Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Đào tạo trực tuyến ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (215.82 KB, 10 trang )

Đào tạo trực tuyến ở Việt Nam hiện nay
1. Xu thế phát triển đào tạo trực tuyến trên thế giới
Xuất phát từ sự phát triển của giáo dục từ xa qua việc ứng dụng các thế hệ
công nghệ hỗ trợ cho đào tạo.Taylor (2001) đã tổng kết, hoạt động giáo dục từ xa
đã phát triển qua năm thế hệ. Đầu tiên là mô hình học hàm thụ, mô hình này
được thực hiện dựa trên công nghệ in ấn, tài liệu được gửi đến người học qua
đường bưu điện.Thứ hai là mô hình học tập dựa trên công nghệ in ấn, âm thanh
và video; trong mô hình này, việc tương tác giữa người dạy và người học phụ
thuộc vào thư từ và điện thoại. Thứ ba là mô hình học tập tương tác qua CNTT
dựa trên các ứng dụng của công nghệ hội thảo truyền hình; việc tương tác giữa
người dạy và người học còn hạn chế về địa điểm và tốc độ đường truyền thông
tin.Thứ tư là mô hình học tập linh hoạt dựa trên công nghệ internet và web toàn
cầu; trong mô hình này, sự tương tác giữa người dạy và người học thông qua
email, diễn đàn trao đổi và các phương tiện truyền thông đa phương tiện. Thứ
năm là mô hình học tập linh hoạt thông minh, là mô hình được thừa hưởng các
giải pháp của mô hình thứ tư và bổ sung thêm giải pháp tương tác truyền thông
đa phương tiện hai chiều và hệ thống phản hồi tự động, cho phép việc học tập
được thực hiện với các nguồn lực được chia sẻ trên toàn cầu. Mô hình này còn
được gọi là mô hình học tập trực tuyến (e-learning) đã thể hiện sự ưu việt hơn
cho phép việc học tập ở mọi lúc mọi nơi và chủ động linh hoạt1.
Cách mạng công nghiệp 4.0 (CMCN 4.0) với những thành tựu nổi bật
trong các lĩnh vực: internet, mạng xã hội, dữ liệu khổng lồ, di động, trí tuệ nhân
tạo, sinh học và robot đã tạo ra những thay đổi vô cùng lớn trong mọi hoạt động
ở mọi lĩnh vực của con người. Giáo dục là một trong những lĩnh vực chịu sự tác
động tác động mạnh mẽ và toàn diện, ranh giới giữa mọi lĩnh vực trong đời sống
của con người trên thế giới rất mỏng manh, thay vào đó là những liên kết “ảo”
được thiết lập thông qua công nghệ thông tin và truyền thông như phòng học ảo,
1 Urdan, T. and Weggen, C. (2000), Corporate E-Learning: Exploring a new frontier, Washington: Hambrecht and Co


