Tải bản đầy đủ (.docx) (50 trang)

CƠ sở lý LUẬN về GIÁO dục đạo đức CHO SINH VIÊN tại TRƯỜNG đại học, CAO ĐẲNG THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG CỘNG ĐỒNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (232.22 KB, 50 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC
CHO SINH VIÊN TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC, CAO
ĐẲNG THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG CỘNG ĐỒNG


Tổng quan nghiên cứu vấn đề
Đạo đức và giáo dục đạo đức cho học sinh, sinh viên
hiện nay là việc làm rất cần thiết và phải đặt lên hàng đầu với
nhu cầu đang phát triển của đất nước ta hiện nay, đồng thời
thực hiện việc giáo dục đạo đức phải có sự chuẩn bị kỹ càng
và định hướng đúng đắn.
Truyền thống tốt đẹp và các giá trị đạo đức, văn hóa của
Việt Nam được hình thành được hình thành từ rất lâu đời,
trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước của dân
tộc Việt Nam, các giá trị tốt đẹp ấy đã tồn tại, phát triển và
luôn đóng vai trò quan trọng như một trụ cột cơ bản của việc
xây dựng, vun đắp cho nền văn hiến lâu đời của đất nước.
Trải qua các thời kỳ đấu tranh gian khổ, đất nước ta đã
không ít lần đương đầu với âm mưu xâm lược và đồng hóa
của các thế lực phong kiến, thực dân trong suốt thời gian dài,
song với ý chí vươn lên và tinh thần học hỏi tiếp thu các giá
trị tiến bộ, đồng thời đặc biệt chú trọng quan tâm đến các giá
trị đạo đức, đạo làm người sao cho vẫn giữ được nét văn hóa
đặc trưng, bản sắc dân tộc tốt đẹp cho đến ngày nay.


Trong xã hội ngày nay, cùng với sự phát triển của khoa
học công nghệ trên mọi lĩnh vực kinh tế, quốc phòng, xã hội
thì tri thức con người ngày càng phải phát triển không ngừng
để đáp ứng nhu cầu của nền văn minh trên. Bên cạnh đó, giáo
dục và giáo dục đạo đức giữ vai trò quan trọng trong việc


nâng cao trình độ dân trí và là một vấn đề không thể thiếu khi
xã hội phát triển. Một xã hội hiện đại là xã hội áp dụng các
thành tựu khoa học kỹ thuật, công nghệ, trí tuệ để phát triển
trên mọi mặt của đời sống xã hội, nhằm giúp rất lớn trong
việc thực hiện mục tiêu xây dựng đất nước giàu mạnh và sánh
vai với các nước phát triển khác trong khu vực và thế giới.
Tăng trưởng kinh tế không ngừng cùng với những biến đổi
tích cực của xã hội mang lại đã làm cho mức sống con người
ngày càng được nâng cao. Giáo dục và đào tạo đóng vai trò
chủ yếu trong việc giữ gìn, phát triển và tiến bộ của nền văn
hóa văn minh của nhân loại. Điều này càng thể hiện rõ trong
thời đại của cuộc cách mạng khoa học công nghệ ngày nay,
tiềm năng trí tuệ trở thành động lực chính của sự tăng tốc phát
triển. Giáo dục và đào tạo được coi là nhân tố thúc đẩy tích
cực để tạo nên nguồn nhân lực cho xã hội, quyết định sự phát
triển hay thục lùi của mỗi quốc gia và giáo dục và đào tạo còn


quyết định các nhu cầu, địa vị xã hội, sự thành đạt của mỗi cá
nhân trong cuộc sống của bản thân.
Ở Việt Nam, giáo dục và đào tạo càng càng được chú
trọng và quan tâm hơn, được coi là quốc sách hàng đầu để bảo
vệ và xây dựng tổ quốc. Trong Mục tiêu và nhiệm vụ tổng
quát phát triển đất nước trong 5 năm, giai đoạn 2016 2020của văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII đã chỉ
rõ: “Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo, nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực; đẩy mạnh nghiên cứu, phát triển,
ứng dụng khoa học, công nghệ; phát huy vai trò quốc sách
hàng đầu của giáo dục, đào tạo và khoa học, công nghệ đối
với sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước; Xây dựng nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, con

