Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

NGUYÊN tắc và BIỆN PHÁP vận DỤNG PHƯƠNG PHÁP nêu vấn đề TRONG dạy học học PHẦN KINH tế CHÍNH TRỊ lớp sơ cấp LLCT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.54 KB, 36 trang )

NGUYÊN TẮC VÀ BIỆN PHÁP
VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NÊU
VẤN ĐỀ TRONG DẠY HỌC HỌC
PHẦN KINH TẾ CHÍNH TRỊ LỚP
SƠ CẤP LLCT


- Nguyên tắc vận dụng phương pháp nêu vấn đề
trong dạy học học phần Kinh tế chính trị lớp sơ cấp LLCT
ở Trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện Đông Hòa, tỉnh
Phú Yên
- Nguyên tắc đảm bảo mục tiêu học phần KTCT
Với mục tiêu học phần KTCT là cung cấp học người học
về phương pháp luận về thế giới quan khoa học về kinh tế,
chính trị các hiện tượng kinh tế để đưa ra các quy chung có
thể áp dụng vào phát triển kinh tế của mỗi quốc gia.
Về mặt kiến thức: giúp học viên hiểu và vận dụng từ
quan điểm của chủ nghĩa Mac, Lenin vào trong quá trình phát
triển kinh tế của nước ta, hiểu rõ bản chất của CNTB (chủ
nghĩa tư bản), nền công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đặc
biệt đất nước chuyển hóa từ thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội
Về kỹ năng: Hình thành cho người học về thế giới quan,
nhân sinh quan, đặc biệt có kỹ năng phân biệt các phương
thức sản xuất của CNTB và các mối quan hệ sản xuất thích
ứng với phương thức sản xuất TBCN.


Về thái độ: hun đúc lòng tự hòa dân tộc về trung thành
với lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, và vào sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam và con đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng


và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chọn. Bồi dưỡng tinh thần lao
động, và có khả năng vận dụng được các tình huống lý luận
vào thực tiễn.
Với mục tiêu môn học đi sâu và cung cấp cho học viên
những kiến thức về nhân sinh quan, thế giới quan về những
kiến thức cơ bản, cần thiết về chủ nghĩa Max-Lenin từ đó có
thể hiểu về quy luật của thị trường.
Nguyên tắt căn cứ trên mục tiêu môn học còn gắn với
nội dung môn học. Hiện nay nội dung môn học KTCT bao
gồm 6 nội dung chính là:
- Sản xuất hàng hóa và các quy luật kinh tế của sản xuất
hàng hóa;
- Những vấn đề kinh tế của chủ nghĩa tư bản tự do cạnh
tranh;
- Những vấn đề kinh tế chủ yếu của chủ nghĩa tư bản
hiện đại;


- Quan hệ sở hữu và cơ cấu các thành phần kinh tế trong
thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam;
- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và bài Cơ chế thị trường và vai
trò kinh tế của Nhà nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam.
Từ mục tiêu môn học xác định được yêu cầu về kiến
thức, kỹ năng, thái độ, năng lực cụ thể mà học viên đạt được
sau khi học phần này, từ đó có cơ sở xây dựng kế hoạch giảng
dạy áp dụng các phương pháp dạy học tích cực phù hợp.
- Nguyên tắc đảm bảo đúng các giai đoạn, quy trình
dạy học nêu vấn đề

PPDH không chỉ gắn với mục tiêu, nội dung dạy học mà
còn gắn với quá trình tổ chức thực hiện ở các khâu, các bước
khác nhau. Theo tác giả Nguyễn Thị Hà, có thể hiểu “ Quy
trình nêu vấn đề trong quá trình dạy học là trình tự các bước,
các giai đoạn được sắp xếp có tổ chức và có mục đích liên
tiếp nhau theo một chu trình khép kín nhằm giúp sinh viên đạt
được các mục tiêu học tập”. Như vậy, quy trình tổ chức dạy
học nêu vấn đề là cách tổ chức nêu vấn đề theo các giai đoạn,


