Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

NGUYÊN tắc và BIỆN PHÁP THỰC HIỆN PHƯƠNG PHÁP nêu vấn đề TRONG dạy học tư TƯỞNG hồ CHÍ MINH về đại đoàn kết dân tộc tại TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH PHÚ yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (117.2 KB, 27 trang )

NGUYÊN TẮC VÀ BIỆN
PHÁP THỰC HIỆN PHƯƠNG
PHÁP NÊU VẤN ĐỀ TRONG
DẠY HỌC TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ
MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN
TỘC TẠI TRƯỜNG CHÍNH TRỊ
TỈNH PHÚ YÊN


- Nguyên tắc của việc việc vận dụng phương pháp nêu
vấn đề
Đảm bảo mục tiêu môn học, bài học
Nếu nói mục đích chung của việc giảng dạy và học tập,
dường như ai cũng biết cả. Song, có thực sự quán triệt được mục
đích đó không trong thực tế, chính lại là cái quyết định thành
công của người giảng và người học. Peter Flene một nhà giáo
Mỹ- Chuyên gia về phương pháp giảng dạy cho rằng, tiền đề để
giảng dạy thành công, thành một nhà giáo giỏi, thì phải trả lời
được câu hỏi:
“Tại sao bạn muốn đi dạy?”.[25]
Còn Hồ Chí Minh thường khuyên các thầy giáo trước khi lên
bục giảng cần phải xác định, trả lời rõ mấy câu hỏi:
Nói cái gì?Vì ai mà nói?Nói để làm gì?
Đồng thời cần xác định cho người học rõ:
Học để làm gì?Học để phục vụ ai?
Người khuyên: “Các thầy giáo, cô giáo phải tìm cách dạy.
Dạy cái gì, dạy thế nào để học trò hiểu chóng, nhớ lâu, tiến bộ


nhanh. Dạy và học cần phải theo nhu cầu của dân tộc, của Nhà
nước”.[13]


Theo quan điểm đó, các thầy cô giáo chúng ta trước sự
nghiệp cuộc đời cũng như mỗi khi lên bục giảng không thể không
hiểu rõ sứ mệnh cao cả của bộ môn mình. Không những vậy, hằng
ngày, trước khi vào mỗi bài giảng vẫn cần xác định rõ: Mục tiêu
bài giảng này cần đạt là cái gì? Hoặc ta muốn người học cần cái
gì?
Xác định rõ mục tiêu bài giảng, đáp ứng nhu cầu nhận thức
của người học, bài giảng mới tránh được việc nói chính trị suông,
khô khan, trống rỗng và cần thực hiện tốt một số yêu cầu sau:
Một là, hiểu về tiểu sử, quá trình hình thành và phát triển của
Người.
Đối với bất cứ vấn đề gì đều cần phải đặt câu hỏi “vì sao?”,
đều phải suy nghĩ kỹ càng xem nó có hợp với thực tế không, có
thật đúng lý không, tuyệt đối không nên nhắm mắt tuân theo sách
vở một cách xuôi chiều.[13]
Hai là, không nên chỉ nắm ngọn, mà cần hiểu rõ các nguồn
gốc lý luận trực tiếp dẫn tới hình thành luận điểm.


Tránh cho bài giảng nông cạn, kém hấp dẫn, người dạy cần
có một phông văn hóa sâu rộng. Thí dụ như cần hiểu biết về Lý
thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi và chủ nghĩa Mác Lênin mới làm cho việc truyền thụ những nhận định về đường lối
và phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh thêm sinh động. Bởi
trong đường lối, phương pháp cách mạng của Người chứa đựng
tính kiên định, sắc sảo, nhạy bén của Lênin; tính độc lập tự chủ tự
cường của Lý Thường Kiệt, lòng nhân ái bao dung của Nguyễn
Trãi; tài thao lược quân sự của Trần Hưng Đạo và sức mạnh thần
tốc của Nguyễn Huệ. Hiểu rõ Tuyên ngôn độc lập, Hiến pháp
nước Mỹ; sự nghiệp của Tổng thống Oa-sinh-tơn thời lập nước
Mỹ, tư tưởng sự nghiệp của Tổng thống Jep-phec-sơn, Tổng thống