người Việt Nam phát triển toàn diện đáp ứng yêu cầu phát
triển bền vững đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa”.
Từ đó cho thấy, việc đầu tư cho giáo dục và đào tạo ngày
càng quan trọng, trên thế giới thì giáo dục và đào tạo được coi
là trọng tâm quan trọng nhất cần phải định hướng đầu tư và


tập trung nhiều trí tuệ vào việc này theo lộ trình và hướng tích
cực cụ thể, trong đó có Việt Nam.
Một số khái niệm cơ bản
Khái niệm về đạo đức và giáo dục đạo đức
Khái niệm về đạo đức
Trong lịch sử phát triển tư tưởng của nhân loại cùng với sự
biến đổi về điều kiện tự nhiên, điều kiện lịch sử xã hội, trải qua
nhiều giai đoạn khác nhau, đã hình thành nhiều quan điểm khác
nhau về khái niệm đạo đức ở cả Phương Đông và Phương Tây.
Cụ thể như sau:
Quan điểm của các nhà tư tưởng phương Đông về đạo
đức
Theo quan điểm của các nhà tư tưởng phương Đông thì
đạo đức là một trong những hình thái ý thức xã hội, một chế
định xã hội thực hiện chức năng điều chỉnh hành vi của con
người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Đạo đức là một
hiện tượng lịch sử, xuất hiện vào những trình độ hình thành
ban đầu của xã hội loài người, đạo đức được phát triển trong
tiến trình biến đổi các quan hệ kinh tế và các quan hệ xã hội


khác, trong tiến trình tiến bộ văn hóa vật chất và văn hóa tinh

thần của loài người. Bên cạnh những yếu tố chung cho loài
người, đạo đức bao gồm những tiêu chuẩn, những nguyên tắc,
những lý tưởng... có tính chất nhất thời về lịch sử và có tính
chất giai cấp.
Cũng theo quan điểm của các nhà triết học phương
Đông, đạo là con đường, đường đi, đường sống của con người
trong xã hội. Đức dùng để nói đến nhân đức, đức tính, đạo
nghĩa. Và đạo đức chính là những yêu cầu, những nguyên tắc
do cuộc sống đặt ra mà con người phải tuân theo.
Quan điểm của các nhà tư tưởng phương Tây về đạo
đức
Theo quan điểm của các nhà tư tưởng ở phương Tây thời
kỳ cổ đại, danh từ đạo đức bắt nguồn từ tiếng Latinh là mos,
moris có nghĩa là phong tục, tập quán. Đạo đức còn có gốc
tiếng của Hy Lạp cổ là ethicos, cũng có nghĩa là thói quen, tập
quán. Và khi nói đến đạo đức là nói đến những thói quen, tập
quán sinh hoạt và ứng xử của con người trong cộng đồng,
trong xã hội. Mục đích của những cách ứng xử này là làm cho
con người cảm thấy hạnh phúc hơn. Một trong những quan


điểm đó là của Aristote, ông cho rằng đạo đức là làm cho con
người ta hạnh phúc. Hạnh phúc là lợi ích cao nhất đối với con
người. Điều kiện của hạnh phúc, do đó là sự phát triển của
khả năng suy luận. Đạo đức tùy thuộc vào sự suy luận chính
xác, sự kiểm soát tinh thần, sự quân bình của lòng ham muốn.
Đó không phải là những đức tính của những người thường mà
là kết quả của sự tập luyện và kinh nghiệm trong những người
hoàn toàn trưởng thành. Con đường đi đến mục đích đó là ý
niệm trung dung. Con người là sinh vật xã hội luôn hướng tới

sự hoàn thiện lý tưởng. Đức hạnh - khái niệm cơ bản trong
đạo đức, theo Aristote là sự trung dung giữa hai thái cực.
Chính sự trung dung thể hiện năng lực lựa chọn và nghệ thuật
xử thế của con người. Chẳng hạn hào phóng là sự trung dung
giữa keo kiệt và sự hoang phí, can đảm là sự trung dung giữa
hèn nhát và liều lĩnh. Sự sáng suốt và tính thực tế là hai tiêu
chuẩn của hoạt động con người. Con người khác với con vật
là ở chỗ ý thức được cái thiện và cái ác, công bằng và bất
bằng. [9]
Như vậy, hầu hết các nhà triết học dù có những tư tưởng
hợp lý nhất định về đạo đức nhưng nhìn chung họ không giải
quyết được một cách khoa học. Cho đến khi chủ nghĩa Mác


