BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
HỌC VIỆN QUẢN LÝ GIÁO DỤC
_____________
______________
VŨ THỊ MAI PHƯƠNG
BIỆN PHÁP QUẢN LÝ LỚP HỌC CỦA GIÁO VIÊN
Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG LÝ THƯỜNG KIỆT
LONG BIÊN, HÀ NỘI
Chuyên ngành: Quản lý giáo dục
Mã số: 60.14.0101
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Trọng Hoàn
HÀ NỘI - 2013
2
LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm chân thành và lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin trân trọng gửi lời cảm ơn tới Quý Thầy
Cô ở Học Viện Quản lý Giáo dục đã tận tình giảng dạy và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và nghiên
cứu.
Đặc biệt tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Nguyễn Trọng Hoàn, người Thầy đã tận
tình chỉ bảo giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu để hoàn thành bản luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ, động viên, giúp đỡ của Ban giám hiệu và các đồng nghiệp
tại trường THPT Lý Thường Kiệt, Long Biên, Hà Nội, gia đình và người thân đã tạo điều kiện thuận
lợi giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn.
Trong quá trình học tập và nghiên cứu, mặc dù bản thân đã rất cố gắng song luận văn không tránh
khỏi những thiếu sót và hạn chế, kính mong các thầy giáo, cô giáo và các bạn quan tâm, góp ý để luận văn
được hoàn thiện hơn.
Hà Nội, tháng 11 năm 2013
Tác giả
Vũ Thị Mai Phương
3
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BGH:
Ban giám hiệu
CNH- HĐH:
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CBQL:
Cán bộ quản lý
GD-ĐT:
Giáo dục và đào tạo
GH:
Giám hiệu
GV:
Giáo viên
GVCN:
Giáo viên chủ nhiệm
GS:
Giáo sư
HS:
Học sinh
KT-KN:
Kiến thức- Kĩ năng
NXB:
Nhà xuất bản
PGS:
Phó Giáo sư
PPDH:
Phương pháp dạy học
SL:
Số lượng
TB:
Trung bình
TS:
Tiến sỹ
THPT:
Trung học phổ thông
TTCM:
Tổ trưởng chuyên môn
4
MỤC LỤC
5
DANH MỤC CÁC BẢNG
6
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ
7
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã khẳng định "Đổi mới căn bản, toàn diện nền
giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế,
trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục là
khâu then chốt" [2, tr.130] và "Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân
lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng xây dựng đất nước, xây dựng nền văn hóa và con người
Việt Nam". [8, tr.1]
Theo điều 27, Luật Giáo dục số 38/2005/QH11: Trung học phổ thông (THPT) là cấp học “bản
lề” của hệ thống giáo dục quốc dân. “Mục tiêu của giáo dục trung học phổ thông là nhằm giúp học
sinh củng cố và phát triển những kết quả của giáo dục trung học cơ sở, hoàn thiện học vấn phổ thông,
có những hiểu biết thông thường về kỹ thuật và hướng nghiệp, có điều kiện lựa chọn hướng phát triển
và phát huy năng lực cá nhân, tiếp tục học đại học, cao đẳng, trung cấp, học nghề và đi vào cuộc sống
lao động”.
Chỉ thị số 2737/CT-BGDĐT ngày 27 tháng 7 năm 2012 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo
(GDĐT) về nhiệm vụ trọng tâm của giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục thường xuyên và
giáo dục chuyên nghiệp năm học 2012-2013; Hướng dẫn số 5289/BGDĐT-GDTrH về việc thực hiện
nhiệm vụ GDTrH năm học 2012-2013 của Bộ GDĐT đã chỉ ra phải nâng cao chất lượng và hiệu quả
hoạt động giáo dục.
Hưởng ứng Cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh",“Mỗi thầy
giáo cô giáo là tấm gương về đạo đức, tự học và sáng tạo”, "Dân chủ, kỷ cương, tình thương, trách
nhiệm"; giáo viên các cấp học ngày càng phát huy vai trò trong việc giảng dạy và giáo dục học sinh.
Chất lượng giáo dục trong trường THPT phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó quản lý lớp học là
một trong những yếu tố quyết định của việc giảng dạy hiệu quả. Cá nhân mỗi giáo viên đừng lớp có
thể tác động lớn đến kết quả của học sinh. Tác động của giáo viên đến thành tích học tập của học sinh
là rõ ràng. Nhưng để đạt được hiệu quả giảng dạy, người giáo viên phải thực hiện nhiều nhiệm vụ và
các nhiệm vụ này có thể phân thành ba vai trò chính: (1) Lựa chọn và áp dụng biện pháp giảng dạy
một cách hiệu quả nhất, (2) Thiết kế chương trình giảng dạy tạo thuận lợi cho việc học của học sinh và
(3) Sử dụng hiệu quả các biện pháp quản lý lớp học. Trong ba vai trò của giáo viên đứng lớp thì quản
8
lý lớp học là nền tảng. Biện pháp giảng dạy hiệu quả và việc thiết kế tốt chương trình giảng dạy trong
lớp học được xây dựng trên cơ sở quản lý hiệu quả lớp học. Nếu giáo viên soạn giáo án chi tiết và cẩn
thận, định áp dụng một phương pháp phù hợp có khả năng thành công cao mà không thiết lập được
môi trường tốt để truyền tải nội dung kiến thức đã soạn thì chất lượng giờ học là không đạt yêu cầu.
Chính vì vậy quản lý lớp học là một nhiệm vụ, một kỹ năng quan trọng mà bất cứ giáo viên nào cũng
cần phải trau dồi, củng cố để đạt hiệu quả bài dạy tốt nhất. Có thể nói quản lý lớp học là nền tảng cho
hoạt động sư phạm của giáo viên diễn ra một cách tốt nhất, từ đó nâng cao chất lượng giáo dục của nhà
trường.
Giáo viên là người có vai trò thực hiện các công việc giảng dạy, giáo dục học sinh, thực hiện các
nhiệm vụ do các cấp quản lý trao phó. Hằng ngày, họ phải đối mặt và làm những công việc với tư cách
của nhà quản lý đích thực, có nghĩa, họ phải trực tiếp quản lý, điều hành những công việc khá phức tạp
như: quản lý một lớp chủ nhiệm, quản lý tất cả những công việc liên quan tới hoạt động dạy học, đặc
biệt là hoạt động dạy học trên lớp, vì vậy giáo viên cũng là một nhà quản lý, một nhà quản lý ở tầm vi
mô. Có quản lý lớp học tốt thì giáo viên mới giảng dạy tốt, chất lượng giáo dục mới tốt.