thiết bị ảo, không gian ảo,… Ứng dụng CNTT vào đào tạo trở thành xu thế phát


triển của thế giới nhất là đối với cộng đồng giáo dục mở và từ xa. Phương pháp
học tập dựa trên CNTT và truyền thông đang làm thay đổi ngành giáo dục thế
giới từ công tác tổ chức giảng dạy đến công tác quản lý đào tạo, từ xây dựng bài
giảng đến tương tác giảng viên học viên… Mặc dù có những cách tiếp cận rất
khác nhau, nhưng hầu hết các cơ sở đào tạo mở và từ xa đều đã có những bước
tiến đáng kể trong lĩnh vực này.
ĐTTT được áp dụng ở hầu hết các trường đại học trên thế giới với nhiều
mức độ khác nhau, từ việc ứng dụng máy tính hỗ trợ cho đào tạo, tới việc sử
dụng Elearning như một phần của quá trình đào tạo hay thậm chí là đào tạo hoàn
toàn trực tuyến, không cần người học phải tới các lớp học truyền thống. Tại Mỹ,
năm 2014 có xấp xỉ 2.8 triệu sinh viên đã theo học các chương trình đại học trực
tuyến, tương đương 14% số sinh viên tại các trường đại học của Mỹ, bên cạnh đó
có gần 3 triệu sinh viên đã từng tham dự các khoá học trực tuyến. Có 247 trường
đại học có hơn 5000 sinh viên trực tuyến và 80 trường có hơn 10,000 sinh viên
theo học hình thức này, trong đó có những trường đại học hàng đầu như Stanford
hay MIT2. Nước Anh cũng là một trong những nước có số lượng đông đảo các
trường đại học cung cấp các khoá ĐTTT, điển hình là Đại học Mở Vương quốc
Anh với gần 200,000 sinh viên đang theo học. Tại các quốc gia khác đều xuất
hiện rất nhiều các trường đại học lớn cung cấp các khoá học trực tuyến và đạt
được thành công như trường Đại học Mở Quốc gia Indira Gandhi, Ấn Độ, trường
Đại học Nam Queensland, Úc, trường Đại học từ xa Massey, New Zealand,
Trường Đại học Mở Hàn Quốc… cũng đã cho thấy sự thành công và xu thế phát
triển của hình thức đào tạo này.So với Mỹ và nhiều nước châu Âu, các nước tại
châu Á, ĐTTT vẫn đang trong tình trạng mới phát triển, chưa có nhiều thành
2 Allen, Seaman, Poulin, & Straut (2016), Online Report Card – Tracking Online Education in the United
States


công vì một số lí do như: các quy tắc, luật lệ bảo thủ hơn, sự ưa chuộng đào tạo
truyền thống của văn hóa châu Á, vấn đề ngôn ngữ không đồng nhất, hạn chế về

cơ sở hạ tầng và tốc độ phát triển của nền kinh tế ở một số quốc gia. Tuy vậy, đó
chỉ là những rào cản tạm thời do nhu cầu đào tạo ở châu lục này cũng đang trở
nên ngày càng không thể đáp ứng được bởi các cơ sở giáo dục truyền thống buộc
các quốc gia châu Á đang dần dần phải thừa nhận những tiềm năng mà ĐTTT
mang lại. Một số quốc gia có nền kinh tế phát triển như: Nhật Bản, Hàn Quốc,
Singapore, Đài Loan, Trung Quốc,… đã và đang nỗ lực phát triển ĐTTT.
2. Định hướng phát triển đào tạo trực tuyến ở Việt Nam
Trong những năm qua, nước ta đã ban hành nhiều văn bản thể hiện chủ
trương phát triển, đổi mới giáo dục và đào tạo cùng với đẩy mạnh phát triển, ứng
dụng CNTT như Chiến lược phát triển giáo dục 2011-2020, Đề án “Xây dựng xã
hội học tập giai đoạn 2012-2020”, Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013
của Ban chấp hành Trung ương 8 khóa XI về Đổi mới căn bản và toàn diện giáo
dục và đào tạo,…
Chiến lược phát triển giáo dục 2011-2020 đã chỉ rõ: đa dạng hóa phương
thức học tập đáp ứng nhu cầu nhân lực, tạo cơ hội học tập suốt đời cho người
dân; phát triển giáo dục từ xa3. Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của
Ban chấp hành Trung ương 8 khóa XI về Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục
và đào tạo đã chỉ rõ quan điểm: hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo
hướng hệ thống giáo dục mở, học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập; Đẩy
mạnh ứng dụng CNTT và truyền thông trong dạy và học 4. Báo cáo số 46/BC3 Trung tâm nghiên cứu giáo dục đại học Melbourne tại trường đại học Melbourne (2017), Đảm bảo
chất lượng trong đào tạo trực tuyến, Cơ quan tiêu chuẩn chất lượng giáo dục đại học - Bộ Giáo dục và
Đào tạo Australia
4 Nguyễn Thị Hồng Vân (2011), Quản lý hoạt động đào tạo ở Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia
Hồ Chí Minh trong bối cảnh hiện nay, Luận án Tiến sĩ, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí
Minh