các khâu, các bước trong suốt thời gian từ khi bắt đầu đến khi
kết thúc của quá trình nêu vấn đề.
Để vận dụng PPDH nêu vấn đề vào bài dạy cần thực
hiện đúng quy trình từ nêu vấn đề đến giải quyết vấn đề và kết
thúc vấn đề. Để việc tổ chức nêu vấn đề diễn ra hiệu quả,
giảng viên và học viên phải tuân thủ các bước, giai đoạn trong
quy trình nêu vấn đề. Trong quy trình nêu vấn đề, đối với
giảng viên và học viên có ba giai đoạn là: lập kế hoạch, tổ
chức thảo luận, tổng kết đánh giá, ở mỗi giai đoạn, giảng viên
và học viên có những hoạt động cụ thể khác nhau.
- Nguyên tắc đảm bảo vai trò chủ đạo của người dạy
và chủ động của người học
Với quan điểm PPDH hiện nay, việc vận dụng PPDH
nêu vấn đề trong giai đoạn hiện nay cần phải phát huy vai trò
làm chủ, với tiêu chí lấy người học làm trung tâm của quá
trình dạy học. Do vậy, trong các tình huống dạy học, GV cần
tạo môi trường cho học viên học tập. Giảng viên cần phân
định rõ tri thức, kinh nghiệm, tri thức khoa học và tri thức
giáo khoa cho người học để từ đó người học vận dụng kinh
nghiệm, tri thức nhằm giải quyết vấn đề.



Tuy nhiên đánh giá tầm quan trọng của người học cũng
không xem nhẹ hoạt động dạy của giảng viên. Bởi sau khi giải
quyết tình huống, thu nhận được tri thức, kĩ năng, hay phương
pháp hành động thì vai trò của người giảng viên cần giúp học
viên xác nhận kiến thức, chỉ ra vị trí của nó trong hệ thống
kiến thức, chỉ ra vị trí của nó hệ thống kiến thức môn KTCT.
- Biện pháp vận dụng phương pháp nêu vấn đề trong
dạy học học phần Kinh tế chính trị lớp sơ cấp LLCT ở
Trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện Đông Hòa, tỉnh Phú
Yên
- Chuẩn bị bài giảng sử dụng phương pháp nêu vấn đề
trong dạy học học phần Kinh tế chính trị lớp sơ cấp LLCT ở
Trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện Đông Hòa, tỉnh Phú
Yên
Trong thực tiễn giảng viên có thể sử dụng nhiều kĩ thuật
khác nhau để triển khai PPDH nêu vấn đề vào bài dạy. Do vậy
bước chuẩn bị bài giảng để vận dụng PPDH nêu vấn đề có vai
trò vô cùng quan trọng. Bởi thực tế học phầ KTCT không
phải nội dung nào cũng có thể áp dụng phương pháp này vào.
Do đó giai đoạn chuẩn bị bài giảng người giảng viên cần phân


tích các bước sau để xây dựng bài giảng thành công:
Thứ nhất: giai đoạn chuẩn bị của giảng viên
Đây là giai đoạn quan trọng nhất của người giảng viên
trong dạy học KTCT. Vì nó diễn ra sự ủy thác của người
giảng viên. Trong bước này, người giảng viên cần thực hiện:
Một là: Xác định mục tiêu và nội dung giảng dạy cụ thể,

mà thông qua tình huống, học viên phải đạt được kiến thức
nào. Câu hỏi ở đây là: sau khi giải quyết vấn đề, người học sẽ
đạt được cái gì? Cái đó có cần thiết với nội dung và mục tiêu
môn học hay không?
Thứ hai: Xây dựng các tình huống dạy học. Công việc
này giống nhà biên kịch hay kịch bản. Người giảng viên phải
thu thập tình huống, phân tích và lựa chọn thông tin, xác lập
logic các hiện tượng cần cung cấp cho học viên để học viên
giả quyết vấn đề; tiên lượng trình độ nhận thức của HV, kỹ
năng hành động và thái độ của HV dưới các tác động đó.
Thứ ba: Cần phân tích đặc điểm nhận thức của đối tượng
học viên theo học về nhận thức, các đặc điểm tâm lý, xã hội
để xác định các mức độ có vấn đề của tình huống (đặc biệt