Với cương vị là một giáo viên, tôi cho rằng việc tìm ra các biện pháp để quản lý lớp học là thật
sự cần thiết không những đối với giáo viên mới vào nghề mà còn đối với những giáo viên công tác lâu
năm. Có quản lý được lớp học thì giáo viên mới thực hiện được hai nhiệm vụ còn lại một cách tốt
nhất. Xuất phát từ những lý do trên tôi chọn đề tài nghiên cứu “Biện pháp quản lý lớp học của giáo
viên ở trường trung học phổ thông Lý Thường Kiệt, Long Biên, Hà Nội”.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn về quản lý giờ lên lớp của giáo viên trường THPT Lý
Thường Kiệt, Long Biên, Hà Nội, luận văn đề xuất các biện pháp quản lý hiệu quả lớp học của giáo
viên nhằm nâng cao chất lượng giáo dục THPT.
3. KHÁCH THỂ VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
3.1. KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU
Thực trạng quản lý lớp học của giáo viên trường THPT Lý Thường Kiệt, Long Biên, Hà Nội.
3.2. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Các biện pháp quản lý hiệu quả lớp học của giáo viên trường THPT.
4. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
4.1. Hệ thống hoá các vấn đề lý luận về quản lý, quản lý hiệu quả lớp học.
9
4.2. Thực trạng quản lý lớp học của giáo viên trường THPT Lý Thường Kiệt, Long Biên, Hà Nội.
4.3. Đề xuất các biện pháp quản lý hiệu quả lớp học của giáo viên ở trường THPT.
4.4. Khảo sát tính khả thi của các biện pháp đề xuất.
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
5.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận: Đọc và khái quát các tài liệu nhằm xây dựng cơ sở lý luận
cho đề tài.
5.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
- Phương pháp điều tra viết: Xây dựng các biểu mẫu, phiếu điều tra nhằm thu thập thông tin về
vấn đề được nghiên cứu.
- Phương pháp phỏng vấn: Phỏng vấn một số hiệu trưởng, các tổ trưởng chuyên môn, giáo viên
có kinh nghiệm của trường để làm rõ thực trạng quản lý lớp học của giáo viên.
- Phương pháp chuyên gia: Xin ý kiến chuyên gia về mức độ cần thiết và tính khả thi của các
biện pháp chỉ đạo hoạt động chuyên môn trong nhà trường.
5.3. Nhóm các phương pháp hỗ trợ khác.
6. GIỚI HẠN VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đối tượng khảo sát là giáo viên đang công tác tại trường THPT Lý Thường Kiệt, Long Biên, Hà
Nội.
Do những hiểu biết của bản thân còn hạn chế và thời gian nghiên cứu đề tài không nhiều, đề tài
chỉ tập trung vào khảo sát, nghiên cứu các biện pháp quản lý lớp học của giáo viên ở trường THPT Lý
Thường Kiệt trong 3 năm trở lại đây.
7. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
10
Dựa trên tình hình thực tế về các biện pháp quản lý lớp học của giáo viên trường THPT Lý
Thường Kiệt, Long Biên, Hà Nội, luận văn có đề cập đến các biện pháp mới của các nhà nghiên cứu,
các chuyên gia trong lĩnh vực quản lý giáo dục như biện pháp “giáo dục kỷ luật tích cực”, biện pháp
“xây dựng mối quan hệ thầy trò tốt”, biện pháp “quản lý học sinh bằng các biện pháp tâm lýphù hợp”
và biện pháp “tăng cường quản lý học sinh thông qua hệ thống tự học” từ đó tìm ra các biện pháp tốt
nhất và khả thi nhất để giáo viên có thể áp dụng. Nếu đề xuất được biện pháp phù hợp thì sẽ nâng cao
được hiệu quả quản lý lớp học của giáo viên trong trường THPT và góp phần nâng cao thêm chất
lượng GD của nhà trường.
8. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN
Mở đầu
Nội dung
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý, quản lý lớp học
Chương 2: Thực trạng về quản lý lớp học của giáo viên ở trường trung học phổ thông Lý Thường Kiệt,
Long Biên, Hà Nội
Chương 3: Biện pháp quản lý lớp học của giáo viên ở trường trung học phổ thông Lý Thường Kiệt,
Long Biên, Hà Nội
Kết luận và khuyến nghị
Danh mục tài liệu tham khảo
Phụ lục
11
12
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ, QUẢN LÝ LỚP HỌC
1.1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
Nghiên cứu công tác QL nhà trường nói chung và QL lớp học ở THPT nói riêng là một trong
những nội dung quan trọng và cần thiết để nâng cao hiệu quả QL, đáp ứng yêu cầu đổi mới GD phổ
thông, nâng cao chất lượng dạy và học của GV và HS.
Quản lý lớp học là một trong những yếu tố quyết định của việc giảng dạy hiệu quả. Cá nhân mỗi
giáo viên đừng lớp có thể tác động lớn đến kết quả của học sinh. Tác động của giáo viên đến thành tích
học tập của học sinh là rõ ràng. Nhưng để đạt được hiệu quả giảng dạy, người giáo viên phải thực hiện
nhiều nhiệm vụ và các nhiệm vụ này có thể phân thành ba vai trò chính: (1) Lựa chọn và áp dụng biện
pháp giảng dạy một cách hiệu quả nhất, (2) Thiết kế chương trình giảng dạy tạo thuận lợi cho việc học
của học sinh và (3) Sử dụng hiệu quả các biện pháp quản lý lớp học. Trong ba vai trò của giáo viên
đứng lớp thì quản lý lớp học là nền tảng.
Đã có nhiều công trình, nhiều đề tài nghiên cứu về lĩnh vực quản lý nói chung. Tuy nhiên về
quản lý lớp học hiệu quả thì chưa có một đề tài chi tiết nào đề cập đến. Thiết nghĩ đây là một vấn đề
hết sức cần thiết cho giáo viên trong hoạt động giảng dạy để đạt được kết quả giờ học tối ưu nên tôi
mạnh dạn chọn đề tài này.
1.2. Một số khái niệm cơ bản liên quan đến vấn đề nghiên cứu
1.2.1. Quản lý
- Theo PGS.TS. Đặng Quốc Bảo: Quản lý là quá trình tác động gây ảnh hưởng của chủ thể quản
lý đến khách thể quản lý nhằm đạt được mục tiêu chung [13, tr.176] và: Công tác quản lý lãnh đạo một
tổ chức xét cho cùng là thực hiện hai quá trình liên hệ chặt chẽ với nhau: Quản và Lý.“Quản” gồm sự
coi sóc, giữ gìn, duy trì hệ ở trạng thái ổn định, quá trình “Lý” gồm việc sửa sang sắp xếp, đổi mới đưa
vào thế “phát triển”.
