MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường như hiện nay thì cạnh tranh luôn là vấn đề
nóng mà các doanh nghiệp quan tâm. Làm sao để hạ giá thành sản phẩm tăng
tính cạnh tranh và làm sao để tiết kiệm chi phí nhằm tăng lợi nhuận luôn là bài
toán khó đối với các doanh nghiệp, nhất là trong môi trường kinh tế hội nhập
như ngày nay. Để tận dụng những cơ hội và hạn chế những thách thức trên bước
đường hội nhập thì đòi hỏi các doanh nghiệp phải nâng cao năng lực cạnh tranh
và hoạt động phải có lãi. Doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả sẽ thu hút được
nhiều vốn đầu tư, tạo lòng tin cho các đối tác, giúp doanh nghiệp cạnh tranh
được với các công ty khác. Vì vậy doanh nghiệp phải thường xuyên phân tích
hoạt động kinh doanh để thấy được kết quả hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp mình. Các doanh nghiệp phải tự tìm cho mình những giải pháp để nâng
cao hiệu quản sản xuất kinh doanh . Việc quan tâm đến chi phí, tiết kiệm chi phí
hạ giá thành sản phẩm là vấn đề hàng đầu trong việc đảm bảo và nâng cao hiệu
quả sản xuất kinh doanh. Đồng thời đối với các doanh nghiệp sản xuất thì chỉ
tiêu chi phí sản xuất và hạ giá thành sản phẩm còn cho phép đánh giá một cách
chính xác toàn bộ quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Trên cơ sở phân tích tình hình thực hiện chi phí sản xuất để tìm ra những
nguyên nhân khách quan cũng như chủ quan tác động đến sự biến đổi chung của
tổng chi phí sản xuất. Từ đó xác định các nhân tố ảnh hưởng đến sự tăng giảm
của chi phí sản xuất và giá thành, trên cơ sở đó đề ra các biện pháp cụ thể để
khai thác tiềm năng, khắc phục nhược điểm nhằm quản lý và sử dụng chi phí
sản xuất có hiệu quả hơn bằng cách lập kế hoạch và ra các quyết định sản xuất
cho tương lai.
Thấy rõ được tầm quan trọng của chi phí sản xuất đến kết quả kinh doanh của
doanh nghiệp, trong bài tập lớn này, em chọn đề tài: “ Phân tích chi phí sản xuất
theo khoản mục của doanh nghiệp”.
Nội dung bài tập lớn gồm 3 phần chính:
Phần I: Lý luận chung về phân tích hoạt động kinh tế
Phần II: Nội dung phân tích
Phân tích tình hình thực hiện chi phí sản xuất theo khoản mục của doanh nghiệp
Phần III: Kết luận và kiến nghị
Trong quá trình thực hiệ chắc chắn không tránh khỏi những sơ suất, e kính
mong nhận được sự góp ý, chỉnh sửa bổ sung thêm của các thầy cô để bài làm
được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
PHẦN I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÂN TÍCH HOẠT ĐỘNG KINH
TẾ
1.1 Mục đích, ý nghĩa của phân tích hoạt động kinh tế
1.1.1
Mục đích
Mục đích của phân tích hoạt động kinh tế luôn giữ vai trò rất quan trọng
trong sự phát triển của doanh nghiệp nói riêng cũng như toàn bộ nền kinh tế nói
chung. Nó giống như kim chỉ nam giúp định hướng hoạt động, đồng thời là
thước đo, đánh giá kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh . Tùy theo từng
trường hợp cụ thể của phân tích như đối tượng, chỉ tiêu, nguồn lực,... mà xác
định các mục đích phân tích cho phù hợp nhưng nhìn chung đều xoay quanh các
vấn đề sau đây:
+ Đánh giá kết quả hoạt động kinh tế, kết quả của việc thực hiện các nhiệm vụ
đước giao, đánh giá việc thực hiện các chế độ, chính sách của Nhà nước,...
+ Xác định các nhân tố ảnh hưởng và mức độ ảnh hưởng của các nhân tố. Xác
định nguyên nhân dẫn đến sự biến động của các nhân tố làm ảnh hưởng trực
tiếp đến mức độ và xu hướng của hiện tượng kinh tế.
+ Đề xuất các biện pháp và phương hướng để cải tiến phương pháp kinh doanh,
khai thác các khả năng tiềm tàng trong nội bộ doanh nghiệp nhằm nâng cao hiệu
quả sản xuất kinh doanh.
1.1.2
Ý nghĩa của phân tích hoạt động kinh tế
Đứng trên góc độ là một nhà quản lý doanh nghiệp thì bất kỳ ai cũng
muốn doanh nghiệp của mình phát triển không ngừng, đem lại lợi nhuận và lợi
ích kinh tế cao. Để làm được điều đó cần phải thường xuyên và kịp thời đưa ra
những quyết định đúng đắn. Có nhận thức đúng mới đưa ra các quyết định
đúng, tổ chức và thực hiện kịp thời các quyết định đó đương nhiên sẽ thu đước
các kết quả mong muốn. Ngược lại nhận thức sai sẽ dẫn đến các quyết định sai
và khi thực hiện sẽ gây ra những hậu quả khôn lường. Do đó mối quyết định
đưa ra điều hành quản lý doanh nghiệp cần phải có sự khoa học, phù hợp với
từng loại hình doanh nghiệp. Và người ta sử dụng công cụ là phân tích hoạt
động kinh tế để nghiên cứu các hiện tượng và kết quả kinh tế từ đó cung cấp
những căn cứ khoa học cho các quyết định đúng đắn trong tương lai. Vì vậy
phân tích hoạt động kinh tế với một vị trí là công cụ quan trọng của nhận thức,
nó trở thành một công cụ quan trọng để quản lý khoa học có hiệu quả các hoạt
động kinh tế. Nó thể hiện chức năng tổ chức và quản lý kinh tế của Nhà nước.
1.2 Các phương pháp phân tích sử dụng trong bài
1.2.1
Phương pháp so sánh
Phương pháp so sánh là phương pháp được vận dụng phổ biến trong phân
tích nhằm xác định vị trí và xu hướng biến động. Đánh giá được kết quả. Có thể
có các trường hợp so sánh khác nhau tùy theo mục đích nhưng trong bài tập lớn
này em sử dụng trong trường hợp: So sánh giữa kỳ nghiên cứu với kỳ gốc để
xác định nhịp độ, tốc độ phát triển của hiện tượng.