giảng viên cần phân định rõ, chuẩn đoán được người học viên
sẽ gặp khó khăn hoặc trở ngại gì khi giải quyết tình huống)
Thứ tư: Chuẩn bị các câu hỏi, các phương tiện kỹ thuật
cần thiết cho việc giải quyết tình huống của học viên
Thứ năm: Lập kế hoạch và dự kiến những tình huống
phát sinh.
Các bước chuẩn bị bài giảng dạy học đặt và giải quyết
vấn đề trong môn Kinh tế chính trị:
Chọn nội dung phù hợp
Căn cứ vào mục tiêu, nội dung môn học, người giảng
viên đưa ra các tình huống có vấn đề và giải quyết vấn đề cho
phù hợp.
Chọn mức độ phù hợp với đối tượng học viên là người
theo học các lớp bồi dưỡng chính trị, đa phần là người nắm vị
trí cán bộ chủ chốt tại địa phương. Từ đó vận dụng quy tắc

mức độ nhận thức theo phương pháp nêu vấn đề, do vậy có
thể vận dụng mức độ 3 hoặc 4. Ví dụ, trong học phần “Sản
xuất hàng hóa và các quy luật kinh tế của sản xuất hàng hóa”


có thể đưa ra vấn đề vì sao sản xuất hàng hóa được hình
thành? Căn cứ vào đâu để đánh giá giá trị của hàng hóa?
Thiết kế kế hoạch bài học
Sau khi lựa chọn được nội dung phù hợp, giảng viên giới
thiệu tình huống cho học viên. Cung cấp các tình huống bằng
video, tài liệu, băng...nêu rõ công việc mà học viên cần thực
hiện, mục đích cần đạt...
Tổ chức cho học viên hành động với hành động tình
huống
Thiết bị và đồ dùng dạy học
Giảng viên cần chuẩn bị đồ dùng dạy học như dụng cụ,
tranh ảnh, tài liệu, phiếu học tập,...
Các hoạt động dạy học
Trong thiết kế các hoạt động cần nêu rõ việc làm của học
viên và giảng viên.
Ví dụ: Lý luận hình thái kinh tế-xã hội và con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội Việt Nam


Hoạt động của giảng viên

Hoạt động của học viên

Đưa ra vấn đề, nhiệm vụ


Tư duy

Đưa ra nhiệm vụ học viên đề Thực hiện đề xuất các giả
xuất các giả thuyêt khác nhau thuyết
Tổ chức học viên trao đổi, Trả lời các câu hỏi về phép
bàn bạc đưa ra vấn đề về phép biện chứng của các hình thái
biện chứng trong sự vận động xã hội như biện chứng giữa
phát triển của các hình thái xã lực lượng sản xuất với quan
hội như biện chứng giữa lực hệ sản xuất là gì; Biện chứng
lượng sản xuất với quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến
sản xuất; Biện chứng giữa cơ trúc thượng tầng là như thế
sở hạ tầng và kiến trúc thượng nào, lấy ví dụ thực tiễn
tầng
Hướng dẫn học viên nghiên Tiến hành thảo luận, đưa ra
cứu bài học, thảo luận, để các giả thuyết, phát hiện và
kiểm tra các giả thuyết

nhận dạng vấn đề này sinh...

Hướng dẫn học viên quan sát, Thảo luận kết luận và đánh
rút ra kết luận vấn đề đưa ra. giá. Khẳng định hay bác bỏ
Chứng minh giả thuyết


giả thuyết đã nêu
Từ đó đúc kết vấn đề
Như vậy, điều quan trọng của chuẩn bị bài giảng sử
dụng PPDH nêu vấn đề trong dạy học phần KTCT, người
giảng viên cần xác định và đánh giá đúng về tình huống mâu
thuẫn cần giải quyết. Từ tình huống dạy học, mỗi học viên sẽ

