1. Quyền chọn là gì?
Quyền chọn là công cụ cho phép người sở hữu được quyền mua hoặc bán một loại hàng
hóa hoặc tài sản cụ thể (còn gọi là tài sản cơ sở) với mức giá nhất định (gọi là giá thực
hiện) tại hoặc trước một thời điểm xác định trong tương lai.
Quyền chọn là một công cụ tài chính, được giao dịch trên thị trường có tổ chức (sở giao dịch)
hoặc thị trường phi tổ chức (thị trường OTC). Nếu nhìn nhận quyền chọn từ giác độ các bên
tham gia, quyền chọn là một thỏa thuận có tính ràng buộc và chỉ có hiệu lực trong một
khoảng thời gian nhất định. Khi quyền chọn đáo hạn, nó không còn giá trị nữa hay sẽ ngừng
tồn tại.
Khái niệm quyền chọn đã cho ta thấy một điểm khác biệt quan trọng giữa công cụ tài chính
này và hợp đồng tương lai. Với hợp đồng tương lai, giao dịch mua/bán tài sản cơ sở chắc
chắn sẽ diễn ra tại chính thời điểm tương lai khi hợp đồng đáo hạn, hoặc thông qua sự chuyển
giao tài sản vật chất giữa bên mua và bên bán, hoặc dưới hình thức thanh toán bù trừ phần
lãi/lỗ phát sinh giữa các bên. Nghĩa vụ phải tham gia vào một giao dịch như vậy là như nhau
đối với cả bên giữ vị thế mua lẫn bên giữ vị thế bán của hợp đồng, và họ phải sẵn sàng chấp
nhận những tổn thất, nếu có, do đã sử dụng công cụ này.
Trong trường hợp quyền chọn, vai trò của mỗi bên tham gia giao dịch không mang tính chất
“cân xứng” như vậy, dù rằng chúng ta cũng thấy có sự xuất hiện của người mua (còn gọi là
người nắm giữ, hay sở hữu) quyền chọn và người bán (còn gọi là người phát hành) quyền
chọn. Quyền chọn đem lại cho người nắm giữ nó một cơ hội được lựa chọn, chứ không phải
là nghĩa vụ, thực hiện giao dịch mua/bán tài sản cơ sở trong tương lai. Tuỳ theo cân nhắc của
người giữ quyền chọn mà việc mua/bán tài sản hoặc thanh toán cho những khoản lãi/lỗ phát
sinh sẽ được diễn ra hay không diễn ra khi quyền chọn đáo hạn. Căn cứ cho việc đưa ra quyết
định thực hiện hay không thực hiện quyền này sẽ được đề cập đến một cách chi tiết hơn ở
phần sau. Về phía mình, người bán quyền chọn không được hưởng lợi thế này mà phải luôn
trong tư thế sẵn sàng thực hiện nghĩa vụ đã cam kết phù hợp với lựa chọn của bên mua
quyền. Đối với quyền chọn giao dịch trên thị trường tập trung, để đảm bảo bên bán quyền
chọn sẽ thực hiện nghĩa vụ của mình, yêu cầu ký quỹ cũng được đặt ra cho đối tượng này
tương tự như với những người giao dịch (mua hay bán) hợp đồng tương lai. Cụ thể, sở giao
dịch sẽ quy định rõ mức ký quỹ ban đầu và ký quỹ duy trì cho từng loại quyền chọn khác
nhau. Đương nhiên, yêu cầu ký quỹ bổ sung cũng sẽ xuất hiện khi số tiền trên tài khoản của
bên bán quyền chọn xuống thấp hơn mức ký quỹ duy trì.
Quyền chọn có thể được tạo ra dựa trên nhiều loại tài sản cơ sở khác nhau. Ta có thể thấy
những loại quyền chọn đa dạng như:
Quyền chọn đối với các hàng hóa cơ bản (nông sản như lúa mì, ngô, đậu tương..., hay
kim loại như nhôm, đồng, dầu mỏ, vàng, bạc...)
-
Quyền chọn đối với công cụ có thu nhập cố định (tín phiếu, trái phiếu)
-
Quyền chọn đối với chứng khoán vốn (cổ phiếu hay chỉ số cổ phiếu)
Quyền chọn đối với tỷ giá (thường là tỷ giá giữa các đồng tiền được sử dụng phổ biến
trong thương mại quốc tế)
Quyền chọn đối với hợp đồng tương lai. Đối với trường hợp này, trước hoặc tại thời
điểm đáo hạn, người mua quyền chọn có quyền mua hoặc bán, hay nói cách khác là giữ một
vị thế mua hoặc bán đối với hợp đồng tương lai mà dựa vào đó quyền chọn được tạo ra.
Với mỗi một nhóm (loại) tài sản kể trên, quyền chọn luôn được thiết kế bao gồm cả quyền
chọn mua và quyền chọn bán. Quyền chọn mua cho phép bên nắm giữ được quyền mua tài
sản cơ sở với mức giá nhất định, trong khi quyền chọn bán cho phép bên nắm giữ được
quyền bán tài sản cơ sở với mức giá nhất định. Dĩ nhiên, dù là quyền chọn loại nào thì cũng
phải gắn liền với một thời gian đáo hạn cụ thể và quyền chọn chỉ có hiệu lực cho đến khi
khoảng thời gian đó chấm dứt.
Hãy xem xét trường hợp của một loại quyền chọn điển hình trên thị trường - quyền chọn cổ
phiếu. Về mặt khái niệm, quyền chọn cổ phiếu là hợp đồng cho phép người nắm giữ (hay sở
hữu nó) có quyền, chứ không phải là nghĩa vụ, mua hoặc bán một lượng cổ phiếu cơ sở với
giá xác định vào hoặc trước một thời điểm nhất định trong tương lai. Với quyền chọn mua cổ
phiếu, người mua quyền được lựa chọn có mua cổ phiếu cơ sở hay không; và khi một quyết
định mua được đưa ra, người bán quyền chọn có nghĩa vụ phải bán (hay là giao) cổ phiếu.