BGDĐT ngày 28/01/2016 của Bộ Giáo dục và Đào tạo sơ kết 3 năm thực hiện
Quyết định số 89/QĐ-TTg ngày 09/01/2013 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt
Đề án “Xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2012-2020” đã chỉ rõ yếu tố cơ bản để

xây dựng XHHT và HTSĐ là cần có hạ tầng CNTT phát triển, hỗ trợ việc giảng
dạy và học tập. Theo báo cáo, một trong những đặc thù của XHHT và HTSĐ là
cần tạo một môi trường để có thể học tập ở mọi lúc, mọi nơi, vì vậy, một hạ tầng
CNTT phát triển sẽ là một yêu cầu cấp thiết để tăng cơ hội học tập cho mọi
người, nhất là đối với loại hình học tập không chính quy và không chính thức 5.
Đề án “Phát triển Giáo dục từ xa giai đoạn 2005-2020” được Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt theo Quyết định số 164/2005/QĐ-TTg ngày 04/7/2005. Đề án
nhằm mục tiêu phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục từ xa, tạo điều kiện để
người dân, đặc biệt là nhân dân ở các vùng có điều kiện kinh tế-xã hội khó khăn
được học tập thường xuyên, học tập suốt đời, góp phần nâng cao trình độ văn
hoá, chuyên môn, nghiệp vụ và kỹ năng nghề nghiệp, nâng cao dân trí và đào tạo
nguồn nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước6.
Thời gian qua, Chính phủ Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản nhằm xây
dựng và phát triển cơ sở hạ tầng thông tin và truyền thông, như Quyết định số
246/2005/QĐ-TTg ngày 06/10/2005 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chiến
lược phát triển CNTT và truyền thông Việt Nam đến năm 2010 và định hướng
đến năm 2020, trong đó có nội dung “Đảm bảo trên 80% thanh niên ở các thành
phố, thị xã, thị trấn có thể sử dụng các ứng dụng CNTT và truyền thông và khai
thác Internet. Từng bước đưa CNTT và truyền thông vào đời sống của nông dân,
thu hẹp khoảng cách số giữa nông thôn và thành thị. Người dân được truy cập

5 Nguyễn Phước Tài (2011), Đào tạo trực tuyến mảnh đất giàu tiềm năng, Phòng Thanh tra Đào tạo – Trường ĐH
Đồng Tháp
6 Thái Kim Phụng, Trương Việt Phương (2016), “Ảnh hưởng của chất lượng thông tin đến kiến thức thu nhận của
sinh viên qua hệ thống e-learning: Một nghiên cứu tại các trường đại học ở Thành phố Hồ Chí Minh”, Tạp chí Khoa
học Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, Số 2 (47), 90-101


thông tin và tri thức kịp thời thông qua phát thanh, truyền hình, Internet và các
trang thông tin điện tử”7. Quyết định số 1755/QĐ-TTg ngày 22/9/2010 của Thủ

tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Đưa Việt Nam sớm trở thành nước mạnh về
CNTT và truyền thông” trong đó có mục tiêu “Đến năm 2015, tỷ lệ người dân sử
dụng Internet đạt trên 50%. Đến năm 2020 tỷ lệ người dân sử dụng Internet đạt
trên 70%”8 . Thực tiễn những năm qua, CNTT ở Việt Nam đã có mức độ tăng
trưởng rất cao. Năm 2015 Việt Nam có tốc độ tăng trưởng công nghệ thông tin là
16% và đứng trong top 5 nước tăng trưởng CNTT nhanh nhất thế giới 9. T lệ
người dùng Internet tại Việt Nam năm 2015 đã đạt 52% dân số 10. Hạ tầng CNTT
phát triển, đời sống kinh tế của người dân được nâng cao, phần lớn người dân đã
mua sắm được các thiết bị công nghệ cao có thể truy cập internet. Từ đó, nhiều
cơ sở giáo dục đã phát triển công nghệ ĐTTT để hỗ trợ đào tạo.
Hội thảo quốc gia về đào tạo từ xa tháng 4/2017, Bộ Giáo dục và Đào tạo
đã chỉ đạo rõ hướng đi phát triển đào tạo từ xa, tăng cường ứng dụng CNTT và
đẩy mạnh ĐTTT phát triển về qui mô song song với đảm bảo chất lượng đào tạo.
3. Tổng quan đào tạo trực tuyến tại các trường đại học Việt Nam
Trước những năm 2002, các tài liệu nghiên cứu, tìm hiểu về ĐTTT và
quản lý ĐTTT không nhiều. Từ 2003-2004, việc nghiên cứu ĐTTT được quan
tâm hơn. Các hội nghị, hội thảo về CNTT và giáo dục đều có đề cập nhiều đến
ĐTTT và khả năng áp dụng vào môi trường đào tạo ở Việt Nam như: Hội thảo
7 Chính phủ (2005), Chiến lược phát triển công nghệ thông tin và truyền thông Việt Nam đến năm 2010 và định
hướng đến năm 2020 ban hành kèm theo Quyết định số 246/2005/QĐ-TTg ngày 06/10/2005