đưa ra quan điểm về đạo đức, khắc phục được những hạn chế
đó.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về đạo đức
Chủ nghĩa Mác - Lênin đã rút ra được rằng đạo đức là
sản phẩm của sự phát triển xã hội, là một trong những hình
thái ý thức xã hội xuất hiện tương đối sớm trong lịch sử phát
triển của xã hội loài người. Sự xuất hiện của ý thức đạo đức
do nhu cầu khách quan của sự phát triển nhận thức, đời sống
con người, trước hết là do nhu cầu phối hợp hành động trong
sản xuất, trong phân phối sản phẩm, trong đấu tranh xã hội.
C.Mác đã viết: “Phương thức sản xuất đời sống vật chất quyết
định quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói
chung. Không phải ý thức của con người quyết định sự tồn tại
của họ, trái lại, sự tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của
họ”. [1]
Quan điểm của Hồ Chí Minh về đạo đức

Trên cơ sở nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin và
truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh đã
kế thừa và phát triển, hình thành nên những tư tưởng đạo đức


của mình, phù hợp với yêu cầu của cách mạng Việt Nam trong
thời đại mới.
Trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, những phẩm chất
đạo đức được nêu ra là phù hợp với từng đối tượng, hơn nữa
Người nhấn mạnh phẩm chất này hay phẩm chất khác là nhằm
đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng trong từng thời kỳ
nhất định. Từ đó, Người đã khái quát thành những phẩm chất
chung, cơ bản nhất của con người Việt Nam trong thời đại mới.
Nói cách khác, đó là những chuẩn mực chung nhất của nền đạo
đức mới, đạo đức cách mạng Việt Nam. Những phẩm chất
chung, cơ bản nhất đó là: trung với nước, hiếu với dân; yêu
thương con người; cần kiệm liêm chính, chí công vô tư; tinh
thần quốc tế trong sáng. Và để xây dựng một nền đạo đức mới,
Hồ Chí Minh đã nêu ra những nguyên tắc cơ bản để định hướng
cho sự lãnh đạo của Đảng, cũng như cho việc rèn luyện của mỗi
người đó là nguyên tắc nói đi đôi với làm, phải nêu gương về
đạo đức; xây đi đôi với chống; phải tu dưỡng đạo đức suốt đời.
Hồ Chí Minh xem đạo đức là cái “gốc” của người cách
mạng nói riêng cũng như của con người nói chung, chính vì
vậy, ngay từ phần mở đầu của tác phẩm “Đường kách mệnh” tác phẩm đầu tiên phục vụ cho công tác bồi dưỡng cán bộ,


Đảng viên trong nước, Người đã đề cập đến vấn đề “Tư cách
một người cách mệnh” và nhấn mạnh: “Cũng như sông thì có
nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải

có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có
đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không
lãnh đạo được nhân dân”[11]. Theo Người, lãnh đạo không
phải là ra lệnh mà chủ yếu bằng lôi kéo, thuyết phục. Để lôi
kéo, thuyết phục con người trước hết phải có cái tâm, cái đức
của con người, phải miệng nói, tay làm, phải đầu tàu, gương
mẫu.
Người xác định: “Đạo đức cách mạng là vô luận trong
hoàn cảnh nào cũng phải quyết tâm đấu tranh, chống mọi kẻ
địch, luôn luôn cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, quyết không
chịu khuất phục, không chịu cúi đầu” [11]. Trong chiến đấu
cũng như lao động sản xuất, Hồ Chí Minh rất coi trọng vai trò
của quần chúng nhân dân, vì vậy, theo Người củng cố mối
quan hệ máu thịt giữa Đảng và quần chúng có ý nghĩa sống
còn đối với nền độc lập dân tộc. Do đó, trong mọi hoạt động
của Đảng viên, người luôn nhắc nhở: “Đạo đức cách mạng là
hòa mình với quần chúng thành một khối, tin quần chúng,
lắng nghe ý kiến của quần chúng”[11].