Linh-côn; hiểu rõ Bản Tuyên Ngôn Nhân quyền và dân quyền của
nước Pháp, các tư tưởng về tự do Bình Đẳng, Bác ái, về Nhà nước
pháp quyền trong tư tưởng văn hóa Phương Tây mới càng thấy rõ
thêm bản lĩnh sáng tạo của Người trong sáng lập, lãnh đạo xây
dựng Nhà nước của dân do dân vì dân ở nước ta.
Một nền tảng tư tưởng văn hóa sâu rộng, vững chắc như thế
đã làm nên sức sống mãnh liệt và hiệu quả to lớn của tư tưởng Hồ
Chí Minh. Cho nên, ngày nay, để tìm kiếm giải pháp cho những
vấn đề lớn, phức tạp nảy sinh trong lý luận và thực tiễn của sự


nghiệp đổi mới và cả trong cuộc sống của mỗi chúng ta, không thể
không học theo phương pháp làm việc Hồ Chí Minh.
Ba là, hiểu rõ những vấn đề khoa học, lý luận cơ bản mà tư
tưởng Hồ Chí Minh đề cập. Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ
thống quan điểm toàn diện, Cho nên, người dạy tư tưởng Hồ Chí
Minh cần nắm được tri thức khoa học cơ bản của những bộ môn
tương ứng đó.
Tuy khó có thể có được hiểu biết như các chuyên gia đầu
ngành về nhiều lĩnh vực khoa học, nhưng việc có hiểu biết tốt các
khoa học liên quan đến Hồ Chí Minh học, sẽ giúp cho việc giảng
dạy Hồ Chí Minh học nói chung và tư tưởng Hồ Chí minh thêm
sâu sắc và có hiệu quả cao.
Bốn là, thừa kế những nghiên cứu, nhận định, đánh giá của
Đảng ta, của các vị lãnh đạo, Đảng, Nhà nước về Hồ Chí Minh.
Những tinh hoa trí tuệ, kinh nghiệm đó còn được thể hiện ở
những lãnh tụ Đảng và Nhà nước ta, đặc biệt ở những vị lãnh đạo
Đảng, Nhà nước kiệt xuất, đồng thời là những học trò xuất sắc, là
cộng sự trung thành của Hồ Chí Minh. Đó là những người có công
đầu trong việc cụ thể hóa, bảo vệ, phát triển và truyền bá rộng rãi

tư tưởng Hồ Chí Minh.


Một yêu cầu có tính nguyên tắc trong khoa học là để có cái
mới khoa học, người đi sau phải biết đứng trên vai người đi
trước. Tức là biết kế thừa thành quả nghiên cứu của người đi
trước. Hơn nữa, chúng ta lại đang sống trong thời kỳ bùng nổ
thông tin về tư tưởng Hồ Chí Minh. Hàng ngày, hàng giờ xuất
hiện nhiều bài nói, bài viết, tác phẩm văn hóa, nghệ thuật về Hồ
Chí Minh ra đời. Các công trình đó nói về Hồ Chí Minh từ nhiều
góc độ khác nhau.
- Nguyên tắc đảm bảo thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
Bảo đảm sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn vừa là yêu
cầu vừa là nguyên tắc, là phương châm trong quá trình dạy học
nói chung và trong dạy học nêu vấn đề nói riêng. Trong dạy học
các bộ môn khoa học xã hội, đặc biệt là dạy học Chương trình
trung cấp lý luận chính trị cho cán bộ xã ở bộ môn Tư tưởng Hồ
Chí Minh, cụ thể là về vấn đề đại đoàn kết, việc vận dụng những
nguyên tắc của quá trình dạy học có vai trò quan trọng. Một trong
những nguyên tắc có tác dụng to lớn đối với việc dạy học Tư
tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề đại đoàn kết là nguyên tắc thống
nhất giữa lý luận và thực tiễn, bởi lẽ nội dung kiến thức của phần
này có đặc thù là nó mang tính khái quát thực tiễn rất cao.