- Theo TS. Nguyễn Quốc Chí và GS.TS. Nguyễn Thị Mỹ Lộc thì: “Quản lý là tác động có định
hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý (người quản lý) đến khách thể quản lý (người bị quản lý) trong
một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành đạt được mục đích của tổ chức”. [23. tr.16]
13
- Theo GS.TS Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý là tác động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể
quản lý đến tập thể của những người lao động (nói chung là khách thể quản lý ) nhằm thực hiện được
những mục tiêu dự kiến”. [20, tr.31].
Tóm lại, một cách khái quát có thể hiểu: Quản lý là quá trình tác động có tổ chức, có mục đích
của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý trong một tổ chức, thông qua công cụ và phương pháp quản
lý nhằm làm cho tổ chức đó vận hành thuận lợi và đạt được mục tiêu đã đề ra.
Quá trình tác động đó thể hiện qua mô hình dưới đây [26,tr.8]:
Công cụ
quản lý
Khách thể
quản lý
Chủ thể
quản lý
Mục tiêu quản lý
Phương pháp
quản lý
Hình 1.1: Mô hình về quản lý
1.2.2. Quản lý giáo dục
Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt, nên quản lý giáo dục được hình thành và phát triển
là một tất yếu khách quan. Có nhiều quan điểm khác nhau về quản lý giáo dục.
- “Quản lý giáo dục là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý tới khách thể quản lý nhằm đưa
hoạt động sư phạm của hệ thống giáo dục đạt tới kết quả mong muốn bằng cách hiệu quả nhất” [20,
tr.56].
- “Quản lý giáo dục theo nghĩa tổng quan là điều hành, phối hợp các lực lượng nhằm đầy mạnh
công tác đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu phát triển xã hội” [12, tr.31.].
- “Quản lý giáo dục là tổ chức các hoạt động dạy học. Có tổ chức được các hoạt động dạy học,
thực hiện được các tính chất của nhà trường phổ thông Việt Nam xã hội chủ nghĩa, mới quản lý được
14
giáo dục, tức là cụ thể hoá đường lối giáo dục của Đảng và biến đường lối đó thành hiện thực, đáp ứng
nhu cầu của nhân dân, của đất nước” [18, tr. 9].
- “Quản lý giáo dục là hoạt động tự giác của chủ thể quản lý nhằm huy động, tổ chức, điều phối,
điều chỉnh, giám sát…… một cách có hiệu quả các nguồn lực giáo dục (nhân lực, tài lực, vật lực) phục
vụ cho mục tiêu phát triển giáo dục, đáp ứng các yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội” [28, tr.10].
Những khái niệm về quản lý giáo dục nêu trên tuy có những cách diễn đạt khác nhau nhưng
nhìn chung lại có thể hiểu là: Quản lý giáo dục là sự tác động có tổ chức, có định hướng phù hợp với
quy luật khách quan của chủ thể quản lý ở các cấp lên đối tượng quản lý nhằm đưa hoạt động giáo dục
của từng cơ sở và của toàn bộ hệ thống giáo dục đạt tới mục tiêu đã định.
Trong quản lý giáo dục, chủ thể quản lý ở các cấp chính là bộ máy quản lý giáo dục từ Trung
ương đến Địa phương, còn đối tượng quản lý chính là nguồn nhân lực, cơ sở vật chất kỹ thuật và các
hoạt động thực hiện chức năng của GD- ĐT. Hiểu một cách cụ thể là:
- Quản lý giáo dục là hệ thống tác động có kế hoạch, có ý tưởng, có mục đích của chủ thể quản
lý đến đối tượng bị quản lý.
- Quản lý giáo dục là sự tác động lên tập thể giáo viên, học sinh và các lực lượng giáo dục trong
và ngoài nhà trường, nhằm huy động họ cùng phối hợp, tác động tham gia các hoạt động giáo dục của
nhà trường để đạt mục đích đã định.
Trên cơ sở lý luận chung ta thấy rằng thực chất của quản lý giáo dục là quản lý hoạt động dạy
học của giáo viên và hoạt động học của học sinh nhằm đạt hiệu quả cao nhất trong việc nâng cao chất
lượng giáo dục và hình thành nhân cách của học sinh.
Nói chung, giáo viên được hiểu là sự tác động của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý trong
lĩnh vực giáo dục. Nói một cách rõ ràng hơn, đầy đủ hơn, giáo viên là hệ thống những tác động có mục
đích, có kế hoạch, hợp qui luật của chủ thể quản lý trong hệ thống giáo dục, là sự điều hành hệ thống
giáo dục quốc dân, các cơ sở giáo dục nhằm thực hiện mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài. Giáo viên là hoạt động điều hành, phối hợp các lực lượng xã hội nhằm đẩy mạnh
công tác giáo dục theo yêu cầu phát triển xã hội.
1.2.3. Quản lý nhà trường
Nhà trường là một thể chế xã hội- nhà nước, là một đơn vị tổ chức hoàn chỉnh, cơ quan giáo dục
chuyên biệt thực hiện chức năng GD-ĐT của Nhà nước và của cộng đồng xã hội chuẩn bị cho thế hệ
15
trẻ có nhân cách để vững vàng bước vào cuộc sống. Vì thế trường học luôn có mối quan hệ tác động
qua lại với môi trường xã hội. PGS.TS Đặng Quốc Bảo đã viết: “Trường học là một thiết chế xã hội
trong đó diễn ra quá trình đào tạo giáo dục với hoạt động tương tác của hai nhân tố “Thầy–Trò”.
“Trường học là bộ phận của cộng đồng và trong guồng máy của hệ thống giáo dục quốc dân, nó là đơn
vị cơ sở”. [12]
Theo tác giả Phạm Minh Hạc, khi bàn về khái niệm quản lý nhà trường đã khẳng định: “Quản lý
nhà trường là thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa
nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với
ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và với từng học sinh.” [17,tr.20].
Theo tác giả Phạm Viết Vượng: “Quản lý trường học là lao động của các cơ quan quản lý nhằm
tập hợp và tổ chức lao động của giáo viên, học sinh và các lực lượng giáo dục khác, cũng như huy
động tối đa các nguồn lực giáo dục để nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo trong nhà trường” ".
[18, tr.23]
Căn cứ nhiệm vụ và quyền hạn của nhà trường được qui định trong mục 2 điều 58, chương III của Luật
giáo dục nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2005 thì: Quản lý trường học trước hết là
quản lý dạy và học, quản lý các hoạt động bên trong của nhà trường, đồng thời phải bao gồm việc quản
lý các quan hệ giữa nhà trường và xã hội bên ngoài.