Mặc dù đề cao vai trò của đạo đức, song Hồ Chí Minh
cho rằng lấy đạo đức làm gốc không có nghĩa là tuyệt đối hóa
mặt đức, xem nhẹ mặt tài. Đức là gốc nhưng đức và tài phải
kết hợp với nhau. Người thực sự có đức thì bao giờ cũng cố
gắng học tập, nâng cao trình độ, nâng cao năng lực, tài năng
để hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao.
Khái niệm giáo dục đạo đức
Quan điểm của các nhà tư tưởng phương Đông về giáo
dục đạo đức
Nho gia lấy giáo dục làm phương tiện chủ yếu để đạt tới

xã hội lý tưởng “đại đồng”, mà Khổng Tử là người có ảnh
hưởng rất lớn. Nền giáo dục của ông chủ yếu hướng vào việc
rèn luyện đạo đức con người, mà chuẩn mực gốc là “nhân”.
Những chuẩn mực khác như: lễ, nghĩa, trí, tín, trung, hiếu,...
đều là những biểu hiện của nhân. Theo Khổng Tử, “nhân” là
đức tính hoàn thiện, là cái gốc đạo đức của con người, nên
“nhân” chính là đạo làm người. Đạo làm người hết sức phức
tạp, phong phú, nhưng theo ông, chung quy lại chỉ là những
điều sống đối với mình và đối với người. Khổng Tử coi “tu
thân” là một nguyên tắc trong phương pháp giáo dục của


mình. Giáo dục con người theo Khổng Tử là dạy học “đạo
lý”, để tạo ra con người có đủ nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, dũng,
hiếu bằng văn chương và lục nghệ. Ông không dạy mọi người
về những vấn đề như quái dị, bạo lực, phản loạn và mê tín quỷ
thần. Trong việc giáo dục đạo đức, nhân nghĩa cho con người,
Khổng Tử chủ trương “hữu giáo vô loại”. Đây chính là quan
điểm, là ý hướng tiến bộ, là đóng góp hữu ích của ông vào
việc hoàn thiện và làm phong phú kho tàng lý luận giáo dục
đạo đức cho nhân loại [3].
Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về giáo dục đạo
đức
C.Mác và Ph.Ăngghen quan niệm rằng, giáo dục đạo
đức đều hướng vào cái tiêu chuẩn quan trọng nhất phát triển
toàn diện nhân cách, mỗi phương hướng giáo dục, mỗi bộ
phận hợp thành của nó cũng như toàn bộ quá trình giáo dục
đều phục vụ cho quá trình phát triển toàn diện nhân cách.
Về biện pháp giáo dục đạo đức, Lênin nhấn mạnh vai trò
tình cảm trong hành vi xã hội của đạo đức; đòi hỏi đánh giá

đạo đức phải thống nhất giữa động cơ tốt và hiệu quả tốt, phải
rèn luyện đạo đức trong sự nghiệp cách mạng, trong chiến đấu


và sản xuất. Đồng thời phải luôn đấu tranh khắc phục ảnh
hưởng đạo đức của giai cấp bóc lột, những tàn dư đạo đức cũ,
những phong tục tập quán lỗi thời. Ngoài ra, còn phải thông
qua quan hệ gia đình, tình yêu, tình bạn, công việc; phải tự cải
tạo trong hoạt động hàng ngày; phải sử dụng dư luận xã hội
trong giáo dục đạo đức; giáo dục bằng những tấm gương sinh
động và truyền thống đạo đức tốt đẹp; phát huy vai trò của các
tổ chức trong giáo dục đạo đức.
Quan điểm của Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức
Giáo dục đạo đức theo quan điểm của Hồ Chí Minh là
hoạt động của cá nhân và thiết chế xã hội nhằm hình thành
những phẩm chất đạo đức ổn định, những nhu cầu, niềm tin,
tình cảm, thói quen trong hành vi đạo đức trên cơ sở nhận
thức lý tưởng đạo đức và những nguyên tắc đạo đức xã hội.
Thông qua giáo dục đạo đức, các khái niệm, giá trị đạo đức
được nhận thức sâu sắc hơn, những hành động của con người
sẽ phù hợp hơn với các chuẩn mực xã hội, làm cho con người
có khả năng tự đánh giá và điều chỉnh hành vi. Giáo dục đạo
đức góp phần to lớn trong việc chuyển các quan niệm đạo đức
từ tự phát sang tự giác, từ bị động sang chủ động, không


ngừng nâng cao trình độ nhận thức các giá trị đạo đức cho
mỗi người.
Trong nội dung giáo dục đạo đức, Hồ Chí Minh cho
rằng: cần, kiệm, liêm, chính là nền tảng của đời sống mới.

Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh còn đề cao “trung” và “hiếu”, coi
đây là những phẩm chất quan trọng đối với cuộc sống đạo đức
của con người. Trong truyền thống Việt Nam và các nước
phương Đông, trung là trung với vua, hiếu là với cha mẹ,
ngày nay tư tưởng “trung” và “hiếu” của Hồ Chí Minh đã
hoàn toàn khác trước, không chỉ bó hẹp là “trung với vua,
hiếu với cha mẹ” mà là “trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn
sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ
nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào
cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng” [11]. Cùng với
việc nâng cao nhận thức các giá trị đạo đức, giáo dục đạo đức
góp phần tạo ra những giá trị đạo đức mới, xây dựng những
quan điểm phẩm chất đạo đức mới, quan niệm sống tích cực
cho mỗi đối tượng giáo dục. Để quá trình giáo dục đạo đức
thành công, Người đòi hỏi phải tuân thủ một số nguyên tắc
như dựa trên truyền thống và chuẩn mực đạo đức của dân tộc,


phải kết hợp với giáo dục pháp luật, kết hợp với giáo dục của
gia đình, nhà trường và xã hội.
Các văn kiện và nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt
Nam về giáo dục đạo đức
Trong các văn kiện, nghị quyết của Đảng ta từ Đại hội
VI cho tới nay, vấn đề giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ thường
xuyên được nhấn mạnh như là vấn đề trung tâm, cốt lõi và
chiếm vị trí hàng đầu trong nhiệm vụ xây dựng con người mới
xã hội chủ nghĩa.
Trong sự nghiệp đổi mới đất nước, Đảng ta ý thức một
cách đầy đủ chủ trương "giáo dục là quốc sách hàng đầu", là
một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp

công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, là điều kiện để phát
huy nguồn lực con người. Việc phát huy truyền thống hiếu
học, tôn trọng người hiền tài càng trở nên có ý nghĩa, tôn
trọng trí thức, tôn trọng nhân tài, tôn trọng sự sáng tạo trên cơ
sở, nền tảng đạo đức trong sáng. Trong những giải pháp lớn
xây dựng và phát triển văn hóa Đảng ta đã nêu rõ: "Quan tâm
giáo dục lý tưởng, đạo đức và lối sống văn hóa cho thế hệ trẻ.
Có chính sách trọng dụng người tài" [5].


Luật Giáo dục năm 2005 của nước ta được Quốc hội
thông qua đã xác định rất rõ mục tiêu giáo dục đào tạo là:
“Đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo
đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành
với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành
và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân,
đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc”[12].Tinh thần đó tiếp tục được khẳng định tại Đại hội
lần thứ XI của Đảng ta: “coi trọng giáo dục lý tưởng, giáo dục
truyền thống lịch sử cách mạng, đạo đức, lối sống, năng lực
sáng tạo, kỹ năng thực hành, tác phong công nghiệp, ý thức
trách nhiệm xã hội” [7].
Tóm lại, việc vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng
Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng và tính thống nhất giữa
đức và tài, trước hết cần nhận thức và xây dựng con người với
hai yếu tố đức, tài gắn bó mật thiết, tác động qua lại lẫn nhau.
Chúng ta đề cao, nhấn mạnh vai trò đạo đức, nhưng không
phải tuyệt đối hóa đạo đức, xây dựng chủ nghĩa xã hội đạo
đức. Nội dung chủ nghĩa xã hội phải đầy đủ các mặt kinh tế,
chính trị, văn hóa, đạo đức. Xây dựng con người Việt Nam