xuất hiện tình huống có vấn đề, đó là trạng thái tâm lý thôi
thúc người học dấn thân vào hoạt động học tập giải quyết
vấn đề để thỏa mãn nhu cầu hiểu biết, hoặc các nhu cầu cá
nhân khác. Như vậy, giảng viên sẽ có vai trò tạo ra tình
huống, tuy nhiên từ tình huống đó có làm xuất hiện vào
chính bản thân người học như trạng thái tâm lý, vốn kinh
nghiệm nền tảng, tính tích cực học tập...
- Quy trình xây dựng tình huống có vấn đề trong dạy
học học phần Kinh tế chính trị
Xây dựng tình huống có vấn đề là việc làm cần thiết của
GV trước khi bắt tay vào tiến hành giờ học có ứng dụng dạy
học nêu vấn đề. Công việc này được thực hiện theo một quy
trình riêng và phải được hoàn thiện chu đáo trước khi soạn bài


trên lớp. Ở giai đoạn này, GV sẽ phác thảo những nét lớn,
những đường hướng cơ bản cho giờ học. Đây là giai đoạn
chuẩn bị của GV, chưa có sự tham gia trực tiếp của HS. Để
xây dựng tình huống có vấn đề trong dạy học TV, chúng tôi
tiến hành theo quy trình gồm 3 bước như sau:
Quy trình chung của việc tổ chức tình huống có vấn đề

Bướcđề
3: Hoàn thiện bài toán có vấn đề - tạo tình huống có vấn đề cho ngư
Bước 1: Chuẩn bị ngữ liệu để tạo tình huống có vấn
Bước 2: Tổ chức bài toán có vấn đề

-Quy trình của việc tổ chức tình huống nêu vấn đề
Bước 1: Chuẩn bị nội dung để tạo tình huống có vấn đề
Mục đích cơ bản của bước này là phải lựa chọn được

những ngữ liệu thỏa mãn yêu cầu và nhiệm vụ học tập của bài
học, thỏa mãn những tiêu chuẩn cơ bản của tình huống có vấn
đề (ngữ liệu để tạo tình huống có vấn đề). Đối với bài dạy
môn Kinh tế chính trị, kiến thức, kinh nghiệm thực tế là một
giáo cụ trực quan để học viên tìm hiểu, phân tích, phát hiện tri


thức và nắm bắt vấn đề cần đánh giá. Vì vậy nội dung ngữ
liệu càng hấp dẫn, càng thu hút được sự chú ý của học viên thì
tính chất hấp dẫn của tình huống có vấn đề càng dễ được bộc
lộ, hiệu quả giờ học càng cao. Một số dấu hiệu nảy sinh tình
huống có vấn đề như:
(1) Mâu thuẫn giữa kiến thức cũ và kiến thức mới trong
nhận thức của học viên
Đây là mâu thuẫn tiềm tàng trong từng học viên khi tiếp
cận nhiệm vụ nhận thức và cũng chính là điều kiện cơ bản của
nội dung dạy học có vấn đề. Kiến thức cũ là những tri thức là
kinh nghiệm có sẵn của học viên, những tri thức nay được học
viên tích lũy từ quá trình công tác và quá trình học tập bằng 2
con đường tự phát (qua giao tiếp xã hội) và tự giác (qua
chương trình học của nhà trường). Kiến thức mới là những tri
thức học viên chưa từng được tiếp cận, những tri thức này
được cài đặt trong nội dung học tập của từng loại bài và được
phân bố theo chương trình cụ thể. Mâu thuẫn giữa kiến thức
cũ và kiến thức mới được thể hiện bằng sự không tương đồng
giữa khả năng và yêu cầu cần đạt của bài học. Điều đó gây ra
cho học viên những khó khăn, thách thức, kích thích tư duy
sáng tạo và niềm khao khát tìm tòi, khám phá. Khi xây dựng