So sánh bằng số tuyệt đối
Phương pháp so sánh bằng số tuyệt đối cho biết quy mô, khối lượng của
hiện tượng nghiên cứu đạt vượt hoặc hụt giữa hai kỳ.
Mức biến động tuyệt đối( chênh lệch tuyệt đối) : 1 – y0
Trong đó:
: Mức độ biến động tuyệt đối của hiện tượng nghiên cứu
1
: Mức độ của hiện tượng nghiên cứu kỳ thực tế
y0: Mức độ của hiện tượng nghiên cứu kỳ gốc
So sánh bằng số tương đối
Cho ta thấy xu hướng biến động, tốc độ phát triển, kết cấu của tổng thể, mức
độ phổ biến của hiện tượng.
a) Số tương đối động thái
+ Dùng để biểu hiện xu hướng biến động, tốc độ phát triển của hiện tượng theo
thời gian:
t = y1/ y0 100 (%)
Trong đó: y1, y0 là mức độ của hiện tượng nghiên cứu kỳ thực tế, kỳ kế hoạch
b) Số tương đối kết cấu
Số tương đối kết cấu nhằm xác định tỷ trọng của bộ phận so với tổng thể:
D = ybp/ytt 100 (%)
Trong đó:
ybp: mức độ của bộ phận
ytt : mức độ của tổng thể
1.2.2
Các phương pháp xác định mức độ ảnh hưởng của các nhân tố.
Phương pháp cân đối
Phương pháp cân đối này được vận dụng trong trường hợp các nhân tố có
mối quan hệ tổng đại số. Cụ thể để xác định mức độ ảnh hưởng của nhân tố nào
đến chỉ tiêu nghiên cứu đúng bằng chênh lệch giữa trị số kỳ nghiên cứu và trị số
kỳ gốc của nhân tố đó, không cần quan tâm đến các nhân tố khác.
Khái quát nội dung của phương pháp:
•
•
Chỉ tiêu phân tích: y
Các nhân tố ảnh hưởng: a, b, c
+ Phương trình kinh tế: y = a + b – c
•
•
Giá trị chỉ tiêu kỳ gốc:
y0 = a0 +b0 – c0
Giá trị chỉ tiêu kỳ nghiên cứu: y1 = a1 + b1 – c1
+ Xác đinh đối tượng phân tích: y = y1 – y0 = (a1 + b1 – c1) – (a0 – b0 – c0)
+ Xác định mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến chỉ tiêu phân tích:
Ảnh hưởng của nhân tố thứ nhất (a) đến y:
•
•
Ảnh hưởng tuyệt đối:
Ảnh hưởng tương đối:
ya = a1 – a0
ya = (ya.100)/y0 (%)
Ảnh hưởng của nhân tố thứ hai (b) đến y:
•
•
Ảnh hưởng tuyệt đối:
Ảnh hưởng tương đối:
yb = b1 – b0
yb = (yb.100)/y0 (%)
Ảnh hưởng của nhân tố thứ ba (c) đến y:
•
•
Ảnh hưởng tuyệt đối:
Ảnh hưởng tương đối:
yc = c1 – c0
yc = (yc.100)/y0 (%)
Tổng ảnh hưởng của các nhân tố:
ya + yb + yc = y
ya + yb + yc = y = (y.100)/y0 (%)
Lập bảng phân tích
STT
Kỳ gốc
Quy
mô
a1
Tỷ
trọn
g
(%)
da1
So
sán
h
Chênh
lệch
MĐAH
y (%)
δa
∆a
δ ya
1
Nhân tố thứ 1
a0
Tỷ
trọn
g
(%)
da0
2
Nhân tố thứ 2
b0
db0
b1
db1
δb
∆b
δ yb
3
Nhân tố thứ 3
c0
dc0
c1
dc1
δc
∆c
δ yc
Chỉ tiêu phân tích
y0
100
y1
100
δy
∆y
-
Chỉ tiêu
Quy
mô
Kỳ n/c
PHẦN II: PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CHI PHÍ SẢN
XUẤT THEO KHOẢN MỤC CỦA DOANH NGHIỆP
2.1 Mục đích, ý nghĩa
2.1.1 Ý nghĩa
Đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào thì vấn đề về tài chính luôn là yếu
tố quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp đó. Lợi nhuận hàng năm
phải cao, tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh phải ổn định thì mới có thể
duy trì và phát triển, thu hút vốn đầu tư của các nhà đầu tư cũng như giữ vững
được vị trí trên thị trường. Vậy để có được lợi nhuận cao, bên cạnh việc tăng
doanh thu thì giảm chi phí cũng là một trong những cách tối ưu nhất. Trong đó,
chi phí sản xuất là chỉ tiêu rất được quan tâm và chú trọng vì nó ảnh hưởng trực
tiếp đến giá thành sản phẩm và lợi nhuận của doanh nghiệp. Phân tích chi phí
sản xuât cũng vì thế mà trở nên vô cùng cần thiết đối với doanh nghiệp.
Trước hết ta đã biết chi phí sản xuất là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ
hao phí về lao động sống và lao động vật hóa, và các chi phí bằng tiền khác mà
doanh nghiệp đã chi ra để tiến hành sản xuất, chế tạo sản phẩm hoặc thực hiện
cung cấp lao vụ, dịch vụ trong một kỳ nhất định.
Vậy nên khi phân tích chi phí sản xuất sẽ giúp cho doanh nghiệp đánh giá
một cách khách quan, chính xác, toàn diện về tình hình quản lý và sử dụng chi
phí, nhận diện được các chi phí, những nơi chịu chi phí và những hoạt động sinh
ra chi phí, phát hiện những khoản chi nào lãng phí, bất hợp lý để có kế hoạch
điều chỉnh lại... từ đó doanh nghiệp nhìn nhận rõ các vấn đề, xác định các
nguyên nhân chủ quan, khách quan, tích cực hay tiêu cực ảnh hưởng đến sự
biến động của chi phí sản xuất từ đó đưa ra các biện pháp thích hợp, thiết thực
trong công tác quản lý đối với chi phí sản xuất nhằm quản lý chi phí hiệu quả
hơn.