Ngược lại, với quyền chọn bán cổ phiếu, người mua quyền được tự quyết định có bán cổ
phiếu cơ sở hay không và người bán quyền chọn có nghĩa vụ phải mua (hay là nhận) cổ phiếu
tương ứng. Dĩ nhiên, mức giá thanh toán (áp dụng cho giao dịch mua/bán cổ phiếu) đã được
quy định sẵn trong hợp đồng từ đầu.
Ngược lại, người bán quyền chọn có nghĩa vụ (hay bắt buộc) phải bán (trong trường hợp
quyền chọn mua) hoặc mua (trong trường hợp quyền chọn bán) cổ phiếu cho (hoặc từ) người
sở hữu quyền chọn theo yêu cầu của đối tượng này, dĩ nhiên giá mua đã được quy định sẵn
trong hợp đồng.
Như vậy, một hợp đồng quyền chọn cổ phiếu có những đặc điểm nổi bật như sau, lấy ví dụ
minh họa là quyền chọn đối với cổ phiếu của công ty ABC:
Mỗi hợp đồng cho phép mua hoặc bán một lượng cổ phiếu cơ sở nhất định, chẳng
hạn trong trường hợp này là 100 cổ phiếu ABC. Trong thực tế, khái niệm “quy mô hợp đồng”
thường được dùng để mô tả đặc điểm này (và được quy định cụ thể theo từng sở giao dịch,
từng loại tài sản cơ sở).
Giá thực hiện là mức giá được nêu rõ trong hợp đồng. Cổ phiếu ABC sẽ được mua
(nếu là quyền chọn mua) hoặc bán (nếu là quyền chọn bán) theo mức giá này khi hợp đồng
quyền chọn đáo hạn. Giá thực hiện là một yếu tố được xác định từ đầu và giữ cố định trong
suốt thời gian tồn tại và có hiệu lực của một quyền chọn.
Quyền chọn có thể chỉ được thực hiện tại thời điểm đáo hạn hợp đồng (quyền chọn
kiểu châu Âu), hoặc có thể cho phép người nắm giữ nó được lựa chọn thời điểm thực hiện
thích hợp trước đó, tức là không cần đợi cho đến đúng thời điểm đáo hạn (quyền chọn kiểu
Mỹ). Giả sử quyền chọn nói đến trong ví dụ minh họa ở trên có thời điểm đáo hạn vào tháng
12, và là quyền chọn kiểu châu Âu, người mua quyền chọn chỉ có thể thực hiện quyền của
mình (mua cổ phiếu ABC) vào tháng 12 chứ không thể sớm hơn. Ngược lại, nếu đây là quyền
chọn kiểu Mỹ, người nắm giữ quyền chọn hoàn toàn có thể thực hiện quyền (tức là mua cổ
phiếu ABC) trước đó, chẳng hạn vào tháng 11) nếu anh ta muốn. Rõ ràng, quyền chọn kiểu
Mỹ đem lại cho người nắm giữ nó khả năng lựa chọn linh hoạt hơn, do đó có thể tối ưu hóa
lợi ích tốt hơn. Tuy nhiên, đổi lại, phí quyền chọn kiểu Mỹ có thể, và thường là, cao hơn so
với phí quyền chọn kiểu châu Âu (đối với cùng một cổ phiếu cơ sở và các điều khoản tương
tự), hàm ý một khoản chi phí cao hơn cho người sử dụng.
Người nắm giữ (hay là người mua) quyền chọn mua đối với một cổ phiếu chưa được
hưởng ngay những quyền lợi mà một cổ đông bình thường của công ty phát hành ra cổ phiếu
đó đương nhiên được hưởng (như quyền bỏ phiếu, quyền nhận cổ tức định kỳ...). Chỉ khi nào
người nắm giữ quyền chọn mua thực hiện quyền, mua và trở thành chủ sở hữu một lượng
nhất định cổ phiếu cơ sở, anh ta mới đủ điều kiện được hưởng những quyền lợi này.
Đối với những quyền chọn giao dịch trên thị trường tập trung, hay là tại một sở giao dịch, các
điều khoản liên quan trong hợp đồng quyền chọn cũng được chuẩn hóa tương tự như trường
hợp của các hợp đồng tương lai. Cụ thể, đó là sự chuẩn hóa về loại tài sản, quy mô hợp đồng,
giá thực hiện, thời gian đáo hạn…
2. Loại quyền chọn và vị thế quyền chọn
Về cơ bản, quyền chọn có hai loại – quyền chọn mua (call option) và quyền chọn bán (put
option). Mỗi loại quyền chọn này là một công cụ riêng biệt và bạn có thể giao dịch chúng
trong vai trò người mua hay người bán. Như vậy, trên thị trường giao dịch quyền chọn, các
nhà đầu tư có thể giữ những vị thế sau đây:
(1) Mua quyền chọn mua: có quyền mua tài sản cơ sở với giá xác định trong tương lai
(2) Bán quyền chọn mua: có nghĩa vụ bán tài sản cơ sở theo giá xác định trong tương lai (hay
là trở thành đối tác của bên mua quyền chọn mua)
(3) Mua quyền chọn bán: có quyền bán tài sản cơ sở với giá xác định trong tương lai
(4) Bán quyền chọn bán: có nghĩa vụ mua tài sản cơ sở theo giá xác định trong tương lai (hay
là trở thành đối tác của bên mua quyền chọn bán).