Vì thế, để dạy tốt bài này phảo biết kết hợp một cách nhuần
nhuyễn những kiến thức mang lý luận với những vấn đề sinh động
từ thực tiễn cuộc sống, áp dụng vào bài giảng để không rơi vào
tình trạng chỉ trình bày "lý luận suông" thiếu tính thuyết phục, gây
nhàm chán cho người học. Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và

thực tiễn là nguyên tắc thể hiện mối quan hệ biện chứng giữa nội
dung và hình thức; giữa tính khoa học, tính giáo dục và tính nghề
nghiệp, nguyên tắc này đảm bảo cho việc truyền thụ của người
dạy, tiếp nhận của người học có hiệu quả, bổ sung cho quá trình
nhận thức của con người tốt hơn trên con đường đi đến chân lý.
Trong toàn bộ Tư tưởng của Hồ Chí Minh, tư tưởng về đại
đoàn kết dân tộc là một hệ thống đấu tranh vì độc lập dân tộc, dân
chủ và chủ nghĩa xã hội. Lý luận này là bài học thực tiễn trong
cuộc sống cũng như trong hành động của mỗi người.
- Nguyên tắc học để thay đổi và phát triển chính mình
Tư tưởng của dạy học nêu vấn đề xuất phát từ nhu cầu thực
tế của xã hội đòi hỏi cần có những người có năng lực giải quyết
vấn đề; bởi chính năng lực giải quyết vấn đề giúp cho phát triển cá
nhân cao, kỹ năng học tập được phát triển và người học có nhu
cầu muốn học tập. Trong Chương trình dạy học trung cấp lý luận
chính trị cho cán bộ xã ở bộ môn Tư tưởng Hồ Chí Minh, mâu


thuẫn về mặt kiến thức tạo nên sự thách thức buộc người học phải
suy nghĩ để tìm câu trả lời và cũng là tìm giải pháp cho một vấn
đề thực tế. Trong quá trình giải quyết vấn đề, đòi hỏi ở học viên
cần có sự sáng tạo trong cách nghĩ, cách làm. Chính sự sáng tạo
trong quá trình học tập là nhân tố tích cực trong việc "biến kho
tàng tri thức của nhân loại thành vốn riêng của mình". Tư duy
sáng tạo và quá trình giải quyết vấn đề còn giúp rèn luyện cho học
viên kỹ năng giải quyết vấn đề. Kỹ năng giải quyết vấn đề luôn là
phần quan trọng, là cốt lõi của kỹ năng sống; nó giúp con người
thay đổi và phát triển chính mình. Hơn thế, nó khiến cho con
người luôn có khát vọng học tập, khát vọng sống.
- Biện pháp vận dụng phương pháp nêu vấn đề trong dạy

học Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc cho đội
ngũ cán bộ xã tại Trường Chính trị tỉnh Phú Yên
Thực hiện phương châm đổi mới phương pháp dạy học đặc
biệt là tích cực vận dụng các phương pháp dạy học tích cực trong
giảng dạy thì chúng ta cần quan tâm đến thái độ của người học khi
học.
Tất nhiên, ở biện pháp học tập qua các bài tập trên của người
học đòi hỏi có sự hướng dẫn của người dạy. Người dạy tác động
vào quá trình tự thể hiện này của người học bằng nhiều cách:


Hướng dẫn phương pháp tiếp nhận văn bản Hồ Chí Minh, khẳng
định những ý kiến đúng, biểu dương những ý kiến sáng tạo, sắc
sảo, gợi ý cách đọc hiểu, đọc sâu sau khi đã đọc biết, lưu ý nhận
thức sai, nhắc nhở ý lạc đề…hoặc cung cấp thêm những hoàn
cảnh, sự kiện lịch sử để hiểu đúng luận điểm của Hồ Chí Minh và
thấy được giá trị to lớn của luận điểm đó; giúp người học thực
hiện văn hoá tranh luận trong học tập Tư tưởng của Người.
Ngoài ra, người học có thể tham gia vào các trò chơi trí tuệ
dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Trong mỗi buổi học giáo viên
đưa ra một ô chữ về Hồ Chí Minh yêu cầu người học tham gia trả
lời hoặc đưa ra một câu hỏi trắc nghiệm mức độ khó với các
phương án trả lời…ai trả lời đúng sẽ được nhận danh hiệu Nhà
thông thái buổi học đó.
Ngay sau đây là những biện pháp để vận dụng phương pháp
nêu vấn đề trong dạy học Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết
dân tộc cho đội ngũ cán bộ xã:
- Biện pháp chuẩn bị bài giảng
- Quá trình chuẩn bị bài giảng đối với kiểu dạy học nêu vấn
đề một phần