8 Lê Trung Thành, Bùi Kiên Trung và Đàm Quang Vinh (2015), “Đào tạo từ xa trực tuyến tại Việt Nam: Mô hình
phát triển Đại học Kinh tế Quốc dân”, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế Dạy – Học – Chia sẻ: Hội nhập quốc tế, Bộ Giáo dục
và Đào tạo, tháng 12/2015, tr.72-78

9 Từ Đức Văn, (2013) Quản lý đào tạo và hệ thống đào tạo theo tín chỉ, Trường Đại học Nông lâm Thành phố Hồ
Chí Minh

10 Lê Vân (2015), T lệ người dùng Internet tại Việt Nam đạt 52% dân số, nguồn: đăng ngày 22/12/2015



khoa học quốc gia lần thứ nhất về nghiên cứu phát triển - ứng dụng CNTT và
truyền thông ICT/rda 2/2003, Hội thảo khoa học quốc gia lần II về nghiên cứu
phát triển và ứng dụng CNTT và truyền thông ICT/rda 9/2004, hội thảo khoa học
“Nghiên cứu và triển khai E-Learning” do Viện CNTT (ĐHQG Hà Nội) và Khoa
CNTT (ĐH Bách khoa Hà Nội) phối hợp tổ chức đầu tháng 3/2005, Hội thảo
quốc tế về nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực đào tạo từ xa do Trường Đại học
Mở Hà Nội phối hợp với SEAMEO SEAMOLEC tổ chức đã đề xuất mô hình
ĐTTT cho Trường Đại học Mở Hà Nội, đây là những hội thảo khoa học về
ĐTTT đầu tiên được tổ chức tại Việt Nam.
Hình 1: Biểu đồ 10 quốc gia đứng đầu về tỷ lệ tăng E- earning tự học tính tới
2016

Hiện nay với việc ứng dụng CNTT trong đào tạo, nhiều trường đại học
nhất là các trường có loại hình đào tạo từ xa đã chuyển sang ứng dụng kết hợp
đào tạo theo phương thức truyền thống cùng với phương thức trực tuyến, được
gọi là mô hình học tập kết hợp (blended learning). Nếu như trước đây sinh viên
học theo phương thức từ xa truyền thống thì với ứng dụng ĐTTT, sinh viên có
thể lựa chọn hình thức học tập phù hợp với nhu cầu và điều kiện của mình, một
số học phần hay cả chương trình.
Như đã đề cập ở chương 2 (mục 2.2.2), mô hình ĐTTT dựa trên mức độ
tác động của CNTT đến các hoạt động học tập và mức độ ứng dụng công nghệ


mang tính hệ thống cho các hoạt động học tập đã tạo ra những hình thức triển
khai ĐTTT khác nhau tùy vào điều kiện khác nhau ở mỗi cơ sở đào tạo.Trong
thực tế triển khai tại Việt Nam hiện nay, mô hình tổ chức ĐTTT được triển khai
theo nhiều hình thức, nhưng về cơ bản có 2 hình thức được phân loại theo mức
độ ứng dụng công nghệ:
Một là, mô hình học tập trực tuyến làm chủ đạo, sinh viên chủ động học