trong giai đoạn mới phải thể hiện vừa có đức, vừa có tài; đức


và tài hòa quyện, quan hệ biện chứng; trong đức có tài, trong
tài có đức. Đức tính hàng đầu xây dựng con người Việt Nam
trong giai đoạn cách mạng mới.
Khái niệm về cộng đồng và hoạt động cộng đồng
Khái niệm cộng đồng
Cộng đồng (community) được khái niệm chung nhất là:
“một cơ thể sống/cơ quan/tổ chức nơi sinh sống và tương tác
giữa cái này với cái khác”. Trong khái niệm này, điểu đáng
chú ý, được nhấn mạnh: cộng đồng là "cơ thể sống", có sự
"tương tác" của các thành viên. Tuy nhiên, các nhà khoa học,
trong khái niệm này không chỉ cụ thể "cái này” với "cái khác"
là cái gì. Đó có thể là các loại thực vật, cũng có thể là các loại
động vật, cũng có thể là con người - cộng đồng người.
Cộng đồng người có tính đa dạng, tính phức tạp hơn
nhiều so với các cộng đồng sinh vật khác. Trong đời sống xã
hội, khái niệm cộng đồng có nhiều nghĩa khác nhau đồng thời
cộng đồng cũng là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành
khoa học khác nhau: xã hội học, dân tộc học, y học... Khi nói
tới công đồng người, người ta thường quy vào những nhóm xã
hội có cùng một hay nhiều đặc điểm chung nào đó, nhấn


mạnh đến đặc điểm chung của những thành viên trong cộng
đồng.
Theo quan điểm Mác-Xít, cộng đồng là mối quan hệ qua
lại giữa các cá nhân, được quyết định bởi sự cộng đồng hóa
lợi ích giống nhau của các thành viên về các điều kiện tồn tại

và hoạt động của những người hợp thành cộng đồng đó, bao
gồm các hoạt động sản xuất vật chất và các hoạt động khác
của họ, sự gần gũi các cá nhân về tư tưởng, tín ngưỡng, hệ giá
trị chuẩn mực cũng như các quan niệm chủ quan của họ về
các mục tiêu và phương tiện hoạt động.Quan niệm về cộng
đồng theo quan điểm Mác-xít là quan niệm rất rộng, có tính
khái quát cao, mang đặc thù của kinh tế - chính trị. Dấu hiệu
đặc trưng chung của nhóm người trong cộng đồng này chính
là “điều kiện tồn tại và hoạt động”, là “lợi ích” chung, là “tư
tưởng”, “tín ngưỡng”, “giá trị” chung... Thực chất đó là cộng
đồng mang tính giai cấp, ý thức hệ.
Xuất phát từ tiếng La-tinh; “cộng đồng”(communis) có
nghĩa là "chung/công cộng/được chia sẻ với mọi người hoặc
nhiều người". Nhưng đặc điểm dấu hiệu chung của cộng đồng
này chính là đặc điểm để phân biệt nó với một cộng đồng
khác.


Dấu hiệu đặc điểm để phân biệt cộng đồng này với cộng
đồng khác có thể là bất cứ cái gì thuộc về con người và xã hội
loài người: màu da, đức tin, tôn giáo, lứa tuổi, ngôn ngữ, nhu
cầu, sở thích, nghề nghiệp... nhưng cũng có thể là vị trí địạ lý
của khu vực (địa vực), nơi sinh sống của nhóm người đó như
làng xã, quận huyện, quốc gia, châu lục, Những dấu hiệu này
chính là những ranh giới để phân chia cộng đồng.
Về số lượng thành viên của cồng đồng có thể là vài chục
người, vài trăm người cũng có thể là vài triệu người, thậm chí
nhiều hơn nữa.
Cộng đồng những người dân cùng sống chung trong một
thôn, xóm, làng, xã, một quốc gia có thể là toàn thế giới, tức

họ cùng chia sẻ với nhau mảnh đất sinh sống gọi là cộng đồng
thể. Có nhiều người, nhiều cộng đồng người khác, tuy không
cùng sống chung một địa vực nào đó nhưng họ lại có chung
những đặc điểm, sở thích, nhu cầu... chung, riêng biệt nào đó
thì loại cộng đồng đó được coi là cộng đồng tính.
Nói cách khác, cộng đồng là tập hợp các cá nhân có mối
quan hệ chặt chẽ hữu cơ với nhau, bởi các tiêu chí nhất định
như tình cảm, kinh tế, xã hội,..