Bên cạnh đó, việc phân tích chi phí sản xuất còn cung cấp cho doanh
nghiệp những thông tin hữu dụng cần thiết để phục vụ công tác quản lý chi phí,
lập kế hoạch chi cho phù hợp, tiết kiệm chi phí để hạ thấp giá thành, tính toán
và lập kế hoạch đầu ra đảm bảo đáp ứng nhu cầu thi trường, góp phần làm tăng
lợi nhuận của doanh nghiệp, đạt hiệu quả cao trong xản xuất kinh doanh.
Thông qua phân tích chi phí sản xuất ta có thể đánh giá tổng hợp tình
hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Ta có thể chỉ ra các mặt mạnh, các
khuyết điểm, các nguyên nhân ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất kinh doanh để
đề xuất các biện pháp thích hợp.
Ngoài ra, phân tích chi phí sản xuất còn giúp doanh nghiệp phát hiện và
khai thác những khả năng tiềm ẩn trong doanh nghiệp để có thể khai thác triệt
để nhằm đạt hiệu quả cao.
Với ý ngĩa to lớn đó, phân tích chi phí sản xuất là điều không thể thiếu
trong bất cứ hoạt động kinh doanh nào của bất kỳ doanh nghiệp nào
2.1.2 Mục đích
Có nhiều cách phân loại chi phí khác nhau và mỗi cách phân loại đều có
những ưu điểm và mục đích khác nhau. Một trong những cách phân loại đó là
căn cứ vào đối tượng chi phí và vị trí của khoản chi phí để chia chi phí sản xuất
thành khoản mục chi phí. Cách phân loại này sẽ giúp chúng ta xác định chí phí
sản xuất ở từng đơn vị sản xuất, từng bộ phận sản xuất, xác định được giá thành
sản phẩm.
Mục đích của phân tích chi phí theo khoản mục bao gồm các nội dung
sau:
+ Đánh giá khái quát tình hình thực hiện chi phí và các nhân tố.
Thông qua phân tích chúng ta sẽ thấy được sự biên động tăng, giảm của chi phí
sản xuất và từng nhân tố ảnh hưởng tác động trực tiếp đến chi phí để có thể
đánh giá một cách khái quát nhất về sự biến động đó.
+Xác định mức độ ảnh hưởng của các nhân tố và phân tích nguyên nhân biến
động các chi phí, phát hiện những bất hợp lý trong chi phí.
Từ các số liệu trong bảng phân tích, chúng ta sẽ thấy được mức độ ảnh hưởng
của các nhân tố đến chi phí sản xuất, xem xét nhân tố nào ảnh hưởng nhiều,
nhân tố nào ảnh hưởng ít, nhân tố nào tác động theo chiều hướng tích cực, nhân
tố nào tác động theo chiều hướng tiêu cực, sự tác động của nhân tố nào là hợp lý
và sự biên động của nhân tố nào là bất hợp lý và chỉ ra nguyên nhân dẫn đến
những ảnh hưởng tích cực, tiêu cực đó.
+ Đề xuất những biện pháp cần thiết để hạn chế, loại trừ ảnh hưởng của những
nhân tố tiêu cực, động viên, phát huy những nhân tố tác động tích cực đến chi
phí sản xuất.
Mỗi một nhân tố tác động đến chi phí sản xuất dù tích cực hay tiêu cực cũng
cần phải đề xuất các biện pháp thích hợp để khai thác các tiềm năng, phát huy
điểm mạnh, khắc phục điểm yếu, cải tiến và thay đổi những bất hợp lý trong
công tác quản lý chi phí, sử dụng nguồn vật tư, lao động, tiền vốn nhằm không
ngừng hạ thấp giá thành sản phẩm trong các kỳ tiếp theo.
+ Phân tích chi phí sản xuất cũng là căn cứ và cơ sở quan trọng cho việc thành
lập các kế hoạch và chiến lược trong sản xuất.
Từ việc phân tích, chúng ta có thể lập kế hoạch sản xuất cụ thể trong những kỳ
tiếp theo, đồng thời lập chiến lược tiêu thụ sản phẩm cho hợp lý, đáp ứng nhu
cầu kịp thời trên thị trường.
2.2: Phân tích
2.2.1: Xây dựng công thức phản ánh chi phí sản xuất và lập bảng phân
tích
Phương trình kinh tế:
C = CSX + CBH + CQL = CNCTT + CNVLTT + CSXC + CBH + CQL
Trong đó:
•
•
•
CSX : Chi phí sản xuất chế tạo sản phẩm
CSX = CNCTT + CNVLTT + CSXC
Với CNCTT
: Chi phí nhân công trực tiếp
CNVLTT : Chi phí nguyên, vật liệu trực tiếp
CSXC
: Chi phí sản xuất chung
CBH : Chi phí bán hàng
CQL : Chi phí quản lý
+ Xác định giá trị của chỉ tiêu kỳ nghiên cứu
ΣC0
= CNVL0 + CNC0 + Csxc0 + CBH0 + CQL0
=82.146.143
(103 đồng)
+ Xác định giá trị của chỉ tiêu kỳ nghiên cứu
ΣC1
= CNVL1 + CNC1 + Csxc1 + CBH1 + CQL1
=77.213.456 (103 đồng)
Xác định đối tượng phân tích:
Đối tượng phân tích: Tiết kiệm tuyệt đối
C
= ΣC1 – ΣC0
= 77.213.456 – 82.146.143
= – 4.932.687 (103 đồng)
Lập bảng phân tích:
Kỳ gốc (%)
ST
T
Khoản mục
Chi phí sản xuất
chế tạo sản phẩm
a Chi phí nguyên
vật liệu trực tiếp
b Chi phí nhân
công trực tiếp
c Chi phí sản xuất
chung
2 Chi phí bán hàng
1
3
Chi phí quản lý
doanh nghiệp
Tổng chi phí ( ∑
C)
QM
(103 đ)
TT
(%)
53,115,69
6
20,298,31
2
17,521,77
2
15,295,61
2
16,519,58
9
12,510,85
8
82,146,14
3
64.66
24.71
21.33
18.62
20.11
15.23
100
Kỳ nghiên cứu
(%)
QM
TT
(103 đ)
(%)
So
sánh
(%)
Bội chi hoặc tiết kiệm
Tuyệt đối
(103 đ)
51,161,63
6
18,384,52
4
17,388,47
0
15,388,64
2
16,083,56
3
9,968,257
66.26
96.32
23.81
90.57
22.52
99.24
1,954,060
1,913,788
-133,302
19.93
100.61
20.83
77,213,45
6
Tương
đối
(103 đ)
3,357,509
Mức
độ ảnh
hưởng
đến ∑
C (%)
-2.38
116,043
-2.33
1,618,875
-0.16
93,030
1,622,591
0.11
97.36
-436,026
1,215,932
-0.53
12.91
79.68
94.00
1,291,515
3,281,927
-3.10
100
2,542,600
4,932,687
2.2.2: Phân tích
Đánh giá chung
Qua bảng phân tích tình hình thực hiện chi phí theo khoản mục ta thấy:
Tổng chi phí ở kỳ nghiên cứu so với kỳ gốc đạt 94%, như vậy là giảm đi 6%
tương ứng với số tiền tiết kiệm được là 4.932.687 (10 3 đồng). Xét về số tuyệt
đối thì doanh nghiệp đã tiết kiệm chi phí còn xét về số tương đối, với chỉ số giá
trị sản xuất
I G =0,9 thì doanh nghiệp lại bội chi số tiền là 3.282.927 (10 3
đồng). Điều này chứng tỏ rằng việc tổ chức sản xuất và quản lý chi phí của
doanh nghiệp chưa hợp lý.