Quản lý nhà trường là lĩnh vực quản lý tác nghiệp giáo dục, nghĩa là quản lý việc dạy - học
diễn ra trong trường học. Quá trình giáo dục là một hệ thống phức tạp bao gồm các thành tố: Mục
tiêu giáo dục, nội dung giáo dục, phương pháp giáo dục, phương tiện, người dạy, người học, môi
trường giáo dục, kết quả giáo dục. Các thành tố đó vừa có tính độc lập tương đối, có tính đặc trưng
riêng biệt nhưng có mối quan hệ mật thiết lẫn nhau, tác dụng tương hỗ nhau, gắn bó với nhau tạo nên
một thể thống nhất. Người quản lý phải làm sao cho các thành tố đó của quá trình giáo dục vận động
đồng bộ, hài hoà và phát triển không ngừng, có như vậy thì tổ chức giáo dục sẽ phát triển bền vững.
Công tác quản lý trường học chính là những công việc của nhà trường mà người cán bộ quản lý
trường học thực hiện những chức năng quản lý theo yêu cầu và nhiệm vụ quy định. Đó là các hoạt
động có ý thức, có kế hoạch và có định hướng của chủ thể quản lý tác động tới các hoạt động của nhà
trường nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ mà trung tâm đó là hoạt động dạy và học trong nhà
trường. Ở góc độ cụ thể thì quản lý trường học là việc người cán bộ quản lý tổ chức, chỉ đạo và điều
16
hành mọi hoạt động của nhà trường, trong đó mọi hoạt động đều hướng tới hiệu quả của hoạt động
trung tâm là dạy và học đáp ứng được mục tiêu giáo dục.
1.2.4. Quản lý lớp học
Quản lý lớp học đã được các nhà khoa học Mỹ, một đất nước có nền giáo dục tiên tiến nghiên
cứu kỹ. Theo đó, quản lý lớp học, thường được gọi là kỷ luật lớp học, đã là một ưu tiên cho giáo viên
trong các cuộc khảo sát ý kiến của các ưu tiên giáo dục ở Mỹ. Trong một khảo sát năm 2006 của Pre-K
được thực hiện bởi Hiệp hội tâm lý Mỹ (APA), giáo viên xác định được giúp đỡ với quản lý lớp học và
kỹ năng giảng dạy như nhu cầu hàng đầu của họ. Theo Evertson và Weinstein, quản lý lớp học có hai
mục đích khác nhau: "Nó không chỉ tìm cách thiết lập và duy trì một môi trường có trật tự để học sinh
có thể tham gia học tập học thuật có ý nghĩa, nó cũng nhằm mục đích thúc đẩy tăng trưởng sinh viên
xã hội và đạo đức" (trang 4). Các tác giả đã xác định năm nhiệm vụ cụ thể cho thấy quản lý lớp học là
một hoạt động đa dạng. Nó vượt ra ngoài một số các kỹ thuật quản lý hành vi truyền thống thường
xuyên được đề nghị để đối phó với các sinh viên có hành vi gây rối. Cụ thể, họ lưu ý rằng giáo viên
nên làm như sau:phát triển chăm sóc, hỗ trợ mối quan hệ với và giữa các học sinh; tổ chức và thực
hiện các hướng dẫn trong cách truy cập tối ưu hóa của học sinh để học tập; sử dụng các phương pháp
quản lý nhóm khuyến khích sự tham gia của sinh viên với nhiệm vụ học tập; thúc đẩy phát triển các kỹ
năng xã hội và sinh viên tự điều chỉnh, và sử dụng biện pháp can thiệp thích hợp để hỗ trợ những học
sinh có vấn đề về hành vi.
Ở cấp độ phổ thông, trường học thiết lập những kỳ vọng đối với hành vi, học sinh, nhân viên và
gia đình rõ những kỳ vọng để đảm bảo rằng chúng được hiểu, các trường tắc và hành động hành vi tích
cực và dạy chúng cho sinh viên, giáo viên có địa chỉ liên lạc ủng hộ xã hội với các sinh viên, giáo viên
được đào tạo chính quy trong quản lý hành vi; trường thiết lập một đội ngũ lãnh đạo toàn trường và
các trường thực hiện một hệ thống có hệ thống các hành vi sinh viên ghi âm để tạo điều kiện quyết
định làm liên quan đến hành vi học sinh.
Ở cấp trung học, một chương trình dựa trên bằng chứng như bước đầu tiên để thành công (Walker,
Stiller, Bolly, Kavanagh, Steverson, và Feil, 1997) có thể được thực hiện với các nhóm sinh viên có nhu
cầu mức hỗ trợ này. Ở bậc đại học, trường học có thể thiết lập chương trình cá nhân đối với một số học
sinh dựa trên một phân tích về những gì hoạt động hành vi có vấn đề có thể được phục vụ cho học sinh.
Bởi vì hầu hết giáo viên lớp học chưa được đào tạo trong đánh giá chức năng của hành vi, điều quan
trọng là họ tham khảo ý kiến với các đồng nghiệp người có chuyên môn trong lĩnh vực này.
17
1.2.4.1. Biện pháp sử dụng điều lệ trường THPT và các nội quy, quy định của nhà trường
(Trích quy định đối với học sinh của trường THPT Lý Thường Kiệt, Long Biên, Hà Nội.)
- Học sinh đến trường đúng giờ quy định, nghỉ học phải có đơn xin phép của cha mẹ.
- Trong giờ học: Không xin ra ngoài, không đi lại trên hành lang, trong sân trường.
- Không bỏ tiết học: Nếu vì lý do đặc biệt phải xin nghỉ giữa buổi học, học sinh phải viết đơn
xin phép giáo viên chủ nhiệm hoặc giáo viên bộ môn, có xác nhận của lớp trưởng; sau đó lên phòng
trực giám hiệu xin giấy phép và báo lại cho lớp trưởng.
- Có thái độ đúng đắn trong học tập: xác định mục đích, động cơ học tập; cố gắng phấn đấu đạt
kết quả cao, có thái độ trung thực trong kiểm tra và thi cử.
- Có đầy đủ sách vở, đồ dùng học tập.
- Thực hiện tốt nền nếp học tập. Trên lớp: Chú ý nghe giảng, ghi chép, phát biểu ý kiến xây
dựng bài, luyện tập, thực hành… Không nói tự do, pha trò cười, nói chuyện, làm việc riêng … trong
giờ học.