nội dung, giả thuyết có vấn đề trong dạy học, giảng viêncần
khai thác triệt để mâu thuẫn trên.
(2) Mâu thuẫn giữa kinh nghiệm, yêu cầu thực tiễn công
tác có sẵn của học viên với yêu cầu và nhiệm vụ môn học
Trong quá trình học tập môn Kinh tế chính trị học viên
thường mâu thuẫn giữa thực tiễn công tác như quá trình phát
triển kinh tế hàng hóa có nhiều lợi thế tuy nhiên tại Việt
Nam phát triển kinh tế còn chậm, có những nguyên nhân
nào?… Để khắc phục tình trạng này, giảng viên cần khéo
léo cài đặt những mâu thuẫn nhận thức vào bài toán có vấn
đề và dùng nó để dẫn dắt HS tham gia vào hoạt động ngôn
ngữ một cách sáng tạo, biến những khái niệm, quy tắc khô
khan thành sản phẩm ngôn ngữ có giá trị. Mâu thuẫn giữa
khả năng còn hạn chế và yêu cầu sử dụng ngôn ngữ ngày
càng cao là mâu thuẫn cơ bản cốt lõi của bài toán có vấn đề,
nó đặt HS trước những trở ngại, khó khăn, tạo thành nội lực
thúc đẩy quá trình nhận thức. Mâu thuẫn này thường được
giảng viên lồng ghép dưới dạng câu hỏi tình huống, giả
thuyết, ...
(3) Mâu thuẫn do gây ra của đặc thù môn học khi học


viên tiếp nhận nó
Môn học Kinh tế chính trị góp phần hình thành thế giớ
quan, nhân sinh quan và phương pháp luận khoa học, trang bị
cho người học một cách có hệ thống những tri thức cơ bản,
cần thiết của chủ nghĩa Mác – Lê nin về nền kinh tế thị
trường, các quy luật của kinh tế thị trường. Khi tiếp cận môn
học, học viên sẽ gặp ranh giới mâu thuẫn giữa các phạm trù
kinh tế: hàng hoá, tiền tệ, giá trị…là những khái niệm phản

ánh bản chất của những hiện tượng kinh tế sau đó là các qui
luật kinh tế: qui luật giá trị, cung cầu, cạnh tranh…phản ánh
những mối liên hệ tất yếu, bản chất, thường xuyên lặp đi, lặp
lại của các hiện tượng và quá trình kinh tế. Điều này vô cùng
thú vị nhưng cũng hết sức phức tạp, khó khăn, đặc biệt là đối
với học viên theo học tại Trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện
Đông Hà. Do đó, để đạt hiệu quả cao, người giảng viên cần
lựa chọn tình huống mang tính thực tiễn áp dụng vào nội dung
bài học giúp cho môn học được bổ ích và thú vị.
Sau khi đã xác lập các mâu thuẫn làm cơ sở, giảng
viên cần phải thiết lập bài toán có vấn đề qua 4 thao tác sau:

Làmnổihọc
Điều chỉnhyêucầu
Xác định yêu cầu, nhiệmCàiđặt
vụ nhận thức củabài
bật mâu thuẫn cơ bản của bài dạy có vấn đềcủabài
qua các ngữ liệu
thôngtin
và yêu cụ thể của bài toán
của bài dạy trong các dữ kiện (ngữ liệu)
dạycó

vấnđề (dựkiến)


-Các thao tác thiết lập bài dạy có vấn đề
Bốn thao tác trên đây sẽ giúp giảng viên hoàn thiện bài
toán có vấn đề. Đây là những thao tác diễn ra trong tư duy nên
không thể tách bạch, rành mạch mà là một quá trình gắn bó

mật thiết với nhau, xảy ra đồng thời trong cùng một thời điểm,
một giai đoạn của quá trình thiết kế và chuẩn bị cho giờ học.
Bước 3: Hoàn thiện bài dạy có vấn đề – tạo tình huống
có vấn đề cho học viên
Sau khi đã kiến tạo bài dạy có vấn đề, giảng viên hoàn
thiện bài toán bằng cách diễn đạt nó dưới dạng ngôn ngữ (lời
nói hoặc chữ viết), rồi dự kiến trước cách thức hướng dẫn học
viên tiếp nhận bài toán, phân tích yêu cầu, nội dung và