Dĩ nhiên, mức giá xác định mà ta nói đến ở đây chính là giá thực hiện quy định trong hợp
đồng quyền chọn, còn thời điểm tương lai diễn ra giao dịch mua/bán tài sản cơ sở (nếu có)
phụ thuộc vào thời gian đáo hạn quyền chọn.
Như trên đã đề cập, quyền chọn cũng có thể được phân loại căn cứ vào quy định cụ thể về
thời điểm đáo hạn của hợp đồng. Quyền chọn kiểu châu Âu chỉ cho phép người nắm giữ
quyền chọn được thực hiện quyền tại chính thời điểm đáo hạn và không sớm hơn. Trái lại,
với quyền chọn kiểu Mỹ, bên mua quyền chọn lại có thể thực hiện quyền trước khi quyền
chọn đó đến thời điểm đáo hạn (còn gọi là thực hiện sớm quyền chọn).
3. Mở và đóng vị thế quyền chọn
Mở vị thế
Một nhà đầu tư có thể tham gia thị trường quyền chọn bằng cách mở một vị thế quyền chọn.
Việc mở vị thế được thực hiện bằng một lệnh mua hay một lệnh bán (với công cụ mua/bán là
quyền chọn mua hoặc quyền chọn bán). Thuật ngữ chuyên môn dùng trong trường hợp này sẽ
là “mua để mở” (chỉ hành động mua quyền chọn) và “bán để mở” (chỉ hành động bán quyền
chọn). Một khi vị thế quyền chọn đã được mở, điều đó có nghĩa là đến một thời điểm nào đó,
và bằng cách nào đó, vị thế đó sẽ được đóng lại, chấm dứt các quyền lợi và nghĩa vụ liên
quan đến người nắm giữ vị thế.
Đóng vị thế
Về cơ bản, người giữ một vị thế đối với quyền chọn có thể lựa chọn một trong ba cách đây để
đóng (hay là để thoát ra khỏi) vị thế, đó là:
-
Bù trừ vị thế
-
Đợi đến thời điểm đáo hạn quyền chọn để kết thúc vị thế
-
Để quyền chọn đáo hạn vô giá trị
Chúng ta sẽ xem xét cụ thể từng phương án này.
Phương án thứ nhất, bù trừ vị thế, là biện pháp đóng vị thế được sử dụng phổ biến trên thị
trường hợp đồng quyền chọn. Cũng tương tự như đối với hợp đồng tương lai, bù trừ vị thế
diễn ra khi nhà đầu tư thực hiện một giao dịch đảo ngược với giao dịch ban đầu để thoát ra
ngoài. Nói cách khác, nếu lúc đầu bạn giữ vị thế mua quyền chọn, bạn phải đóng vị thế bằng
hành động bán lại quyền chọn đó cho người khác. Ngược lại, nếu lúc đầu bạn bán (quyền
chọn) để mở vị thế, bạn sẽ mua một quyền chọn tương tự trên thị trường. Giao dịch bù trừ vị
thế này có thể được thực hiện bất cứ lúc nào trước ngày quyền chọn đáo hạn.
Quyền chọn được sử dụng cho giao dịch đảo ngược (để bù trừ vị thế) phải là quyền chọn đối
với cùng tài sản cơ sở, có cùng mức giá thực hiện và cùng thời điểm đáo hạn (giống như
quyền chọn ban đầu lúc mở vị thế). Nếu bạn đang nắm giữ (tức là đã mua) một quyền chọn
mua, bạn sẽ bán chính quyền chọn mua đó. Nếu bạn đang nắm giữ (hay đã mua) một quyền
chọn bán, bạn sẽ bán lại chính quyền chọn bán đó. Trong trường hợp này, bạn đã “bán để
đóng” vị thế. Còn nếu là người giữ vị thế bán (quyền chọn mua hoặc quyền chọn bán) lúc ban
đầu, bạn phải mua quyền chọn (mua hoặc bán tương ứng) với những điều khoản chính xác
như trong hợp đồng quyền chọn đang tham gia, gọi là “mua để đóng” vị thế.
Nếu không bù trừ vị thế, nhà đầu tư vẫn còn bị ràng buộc bởi những quyền lợi hoặc nghĩa vụ
liên quan. Khi đó, vị thế quyền chọn vẫn ở trạng thái mở. Đến thời điểm đáo hạn, hai khả
năng có thể xảy ra, liên quan đến hai phương án còn lại, là quyền chọn được thực hiện hoặc
quyền chọn được để đáo hạn vô giá trị.
Phương án thứ hai, thực hiện quyền chọn, hoàn toàn thuộc quyết định của bên mua (hay
nắm giữ vị thế mua) quyền chọn (tình huống để cân nhắc và đưa ra quyết định này chúng ta
sẽ tìm hiểu kỹ hơn ở một nội dung tiếp theo). Trái lại, người giữ vị thế bán quyền chọn có
nghĩa vụ phải thực hiện trách nhiệm về phía mình trong hợp đồng, tức là phải sẵn sàng để trở
thành đối tác trong giao dịch với bên sở hữu quyền chọn nếu giao dịch này được diễn ra. Nói
một cách cụ thể hơn, khi bạn bán một quyền chọn mua, bạn có nghĩa vụ phải bán tài sản cơ
sở nếu người nắm giữ quyền chọn đó quyết định thực hiện quyền (mua tài sản) và bạn được
chỉ định. Tương tự như vậy, khi bạn bán một quyền chọn bán, bạn có nghĩa vụ phải mua tài
sản cơ sở nếu người nắm giữ quyền chọn đó quyết định thực hiện quyền (bán tài sản) và bạn
được chỉ định. Như vậy, ở vị trí người bán quyền chọn, bạn hoàn toàn không kiểm soát được
việc quyền chọn có được thực hiện hay không, và phải luôn sẵn sàng để đảm bảo đáp ứng các
nghĩa vụ về phía bản thân.