Nói tóm lại, trong đời sống xã hội, cộng đồng là danh từ
chung chỉ một tập hợp người nhất định nào đó với hai dấu
hiệu quan trọng:
Thứ nhất, họ cùng tương tác (tác động qua lại) với nhau.
Thứ hai, họ cùng chia sẻ với nhau (có chung với nhau)
một hoặc một vài đặc điểm vật chất hay tinh thần nào đó. [13]
Hoạt động cộng đồng
Trong xã hội đang phát triển hiện nay, thì cộng đồng
đóng vai trò quan trọng để làm thay đổi ngày càng tích cực
hơn. Không bao giờ xã hội muốn phát triển mà chỉ dựa vào
một người, một cá nhân nào đó mà phải dựa vào sự chung tay
hợp lực của nhiều người, nhiều cá nhân và của toàn xã hội
đóng góp cùng thực hiện một mục tiêu nào đó đề ra.
Vì vậy, có thể nói hoạt động cộng đồng là hoạt
động mang lại các giá trị lợi ích tích cực cho người khác, cho
một khu vực, một vùng nào đó hay cho toàn xã hội mà không
cần đòi hỏi quyền lợi hay phần thưởng nào cho bản thân của
người thực hiện mà chỉ trên tinh thần tình nguyện muốn làm
thay đổi tốt hơn các mặt tích cực, xóa bỏ mặt tiêu cực. Hoạt
động này có thể do một cá nhân, một tổ chức hay cả xã hội



cùng thực hiện nhưng phải có cùng mục tiêu và được cộng
đồng đó hưởng ứng thực hiện theo.
Giáo dục đạo đức cho sinh viên ở trường đại học, cao
đẳng
Vai trò, ý nghĩa giáo dục đạo đức cho sinh viên ở
trường đại học, cao đẳng
Hiện nay, để thực hiện thành công sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước do Đảng ta lãnh đạo, nhằm
xây dựng xã hội Việt Nam ngày càng trở nên giàu đẹp thì
chúng ta cần có nguồn lực con người vững mạnh, đó phải là
những con người mới, những con người phát triển toàn diện
về mọi mặt, trong đó, đức là gốc, là nền tảng để sử dụng hữu
ích tài năng giúp mình, phục vụ cho đất nước.Với chiến lược
phát triển con người toàn diện phục vụ sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc, thế hệ trẻ Việt Nam là đối tượng cần phải chú
ý đầu tiên, trong đó, đội ngũ sinh viên có vai trò hết sức quan
trọng.
Chính vì vậy, việc xây dựng giá trị đạo đức truyền thống
cho sinh viên có một ý nghĩa quan trọng đặc biệt, khẳng định
điều đó là do:


Thứ nhất là sinh viên có vai trò quan trọng trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong xã hội ta ngày nay,
tuổi trẻ chính là tương lai của Tổ quốc, tuổi trẻ chính là đầu
tàu kéo cả con tàu đất nước đi lên. Trong nghị quyết 25NQ/TW hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành trung ương khóa X
về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh
niên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đảng ta

khẳng định: “Thanh niên là rường cột nước nhà, là chủ nhân
của đất nước, tương lai của dân tộc, lực lượng xung kích trong
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, một trong những nhân tố thành
bại của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội
nhập quốc tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thanh niên được
đặt ở vị trí trung tâm trong chiến lược, bồi dưỡng, phát huy
nhân tố và nguồn lực con người, chăm lo, phát triển thanh
niên vừa là mục tiêu, vừa là động lực đảm bảo cho sự ổn định
và phát triển bền vững của đất nước” [6], trong đó có sinh
viên.
Thực tế cho thấy rằng, muốn có đội ngũ trí thức thì
không thể không thông qua đào tạo cơ bản được. Với sinh
viên, những ngày họ học ở trường là quá trình tích luỹ tri thức
cơ bản, kỹ năng, kỹ xảo, phương pháp tư duy của nghề nghiệp


để tiếp tục đi sâu hơn vào sự nghiệp khoa học sau này. Vì vậy,
hơn bao giờ hết, vấn đề xây dựng giá trị đạo đức truyền thống
cho đội ngũ sinh viên ngày càng trở nên cấp thiết. Giá trị đạo
đức truyền thống giúp họ ý thức được trách nhiệm của tuổi trẻ
với đất nước, biết sống vì mọi người, giúp cho họ đủ nghị lực
tránh xa những cám dỗ của cuộc sống đời thường, tăng cường
ý chí vượt qua những khó khăn trong quá trình học tập tu
dưỡng bản thân, sống có trách nhiệm với mình và với cộng
đồng. Ở đây, đạo đức truyền thống là động lực, là sức mạnh
thôi thúc con người dám đấu tranh chống lại cái ác, cái xấu đi
ngược lại với lợi ích xã hội, bảo vệ và phát triển cái tốt, cái
thiện, làm cho xã hội ngày càng phát triển.
Thứ hai là, giáo dục đạo đức truyền thống xuất phát từ
chính yêu cầu, mục tiêu hoàn thiện nhân cách cho sinh viên.