phương hướng giải bài toán. Để học viên dễ dàng tiếp cận bài
toán có vấn đề, quan trọng nhất là giảng viên phải khéo léo
chỉ cho học sinh con đường phát hiện ra bản chất của tình
huống có vấn đề nằm trong các thông tin cơ bản và dữ kiện
quan trọng. Quá trình hiểu bản chất của vấn đề và bài toán có
vấn đề là quá trình học sinh tích lũy hệ thống tri thức một
cách tích cực, có hiệu quả, tư duy sáng tạo cũng được phát
triển và hoàn thiện. Mục đích cuối cùng cần đạt trong khâu tổ
chức tình huống có vấn đề ở giờ dạy môn Kinh tế chính trị là
chỉ ra con đường tìm kiếm tri thức mới cho học viên và chỉ ra
cho học viên cách thức hành động nhằm đạt được mục đích
học tập của mình. Đây chính là chỗ khác nhau cơ bản giữa
cách dạy môn học Kinh tế chính trị có ứng dụng tình huống
có vấn đề với cách dạy ngữ pháp thông thường, truyền thống.
Ba bước quy trình chung của việc tổ chức tình huống có
vấn đề trong dạy học môn Kinh tế chính trị tuy được diễn ra
theo trật tự tuyến tính nhưng lại có mối quan hệ gắn bó với
nhau về nội dung. Bước một thường làm tiền đề cho bước hai,
bước ba. Bước hai, bước ba là sự triển khai bước một ở mức
độ cao hơn. Tuy nhiên, việc định ra các bước chỉ là một việc

làm có tính chất quy trình, trên thực tế việc vận dụng các


bước cần linh hoạt. Sự chuyển tiếp từ bước này sang bước
kia là một quá trình đan xen gắn bó rất chặt chẽ về mặt thao
tác của thầy và trò. Sự chỉ đạo của thầy phải được hưởng ứng
của trò thì việc tổ chức tình huống có vấn đề mới có thể thành
công.
Một số tình huống có vấn đề thường được tổ chức
trong dạy học học phần Kinh tế chính trị
Trong nghiên cứu, khi đưa ra các dấu hiệu bản chất của
dạy học nêu vấn đề và tình huống có vấn đề, các nhà nghiên
cứu đều quan tâm đến việc phân chia các loại tình huống có
vấn đề. Trong phạm vi nghiên cứu của mình, có thể tập trung
vào 4 tình huống thường gặp trong dạy học môn Kinh tế
chính trị và có nhiều tác dụng trong việc phát huy hoạt động
tích cực của học viên như sau:
Tình huống lựa chọn
Tình huống lựa chọn xuất hiện khi học viên đứng trước
một số cách giải quyết và cần lựa chọn cách giải quyết hợp lí
nhất, tối ưu nhất. Tình huống lựa chọn thường được tạo ra dựa
trên mâu thuẫn giữa kiến thức cũ và kiến thức mới trong một
bài, thể hiện bằng một câu hỏi hay bài tập có vấn đề với những


phương án, kết luận khác nhau về một hiện tượng môn Kinh tế
chính trị trong các ngữ liệu cho sẵn. Thông qua việc lựa chọn
phươg ná đúng theo yêu cầu của tình huống có vấn đề, học
viên sẽ tìm được tri thức mới cho bài học.
Tình huống lựa chọn được ứng dụng trong phần nhập đề

(giới thiệu bài mới) hay phần nội dung của bài lí thuyết, bài
tập lơn, viết bài thu hoạch. Ngoài ra tình huống lựa chọn còn
được sử dụng để tổ chức các hoạt động ngoại khóa môn Kinh
tế chính trị.
Khi thực hiện tình huống lựa chọn, giảng viên cần lưu ý
quan tâm đến khả năng tiếp thu của học viên để đặt ra các
phương án lựa chọn cho phù hợp vừa chứa đựng tri thức mới
và đặc biệt là phải kích thích tâm lí tìm tòi của học viên. Ở
tình huống lựa chọn, giảng viên phải đưa ra một loạt các đối
tượng thuộc các phạm trù gần nhau, hoặc đối lập với nhau để
học viên tiến hành lựa chọn. Giữa các phương án lựa chọn
phải có ranh giới rõ ràng, các điều kiện và dữ kiện phải đủ để
học viên so sánh, lập luận, suy luận để đưa ra kết quả. Các
phương án đúng và phương án sai bao giờ cũng phải có một
khoảng cách sao cho học viên rơi vào tâm trạng thú vị của sự
bất ngờ khi tìm được phương án đúng.