Phương án thứ ba, để quyền chọn đáo hạn vô giá trị, xảy ra trong trường hợp bên mua quyền
chọn quyết định không thực hiện quyền (mua hoặc bán tài sản cơ sở) của mình vào thời điểm
đáo hạn quyền chọn. Khi đó, không có giao dịch mua hay bán nào diễn ra đối với tài sản cơ
sở của hợp đồng và nghĩa vụ sẽ không phát sinh đối với bên giữ vị thế bán.
Thực hiện quyền chọn
Chúng ta đều biết rằng chỉ có người nắm giữ (bên mua) hợp đồng quyền chọn mới được thực
hiện quyền. Khi đó, giao dịch mua hoặc bán tài sản cơ sở (tùy theo việc quyền chọn người đó
sở hữu là quyền chọn mua hay quyền chọn bán) sẽ thực sự xảy ra. Câu hỏi quan trọng đặt ra
ở đây là: Khi nào thì người sở hữu một quyền chọn sẽ thực hiện quyền? Câu trả lời là quyết
định này phụ thuộc vào tình hình thị trường, hay nói một cách chính xác hơn là vào giá tài
sản cơ sở trên thị trường tại thời điểm đưa ra quyết định đó. Để đơn giản, chúng ta xem xét
một ví dụ minh họa sau đây.
Ví dụ: Ngày 1/6, nhà đầu tư A nắm giữ một hợp đồng quyền chọn mua đối với 100 cổ phiếu
XYZ đáo hạn vào tháng Chín và có giá thực hiện là 100 USD. Giả định tại thời điểm đáo hạn
quyền chọn, hai khả năng có thể xảy ra đối với giá cổ phiếu XYZ: (1) giá thị trường của cổ
phiếu XYZ là 80 USD; (2) giá thị trường của cổ phiếu XYZ là 120 USD. Nhà đầu tư này sẽ
thực hiện quyền chọn trong trường hợp nào?
Ta thấy rằng, với vị thế quyền chọn mua đang nắm giữ, nếu nhà đầu tư A quyết định thực
hiện quyền chọn tại thời điểm đáo hạn, anh ta sẽ được mua cổ phiếu XYZ với giá 100 USD/ 1
cổ phiếu. Ở trường hợp thứ nhất, khi giá cổ phiếu trên thị trường lúc đó là 80 USD, việc mua
cổ phiếu theo giá thực hiện (100 USD) sẽ làm nhà đầu tư này phải bỏ ra thêm 20 USD cho
mỗi cổ phiếu. Đây rõ ràng là điều không nhà đầu tư nào mong muốn, và với khả năng được
lựa chọn của mình, nhà đầu tư phải chọn hành động nào mang lại lợi ích nhiều nhất hoặc hạn
chế thiệt hại ở mức thấp nhất. Bỏ quyền chọn đáo hạn vô giá trị và thay vào đó là mua cổ
phiếu trên thị trường với giá thấp hơn (nếu cần) sẽ được coi là một quyết định hợp lý hơn
trong tình huống này.
Với trường hợp thứ hai, cổ phiếu XYZ được giao dịch với giá 120 USD tại thời điểm đáo
hạn. Thực hiện quyền chọn mua để mua cổ phiếu với giá 100 USD sẽ đem lại cho nhà đầu tư
A cơ hội bán lại ngay cổ phiếu đó trên thị trường giao ngay với giá cao hơn và hưởng số tiền
chênh lệch 20 USD tính trên một cổ phiếu (= 120 USD - 100 USD), chưa tính chi phí giao
dịch có thể phát sinh.
Với cách lập luận tương tự như vậy, ta có thể xem xét ví dụ minh họa thứ hai liên quan đến
một quyền chọn bán.
Ví dụ: Giả sử nhà đầu tư B đã mua hợp đồng quyền chọn bán đối với 100 cổ phiếu GLF đáo
hạn vào tháng 9 với giá thực hiện 70 USD/cổ phiếu. Hợp đồng này cho phép anh ta có quyền
được mua cổ phiếu GLF với giá 70 USD vào tháng 9. Quyết định thực hiện hay không thực
hiện quyền chọn tại thời điểm đáo hạn cũng sẽ được phân tích căn cứ vào hai khả năng khác
nhau có thể xảy ra với giá của cổ phiếu GLF trên thị trường khi đó.
Nếu giá cổ phiếu XYZ đã biến động theo hướng đi lên trong suốt thời gian hợp đồng quyền
chọn có hiệu lực và đạt đến 85 USD vào tháng 9 (khi quyền chọn đáo hạn), nếu thực hiện
quyền chọn để bán cổ phiếu trong điều kiện này, nhà đầu tư B sẽ đánh mất đi cơ hội bán cổ
phiếu GLF trên thị trường với giá 85 USD vì anh ta chỉ có thể bán với mức giá thấp hơn (70
USD/ 1 cổ phiếu). Đây rõ ràng không phải là một quyết định hợp lý đối với những nhà đầu tư
có cách tư duy thông thường. Trái lại, nếu giá cổ phiếu XYZ diễn biến theo chiều đi xuống
trong khoảng thời gian từ khi nhà đầu tư khởi tạo vị thế bán đối với quyền chọn cho đến khi
quyền chọn đó đáo hạn và chỉ còn giao dịch ở mức 60 USD/ 1 cổ phiếu trong tháng 9, tình
hình sẽ hoàn toàn thay đổi. Mức giá bán theo hợp đồng quyền chọn được đảm bảo ở mức cao
hơn giá hiện hành trên thị trường. Ngay cả khi nhà đầu tư chưa có sẵn cổ phiếu XYZ vào thời
điểm đó và phải đi mua trên thị trường giao ngay để có tài sản giao cho bên mua quyền chọn
bán, anh ta có thể mua cổ phiếu trên thị trường (với giá 60 USD) để giao cho đối tác trong
hợp đồng quyền chọn và hưởng số tiền chênh lệch 10 USD tính trên một cổ phiếu (= 70 USD
– 60 USD), chưa kể các chi phí giao dịch có thể phát sinh.