Nhìn chung các nhân tố tác động đến tổng chi phí sản xuất đều có sự biến
động rất khác nhau, ngoại trừ nhân tố chi phí sản xuất chung tăng lên thì hầu hết
các nhân tố còn lại đều có xu hướng giảm dần so với kỳ gốc. Tuy nhiên mức
giảm chưa thực sự sâu, mức so sánh vẫn đạt ở ngưỡng trên 90% so với kỳ gốc
( lớn hơn chỉ số giá trị sản xuất I G ) nên mức giảm này chưa hợp lý và chưa thực
sự đem lại lợi ích tối đa cho doanh nghiệp.
Nhìn vào bảng ta thấy khoản mục chi phí biến động nhiều nhất là Chi phí
quản lý doanh nghiệp, đạt 79,68% tức giảm 20,32% làm cho tổng chi phí giảm
3,1%. Khoản mục biến động ít nhất là Chi phí sản xuất chung thuộc Chi phí sản
xuất chế tạo sản phẩm, đạt 100,61% tức tăng 0,61% tác động làm cho tổng chi
phí tăng một mức là 0,11%.
Tổng chi phí có sự biến động như vậy là bởi một số nguyên nhân chính sau:
+ Do công nhân ngày càng có tay nghề cao hơn, đỡ tốn kém chi phí đào tạo
+ Do nguyên vật liệu đầu vào kỳ nghiên cứu thấp hơn so với kỳ gốc
+ Do chế độ khen thưởng đối với công, nhân viên hợp lý
+ Do cắt giảm nhân viên, sắp xếp lại bộ máy quản lý doanh nghiệp
Ngoài ra còn có một số nguyên nhân khác nhưng ảnh hưởng không nhiều đến
tổng chi phí sản xuất .
Vậy từ đây ta có thể rút ra nhận xét sau: Các khoản mục chi phí biến động trong
kỳ nghiên cứu hầu hết đều có xu hướng giảm đi nhưng sự giảm đó chưa thực sự
hợp lý nên chưa đem lại hiệu quả tối ưu cho doanh nghiệp. Do đó doanh nghiệp
cần có các biện pháp pù hợp và lập kế hoạch quản lý chi phí cụ thể để tiết kiệm
hơn, tránh lãng phí hơn và đạt kết quả kinh doanh tốt.
Phân tích chi tiết
Tổng chi phí sản xuất bao gồm các khoản mục sau:
-
Chi phí sản xuất chế tạo sản phẩm
+ Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
+ Chi phí nhân công trực tiếp
+ Chi phí sản xuất chung
1.
Chi phí bán hàng
Chi phí quản lý doanh nghiệp.
Chi phí chế tạo sản phẩm
Ở kỳ nghiên cứu, chi phí sản xuất chế tạo sản phẩm là 51.161.636 (10 3 đồng)
chiếm 66,26% trong tổng chi phí. Nhân tố này đạt 96,32% so với kỳ gốc, như
vậy giảm 3,68% nên doanh nghiệp tiết kiệm tuyệt đối số tiền là 1.954.060 (10 3
đồng) làm cho tổng chi phí giảm 2,38%. Đây là khoản mục chi phí chiếm lớn
nhất trong các khoản mục và có ảnh hưởng lớn đến tổng chi phí. Và với mức
giảm như vậy thì chứng tỏ doanh nghiệp rất chú trọng đến khoản mục chi phí
này để có thể tiết kiệm hơn. Nhưng với mức giảm 3,68% thì doanh nghiệp vẫn
chỉ dừng lại ở mức tiết kiệm tuyệt đối chứ chưa đạt được tiết kiệm tương đối,
thậm chí còn bội chi tương đối số tiền là 3.357.509 (103 đồng). Sự giảm này là
chưa hợp lý và có thể do một số nguyên nhân sau đây:
+ Chi phí nguyên vật liệu đầu vào giảm.
+ Máy móc thiết bị hoạt động tốt.
+ Áp dụng các thành tựu khoa học công nghệ vào sản xuất.
+ Tay nghề công nhân ngày càng cao.
a)
Đối với chi phí nguyên vật liệu trực tiếp:
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp được xác định bởi công thức:
CNVL = Qi.mi.gi – F (103 đồng)
Trong đó:
Qi: Số lượng của mặt hàng i
mi: Mức tiêu hao
gi: Giá cả mặt hàng i
Thông qua bảng phân tích ta có thể thấy rằng: ở kỳ nghiên cứu, chi phí
nguyên vật liệu trực tiếp là 18.384.524 (10 3 đồng) chiếm 23,81% trong tổng chi
phí toàn doanh nghiệp. Trong khi đó kỳ gốc đạt 20.298.312 (10 3 đồng) chiếm
24,71% tổng chi phí. Như vậy chi phí nguyên vật liệu trực tiếp ở kỳ nghiên cứu
so với kỳ gốc đã giảm 0,9% tương ứng với số tiền tiết kiệm tuyệt đối là
1.913.788 (103 đồng), tuy nhiên lại bội chi tương đối số tiền là 116.043 (10 3
đồng), điều này là chưa hợp lý. Với sự biến động đó thì chi phí nguyên vật liệu
trực tiếp đã làm cho tổng chi phí biến đổi theo hướng giảm với mức độ ảnh
hưởng là 2,33%.