Xác định đặc điểm của kiểu dạy học nêu vấn đề một phần:


Đối với kiểu dạy học nêu vấn đề một phần này người dạy chỉ
tập trung giải quyết một phần nào đó, phần còn lại người dạy hỗ
trợ cho người học tự lực tự giải quyết.
Xác định điều kiện để thực hiện kiểu dạy học nêu vấn đề một
phần:
+ Vấn đề có độ khó vừa phải, kiến thức không hoàn toàn mới
đối với người học.
+ Vấn đề đưa ra cho người học nghiên cứu là tiếp theo của
những tri thức mà người học đã được khám phá ở những phần
trước đó.
+ Người học có đủ tài liệu học tập, tính chất tài liệu rõ ràng,
có các yếu tố nghịch lý, mâu thuẫn, các sự kiện tương phản và có
nhiều thông tin mà thực tiễn đặt ra.
+ Người học đã nghiên cứu nội dung tri thức trước đó, đã
tích lũy được một khối lượng tri thức nhất định để tự mình giải
quyết phần còn lại của vấn đề.
Xác định yêu cầu đối với người dạy khi thực hiện kiểu dạy
học nêu vấn đề một phần:
+ Cung cấp cho người học những tri thức cần thiết liên quan
đến nêu vấn đề một phần.


+ Móc xích nội dung tri thức mà người học vừa nghiên cứu
được với vấn đề người học cần giải quyết.
+ Vấn đề đưa ra phải rõ ràng, ngắn gọn và tồn tại dưới dạng
nghi vấn.
+ Người dạy cần đưa ra các kiến thức liên quan, có thể liên

hệ thực tế để giúp người học giải quyết vấn đề một phần.
Xác định nhiệm vụ của người học:
Người học sẽ chuẩn bị những nội dung có liên quan đến bài
học trước đó để cùng với người giảng và người học nghiên cứu
những vướng mắc của vấn đề.
- Quá trình chuẩn bị bài giảng đối với kiểu dạy học nêu vấn
đề toàn phần
Xác định đặc điểm của kiểu dạy học nêu vấn đề toàn phần:
Đây là kiểu dạy học nêu vấn được nhiều giảng viên áp dụng
nhất. Đối với kiểu dạy người dạy cho người học trả lời hệ thống
những câu hỏi chính, câu hỏi phụ, câu hỏi gợi mở…để người học
nắm bắt được kiến thức. Để người học có thể trả lời được những
câu hỏi do giảng viên đưa ra và rút ra được kết luận thì người dạy
cần có thời gian để chuẩn bị bài giảng, cách thức tiến hành giảng
như thế nào cho hiệu quả.


Xác định điều kiện để thực hiện kiểu dạy học nêu vấn đề
toàn phần:
+ Nội dung tài liệu không quá khó, kiến thức không hoàn
toàn mới đối với người học.
+ Người học đã tích lũy được một lượng tri thức và phương
pháp nhất định để tự mình giải quyết được vấn đề hiện tại.
+ Người học có đủ tài liệu học tập, nghiên cứu.
+ Người học đã có kiến thức thực tế đến một mức độ nhất
định.
Xác định yêu cầu đối với giảng viên khi thực hiện kiểu dạy
học nêu vấn đề toàn phần:
+ Người dạy cần đưa ra các câu hỏi gợi mở, những ví dụ
thực tiễn để giúp người học giải quyết vấn đề một cách độc lập.

+ Người dạy xác định đúng nội dung tri thức để thực hiện
nêu vấn đề toàn phần.
+ Xác định ngôn ngữ cho việc xây dựng tình huống có vấn
đề của nêu vấn đề toàn phần. Ngôn ngữ cho việc xây dựng tình
huống phải ngắn gọn, chứa đựng nhiều thông tin.
+ Xây dựng được bài toán tái hiện và bài toán sáng tạo.