Qua hai ví dụ đơn giản ở trên, ta có thể thấy rằng nguyên tắc “mua thấp, bán cao” vẫn còn
nguyên giá trị trên thị trường quyền chọn. Quyết định thực hiện quyền của người nắm giữ
quyền chọn được đưa ra khi nguyên tắc này được đảm bảo và giao dịch mua (hoặc bán) tài
sản cơ sở theo những điều khoản của hợp đồng quyền chọn sẽ được tiến hành khi giao dịch
đem lại lợi ích (hay giá trị) cho người sở hữu quyền chọn đó. Một khi quyết định thực hiện
quyền đã được đưa ra, người giữ quyền chọn mua sẽ phải trả tiền để được nhận tài sản cơ sở,
còn người giữ quyền chọn bán phải giao tài sản cơ sở và được nhận tiền.
4. Phí quyền chọn
Khi mua một quyền chọn, bạn được toàn quyền chủ động lựa chọn thực hiện hay không thực
hiện quyền. Nếu sở hữu quyền chọn mua, bạn có thể quyết định mua hay không mua tài sản
cơ sở theo giá thực hiện tại thời điểm tương lai (tương ứng với thời gian đáo hạn quyền
chọn). Nếu sở hữu quyền chọn bán, bạn có thể quyết định bán hoặc không bán tài sản cơ sở
theo giá thực hiện tại thời điểm tương lai. Đương nhiên, bạn sẽ chỉ thực hiện quyền chọn (để
mua hoặc bán tài sản) nếu hành động đó đem lại những lợi ích (hay giá trị) nhất định.
Để đổi lại, bạn sẽ phải trả một khoản tiền gọi là phí quyền chọn. Người được hưởng khoản
phí này không ai khác hơn chính là người bán quyền chọn. Điều này cũng không có gì là khó
hiểu vì người giữ vị thế bán quyền chọn không có khả năng kiểm soát việc quyền chọn đó có
được thực hiện trong tương lai hay không. Với một nhà đầu tư bất kỳ, một khi đã bán để mở
vị thế quyền chọn, và không thực hiện bù trừ vị thế trước thời điểm đáo hạn, anh ta phải luôn
sẵn sàng để thực hiện nghĩa vụ của mình theo hợp đồng nếu bên mua quyết định thực hiện
quyền, tức là giao tài sản cơ sở (nếu đã bán quyền chọn mua trước đó) hoặc nhận giao tài sản
cơ sở (nếu đã bán quyền chọn bán trước đó). Nhìn chung, việc thực hiện các quyền chọn đều
chỉ diễn ra khi nó có lợi cho bên sở hữu quyền chọn, hàm ý rằng khi đó người bán quyền
chọn hoàn toàn ở thế bất lợi hơn. Trong trường hợp này, phí quyền chọn có thể coi như một
khoản bù đắp cho việc đảm bảo nghĩa vụ của bên bán quyền chọn.
Phí quyền chọn là khoản tiền mà người mua quyền chọn phải bỏ ra ngay từ đầu và không thể
thu hồi lại được. Nó chỉ có thể được bù đắp một phần, hoặc toàn bộ, hoặc toàn bộ kèm theo
một khoản phụ trội (xem như lợi nhuận) nếu người đó bán lại quyền chọn trên thị trường (với
giá có lợi) hoặc thực hiện quyền. Ngược lại, với người bán quyền chọn, đây là khoản phí họ
thu được ngay khi mở vị thế và sẽ được hưởng trọn vẹn nếu quyền chọn được để đáo hạn vô
giá trị (hay là bên mua bỏ không thực hiện quyền chọn).
Phí quyền chọn không phải là một yếu tố bất biến. Trái lại, phí quyền chọn thay đổi liên tục
tính cho đến thời điểm đáo hạn quyền chọn. Nói như vậy có nghĩa là khoản phí mà bạn phải
trả ra hoặc nhận được ngày hôm nay khi mua hay bán quyền chọn có khả năng cao hơn hoặc
thấp hơn so với khoản phí bạn đã trả hoặc nhận ngày hôm qua hay ngày mai. Trên thị trường
giao dịch quyền chọn có tổ chức, phí quyền chọn, hay còn gọi là giá quyền chọn, được sở
giao dịch công bố công khai.
Các bộ phận cấu thành
Phí quyền chọn bao gồm hai phần: giá trị nội tại và giá trị thời gian. Giá trị nội tại chính là số
tiền mà người nắm giữ quyền chọn thu được khi quyền chọn ở trạng thái lãi. Chênh lệch giữa
giá quyền chọn với giá trị nội tại của quyền chọn đó chính là giá trị thời gian. Quyền chọn có
thời gian còn lại tính cho đến khi đáo hạn càng dài, thời gian để thị trường biến động nhằm
đem lại lợi ích cho người sở hữu nó càng lớn, giá trị thời gian của nó càng lớn. Càng gần đến
thời điểm đáo hạn quyền chọn, cấu phần giá trị thời gian trong giá quyền chọn càng giảm đi.
Tại thời điểm đáo hạn quyền chọn, yếu tố này có giá trị bằng không và quyền chọn chỉ còn lại
giá trị nội tại.