Ví dụ khi dạy bài “Sản xuất hàng hóa và các quy luật
kinh tế của sản xuất hàng hóa”, giảng viên có thể đưa ra
một số ngữ liệu để học viên phân tích và lựa chọn theo đúng
đặc trưng của môn học, từ đó học viên có thể thấy được sự
khác nhau giữa các phương án lựa chọn rồi đưa rút ra kết luận
về mục đích môn học Kinh tế chính trị như cần có điều kiện
nào để sản xuất hàng hóa, ưu việt của sản xuất hàng hóa so
với sản xuất tự cung tự cấp, tại địa phương công tác, Anh/Chị
có thể liên hệ để đưa ra minh chứng cho phát triển kinh tế
hàng hóa?
Tình huống không phù hợp
Tình huống không phù hợp là tình huống được tạo ra

bằng cách giới thiệu những hiện tượng “nghịch lí” trái với
quan niệm thông thường và kinh nghiệm cá nhân của học viên
vào một thời điểm nào đó. Tình huống không phù hợp được
thể hiện trong một câu hỏi hay bài tập chứa đựng mối quan hệ
gắn bó giữa kiến thức cũ và kiến thức mới, “cái mới” không
còn phù hợp với “cái cũ” ở một phương diện nào đấy. Chính
cái không phù hợp đó lại là thuộc tính mới của đối tượng mà
học viên phải khám phá và nhận thức.


Tình huống không phù hợp được ứng dụng để tổ chức
dạy các kiểu bài lý thuyết và thực hành, đặt ra câu hỏi yêu cầu
học viên viết bài tập lớn hay tổng kết thu hoạch, góp phần mở
rộng tầm nhìn cho học viên.
Khi tổ chức tình huống không phù hợp, giảng viên cần
quan tâm tới kinh nghiệm của cá nhân học viên. Sự không
phù hợp được nêu ra ở tình huống có vấn đề là sự không phù
hợp có tính chất nhất thời so với kinh nghiệm của học viên.
Ví dụ: Tổ chức tình huống không phù hợp khi dạy bài
“Lượng giá trị hàng hoá và các yếu tố ảnh hưởng tới
lượng giá trị của hàng hoá”. Giảng viên có thể đưa ra tình
huống, hàng hóa như thế nào là có giá trị, giá trị hàng hóa
được định lượng bằng phương thức nào? Như vậy giữa câu
hỏi và câu trả lời dường như không đề cập đến một vấn đề.
Đòi hỏi người học viên phải đặt câu hỏi trong tình huống đa
chiều, nhiều góc cạnh để tìm được câu trả lời.
Tình huống phản bác
Tình huống phản bác là tình huống tạo ra cho học viên
cơ hội tranh luận, bàn bạc, phê phán… một hiện tượng nào đó
không phù hợp với yêu cầu đặt ra ở bài học. Nếu ở tình huống



lựa chọn giảng viên đưa ra nhiều phương án để học viên chọn
một phương án duy nhất đúng thì ở tình huống phản bác, vấn
đề được đặt ra bằng một phương án sai để yêu cầu học viên
phản bác phương án sai đó. Tình huống phản bác được thể
hiện bằng một câu hỏi hay một bài toán có vấn đề chứa đựng
mâu thuẫn đối lập giữa đúng và sai.
Tình huống phản bác được ứng dụng trong tất cả các
công đoạn của môn Kinh tế chính trị. Đối với tình huống phản
bác, giảng viên luôn phải tạo cơ hội cho học viên tranh luận
bày tỏ quan điểm của mình. Trọng tâm cần đạt được qua ý
kiến tranh luận của học viên là khả năng lập luận về một vấn
đề. Dùng tình huống phản bác khi dạy môn Kinh tế chính trị,
giảng viên sẽ tổ chức được một giờ học sôi nổi hấp dẫn và có
hiệu quả. Vấn đề đặt ra cho học viên tranh luận phải rõ ràng
và phải được xây dựng từ nội dung tri thức của bài học.
Tình huống giả định
Tình huống giả định là tình huống đặt học viên trước
những giả thiết về một hiện tượng nào đó trong môn Kinh tế
chính trị, yêu cầu học viên tham gia thể nghiệm bằng cách xử
lí những yêu cầu cụ thể đặt ra trong những ngữ liệu, những