- Nói năng đúng mực, văn minh, lịch sự, không nói tục chửi bậy, hút thuốc lá, uống rượu, bia,
chơi cờ bạc…
- Cấm mang quà, bánh, nước uống vào phòng học. Tuyệt đối không ăn kẹo cao su, cắn hạt hoa
quả trong trường, lớp.
- Không mang sách báo, tạp chí, bằng - đĩa hình không liên quan đến học tập đến trường.
- Không sử dụng điện thoại di động, máy nghe nhạc, trò chơi điện tử … trong trường học.
- Không được mang vũ khí thô sơ, chất cháy, chất nổ như: diêm, pháo, bật lửa… đến trường.
- Không mang nhiều tiền hoặc những vật dụng đắt tiền, có giá trị lớn đến trường.
- Giữ gìn và bảo vệ tài sản của nhà trường như: bàn, ghế, cửa, trang thiết bị phòng học, khu vệ
sinh…Không được dẫm chân lên bàn, ghế, không vẽ bậy làm bẩn tường. Bảo vệ môi trường sạch đẹp.
Nếu làm mất, làm hỏng tài sản của nhà trường phải bồi thường và chịu mọi hình thức kỷ luật.
- Mặc đồng phục theo quy định của nhà trường
- Không nhuộm tóc trái với màu tự nhiên. Đối với học sinh nam: Không để tóc quá dài, không
cắt trọc tóc, không để đầu đinh, cua, không để các kiểu đầu không phù hợp với học sinh. Học sinh nữ:
không trang điểm, sơn móng tay chân, làm tóc, nhuộm tóc khi đến trường
Ngoài việc dạy kiến thức cho học sinh, giáo viên phải kết hợp với việc giáo dục ý thức, hoàn
thiện nhân cách cho các em. Giúp học sinh thực hiện tốt những nội quy của nhà trường góp phần quan
18
trọng nâng cao hiệu quả giáo dục. Kết quả điều tra cho thấy hầu hết giáo viên đã chý ý đến việc sử
dụng nội quy, quy định trong việc quản lý kỷ luật trong lớp, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục.
1.2.4.2. Biện pháp quan sát lớp
Đây là một kỹ thuật giúp giáo viên quản lý lớp trong cả giờ lên lớp, nhưng đặc biệt là khi học
sinh thực hiện các hoạt động nói, là lúc mà giáo viên quan tâm đến việc đánh giá tổng quát việc thực
hiện hoạt động của học sinh trong mối tương quan đến sự tiến bộ chung hoặc là sự tiến bộ về ngôn ngữ
và các kỹ năng của các em gần đây. Quan sát và lắng nghe từng học sinh trong khi các em thực hiện
các bài tập thực hành viết, là lúc mà mục đích là chỉ ra cho các em các lỗi sai và khuyến khích các em
tự sửa lỗi. Việc quan sát và lắng nghe các hoạt động thực hành theo hướng dẫn, đặc biệt là các hoạt
động theo cặp, hướng vào việc học sinh sử dụng ngôn ngữ một cách chính xác, trong khi đó thì việc
quan sát và lắng nghe các hoạt động tự do hơn được thực hiện theo nhóm lại hướng vào mục đích là
kết quả của hoạt động và mức độ lưu loát của học sinh. Có thể bao quát lớp chung chung hoặc vì nhiều
mục đích, tập trung vào một hoặc nhiều mục tiêu trong số các mục tiêu sau.
- Biết rõ học sinh cả lớp. Giáo viên cần nắm vững tiến độ của lớp, tốc độ dạy có quá nhanh hay
quá chậm, và học sinh nào cần được quan tâm riêng. Thường hay có khuynh hướng dạy theo thiết kế
bài giảng và tài liệu một cách cứng nhắc mà không kể gì đến học sinh.
Lắng nghe các lỗi sai thuộc điểm ngữ liệu của bài học, đặc biệt là ở các hoạt động thực hành theo
hướng dẫn. Việc sửa lỗi khi học sinh thực hiện các hoạt động này là cần thiết, bởi vì đây thường là các
hoạt động đặt trọng tâm vào việc học sinh sử dụng đúng điểm ngữ liệu của bài học.
Lắng nghe để đảm bảo là học sinh đang thực hiện đúng nhiệm vụ. Qua đó có thể cần hướng dẫn lại,
hoặc làm mẫu hoạt động, hoặc cung cấp thêm gợi ý cho học sinh.
Tận dụng cơ hội để dạy cá nhân học sinh hoặc các cặp học sinh nào chưa hiểu rõ điểm ngữ liệu của bài
học.
Đánh giá từng học sinh và cả lớp. Bao quát lớp giúp giải quyết các khó khăn cũng như thúc đẩy sự tiến
bộ của cá nhân học sinh và của các nhóm. Trên phương diện này, bao quát lớp là một loại hình phân
tích nhu cầu thường xuyên và liên tục. Tất cả học sinh cần được quan tâm, dù chỉ là một vài lời động
viên khuyến khích.
Thêm dữ liệu. Đặc biệt là ở các hoạt động đặt trọng tâm vào mức độ lưu loát, có khả năng học sinh
không thể có được nhiều ý để tiếp tục thực hiện hoạt động . Nhiệm vụ của giáo viên ở đây là cung cấp
thêm ngữ liệu và ý tưởng khi nào thích hợp để duy trì hoạt động.
19
Đánh giá sự tiến bộ về khả năng lưu loát của học sinh. Để thực hiện được việc này cần quan sát và
lắng nghe từ xa, và nhiệm vụ của giáo viên là ghi chép các lỗi sai thông thường để rồi sẽ đề cập đến
trong giai đoạn sửa lỗi sau đó, và cũng để lưu ý học sinh về cách dùng của điểm ngữ liệu bài học trong
một ngữ cảnh rộng hơn.
Đánh giá hoạt động. Một vài hoạt động sẽ phát huy tác dụng ở một lớp này tốt hơn là ở một lớp khác,
trong khi đó có những hoạt động khác mới được thử nghiệm lần đầu. Bao quát lớp tạo cơ hội cho giáo
viên đánh giá sự thành công của một hoạt động và nhận được phản hồi từ học sinh.
Lập kế hoạch. Bao quát lớp giúp giáo viên quyết định xem cái gì cần làm kế tiếp, có cần sửa đổi giáo
án ban đầu hay không, thiết kế bài giảng sắp đến và phản hồi cho học sinh về những gì các em đã thực
hiện.
Duy trì kỷ luật. Các nhóm đông học sinh có thể sẽ không ngồi yên và cảm thấy chán nếu có học sinh
làm xong phần việc của mình trước những người khác. Giáo viên cần chuẩn bị một vài hoạt động dự
phòng ngắn dành cho các học sinh này, hoặc có thể sử dụng các học sinh nhanh nhẹn để hổ trợ các
nhóm chậm hơn.