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp chịu ảnh hưởng của các nhân tố: số lượng
mặt hàng sản xuất, mức tiêu hao, giá cả nên sự biến động cúa các nhân tố này
tác động trực tiếp đến sự tăng giảm của chi phí nguên vật liệu. Vì vậy ta sẽ phân
tích chi tiết từng nhân tố để chỉ rõ các nguyên nhân dẫn đến sự giảm chi phí
nguyên vật liệu của doanh nghiệp trong kỳ nghiên cứu.
Nhân tố đầu tiên làm cho chi phí nguyên vật liệu giảm đi là do số lượng sản
xuất sản phẩm (Qi) trong kỳ nghiên cứu giảm đi so với kỳ gốc. Và đây là một số
nguyên nhân chính dẫn đến sự sụt giảm đó.
Thứ nhất, do các đơn hàng trong kỳ nghiên cứu của doanh nghiệp giảm
xuống. Tại kỳ gốc, doanh nghiệp tung ra một số loại sản phẩm mới với mẫu mã
hấp dẫn nên thu hút được nhiều khách hàng, làm cho đơn hàng tăng lên, chi phí
nguyên vật liệu cũng vì thế mà tăng. Trong khi đó ở kỳ nghiên cứu, sản phẩm
mà doanh nghiệp sản xuất đang bão hòa, cầu thị trường đang có xu hướng giảm
trong khi cung lại tăng, nhiều doanh nghiệp khác cũng sản xuất ồ ạt với các
chương trình khuyến mại, giảm giá nên cạnh tranh cao hơn, vì thế mà đơn đặt
hàng trong kỳ nghiên cứu giảm xuống, làm cho sản lượng giảm. Đây là nguyên
nhân chủ quan, tiêu cực.
Biện pháp: Doanh nghiệp cần có các chiến lược phát triển sản phẩm mới, đổi
mới về mẫu mã, chất lượng sản phẩm để thu hút khách hàng, đồng thời cũng
cần phải có các chiến lược marketing phù hợp để tăng tính cạnh tranh trên thị
trường, có vật mới có thể tăng được sản lượng sản xuất.
Nguyên nhân thứ hai làm cho sản lượng giảm trong kỳ nghiên cứu đó là
năng suất không đồng đều giữa các bộ phận sản xuất chủ yếu của doanh nghiệp.
Tại kỳ gốc, năng suất hoạt động khá đều và ổn giữa các bộ phận trong dây
chuyền sản xuất, bộ phận này cung ứng hàng cho bộ phận kia một cách đều đặn
và hoàn thành kế hoạch đặt ra, bộ phận nào cũng làm tốt nhiệm vụ của mình,
lượng sản phẩm cũng vì thế mà được hoàn thành vượt mục tiêu. Trong khi đó ở
kỳ nghiên cứu, bộ phận gia công, chế biến trong giai đoạn đầu sản xuất sản
phẩm thì làm việc năng suất cao, ồ ạt làm hàng, chuyển xuống cho bộ phận
hoàn chỉnh thì năng suất làm việc lại kém, hàng hóa ứ đọng không hoàn thành
kịp lượng sản phẩm giao xuống dẫn đến sản phẩm dở dang thì thừa mà sản
phẩm hoàn thành lại thiếu hụt. Đây là nguyên nhân tiêu cực, chủ quan.
Biện pháp: Doanh nghiệp cần có các biện pháp xử lý như điều chuyển lao
động cho hợp lý giữa các bộ phận trong dây chuyền sản xuất, đào tạo chuyên
môn cho công nhân ở bộ phận hoàn chỉnh để năng suất giữa các bộ phận đồng
đều hơn, có vậy thì số lượng sản phẩm mới được cải thiện.
Sản lượng giảm còn do trong kỳ nghiên cứu sản xuất, vì gặp vấn đề về tài
chính nên doanh nghiệp đã thu hẹp quy mô sản xuất, loại bỏ không sản xuất một
số mặt hàng có lượng tiêu thụ kém. Kỳ nghiên cứu, một số mặt hàng bão hòa
trên thị trường nên doanh thu tiêu thụ các loại sản phẩm này giảm đi rất nhiều,
mà lợi nhuận từ những sản phẩm đó không cao, người tiêu dùng không còn ưa
chuộng chúng nữa. Vì vậy doanh nghiệp đã quyế định ngưng sản xuất chúng
làm cho sản lượng giảm. Đây là nguyên nhân tích cực, chủ quan. Biện pháp đưa
ra là doanh nghiệp ngoài việc loại bỏ các sản phẩm trên thì nên nghiên cứu và
tung ra thị trường dòng sản phẩm mới để thu hút người tiêu dùng và không
ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm để tăng tính cạnh tranh.
Nhân tố thứ hai làm cho chi phí nguyên vật liệu trực tiếp giảm là mức tiêu
hao nguyên vật liệu trong kỳ nghiên cứu của doanh nghiệp giảm so với kỳ gốc.
Nguyên nhân làm giảm mức tiêu hao nguyên vật liệu bao gồm các nguyên nhân
sau:
Nguyên nhân thứ nhất là do tình trạng hoạt động của máy móc ở kỳ nghiên
cứu tốt hơn kỳ gốc. Tại kỳ gốc, máy móc thiết bị đã cũ, lạc hậu, hoạt động
không tốt, tiêu tốn nhiều nguyên vật liệu. Còn trong kỳ nghiên cứu, doanh
nghiệp đã cho cải tiến một số máy móc thiết bị làm cho chúng hoạt động tốt
hơn, nâng cấp chúng với các chứng năng hữu hiệu nên trong quá trình sản xuất
tiêu tốn ít nguyên liệu hơn, tiết kiệm hơn, mức tiêu hao nguyên liệu cũng vì vậy
mà giảm đi, làm cho chi phí nguyên vật liệu giảm. Đây là nguyên nhân tích cực,
chủ quan.
Biện pháp: Doanh nghiệp nên áp dụng khoa học công nghệ và cái tiến kỹ
thuật trong sản xuất để có thể tiết kiệm chi phí nguyên vật liệu hơn nữa trong
các kỳ sản xuất tiếp theo như mua thêm máy móc công nghệ, cải tiến dây
chuyền sản xuất, nâng cấp máy móc,...