Nhân cách của con người nói chung và của sinh viên nói
riêng, giữa phẩm chất đạo đức và năng lực luôn có mối quan
hệ khăng khít, trong đó, ưu tiên hàng đầu phải là đạo đức. Nói
cách khác, đạo đức là yếu tố nền tảng của nhân cách. Trong
thời đại ngày nay, khoa học kỹ thuật phát triển như vũ bão,
sức cạnh tranh giữa các nước ngày càng mãnh liệt, để có thể
tiếp cận được với tương lai, thực hiện thành công sự nghiệp


công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, hơn bao giờ hết,
người sinh viên hiện nay phải tìm mọi cách vươn lên nắm lấy
tri thức của thời đại, phải thực sự trở thành những con người
nắm vững chuyên môn, nghiệp vụ, những người có đủ tài,
nhưng đây mới chỉ là điều kiện cần mà chưa đủ, người sinh
viên đồng thời phải là người có đạo đức trong sáng, bởi lẽ nếu
có tài mà thiếu tình cảm đạo đức trong sáng thì cái tài đó sẽ
mất phương hướng hoạt động, hoặc thậm chí còn làm nguy
hại đến lợi ích của cộng đồng.
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI khẳng định:
“Chú trọng xây dựng nhân cách con người Việt Nam về lý
tưởng, trí tuệ, đạo đức, lối sống, thể chất, lòng tự tôn dân tộc,
trách nhiệm xã hội, ý thức chấp hành pháp luật, nhất là trong
thế hệ trẻ” [7]. Vì vậy, giáo dục đạo đức để hoàn thiện nhân
cách sinh viên là một quá trình đấu tranh giữa cái tiến bộ với
cái lạc hậu; cái tích cực với cái tiêu cực trong mỗi chủ thể đạo
đức sinh viên.
Thứ ba là sự chống phá của các thế lực thù địch. Sinh
viên là những chủ nhân của tương lai, là người kế tục sự
nghiệp xây dựng đất nước, chính vì vậy, họ trở thành mục tiêu
tấn công của các thế lực phản động, đang cản trở con đường



xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Với chiến lược “diễn
biến hoà bình”, chúng đang từng giờ, từng ngày tác động vào
sinh viên trên các mặt tư tưởng, chính trị, lối sống, đặc biệt là
đạo đức nhằm làm xói mòn niềm tin đối với Đảng, làm băng
hoại về mặt đạo đức với mục đích biến họ thành những con
người ích kỷ, chỉ biết có mình, quay lưng với sự nghiệp xây
dựng đất nước mà cha ông đã mất bao nhiêu mồ hôi, xương
máu, hy sinh phấn đấu để xây dựng, bồi đắp nên… Chính vì
vậy, bên cạnh việc học chữ, thì việc xây dựng đạo đức mới cho
sinh viên càng trở nên cấp thiết hơn.
Hội nghị Trung ương bảy, khoá X của Đảng đánh giá:
"Công tác giáo dục, ngăn ngừa và đấu tranh với những tác
động, lôi kéo thanh niên của các thế lực thù địch, sự truyền bá
lối sống nước ngoài không phù hợp với truyền thống văn hoá
dân tộc còn nhiều yếu kém, thậm chí bị buông lỏng" [6]. Thực
tế ấy đòi hỏi chúng ta phải sớm khắc phục, phải giúp cho mọi
thanh niên có ý thức ngăn ngừa, phòng chống mọi âm mưu
thù địch của các thế lực phản động trong nước cũng như ngoài
nước.
Giáo dục đạo đức sẽ giúp cho sinh viên có niềm tin khoa
học vào chủ nghĩa xã hội, vào sự nghiệp cách mạng, từ đó sẽ


×