1.2.4.3. Biện pháp duy trì trật tự và nắm quyền kiểm soát lớp học
Rõ ràng giáo viên không thể dạy và học sinh không thể học nếu lớp học ồn ào. Trong bất cứ tình
huống nào giáo viên cũng không nên dễ dàng để học sinh phá vỡ trật tự lớp học. Nếu điều này xảy ra,
giáo viên phải mất rất nhiều công sức mới có thể thiết lập lại trật tự. Đặc biệt là khi giáo viên tổ chức
các hoạt động như chơi trò chơi hoặc thảo luận một vấn đề gì đó, học sinh sẽ dễ kích động, nói to thậm
chí hò hét vì quá hưng phấn. Nếu như thái độ của giáo viên có phần tiêu cực, dễ dãi thì chúng sẽ càng
làm tới.
Nhìn chung hầu hết giáo viên trong nhà trường đều ý thức được tầm quan trọng của việc giữ trật
tự trong giờ học. Có như vậy họ mới đủ thời gian truyền tải hết nội dung kiến thức cần đạt được mà
không phải vất vả quản lý học sinh. Những biện pháp giáo viên áp dụng để giữ trật tự trên lớp là:
- Đổi chỗ học sinh liên tục: cho những học sinh hay gây rối hay học kém ngồi gần để giáo viên có
thể để mắt tới thường xuyên.
- Không cho phép học sinh gọi, nói leo hay ngắt lời giáo viên: Học sinh phải giơ tay khi muốn
phát biểu hay yêu cầu.
- Nhắc nhở khi có học sinh nói tự do trong giờ, khi có nhiều học sinh nói chuyện không thuộc
phạm vi bài học với nhau.
- Chỉ nói khi hoạt động nhóm hay trả lời thầy, cô giáo.
- Các tổ trưởng có trách nhiệm quản lý trật tự tổ mình, nhắc nhở tổ viên khi cần thiết.
20
1.2.4.4. Biện pháp khen thưởng động viên
Dạy học là một quá trình phức tạp đòi hỏi sự nỗ lực cố gắng của cả giáo viên và học sinh. Tuy
nhiên, trong nhiều trường hợp, giáo viên gặp rất nhiều khó khăn khi học sinh tỏ ra thiếu hứng thú học
bài. Việc động viên khen ngợi của giáo viên kịp có thể giúp học sinh lấy lại động cơ trong học tập. Các
biện pháp giáo viên thường áp dụng:
- Luôn khen ngợi những thành tích hay tiến bộ của học sinh. Bỏ qua những lỗi của học sinh nếu
có thể.
- Tỏ ra ngạc nhiên khi thấy học sinh tiến bộ nhanh đến như thế.
- Nói chuyện với một học sinh và bày tỏ cảm giác hài lòng về sự tiến bộ của em đó, đôi khi khen
ngợi một học sinh trước lớp để động viên những học sinh còn lại.
- Giáo viên tỏ ra thân thiện và giúp đỡ học sinh giải quyết những vấn đề khó khăn.
Việc tuyên dương và khen thưởng khích lệ các em rất nhiều. Lời khen tặng đó phát sinh và nuôi
dưỡng lòng tự trọng khiến các em tự giác giữ kỷ luật. Càng có dịp khen thưởng các em càng tốt, nhưng
phải luôn trung thực, đúng với những nỗ lực và thành quả các em đạt được, nhưng trên hết là nhắm
vào bản thân các em. Giáo viên có thể khen thưởng các em với những lời chân thành, hay với thái độ
tin tưởng trao trách nhiệm hoặc một phần thưởng hay một vòng tay thân ái.
1.2.4.5. Biện pháp can thiệp kỷ luật
Bất cứ một tổ chức nào cũng có nội quy, quy định riêng và các thành viên có nghĩa vụ phải tuân
theo để đảm bảo kỷ cương, nề nếp. Trong môi trường giáo dục THPT, nội quy học sinh và các quy tắc
do BGH, GVCN, giáo viên bộ môn đề ra là những yêu cầu học sinh phải tuân theo. Có kỷ luật nghiêm
thì mới giữ được nếp dạy, nếp học tốt. Có thể nói đại đa số giáo viên khi nhắc đến khái niệm quản lý
học sinh là nghĩ đến biện pháp kỷ luật để đưa học sinh vào khuôn khổ. Nhiều giáo viên nổi tiếng trong
các thế hệ học sinh vì “nghiêm”. Ở đây có thể hiểu theo hai cách: có giáo viên nghiêm khắc và chuẩn
mực trong đánh giá học sinh, nhưng cũng có giáo viên quá khắt khe và “quân phiệt”. Các giáo viên
này thường sử dụng biện pháp kỷ luật mang tính tiêu cực, ví dụ như biện pháp trừng phạt. Khái niệm
này được định nghĩa “là biện pháp thực hiện với trẻ em nhằm thay đổi hành vi tiêu cực ở trẻ em,
nhưng lại gây ra sự đau đớn về mặt thể chất và tinh thần cho trẻ, có hại cho sự phát triển của trẻ ”. Các
hình thức trừng phạt: trừng phạt thân thể: đánh bằng roi, bằng gậy, cốc đầu, véo hoặc xoắn tai, tát;
trừng phạt tinh thần: là những hành vi gây ra những tổn thương về mặt tâm lý, tình cảm, tinh thần của
trẻ. Ví dụ: mắng chửi, quát mắng thậm tệ, sỉ nhục, chế nhạo, làm trẻ xấu hổ, dọa nạt, đe dọa. Trong
trường nhiều giáo viên đã sử dụng biện pháp này để đưa học sinh vào khuôn khổ, để dễ quản lý. Trên
21
thực tế, nhiều giáo viên dùng các hình phạt không liên quan đến hành vi mắc lỗi của học sinh như bắt
trẻ phải trực nhật lớp, dọn nhà vệ sinh vì quên làm bài tập hoặc chửi rủa là “đồ ăn hại”, “vô tích sự”...
Nhiều học sinh sợ nên phải tuân theo các yêu cầu của giáo viên đó, nhưng nhiều học sinh không ủng
hộ cách làm này. Nhìn chung tâm lý của học sinh là áp lực, nhiều em buồn bã, chán nản, thù ghét giáo
viên.
Rõ ràng biện pháp này có nhiều tác động tiêu cực. Khi người lớn dùng hình phạt thể chất và tinh
thần thì trẻ thường trở nên thụ động, nhút nhát, rụt rè, sợ sai, đặc biệt khi có những người đó bên cạnh.