Ta có thể tóm tắt như sau:
Giá quyền chọn (hay là phí quyền chọn) = Giá trị nội tại + Giá trị thời gian (1)
Giá trị nội = Giá thị trường hiện - Giá thực hiện
tại của
hành của tài sản cơ quyền chọn
quyền chọn
sở
mua
Giá trị nội = Giá thực hiện
tại của
quyền chọn
quyền chọn
bán
(2)
- Giá thị trường hiện
(3) hành của tài sản cơ sở
Giá trị thời gian của quyền chọn tại thời điểm đáo hạn = 0
Giá quyền chọn tại thời điểm đáo hạn = Giá trị nội tại của quyền chọn
5. Các trạng thái của quyền chọn
Giá trị của một hợp đồng quyền chọn cụ thể đối với người mua hoặc người bán được đo
lường bằng khả năng nó đáp ứng kỳ vọng của họ. Theo ngôn ngữ quyền chọn, người ta gọi
khả năng này là trạng thái của quyền chọn.
Tại một thời điểm bất kỳ, một quyền chọn (mua hay bán) có thể tồn tại ở một trong ba trạng
thái: trạng thái lãi, trạng thái lỗ hay trạng thái hòa vốn. Mỗi trạng thái này phản ánh liệu
quyền chọn có mang lại lợi ích (giá trị) gì cho nhà đầu tư hay không với giả định quyền chọn
được thực hiện ngay tại thời điểm đó. Một cách đơn giản nhất, ta có thể định nghĩa các trạng
thái cụ thể của quyền chọn mua và quyền chọn bán qua bảng tóm tắt sau:
Trạng thái
Quyền
Quyền
quyền chọn
chọn mua
chọn bán
Trạng thái lãiGiá hiện hành của tài
sản cơ sở > Giá thực
hiện quyền chọn
Giá hiện hành của tài sản
cơ sở < Giá thực hiện
quyền chọn
Trạng thái lỗ Giá hiện hành của tài
sản cơ sở < Giá thực
hiện quyền chọn
Giá hiện hành của tài sản
cơ sở > Giá thực hiện
quyền chọn
Trạng thái
hòa vốn
Giá hiện hành của tài sản
cơ sở = Giá thực hiện
quyền chọn
Giá hiện hành của tài
sản cơ sở = Giá thực
hiện quyền chọn
Như vậy, có thể thấy rằng quyền chọn ở trạng thái lãi khi nó có giá trị nội tại. Nếu một quyền
chọn không ở trạng thái lãi tại thời điểm đáo hạn, quyền chọn đó được xem là vô giá trị.
Ví dụ: Xét quyền chọn mua cổ phiếu IBM đáo hạn tháng 4/2011 với giá thực hiện 120 USD
(quyền chọn được giao dịch tại thị trường Mỹ). Nếu giá thị trường của cổ phiếu này là 140
USD/ 1 cổ phiếu, ta nói rằng quyền chọn ở trạng thái lãi (giá trị nội tại của quyền chọn = 140
– 120 = 20 USD). Nếu giá thị trường của cổ phiếu này là 110 USD, quyền chọn được cho là
có trạng thái lỗ (do giá trị nội tại của quyền chọn bằng 0). Quyền chọn này ở trạng thái hòa
vốn nếu cổ phiếu IBM được giao dịch ở mức 120 USD (hoặc rất gần mức giá này).
Ta sẽ thấy điều ngược lại xảy ra với quyền chọn bán. Cũng với những điều khoản tương tự giá thực hiện 120 USD, đáo hạn tháng 4/2011 – một quyền chọn bán đối với cổ phiếu IBM sẽ
ở trạng thái lãi khi giá cổ phiếu trên thị trường là 95 USD chẳng hạn (do khi đó quyền chọn
có giá trị nội tại là 25 USD), có trạng thái lãi khi giá cổ phiếu IBM là 135 USD (giá trị nội tại
= 0) và ở trạng thái hòa vốn khi giá cổ phiếu bằng hoặc xấp xỉ bằng 120 USD.
6. Ưu, nhược điểm của quyền chọn
6.1. Ưu điểm
Nói đến quyền chọn, nhiều người coi đây là một công cụ tài chính khá phức tạp và khó hiểu.
Tuy vậy, gạt bỏ những sự phức tạp này sang một bên, có thể thấy rằng giao dịch quyền chọn
là một lựa chọn mang lại khá nhiều lợi ích cho các đối tượng sử dụng nói riêng và cho thị
trường nói chung. Trong số này, những lợi ích cơ bản thường được các nhà đầu tư nhắc đến
là:
Tính linh hoạt
Bên cạnh việc sử dụng các quyền chọn bán, chọn mua đơn lẻ, nhà đầu tư có thể kết hợp các
quyền chọn với nhau một cách linh hoạt để hình thành những chiến lược giao dịch đa dạng.
Các chiến lược này có thể phục vụ cho những mục đích khác nhau như phòng ngừa rủi ro cho
một tài sản cơ sở (bằng cách cố định giá mua hoặc giá bán tài sản mong muốn) hoặc chỉ đơn
thuần để đầu cơ gia tăng lợi nhuận. Nhà đầu tư có thể sử dụng các chiến lược khai thác biến
động giá thị trường theo những hướng khác nhau, như biến động tăng giá hay biến động giảm
giá, biến động giá ở mức độ mạnh hay vừa phải… Với mỗi chiến lược cụ thể này, rủi ro mà
nhà đầu tư phải đối mặt cũng rất khác nhau.