Mức tiêu hao cũng giảm trong kỳ nghiên cứu còn vì chất lượng nguyên liệu
đầu vào tốt hơn so với kỳ gốc. Tại kỳ gốc, doanh nghiệp nhập nguyên vật liệu
có chất lượng không được tốt, do đó trong quá trình sản xuất sản phẩm dễ bị
hỏng nguyên liệu dẫn đến hao phí nhiều nguyên vật liệu. Đến kỳ nghiên cứu thì
nguyên vật liệu doanh nghiệp mua vào có chất lượng cao hơn, sản xuất ít hao
phí hơn nên tiêu tốn ít nguyên vật liệu hơn so với kỳ gốc, làm cho chi phí mua
nguyên vật liệu trực tiếp cũng vì thế mà giảm xuống. Đây là nguyên nhân tích
cực, chủ quan.
Biện pháp: Doanh nghiệp nên lựa chọn nguyên vật liều đầu vào một cách kỹ
lưỡng và đạt chất lượng tốt, vừa đảm bảo chất lượng của sản phẩm vừa tiết kiệm
được chi phí nguyên vật liệu.
Việc thay đổi mẫu mã sản phẩm trong kỳ nghiên cứu của doanh nghiệp cũng
là một nguyên nhân làm cho mức tiêu hao nguyên vật liệu giảm. Tại kỳ gốc, sản
phẩm của doanh nghiệp còn tốn nhiều nguyên vật liệu. Thấy vậy, trong kỳ
nghiên cứu, doanh nghiệp đã nghiên cứu và cải tiến mẫu mã sản phẩm. Mẫu mã
mới có kiểu dáng đẹp hơn với các chi tiết được cải thiện làm cho sản phẩm vừa
đẹp vừa đảm bảo chất lượng không đổi và quan trọng là lượng nguyên vật liệu
để tạo ra sản phẩm đó cũng giảm đi, làm cho mức tiêu hao nguyên liệu giảm,
góp phần làm cho chi phí nguyên vật liệu giảm. Đây là nguyên nhân tích cực,
chủ quan.
Biện pháp: Doanh nghiệp cần không ngừng nghiên cứu sản phẩm của mình
để có thể cải tiến mẫu mã tốt hơn sao cho mức tiêu hao giảm đi nhỏ nhất có thể.
Mức tiêu hao nguyên vật liệu còn giảm là nhờ công tác sử dụng nguyên vật
liệu trong kỳ nghiên cứu đã được kiểm soát chặt chẽ hơn so với kỳ gốc. Ở kỳ
gốc, việc sử dụng nguyên vật liệu còn chưa quy củ, nguyên vật liệu chuyển vào
sản xuất ồ ạt không theo một trật tự quy định nào, một số nguyên vật liệu dù
chưa hỏng, vẫn có thể sử dụng nhưng vẫn bị loại bỏ ra khỏi sản xuất. Nhận thấy
được sự lãng phí đó, trong kỳ nghiên cứu, doanh nghiệp đã xiết chặt công tác
quản lý và sử dụng nguyên vật liệu hơn. Nguyên vật liệu trước khi chuyển từ
kho sang bộ phận sản xuất phải được kiểm tra cụ thể, rõ ràng, không còn ồ ạt
như trước. Nguyên vật liệu trước khi bị loại bỏ cũng cần kiểm tra rõ ràng để
xem xét có thể sử dụng được không. Điều đó đã góp phần không nhỏ trong việc
giảm mức tiêu hao nguyên vật liệu xuống. Đây là nguyên nhân tích cực, chủ
quan.
Biện pháp: Doanh nghiệp cần phát huy, áp dụng các biện pháp cứng rắn và
chặt chẽ hơn trong công tác sử dụng nguyên vật liệu, có thể đưa ra các hình phạt
đối với công nhân viên khộng chấp hành các quy định về sử dụng nguyên liệu
trong sản xuất để đạt hiệu quả cao.
Mặt khác, mức tiêu hao nguyên vật liệu trong kỳ nghiên cứu của doanh
nghiệp giảm xuống còn bởi trình độ tay nghề của người công nhân ngày càng
cao. Tại kỳ gốc, một số công nhân trong doanh nghiệp nghỉ làm, do đó công ty
phải tuyển thêm công nhân mới. Tay nghề của công nhân mới còn non kém,
chưa thuần thục do đó thường xuyên làm hỏng sản phẩm, tiêu tốn nhiều nguyên
vật liệu. Đến kỳ nghiên cứu, trình độ tay nghề của công nhân đã được nâng cao
và qua thời gian thì công nhân ngày càng thuần thục hơn trong sản xuất, lượng
nguyên vật liệu dùng trong sản xuất sản phẩm cũng giảm đi, mức tiêu hao giảm
xuống, chi phí nguyên vật liệu giảm xuống. Đây là nguyên nhân tích cực, khách
quan.
Biện pháp: Doanh nghiệp cần có các phương pháp đào tạo công nhân hợp lý
để nâng cao tay nghề của họ trong thời gian càng nhanh càng tốt. Bên cạnh đó
thì trong quá trình tuyển dụng cũng nên xem xét các yếu tố của người công nhân
để xem họ có phù hợp với bộ phận nào, có khả năng làm tốt công việc hay
không.
Nhân tố thứ ba làm cho chi phí nguyên vật liệu giảm là giá cả của nguyên vật
liệu đầu vào của doanh nghiệp giảm trong kỳ nghiên cứu.
Nguyên nhân đầu tiên làm cho giá nguyên vật liệu giảm là do trong kỳ
nghiên cứu, mức cung trên thị trường lớn, nhiều nhà cung cấp đua nhau cung
ứng ra thị trường loại nguyên vật liệu đó, để tăng tính cạnh tranh họ đã giảm
giá. Cụ thể là trong kỳ nghiên cứu vừa qua, thời tiết thuận lợi nên người nông
dân trồng trọt tốt, đem lại năng suất cây trồng cao, chất lượng tốt. Cũng chính vì
số lượng nông sản nhiều nên cung ứng một lượng lớn trên thị trường làm cho
giá cả giảm đi so với năm trước. Nhà cung cấp nguyên vật liệu cho doanh
nghiệp nhập vào chế biến với giá rẻ hơn nên khi bán cũng hạ thấp giá xuống để
tăng tính cạnh tranh với các nhà cung cấp khác. Doanh nghiệp cũng vì thế mà
được lợi trong việc nhập nguyên vật liệu đầu vào với giá thấp hơn so với kỳ
gốc. Đây là nguyên nhân khách quan, tích cực.