Vì thế người lớn cho rằng đứa trẻ có tính rụt rè, nhút nhát. Thật ra là khi đó trẻ sợ hoặc cảm thấy
không được khích lệ. Trừng phạt không hiệu quả và còn có hại. Trừng phạt trẻ chưa chắc đã khiến trẻ
làm những gì người lớn muốn. Trừng phạt làm cho trẻ sợ cha mẹ, thầy cô và những người lớn có
“quyền” khác dẫn đến tâm lý luôn e sợ, tự ti, nguy cơ học kém, học chậm. Trẻ thường né tránh tình
huống và những người chúng sợ. Trẻ có thể trốn tránh hoặc bỏ nhà, bỏ học. Nếu cha mẹ, thầy cô phạt
để trẻ sợ thì chỉ làm cho tình hình tồi tệ hơn. Trẻ bị đánh, phạt nhiều thường ít linh hoạt và kém thích
nghi. Một số nghiên cứu ở châu Á cho thấy, phong cách giáo dục kiểu gia trưởng, khắc nghiệt, dùng
hình phạt (mắng chửi, đánh, cấm làm một số điều trẻ thích) để kiểm soát con cái và mức độ sáng tạo
của trẻ có quan hệ tỉ lệ nghịch. Nói cách khác, cha mẹ càng dùng phong cách giáo dục kiểu trừng phạt
bao nhiêu trẻ càng có xu hướng kém sáng tạo bấy nhiêu. Giáo viên càng không nên sử dụng biện pháp
này vì ảnh hưởng không mang tính giáo dục của nó.
Theo Thông tư Số 08/TT Hướng dẫn về việc khen thưởng và thi hành kỷ luật học sinh các
trường PT của Bộ GD:
“Việc khen thưởng và thi hành kỉ luật đối với học sinh là một trong các biện pháp giáo dục quan
trọng trong nhà trường phổ thông, nhằm mục đích:
- Khuyến khích học sinh phấn đấu vươn lên, noi theo các gương tốt để tu dưỡng và rèn luyện
bản thân.
- Ngăn chặn không để các hiện tượng sai trái phát triển, giáo dục các học sinh phạm sai lầm,
giúp các học sinh này phấn đấu trở thành học sinh tốt.
- Thúc đẩy học sinh tự giác thực hiện quy định về quyền hạn, nhiệm vụ của mình nhằm nâng
cao ý thức góp phần xây dựng mọi nề nếp, kỷ cương trong nhà trường.
Việc khen thưởng và kỉ luật đối với học sinh được thực hiện đúng đắn sẽ góp phần tích cực vào
việc củng cố và phát triển phong trào thi đua “Hai tốt” trong nhà trường phổ thông từng bước thực
22
hiện tốt mục tiêu đào tạo của nhà trường và từng cấp học. Muốn vậy, cần phải đảm bảo được các
nguyên tắc sau:
- Chính xác, khách quan, vô tư, không định kiến, hẹp hòi, tùy tiện.
- Dân chủ, bình đẳng, có lí có tình đối với mọi học sinh.
- Lấy giáo dục làm chính, đồng thời giữ nghiêm kỉ luật. Phát huy ưu điểm, bồi dưỡng những
nhân tố tích cực, lấy đó làm chỗ dựa để khắc phục những thiếu sót, những biểu hiện tiêu cực.
- Tiến hành kịp thời những hình thức thích hợp.
- Tạo ra trong nhà trường và ngoài xã hội một dư luận đúng đắn, ủng hộ cái tốt, phê phán cái sai.
- Có kế hoạch theo dõi sự tiến bộ và sửa chữa của học sinh phạm lỗi.
- Khen phải kèm theo hình thức thưởng thích đáng.
Việc giáo viên khen thưởng hay kỷ luật học sinh có tác động không nhỏ đến tâm lý và kết quả
học tập của họ, vì vậy giáo viên phải cân nhắc lựa chọn hình thức phù hợp để đưa học sinh vào khuôn
khổ nhưng không gây áp lực và tâm lý căng thẳng, làm giảm hiệu quả của giáo dục.
1.3. Vị trí, nhiệm vụ, mục tiêu và đối tượng giáo dục của trường Trung học phổ thông
1.3.1. Vị trí, vai trò của trường Trung học phổ thông
Điều 2, Điều lệ trường trung học cơ sở, trường trung học phổ thông và trường phổ thông có
nhiều cấp học (2007) (Ban hành kèm theo Thông tư số: 12/2011/TT-BGDĐT ngày 28/3 /2011 của Bộ
trưởng Bộ Giáo dục và đào tạo) quy định: “Trường trung học là cơ sở giáo dục phổ thông của hệ thống
giáo dục quốc dân. Trường có tư cách pháp nhân và có con dấu riêng”.
Trường THPT là cấp học cuối cùng của giáo dục phổ thông, gồm 3 năm học. Đây là bậc học
hoàn thiện kiến thức phổ thông cho học sinh, là bậc học tạo nguồn cho các yêu cầu đào tạo của xã hội;
đồng thời chuẩn bị tích cực cho thế hệ trẻ đi vào cuộc sống xã hội và lao động sản xuất làm nghĩa vụ
công dân và có điều kiện học lên.
Vai trò của giáo dục THPT là giáo dục thế hệ thanh niên trở thành những người lao động mới,
làm chủ tập thể và phát triển toàn diện, sẵn sàng tham gia xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ
nghĩa”.
1.3.2. Nhiệm vụ và quyền hạn của trường Trung học phổ thông
Điều 3 quy định: Trường trung học có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1. Tổ chức giảng dạy, học tập và các hoạt động giáo dục khác theo mục tiêu, chương trình giáo
dục phổ thông dành cho cấp THCS và cấp THPT do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành.
23
Công khai mục tiêu, nội dung các hoạt động giáo dục, nguồn lực và tài chính, kết quả đánh
giá chất lượng giáo dục.
2. Quản lý giáo viên, cán bộ, nhân viên theo quy định của pháp luật.
3. Tuyển sinh và tiếp nhận học sinh; vận động học sinh đến trường; quản lý học sinh theo quy
định của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
4. Thực hiện kế hoạch phổ cập giáo dục trong phạm vi được phân công.
5. Huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực cho hoạt động giáo dục. Phối hợp với gia đình học
sinh, tổ chức và cá nhân trong hoạt động giáo dục.