bài tập môn Kinh tế chính trị.
Khi tổ chức tình huống giả định, giảng viên thường đưa
ra các bài tập có chứa một khái niệm, quy tắc nào đó theo một
hướng giả định đã chuẩn bị trước. Sau khi tiếp nhận bài toán
và thực hiện những thao tác biến đổi cần thiết của quy trình
giải, học viên sẽ thu được một kết quả mới khác xa với bài tập

ban đầu về nội dung, hình thức, kết cấu, giá trị… Giảng viên
có thể đưa ra những bài tập có những dữ kiện chưa chính xác
hoặc không phù hợp với yêu cầu của bài toán để học viên điều
chỉnh và chọn dữ kiện đúng và phù hợp.
Muốn tạo ra tình huống giả định giảng viên cần phân
tích rõ quan hệ bản chất của tiền tệ, rồi căn cứ vào các dấu
hiệu bản chất đó đặt ra các giả định. Có như vậy thì sự biến
đổi trong tình huống giả định mới thực sự khác biệt so với
hiện tượng ban đầu. Sự phát biệt càng cơ bản, càng rõ ràng thì
học viên càng nắm chắc đặc điểm của đối tượng.
Ví dụ: Trong bài giảng nguồn gốc của tiền tệ, quy luật
lưu thông tiền tệ. Giảng viên đưa ra câu hỏi: Ví dụ như 4 kg
hạt đậu=1 m2 vải. M2 vải ở đây đóng vai trò vật ngang giá –
hình thái phôi thai của tiền tệ hoặc với 4 kg hạt đậu= 1 m2


vuông vải=4 kg gạo=4 kg lạc …
Từ ví dụ, đặt câu hỏi, vì sao có thể lấy 20 m vuông vải
có thể đổi với 1 cái áo, hay 40 đấu cà phê mà không phải với
cái khác...
Với bài tập này, học viên phải liên hệ thực tiễn, đánh giá
tính giá trị của hàng hóa từ đó rút ra mục tiêu bài học.
- Tổ chức dạy học vận dụng phương pháp nêu vấn đề
trong giảng dạy học phần KTCT tại Trung tâm bồi dưỡng
chính trị
-Kỹ thuật tổ chức dạy học nêu vấn đề
Trong 1 bài dạy giảng viên cần phối hợp linh hoạt các
PPDH khác nhau như đặt và giải quyết vấn đề kết hợp
phương pháp nhóm, thảo luận, dạy học dự án, đóng kịch,...
Tuy nhiên, giảng viên cần xác định nhưng điều kiện

nhằm đảm bảo tạo vấn đề cần giải quyết.
Thứ nhất: tình huống có vấn đề xuất hiện khi học viên
không đủ kiến thức, phương pháp giải quyết một nhiệm vụ
nhận thức: không trả lời được các câu hỏi đưa ra, không giải
thích được một hiện tượng mới trong nhận thức cũng như


trong thực tiễn.
Thứ hai: giảng viên cần tạo được tình huống có vấn đề
mà tác động đến tư duy, kỹ năng mà cán bộ, đảng viên đang
gặp phải, mâu thuẫn đặt ra cho người học
Thứ ba: Tình huống xuất hiện khi có mâu thuẫn giữa kết
quả thực hành với lý thuyết chưa đủ để giải thích về kết quả.
Đặc biệt người học viên có thể tự phát hiện và giải quyết vấn
đề dựa vào thực tiễn trong quá trình công tác, từ đó thu thập
và xử lý thông tin...
Trong quá trình dạy học, giảng viên có thể vận dụng một
số tình huống để áp dụng vào dạy môn KTCT như:
Một là: Tình huống tiền sư phạm và tình huống sư phạm:
Có thể quan niệm có tính quy ước về tình huống sư phạm và
tiền sư phạm như sau:
+ Tình huống tiền sư phạm là tình huống học tập do
giảng viên đề xuất với học viên, sao cho khi người học hành
động trong tình huống đó, có sự hình thành và điều chỉnh tri
thức của họ để đáp ứng yêu cầu của tình huống mà không có
tác động của người dạy. Tình huống tiền sư phạm là tình


×