+ Người dạy phải vạch ra những nội dung cần thiết để cung
cấp cho người học.
Xác định nhiệm vụ của người học:
Người học phải thật sự chủ động, tự giác trong học tập, huy
động tối da năng lực trí tuệ của bản thân để giải quyết vấn đề.
Đồng thời phải mạnh dạn phát biểu ý kiến của bản thân.
- Quá trình chuẩn bị bài giảng đối với kiểu dạy học nêu vấn
đề có tính giả thuyết
Xác định đặc điểm của kiểu dạy học nêu vấn đề có tính giả
thuyết:
Đây là kiểu dạy học nêu vấn đề trong đó người dạy đưa ra
những giả thuyết, quan điểm có tính chất đối lập nhau với vấn đề
đang nghiên cứu. Kiểu nêu vấn đề này sẽ làm cho người học bắt
buộc lựa chọn quan điểm nào đúng, loại bỏ quan điểm sai. Để
thuyết phục ý kiến của mình đưa ra là đúng thì người học phải bát
bỏ hoặc chỉ ra những điểm vô căn cứ của quan điểm mình cho là
sai. Với cách làm này người học sẽ nhớ bài lâu hơn mà không cần
phải học nhiều tại nhà.
Xác định điều kiện để thực hiện kiểu dạy học nêu vấn đề có
tính giả thuyết:



+ Nội dung giả thuyết đưa ra phải vừa sức với người học,
không nên đưa ra những giả thuyết ngoài tầm của người học cũng
như giả thuyết quá đơn giản so với khả năng của người học.
+ Cần có các phương tiện dạy học phù hợp, đảm bảo để kích
thích tư duy và trình bày giả thuyết của người học.
+ Người học đã tích lũy được một khối lượng tri thức nhất
định để tự mình lập luận, chứng minh, cũng như luận giải và bảo
vệ những giả thuyết bản thân cho là đúng.
+ Người học đã có những kỹ năng tư duy nhất định: Phân
tích, chứng minh, tổng hợp....để khẳng định hoặc phủ định một
luận điểm, một giả thuyết mà giảng viên đặt ra.
Xác định yêu cầu đối với giảng viên khi thực hiện kiểu dạy
học nêu vấn đề có tính giả thuyết:
+ Giả thuyết đưa ra phải rõ ràng, cụ thể và phù hợp với nội
dung bài học.
+ Giảng viên phải tôn trọng ý kiến, luận giải của người học;
phải có thái độ động viên, khích lệ và định hướng đối với những ý
kiến, lý giải chưa đúng so với giả thuyết đưa ra.


+ Giảng viên phải đảm bảo các nguyên tắc dạy học đối với
việc dạy học Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề đại đoàn kết dân
tộc cho cán bộ xã.
+ Giảng viên phải thực hiện chức năng trọng tài khoa học để
người học nắm rõ đúng sai của giả thuyết đã được đưa ra.
Xác định nhiệm vụ của người học:
Người học có nhiệm vụ lựa chọn quan điểm nào đúng và tiếp
tục nghiên cứu, tìm tòi tài liệu để chứng minh quan điểm mà bản
thân đã lựa chọn.
- Quá trình chuẩn bị bài giảng đối với kiểu dạy học nêu vấn

đề có tính chất so sánh, tổng hợp
Xác định đặc điểm của kiểu dạy học nêu vấn đề có tính chất
so sánh, tổng hợp:
Đây là kiểu dạy học nêu vấn đề ở đó người dạy sẽ dùng số
liệu thống kê để phân tích, so sánh tình huống rồi sau đó rút ra kết
luận. Kiểu dạy học nêu vấn đề này làm tăng tính chính xác, tính
thuyết phục của vấn đề và rèn luyện người học phát huy khả năng
phân tích.
Xác định điều kiện để thực hiện kiểu dạy học nêu vấn đề có
tính chất so sánh, tổng hợp:


+ Số liệu thống kê, tổng hợp, phải đảm bảo tính chính xác,
tính lịch sử, bảng biểu đảm bảo tính cân đối, thẩm mỹ.
+ Cần có các phương tiện dạy học phù hợp, đảm bảo để
người học hoàn thành nhiệm vụ tổng hợp, so sánh nhanh nhất
trong khả năng có thể.
+ Người học đã tích lũy được một khối lượng tri thức nhất
định để tổng hợp, so sánh các vấn đề với nhau.
+ Người học đã có những kỹ năng tư duy nhất định: Phân
tích, chứng minh, tổng hợp....để rút ra kết luận.
Xác định yêu cầu đối với giảng viên khi thực hiện kiểu dạy
học nêu vấn đề có tính chất so sánh, tổng hợp:
+ Số liệu đưa ra phải rõ ràng, cụ thể và có độ chính xác cao,
đặc biệt là phải phù hợp với nội dung bài học.
+ Giảng viên phải định hướng để người học có sự tổng hợp,
so sánh đúng theo nội dung bài học.
Xác định nhiệm vụ của người học:
Người học phải tập trung quan sát, phân tích, đánh giá số
liệu, biểu đồ để cùng với giảng viên đưa ra những kết luận chính

xác nhất.


- Quá trình chuẩn bị bài giảng đối với kiểu dạy học trình
bày nêu vấn đề
Xác định đặc điểm của kiểu dạy học trình bày nêu vấn đề:
Đây là kiểu dạy học, trong đó giảng viên tạo ra tình huống có
vấn đề dưới dạng câu hỏi nghi vấn, gợi mở để gây tình huống lôi
cuốn sự chú ý của người học. Và đối với phương pháp này thì
người giảng viên phải nêu lời giải cuối cùng cho vấn đề đã đặt ra
và vạch ra quá trình đi đến lời giải một cách logic. Đồng thời
người giảng viên có thể nêu ngồn gốc phát sinh những mâu thuẫn
của vấn đề học tập.
Đối với kiểu dạy này người học sẽ bối dưỡng được khả năng
nhìn nhận vấn đề, óc phê phán, lĩnh hội được nội dung bài học và
phương pháp diễn đạt, triển khai vấn đề.
Xác định điều kiện để thực hiện kiểu dạy học trình bày nêu
vấn đề:
+ Nội dung tài liệu có độ khó đối với người học.
+ Người học đã có những tri thức nhất định về Tư tưởng Hồ
Chí Minh.
+ Được thực hiện đối với những bài giảng nhập môn hoặc
đối với những vấn đề tương đối phức tạp mà người học không tự


lực giải quyết được hoặc muốn giải quyết được người học phải có
tính sáng tạo cao thì mới có thể giải quyết được.
Xác định yêu cầu đối với người dạy khi thực hiện kiểu dạy
học trình bày nêu vấn đề:
+ Người dạy cần nhấn mạnh những ý trọng tâm, những điểm

nghi vấn đề thôi thúc khả năng tư duy của người học theo logic.
+ Vấn đề đưa ra cho người học nghiên cứu phải mâu thuẫn
với nhau để kích thích nhu cầu giải quyết vấn đề.
+ Người dạy phải khái quát được vấn đề một cách cô đọng,
xúc tích.
+ Người dạy phải đảm bảo tính vừa sức của vấn đề, tức vấn
đề đưa ra phải phù hợp với trình độ nhận thức của người học.
+ Người dạy cần đảm bảo các nguyên tắc dạy học chung
dành cho môn Tư tưởng Hồ Chí Minh.
Xác định nhiệm vụ của người học:
Người học phải tập trung nghe và nắm được vấn đề giảng
viên đưa ra, hiểu được nội dung của tình huống và thực hiện
nhiệm vụ giải quyết vấn đề đặt ra.
- Biện pháp tổ chức


- Quy trình thực hiện bài giảng trên lớp đối với kiểu dạy
trình bày nêu vấn đề
Người dạy cần nghiên cứu thật sâu nội dung trong vấn đề,
lựa chọn các câu diễn đạt ngắn gọn, xúc tích để trình bày vấn đề.
Người dạy nên truyền đạt một cách chậm rãi, rõ ràng, cần
nhấn mạnh ở những câu nghi vấn, nhất là những câu hỏi mang
tính định hướng để người học nghiên cứu, tư duy.
Người dạy cần chú ý bao quát lớp học, theo dõi mức độ chú
ý sự biến đổi trong nội tâm của người học đối với vấn đề mà
mình vừa nêu ra.
Người dạy nên kết hợp hài hòa giữa lời nói với điệu bộ, cử
chỉ để góp phần tăng thêm sự thu hút đối với người học.
Cuối tình huống, người dạy không cần giải thích hoặc đưa ra
đáp án để từ đây người học có thế tự tổng kết. Người dạy cần

dừng lại một khoảng thời gian nhất định để người học suy nghĩ
sau đó mới hướng cả lớp tập trung giải quyết vấn đề vừa nêu ra.
Lưu ý: Khi thực hiện kiểu trình bày nêu vấn đề, người dạy có
thể hỏi lại người học xem người học đã nắm được vấn đề đặt ra
chưa.


