vũ Nương mất ròi, tôi đêm đêm ôm ấp con trẻ thay mẹ. Đứa con không còn
mẹ, buồn tủi mà khóc suốt đêm thâu. Tôi phải bế lên dỗ dành. Bất ngờ, con tôi chỉ
lên cái bóng của tôi trên tường mà thốt lên rằng:
– Cha Đản lại đến rồi!
Lúc này tôi mới hoảng hồn nhận ra. Thì ra khi tôi đi vắng, Vũ Nương thường chỉ
lên cái bóng của mình trên tường nói rằng là cha đó để chơi đùa cùng con. Nàng
muốn làm con bớt nỗi trống vắng bóng hình người cha. Tôi vô cùng ân hận, bế con
đi khắp làng trên xóm dưới tỏ bày sự tình và xin mọi người tha thứ. Ai cũng ngùi
ngùi cảm động. Có người còn khóc thương thảm thiết.
Họ kể tôi nghe, những ngày tôi ở ngoài mặt trận, Vũ Nương ở nhà tuy hết sức đảm
đang, khổ nhọc chăm con nhỏ. nàng còn tận tâm phụng dưỡng mẹ già chu đáo
nhưng chưa lúc nào than vãn điều gì. Nàng một mình cam chịu, lầm lũi sớm hôm,
thay tôi lo chu toàn mọi việc. Mẹ tôi vô cùng cảm động, dù đã gắn gượng đợi tôi
về nhưng sức cùng lục kiệt, không thể đợi chờ được thêm. Trước lúc ra đi còn gửi
lời dặn dò tha thiết, ca ngợi tấm lòng hiếu thảo của Vũ Nương. Bà còn cầu mong
điều may mắn, an lành đến với nàng.
Trời ơi! Chỉ vì nghe lời nói vu vơ của con trẻ mà tôi đã hại chết người vợ hiền đức,
thủy chung. Chỉ vì sự ngu ngốc, mê muội của tôi mà tôi đã phụ lòng nàng, phủ
nhận công ơn của nàng. Mẹ ơi! Con là đứa con bất hiếu, đã phụ lòng mong mỏi của
mẹ. Ơi Vũ Nương! Kiếp này nàng đến với ta bằng tấm lòng trinh bạch. Chỉ vì lòng
ghen quá độ mà ta đã nghi oan cho nàng, ích kỉ đến đê tiện, phụ tình khiến nàng
phải chết oan uổng.
Đêm khuya vắng, ly rượu nhạt nhòa, nước mắt lưng tròng. Nghĩ đến chuyện xưa
mà lòng nặng trĩu như Thái Sơn, ai oán hơn trăm vạn nỗi buồn thảm. Oan nghiệp
ấy dù vô tình hay cố ý cũng không thể nào tha thứ được. Tôi không mong muốn
điều gì hơn là Vũ Nương sẽ rời khỏi cung nước, trở về cùng chồng, cùng con nhỏ
để con thơ có mẹ, mà tôi còn có cơ hội để đáp đền công đức của nàng.
Tôi đã lập đàn giải oan cho vợ đúng như lời Phan Lang đã dặn dò. Lại còn bày biện
lễ nghi sẵn sàng đón rước Vũ Nương trở về. Hôm ấy, người trong làng cũng cùng
ra xem hết sức đông đảo. Bỗng nhiên trời đất tối sầm lại, sương khói không biết từ
đâu tràn phủ khắp mặt sông nước. Rồi quả thấy Vũ nương ngồi trên một chiếc kiệu
hoa đứng ở giữa dòng. Theo sau lại có đến hơn năm mươi chiếc thuyền nữa, cờ tàn
tán lọng, rực rỡ đầy sông. Đoàn thuyền lúc ẩn lúc hiện trong sương khói. Tôi vô
cùng mùng rỡ, liền với gọi, van xin nàng tha thứ:
– Ta đã biết mình sai rồi, hãy tha thứ cho ta. Nàng hãy vì tình xưa mà trở về với
con đi.
Vũ Nương vẫn ở giữa dòng mà nói với vào, giọng vang vọng như lời gió thổi mây
bay:
– Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết cũng không bỏ. Đa tạ tình
chàng, thiếp chẳng thể lại về nhân gian được nữa.
Kết bài:
Tôi có gọi mãi nhưng nàng không nghe nữa. Đoàn thuyền dần ra xa rồi biến mất.
Mặt sông hiện ra trơ trọi. Tất cả đã không còn gì nữa. Người trong làng cũng bỏ về
hết, mặc tôi một mình than khóc không nguôi. Tôi không trách nàng, chỉ trách
mình phụ bạc, ăn ở bất nghĩa, bất tín, vô tình vô cảm. Nàng sẽ tìm thấy sự bình yên
nơi cung nước thẳm, không bao giờ trở về trần gian nữa. Tôi mãi mãi mất đi một
người vợ thủy chung. Đây là hậu quả xứng đáng dành cho kẻ bạc tình vô tâm như
tôi.