Nguyên nhân thứ hai làm cho giá nguyên vật liệu giảm là do kỳ nghiên cứu
doanh nghiệp được hưởng chiết khấu thanh toán tiền mua nguyên vật liệu. Tại
kỳ gốc, doanh nghiệp mới sửa chữa lớn nhà xưởng nên tốn kém chi phí do đó
không thanh toán ngay tiền nguyên vật liệu trực tiếp cho nhà cung cấp mà trả
góp theo từng đợt nên không được hưởng chiết khấu. Nhưng trong kỳ nghiên
cứu, tình hình tài chính của doanh nghiệp đã tốt hơn, hơn nữa giá cả nhập vào
cũng thấp hơn so với năm trước nên Giám đốc đã thanh toán ngay tiền hàng cho
bên cung cấp sau khi nhập kho nguyên vật liệu đầy đủ và được họ ưu đãi giảm
2% tổng thanh toán. Đây là nguyên nhân khách quan, tích cực và doanh nghiệp
nên tiếp tục phát huy. Các kỳ sau nếu không có vấn đề về tài chính, chất lượng
và số lượng nguyên vật liệu nhập kho đảm bảo thì doanh nghiệp nên thanh toán
tiền luôn cho nhà cung cấp để có thể được hưởng các ưu đãi của họ dành cho
doanh nghiệp.
Giá cước vận chuyển nguyên vật liệu về kho trong kỳ nghiên cứu giảm cũng
là một nguyên nhân làm cho giá nguyên vật liệu giảm. Kỳ gốc, một số loại
nguyên vật liệu có khối lượng lớn, lại cách rất xa doanh nghiệp và do thời gian
gấp rút nên doanh nghiệp phải thuê ngoài vận chuyển với giá cước khá cao.
Đến kỳ nghiên cứu, thông qua tìm hiểu doanh nghiệp đã lựa chọn được nhà thầu
chuyên vận chuyển nguyên vật liệu với giá cước thấp hơn nên chi phí tính vào
giá của nguyên vật liệu cũng giảm. Đây là nguyên nhân tích cực, chủ quan.
Biện pháp: Doanh nghiệp nên tìm hiểu và lựa chọn đối tác vận chuyển
nguyên vật liệu cho mình một cách tỉ mỉ, kỹ lưỡng để tìm ra nguồn vận chuyển
với giá cước ưu đãi thấp nhất. Điều đó rất cần thiết cho doanh nghiệp.
Nguyên nhân thứ tư làm cho giá nguyên vật liệu trực tiếp giảm đó là sự thay
đổi phương tiện vận tải nguyên vật liệu trong kỳ nghiên cứu. Ngoài những
nguyên vật liệu vận chuyển từ nơi xa với số lượng lớn thì một số loại nguyên
vật liệu được doanh nghiệp tự bố trí sắp xếp vận chuyển về kho. Kỳ gốc, doanh
nghiệp chuyên chở bằng đường bộ nên chi phí vận chuyển cao. Còn kỳ nghiên
cứu thì doanh nghiệp đã thay đổi phương tiện vận tải bằng hình thức vận chuyển
qua đường thủy nên tiết kiệm chi phí hơn, làm cho chi phí nguyên vật liệu giảm
xuống. Nguyên nhân này mang tính tích cực, chủ quan.
Biện pháp: Doanh nghiệp nên lựa chọn hình thức vận tải phù hợp và tiện lợi
nhất đối với nguyên vật liệu để có thể tiết kiệm chi phí hơn. Tùy thuộc vào vị trí
địa lý, khối lượng hàng hóa mà chọn cho tiết kiệm nhất. Đối với nguyên vật liệu
vận chuyển từ xa, đường núi gập ghềnh, khối lượng lớn thì nên vận chuyển
bằng đường thủy hoặc đường hàng không.
Bên cạnh đó, thì chính sách ưu đãi về thuế nhập khẩu của Chính phủ cũng là
một nguyên nhân làm cho chi phí nguyên vật liệu trực tiếp trong kỳ nghiên cứu
của doanh nghiệp giảm. Ngoài các nguyên vật liệu sẵn có trong nước thì doanh
nghiệp cũng cần phải nhập khẩu một số loại nguyên vật liệu từ nước ngoài.
Những nguyên vật liệu đó trong nước thường khan hiếm và chất lượng cũng
không đảm bảo tiêu chuẩn nên doanh nghiệp buộc phải nhập khẩu, nếu không
sản phẩm tạo ra sẽ không đáp ứng được yêu cầu của khách hàng. Mà trong kỳ
gốc thì thuế nhập khẩu các nguyên liệu đó là 10% nhưng đến kỳ nghiên cứu thì
Nhà nước tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển và mở rộng nên đã
giảm mức thuế đối với loại nguyên vật liệu mà doanh nghiệp nhập khẩu xuống
còn 5%. Điều này làm cho chi phí nguyên vật liệu đầu vào của doanh nghiệp
giảm xuống. Nguyên nhân này mang tính tích cực, khách quan.
Ngoài ra, chi phí về nguyên vật liệu trực tiếp của doanh nghiệp giảm còn là
vì kỳ nghiên cứu doanh nghiệp được nhà cung cấp tặng thêm một lượng nguyên
vật liệu dùng cho sản xuất trực tiếp. Bên cung cấp nguyên vật liệu là nhà thầu
chuyên cung cấp nguyên vật liệu hằng năm cho doanh nghiệp đồng thời doanh
nghiệp là khách hàng tiềm năng của họ. Kể từ khi thành lập doanh nghiệp đến
nay thì kỳ sản xuất nào chúng ta cũng nhập nguyên vật liệu của họ nên mối
quan hệ giữa doanh nghiệp với nhà cung cấp rất tốt. Do vậy, năm nay nhân dịp
kỷ niệm 10 năm thành lập công ty thì nhà cung cấp đã tặng cho doanh nghiệp
một lượng nguyên vật liệu để sản xuất trực tiếp nên tiết kiệm được một khoản
tiền cho chi mua nguyên vật liệu. Nguyên nhân này mang tính khách quan, tích
cực.