- Quy trình thực hiện bài giảng trên lớp đối với kiểu dạy nêu
vấn đề một phần
Tổ chức cho người học nghiên cứu kỹ nội dung tri thức trước
đó - những tri thức tiền đề cho việc giải quyết tình huống nêu vấn
đề một phần.
Người dạy giới thiệu tình huống nêu vấn đề một phần thông
qua câu hỏi để người học suy nghĩ; hoặc bằng cách phát tài liệu
chứa đựng tình huống nêu vấn đề một phần cho người học.
Chia lớp thành hai nhóm để thảo luận. Tùy theo sĩ số của lớp
học mà giảng viên quyết định việc chia nhóm cho phù hợp.
Dành một thời gian nhất định để người học tìm tòi sáng tạo.
Người dạy đặt ra các câu hỏi gợi mở để người học không bị
chệch hướng trong khi giải quyết vấn đề. Giảng viên nên sử dụng
câu hỏi đòi hỏi người học phải so sánh các cấn đề, sự kiện; câu
hỏi đòi hỏi người học vận dụng tri thức đã nắm được vào giải
quyết vấn đề thực tiễn xã hội.
Yêu cầu đại diện các nhóm trình bày kết quả thảo luận của
nhóm mình. Người học có thể ghi kết quả đó trên bảng hoặc trên
khổ giấy A0.


Tổ chức cho thành viên trong nhóm bổ sung nội dung cho
nhóm mình và các nhóm bổ sung cho nhau về vấn đề đang bàn

luận.
Sau đó người dạy sẽ thông qua nhận định chung hoặc yêu
cầu người học tự tổng kết lời giải.
- Quy trình thực hiện bài giảng trên lớp đối với kiểu dạy nêu
vấn đề toàn phần
Người dạy đưa ra vấn đề cho cả lớp nghiên cứu
Người dạy hỏi lại xem người học đã rõ vấn đề chưa, có ai
còn thắc mắc đối với vấn đề học tập không ?
Chỉ cho người học những tri thức mà người học đã được học
để huy động và giải quyết vấn đề.
Đưa ra bài toán sáng tạo để cả lớp giải quyết ( Dành một quỹ
thời gian để người học nghiên cứu).
Đưa ra những câu hỏi phụ để người học giải quyết vấn đề,
tránh sự chệch hướng trong quá trình giải quyết của người học.
Gọi người học nên trình bày phương án giải quyết vấn đề.
Người dạy kết luận lời giải cuối cùng.


- Quy trình thực hiện bài giảng trên lớp đối với kiểu dạy nêu
vấn đề có tính giả thuyết
Người dạy đưa ra tình huống có vấn đề có tính giả thuyết để
người học tư duy.
Người dạy hỏi lại xem người học đã hiểu rõ vấn đề chưa.
Dành quỹ thời gian khoảng 5 phút để người học tìm phương
án trả lời.
Trong thời gian người học suy nghĩ, người dạy cần cung cấp
lịch sử, điều kiện và hoàn cảnh hình thành giả thuyết.
Gọi người học trình bày phương án trả lời ( Đúng hay sai?
tại sao?)
Người dạy tổng hợp và đưa ra lời giải cuối cùng.

- Quy trình thực hiện bài giảng trên lớp đối với kiểu dạy nêu
vấn đề có tính chất so sánh, tổng hợp
Người dạy chia lớp ra các tổ khác nhau, mỗi tổ có tổ trưởng
và thư ký riêng của mỗi tổ. Người dạy đưa ra vấn đề dưới dạng so
sánh, tổng hợp chung cho 4 nhóm/tổ.
Các tổ tiến hành thảo luận dưới sự điều khiển của tổ trưởng,
thư ký tổ ghi chép nhanh ý kiến của các thành viên trong tổ.