Một số chiến lược sử dụng quyền chọn đơn giản gồm:
Chiến lược
Nội dung
Dự đoán
Động cơ
Rủi ro
Mua quyền chọn Mua quyền chọn Thị trường tăng Tận dụng lợi thế Thấp
mua
mua
giá
đòn bẩy để tăng tỷ
suất lợi nhuận
Mua quyền chọn Mua quyền chọn Giá cổ phiếu giảm Tận dụng lợi thế Thấp
bán
bán
mạnh
đòn bẩy để tăng tỷ
suất lợi nhuận
Quyền chọn mua Nắm giữ cổ phiếu Giá cổ phiếu tăng Gia tăng thu nhập Thấp
có bảo đảm
và bán quyền nhẹ hoặc vừa phải, nhờ phí quyền
chọn mua đối với ít nhất trong thời chọn
cổ phiếu đó
gian quyền chọn
tồn tại
Quyền chọn bán Nắm giữ cổ phiếu Thị trường tăng Phòng vệ trước sự Không
phòng vệ
và mua quyền giá, nhưng có lo giảm giá cổ phiếu
chọn bán đối với ngại về sự giảm tạm thời, tận dụng
cổ phiếu đó
giá mạnh nhất thời biến động giá có
lợi để gia tăng lợi
nhuận
Trên thực tế, nhà đầu tư trên thị trường này còn có thể sử dụng những chiến lược phức tạp
hơn kết hợp hai hoặc nhiều quyền chọn khác nhau đối với cùng một tài sản cơ sở để thực hiện
những mục tiêu hết sức cụ thể và đa dạng.
Tác dụng đòn bẩy
Ở đây, có thể hiểu đòn bẩy là tác động làm tăng tỷ suất sinh lời của nhà đầu tư khi thực hiện
các chiến lược sử dụng quyền chọn so với việc đầu tư vào tài sản cơ sở một cách thuần túy.
Hoặc, đó cũng có thể là khả năng mở ra cơ hội cho nhà đầu tư được tham gia (và hưởng lợi)
từ những biến động giá của tài sản cơ sở trên thị trường dù chỉ dựa trên một số vốn ban đầu
khiêm tốn (do giá trị của một quyền chọn thấp hơn nhiều giá trị của một đơn vị tài sản cơ sở).
Ví dụ: cổ phiếu S hiện đang được giao dịch trên thị trường với giá 25 USD/ cổ phiếu. Với số
vốn 1000 USD, một nhà đầu tư có thể mua được 40 cổ phiếu S (= 1000/ 25) và lãi/ lỗ đầu tư
sẽ phụ thuộc vào sự thay đổi giá trị của 40 cổ phiếu này trong tương lai. Tuy nhiên, nếu quan
tâm đến thị trường quyền chọn, anh ta có thể quan sát thấy quyền chọn mua cổ phiếu S với
thời gian đáo hạn tháng đang được yết giá ở mức 2 USD. Với số tiền 1000 USD, nhà đầu tư
này có thể mua được 500 quyền chọn mua cổ phiếu S (= 1000/ 2). Cơ hội được tiếp cận với
số lượng cổ phiếu lớn hơn cũng đồng nghĩa với cơ sở xác định lãi/lỗ đầu tư tăng lên rất nhiều
(tương ứng với 500 cổ phiếu S).
Hầu hết những chiến lược mà người đầu tư quyền chọn sử dụng đều có rủi ro hạn chế nhưng
cũng có tiềm năng lợi nhuận có hạn. Vì lý do này, các chiến lược quyền chọn không phải là
những cách thức làm giàu nhanh chóng. Các giao dịch thường đòi hỏi ít vốn hơn giao dịch cổ
phiếu tương đương, và do đó đem lại con số lợi nhuận nhỏ hơn tính theo giá trị tuyệt đối –
nhưng lại hứa hẹn một tỷ lệ phần trăm lợi nhuận tính trên vốn đầu tư cao hơn – so với giao
dịch cổ phiếu tương đương.
Ngay cả những nhà đầu tư sử dụng quyền chọn trong các chiến lược đầu cơ, như bán quyền
chọn mua không có bảo đảm, không phải lúc nào cũng thu được những khoản lợi nhuận đáng
kể. Lợi nhuận tiềm năng bị hạn chế ở mức tối đa bằng phí quyền chọn nhận được cho hợp
đồng, và khoản thua lỗ tiềm năng thường là vô hạn. Mặc dù đòn bẩy có nghĩa là lợi nhuận
tính theo tỷ lệ phần trăm có thể rất lớn, ở đây, số tiền thực sự trao tay nhỏ hơn so với giao
dịch cổ phiếu tương đương.
Mặc dù quyền chọn có thể không phù hợp đối với tất cả mọi người, chúng vẫn nằm trong số
những lựa chọn đầu tư linh hoạt nhất. Tùy vào từng hợp đồng, quyền chọn có thể bảo vệ hoặc
thúc đẩy các danh mục của nhiều loại nhà đầu tư khác nhau trong điều kiện thị trường lên giá,
xuống giá hoặc ổn định.
Giảm rủi ro
Với nhiều nhà đầu tư, quyền chọn là một công cụ hữu ích để quản lý rủi ro, có vai trò như các
hợp đồng bảo hiểm trước sự giảm giá cổ phiếu. Ví dụ, một nhà đầu tư lo ngại giá cổ phiếu
công ty LMN mà anh ta nắm giữ sắp sụt giảm. Anh ta có thể mua quyền chọn bán để đem lại
cho mình quyền được bán cổ phiếu theo giá thực hiện, cho dù giá trên thị trường giảm xuống
mức thấp đến thế nào trên thị trường trước thời điểm đáo hạn. Với chi phí là phí quyền chọn,
nhà đầu tư đã tự bảo hiểm mình trước tình trạng thua lỗ khi giá thấp hơn giá thực hiện. Loại
giao dịch quyền chọn này chính là phòng ngừa rủi ro. Mặc dù phòng ngừa rủi ro bằng quyền
chọn có thể giúp bạn quản lý rủi ro, điều quan trọng cần phải nhớ là tất cả các khoản đầu tư
đều ẩn chứa rủi ro nào đó, còn lợi nhuận thì không bao giờ được đảm bảo. Các nhà đầu tư sử
dụng quyền chọn để quản lý rủi ro tìm các cách để hạn chế khoản thua lỗ tiềm năng. Họ có
thể chọn mua quyền chọn, vì thua lỗ được giới hạn bằng số tiền trả ra để mua quyền chọn.