6. Quản lý, sử dụng và bảo quản cơ sở vật chất, trang thiết bị theo quy định của Nhà nước.
7. Tổ chức cho giáo viên, nhân viên, học sinh tham gia hoạt động xã hội.
8. Thực hiện các hoạt động về kiểm định chất lượng giáo dục.
9. Thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật.
1.3.3. Đối tượng giáo dục của trường Trung học phổ thông
Theo Điều 26 và điều 27- Luật Giáo dục 2005 thì: Giáo dục THPT được thực hiện trong ba năm
học, từ lớp mười đến lớp mười hai. Học sinh vào học lớp mười phải có bằng tốt nghiệp trung học cơ sở, có
tuổi là mười lăm tuổi. giáo dục phổ thông giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất,
thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân
cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho học
sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
1.3.4. Mục tiêu và nội dung giáo dục của trường Trung học phổ thông
Mục tiêu của giáo dục THPT theo điều 27 của Luật giáo dục nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa
Việt Nam năm 2005: “Giáo dục trung học phổ thông nhằm giúp học sinh củng cố và phát triển những
kết quả của giáo dục trung học cơ sở, hoàn thiện học vấn phổ thông và có những hiểu biết thông
thường về kỹ thuật và hướng nghiệp, có điều kiện phát huy năng lực cá nhân để lựa chọn hướng phát
triển, tiếp tục học đại học, cao đẳng, trung cấp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động”.
Như vậy trường THPT có mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo dục mang tính phổ thông cơ
bản, toàn diện, với những đặc thù riêng nhằm thực hiện nhiệm vụ góp phần xứng đáng vào việc: “
Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, đáp ứng nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng dân chủ và văn minh” [30, tr.7).
24
1.4. Nhiệm vụ, quyền hạn, vai trò của giáo viên ở trường Trung học phổ
thông
Giáo viên trường trung học là người làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong nhà trường, gồm:
Hiệu trưởng, Phó Hiệu trưởng, giáo viên bộ môn, giáo viên làm công tác Đoàn thanh niên Cộng sản
Hồ Chí Minh (bí thư, phó bí thư hoặc trợ lý thanh niên, cố vấn Đoàn), giáo viên làm tổng phụ trách
Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh (đối với trường trung học có cấp tiểu học hoặc cấp THCS),
giáo viên làm công tác tư vấn cho học sinh.
1.4.1. Nhiệm vụ của giáo viên
Theo Điều 31- Điều lệ Trường trung học cơ sở, trường trung học phổ thông và trường phổ
thông có nhiều cấp học, giáo viên bộ môn có những nhiệm vụ sau đây:
a) Dạy học và giáo dục theo chương trình, kế hoạch giáo dục, kế hoạch dạy học của nhà trường
theo chế độ làm việc của giáo viên do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định; quản lý học sinh
trong các hoạt động giáo dục do nhà trường tổ chức; tham gia các hoạt động của tổ chuyên môn; chịu
trách nhiệm về chất lượng, hiệu quả giáo dục; tham gia nghiên cứu khoa học sư phạm ứng
dụng;
b) Tham gia công tác phổ cập giáo dục ở địa phương;
c) Rèn luyện đạo đức, học tập văn hoá, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ để nâng cao chất
lượng, hiệu quả giảng dạy và giáo dục; vận dụng các phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính
tích cực, chủ động và sáng tạo, rèn luyện phương pháp tự học của học sinh;
d) Thực hiện Điều lệ nhà trường; thực hiện quyết định của Hiệu trưởng, chịu sự kiểm tra, đánh
giá của Hiệu trưởng và các cấp quản lý giáo dục;
đ) Giữ gìn phẩm chất, danh dự, uy tín của nhà giáo, gương mẫu trước học sinh; thương yêu, tôn
trọng học sinh, đối xử công bằng với học sinh, bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của học sinh;
đoàn kết, giúp đỡ đồng nghiệp; tạo dựng môi trường học tập và làm việc dân chủ, thân thiện, hợp tác,
an toàn và lành mạnh;
e) Phối hợp với giáo viên chủ nhiệm, các giáo viên khác, gia đình học sinh, Đoàn Thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh, Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh trong dạy học và giáo dục học sinh;
g) Thực hiện các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật.
1.4.2. Quyền hạn của giáo viên
25
Theo Điều 32 - Điều lệ Trường trung học cơ sở, trường trung học phổ thông và trường phổ thông có
nhiều cấp học, giáo viên có những quyền sau đây:
a) Được nhà trường tạo điều kiện để thực hiện nhiệm vụ giảng dạy và giáo dục học sinh;
b) Được hưởng mọi quyền lợi về vật chất, tinh thần và được chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ theo các
chế độ, chính sách quy định đối với nhà giáo;
c) Được trực tiếp hoặc thông qua các tổ chức tham gia quản lý nhà trường;
d) Được hưởng lương và phụ cấp (nếu có) khi được cử đi học để nâng cao trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ theo quy định hiện hành;
đ) Được cử tham gia các lớp bồi dưỡng, hội nghị chuyên đề để nâng cao trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ;
e) Được hợp đồng thỉnh giảng và nghiên cứu khoa học tại các trường và cơ sở giáo dục khác nếu
thực hiện đầy đủ những nhiệm vụ quy định tại Điều 30 của Điều lệ này và được sự đồng ý của Hiệu
trưởng ;
g) Được bảo vệ nhân phẩm, danh dự, an toàn thân thể;
h) Được hưởng các quyền khác theo quy định của pháp luật.
1.4.3. Vai trò của giáo viên
Luật Giáo dục được Quốc hội thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2005 đã ghi rõ: “Mục tiêu giáo
dục là đào tạo con người phát triển toàn diện có đạo đức, trí tuệ, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp,
trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và CNXH, hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất,
năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Bởi “Muốn có
chủ nghĩa xã hội trước hết phải có con người mới xã hội chủ nghĩa”. Đó là những con người phát triển
toàn diện cả về đức và tài, phát triển về thể lực, trí tuệ, đạo đức, thẩm mỹ, có kỹ năng lao động giỏi, có
ý chí và bản lĩnh trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Điều cần nhấn mạnh là chúng ta phải quan tâm
nhiều hơn nữa đến giáo dục lý tưởng chính trị, đạo đức, phẩm chất và nâng cao tính công dân cho đội
ngũ lao động mới, tạo điều kiện để họ thực hiện đầy đủ quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm của mình
với chế độ XHCN, trước nhân dân, dân tộc và thời đại.
Về vai trò và trách nhiệm của nhà giáo, luật cũng nêu rõ: Nhà giáo giữ vai trò quyết định trong
việc bảo đảm chất lượng giáo dục; Nhà giáo phải không ngừng học tập, rèn luyện nêu gương tốt cho
người học.