Sau một khoảng thời gian, người dạy yêu cầu đại diện mỗi tổ
sẽ trình bày kết quả của tổ cho cả lớp cùng nghe.
Người dạy tổ chức cho cả lớp bổ sung ý kiến của mình (Nếu
có).
Người dạy tổng hợp và đưa ra lời giải cuối cùng.
Trên đây là quy trình chúng tôi đề xuất cho từng kiểu dạy
nêu vấn đề trong dạy học bài “Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề
đại đoàn kết dân tộc” cho cán bộ xã. Tuy nhiên, để phù hợp với
mỗi đơn vị kiến thức chương trình, giảng viên phải linh hoạt: có
thể áp dụng một kiểu hay kết hợp các kiểu dạy học nêu vấn đề
cũng như phối hợp nhịp nhàng các kiểu dạy học này với các
phương pháp dạy học khác để mang lại hiệu quả dạy học cao nhất.
- Biện pháp kiểm tra đánh giá
Trong quá trình dạy học, kiểm tra đánh giá là một trong
những khâu cực kỳ quan trọng để đánh giá kiến thức của người
học và cũng là ngọn lửa nhen nhóm lên những khát vọng của
người học.
Đối với người dạy thông qua kiểm tra, đánh giá thì người
dạy có thể biết được người học lĩnh hội kiến thức ở mức độ nào,
đạt được những nhiệm vụ nào trong tổng thể các nhiệm vụ đặt ra



trong qá trình học tập. Ngoài ra thông qua công tác đánh giá người
dạy nắm bắt được tình hình học tập của người học để điều chỉnh
phương pháp dạy học sao cho phù hợp.
Bên cạnh đó thì việc kiểm tra, đánh giá sẽ giúp cho người
học biết được mình yếu, kém, sai sót những điểm nào. Với việc
làm này sẽ đem lại nhiều lợi ích cho người học vì nó.
Và để kiểm tra đánh giá kết quả học tập của người học học
bài tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc đối với phương
pháp nêu vấn đề thì người dạy có thể áp dụng những biện pháp
sau để đánh giá kết quả của người học.
- Quá trình kiểm tra, đánh giá kết quả học tập trên lớp thông
qua phương pháp quan sát
Việc quan sát giúp người dạy nhận định được biểu hiện về
thái độ hay những kĩ năng thực hành khó có thể đánh giá thông
qua những bài kiểm tra viết hay vấn đáp.
Thông thường trong quá trình quan sát, người dạy có thể vận
dụng một số biện pháp như: Ghi chép các sự kiện thường nhật,
thang đo và bảng kiểm tra
Với phương pháp này thì người dạy có thể quan sát người
học thông qua các buổi thảo luận nhóm của các tổ tham gia thảo


luận và trình bày bài thảo luận. Sau đó dùng thang đo hay bảng
kiểm tra để đo kết quả quan sát được của các tổ.
- Quá trình kiểm tra, đánh giá kết quả học tập trên lớp thông
qua việc vận dụng phương pháp phỏng vấn
Phỏng vấn là phương pháp người dạy đặt câu hỏi và người
học trả lời câu hỏi, nhằm tổng kết, kiểm tra mở rộng, đào sâu
những tri thức mà người học đã học.

Tuỳ theo yêu cầu, nội dung của bài học mà có thể vận dụng
những hình thức vấn đáp như: Vấn đáp gợi mở; vấn đáp củng cố;
vấn đáp kiểm tra; vấn đáp tổng kết để có thể kiểm tra đánh giá
được năng lực của người học.
Với phương pháp này thì người dạy có thể kiểm tra, đánh giá
chất lượng học tập thông qua việc trả lời câu hỏi của người học
khi các tổ trình bày bài thảo luận. Sau đó tông hợp kết quả và
công bố kết quả cho người học biết.
- Quá trình kiểm tra, đánh giá kết quả học tập trên lớp thông
qua phương pháp viết
Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của một quá trình học tập
thì tại Vệt Nam nói chung và tại các trường chính trị nói chung
hay áp dụng phương pháp viết. Bởi vì, việc sử dụng phương pháp


×