Biện pháp: Doanh nghiệp nên mở rộng mối quan hệ với các nhà cung cấp
đồng thời duy trì và nâng cao mối quan hệ trong tương lai để có thể nhận được
các ưu đãi cũng như có thể thúc đẩy các cơ hội trong kinh doanh.
Với các nguyên nhân tác động như trên, doanh nghiệp cần nhìn nhận lại từng
nguyên nhân khách quan, chủ quan, tích cực, tiêu cực để điều chỉnh sao cho hợp
lý. Mặc dù hầu hết các nguyên nhân tác động đến các nhân tố đều mang tính
tích cực và doanh nghiệp có thể tiết kiệm cả về mặt tuyệt đối và tương đối. Tuy
nhiên trên thực tế doanh nghiệp chỉ đạt tiết kiệm tuyệt đối và bội chi tương đối,
đây là điều bất hợp lý. Do đó doanh nghiệp cần có các biện pháp khắc phục và
điều chỉnh chi phí nguyên vật liệu trực tiếp hợp lý hơn nữa, khai thác triệt để
các tiềm năng bên trong cũng như bên ngoài doanh nghiệp, tận dụng thời cơ giá
cả trên thị trường, các chính sách ưu đãi của Nhà nước, các mối quan hệ xã hội
ngoại giao cũng như áp dụng khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất để tiết kiệm
chi phí nguyên vật liệu trực tiếp hơn.
b)
Đối với chi phí nhân công trực tiếp
Do doanh nghiệp trả lương cho công nhân theo thời gian nên Chi phí nhân
công trực tiếp được xác định bởi công thức:
CNCTT = N T lngày
Trong đó:
N
: Số lao động bình quân trong kỳ (người)
T
: Số ngày làm việc bình quân của một công nhân trong kỳ (ngày/người)
lngày : Lương bình quân 1 ngày của công nhân trong kỳ ( 103 đồng/ người)
Nhìn vào bảng phân tích ta thấy: Chi phí nhân công trực tiếp ở kỳ nghiên
cứu là 17.338.470 (103 đồng), chiếm 22,52% tổng chi phí sản xuất trong kỳ
nghiên cứu của toàn doanh nghiệp. Trong khi đó ở kỳ gốc là 17.521.772 (10 3
đồng) chiếm 21,33% tổng chi phí toàn doanh nghiệp. Như vậy ta có thể thấy
rằng, chi phí nhân công trực tiếp ở kỳ nghiên cứu giảm 0,76% so với kỳ gốc.
Với mức giảm như vậy đã giúp doanh nghiệp tiết kiệm tuyệt đối số tiền là
133.302 (103 đồng), bội chi tương đối số tiền là 1.618.875 (10 3 đồng), điều này
là chưa hợp lý. Sự biến động của chi phí nhân công trực tiếp đã tác động đến
tổng chi phí của toàn doanh nghiệp, mức độ ảnh hưởng của nó làm tổng chi phí
giảm 0,16%. Do chi phí nhân công trực tiếp chịu tác động bởi các nhân tố như
số công nhân bình quân trong kỳ, số ngày làm việc bình quân của một công
nhân, lương bình quân một ngày của một công nhân nên ta sẽ phân tích từng
nhân tố để thấy rõ các nguyên nhân làm cho chi phí công nhân trực tiếp giảm.
Nhân tố thứ nhất: số lao động bình quân trong kỳ của doanh nghiệp
kỳ nghiên cứu giảm so với kỳ gốc. Nguyên nhân bao gồm:
Nguyên nhân đầu tiên làm cho số lao động bình quân giảm trong kỳ
nghiên cứu là do lượng công nhân nghỉ việc lớn hơn lượng công nhân tuyển mộ
trong kỳ. Ở kỳ gốc, do đơn hàng đặt nhiều, mục tiêu về sản lượng tăng cao nên
doanh nghiệp tuyển mộ thêm lao động mới ở các bộ phận làm cho số công nhân
bình quân trong kỳ gốc tăng lên. Đến kỳ nghiên cứu, do doanh nghiệp có chế độ
đãi ngộ không tốt nên công nhân xin nghỉ việc nhiều và số công nhân tuyển
dụng thêm để bù vào không đủ so với ban đầu dẫn đến số công nhân bình quân
trong kỳ giảm xuống. Đây là nguyên nhân tiêu cực, khách quan.
Biện pháp: Doanh nghiệp nên điều chỉnh chế độ đãi ngộ cho công nhân
một cách hợp lý để giữ chân người lao động ở lại làm việc và nên có các chính
sách chiêu mộ lao động tích cực để tuyển dụng số lượng công nhân cho đầy đủ,
đảm bảo không ảnh hưởng đến sản xuất.
Nguyên nhân thứ hai làm cho số lao động bình quân trong kỳ nghiên cứu
của doanh nghiệp giảm là vì số công nhân nghỉ hưu tăng lên. Ở kỳ gốc, hầu như
không có trường hợp công nhân về hưu nào vì họ còn trẻ. Tuy nhiên đến kỳ
nghiên cứu thì đã có những công nhân đến tuổi về hưu và doanh nghiệp không
ký thêm hợp đồng với họ do đó lượng công nhân tham gia vào sản xuất giảm
xuống làm cho công nhân bình quân giảm. Việc các lao động đã cao tuổi, không
còn sức lao động bền bỉ về hưu là điều khó tránh khỏi và là cơ hội để tuyển mộ
thêm công nhân mới có sức làm việc cao hơn, thời gian gắn bó lâu hơn, vì vậy
có thể coi đây là nguyên nhân tích cực, khách quan.
Biện pháp: Doanh nghiệp nên chú trọng việc tuyển mộ công nhân mới
thay thế những người đã về hưu nhưng bên cạnh đó cũng nên cân nhắc việc gia
hạn thêm hợp đồng đối với một số công nhân đó vì không phải công nhân nào
về hưu cũng không còn khả năng làm việc tốt như trước mà còn có những người
rất có kinh nghiệm trong sản xuất mà khi tuyển dụng công nhân mới thay thế
không có được.
Sự giảm lao động bình quân trong kỳ nghiên cứu còn bởi số công nhân
trong doanh nghiệp bị buộc chấm dứt hợp đồng tăng lên. Số lao động ở kỳ gốc
hầu hết chấp hành nghiêm nội quy, quy định của doanh nghiệp nên rất ít khi xảy
ra trường hợp công nhân bị đuổi việc. Trong khi đó ở kỳ nghiên cứu thì ý thức