Đổi lại, họ có quyền mua hoặc bán tài sản cơ sở theo giá chấp nhận được với mình. Họ cũng
có thể kiếm lời từ sự tăng giá trị của phí quyền chọn, nếu họ chọn bán lại quyền chọn đó trên
thị trường thay vì thực hiện quyền. Do người bán quyền chọn đôi khi bị buộc phải mua hoặc
bán tài sản với giá bất lợi, rủi ro gắn liền với vị thế bán có thể cao hơn.
Nhiều chiến lược quyền chọn được thiết kế nhằm giảm thiểu rủi ro bằng các chiến lược
phòng ngừa rủi ro cho danh mục hiện tại. Mặc dù các quyền chọn có thể đóng vai trò như
những tấm lưới an toàn, chúng không phải là hoàn toàn không có rủi ro. Do các giao dịch
thường được mở và đóng trong ngắn hạn, lợi nhuận có thể hiện thực hóa được rất nhanh
chóng. Điều này có nghĩa là lỗ cũng có thể phát sinh nhanh chóng. Điều quan trọng là phải
hiểu được tất cả những rủi ro gắn liền với việc nắm giữ, khởi tạo và giao dịch quyền chọn
trước khi bạn đưa chúng vào trong danh mục đầu tư của mình.
6.2. Nhược điểm
Chi phí
Khi mua quyền chọn, nhà đầu tư sẽ phải bỏ ra một khoản chi phí ban đầu là phí quyền chọn.
Đây là khoản chi phí không thể thu hồi, cho dù sau này quyền chọn có được nhà đầu tư thực
hiện hay không thực hiện. Rõ ràng, điều này khác với trường hợp của hợp đồng tương lai, khi
mà tiền ký quỹ ban đầu chỉ có tính chất như một khoản cam kết tài chính đảm bảo thực hiện
hợp đồng và sẽ được trả lại (nếu còn) cho nhà đầu tư sau khi hợp đồng kết thúc. Ngoài ra, các
chi phí khác (như phí môi giới, chênh lệch giá chào bán – giá đặt mua quyền chọn) cũng
không phải là nhỏ. Vì vậy, chi phí là một trong những yếu tố nhà đầu tư cần hết sức cân nhắc
khi tham gia trên thị trường quyền chọn, nếu họ muốn đảm bảo tỷ suất lợi nhuận ở mức nhất
định.
Tính thanh khoản
Đối với một tài sản cơ sở nhất định, chẳng hạn như một cổ phiếu, các quyền chọn mua và
quyền chọn bán được tạo ra với những thời gian đáo hạn khác nhau và những mức giá thực
hiện khác nhau. Số lượng các quyền chọn đối với một tài sản cơ sở là khá lớn, tính tại một
thời điểm. Tuy vậy, nhu cầu mua, bán của thị trường đối với các quyền chọn này không phải
là như nhau. Sẽ có những quyền chọn được giao dịch với khối lượng lớn hơn, hay là có tính
thanh khoản cao hơn, và những quyền chọn có tính thanh khoản thấp. Nếu quyền chọn thích
hợp cho một chiến lược (đầu cơ hay phòng ngừa rủi ro) cụ thể của một nhà đầu tư lại nằm
trong nhóm có tính thanh khoản thấp, nhà đầu tư có thể sẽ gặp phải không ít khó khăn khi
muốn sử dụng công cụ này.
Tính phức tạp
Quyền chọn là một công cụ tương đối phức tạp. Người ta có thể tạo ra nhiều vị thế khác nhau
từ một quyền chọn nhất định, hoặc kết hợp nhiều quyền chọn lại với nhau nhằm xây dựng
những chiến lược riêng phù hợp với kỳ vọng và mục tiêu của mình. Không những thế, nhà
đầu tư sử dụng quyền chọn còn phải xem xét đến nhiều yếu tố như chi phí, sự thay đổi giá
quyền chọn theo thời gian… Vì vậy, không phải bất kỳ nhà đầu tư nào cũng có thể tham gia
thị trường quyền chọn, chưa nói đến việc tham gia giao dịch một cách thành công.
Rủi ro không giới hạn
Trong một số trường hợp, vị thế quyền chọn mà một nhà đầu tư nắm giữ có thể đặt họ trước
những rủi ro vô cùng lớn, mà nói theo lý thuyết là rủi ro vô hạn. Chẳng hạn, ta xem xét một
người bán quyền chọn mua cổ phiếu không có bảo đảm, tức là bán quyền chọn mua khi
không nắm giữ cổ phiếu cơ sở. Có thể nhà đầu tư này đã mở vị thế khi dự đoán rằng giá cổ
phiếu trên thị trường sẽ giảm đi hoặc ít nhất cũng duy trì trạng thái tương đối ổn định. Tuy
vậy, nếu diễn biến thị trường đi ngược lại với những gì người đó dự đoán, hay là giá cổ phiếu
tăng mạnh. Khi đó, người giữ quyền chọn mua sẽ thực hiện quyền để được mua cổ phiếu với
giá cố định từ đầu (giá thực hiện quyền chọn). Do không sở hữu cổ phiếu từ trước, nhà đầu tư
giữ vị thế bán quyền chọn mua sẽ phải mua cổ phiếu trên thị trường giao ngay để giao cho
bên mua quyền tại thời điểm đáo hạn. Giá giao ngay của cổ phiếu càng cao, thiệt hại của bên
bán quyền chọn càng lớn (vì phải “mua cao” theo giá thị trường, đồng thời lại “bán thấp”
theo giá cố định). Nếu giá cổ phiếu cứ tăng mãi, thua lỗ ngày càng cao và về lý thuyết là
không có giới hạn.