tập theo chương trình học với bộ học liệu điện tử, được giảng viên hỗ trợ thông
qua hệ thống quản lý học tập. Việc học tập trực tuyến có thể được thực hiện đồng
bộ hay không đồng bộ áp dụng cho toàn bộ chương trình học tập. Mô hình này có
3 yếu tố quan trọng nhất đó là hệ thống học liệu, giảng viên hướng dẫn, công
nghệ và dịch vụ hỗ trợ. Tuy nhiên đối với việc thi kết thúc học phần thì theo qui
định của Bộ Giáo dục và Đào tạo, sinh viên phải làm bài thi tập trung trên lớp.
Hai là, mô hình học tập trực tuyến với vai trò hỗ trợ, sinh viên học đại học
các hệ đào tạo như đào tạo từ xa, chính qui, vừa làm vừa học sẽ tham gia học tập
trực tuyến với vai trò hỗ trợ, bổ trợ cho khoá học chính (học tập trung trên lớp).
Về mức độ tương tác và đáp ứng của hệ thống ĐTTT đối với hoạt động
học tập của người học, theo nhiều nghiên cứu hiện nay, ĐTTT có 2 hình thức tổ
chức đào tạo dựa trên cách thức truyền tải kiến thức giữa người dạy và người
học: không đồng bộ (asynchronize) và đồng bộ/thời gian thực (synchronize).
Trong đó, hình thức không đồng bộ là quá trình học mà việc tương tác giữa
người dạy và người học không được thực hiện cùng một lúc, người học sẽ học
theo kế hoạch thời gian tách biệt với người dạy và về không gian và thời gian;
hình thức đồng bộ là quá trình truyền và nhận kiến thức giữa người dạy và người
học được diễn ra cùng một lúc thông qua hệ thống công nghệ trực tuyến. Ứng
dụng trong ĐTTT ở các trường đại học hiện nay có hai hướng tổ chức cơ bản đó
là tự học và học có hướng dẫn. Theo hướng tự học là hình thức học độc lập, sinh
viên được cung cấp môi trường học tập trực tuyến với khoá học có đầy đủ nội
dung học tập, tài liệu hướng dẫn, hệ thống bài tập để tự chủ động học tập, hệ


thống nội dung kiến thức được thiết kế sẵn và đưa trên hệ thống quản lý học tập
với nhiều dạng như dạng văn bản, dạng video, dạng audio, dạng đa phương tiện.
Theo hướng học có hướng dẫn là khoá học được thực hiện trên nền tảng công
nghệ website. Các khoá học đều có giảng viên với vai trò giải đáp, hướng dẫn
được thực hiện đồng thời (synchronize) hoặc không đồng thời (asynchronize)
theo kế hoạch, lịch học tập nhất định. Việc hướng dẫn được thực hiện thông qua

diễn đàn thảo luận, giải đáp, qua email và các ứng dụng kết nối giao tiếp qua
mạng.
Theo số liệu nêu trong báo cáo tổng kết công tác đào tạo từ xa được trình
bày trong K yếu Hội thảo về đào tạo từ xa do Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức
tháng 4/2017, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã cấp phép cho 21 trường đại học tiến
hành các chương trình ĐTTX. Trong số đó 11 trường đã ứng dụng CNTT trong
đào tạo từ xa. Tuy nhiên mức độ ứng dụng CNTT trong đào tạo từ xa ở các
trường khác nhau tuỳ vào phương thức tổ chức đào tạo (phụ trợ kết hợp giữa trực
tuyến và truyền thống hay ĐTTT là chính yếu). Các hình thức về cơ bản gồm: (1)
ĐTTT hỗ trợ một số học phần/môn học cho chương trình đào tạo từ xa truyền
thống; (2) ĐTTT hỗ trợ cho giảng dạy chương trình đào tạo từ xa truyền thống
thông qua hệ thống bài giảng điện tử và bài tập trắc nghiệm luyện tập; (3) ĐTTT
chiếm chủ yếu cho hoạt động dạy-học và tương tác giảng viên-sinh viên-sinh
viên.
Theo tìm hiểu, các trường tổ chức ĐTTT là phương thức chính cho hoạt
động dạy-học và tương tác giảng viên-sinh viên-sinh viên gồm các trường: Đại
học FPT, Đại học Trà Vinh, Đại học Kinh tế Quốc dân, Đại học Duy Tân, Đại
học Mở TP. HCM, Đại học Thái Nguyên và Trường Đại học Mở Hà Nội. Học
viện Bưu chính viễn thông tổ chức hoạt động đào tạo kết hợp giữa ĐTTT với
ĐTTX ứng dụng công nghệ ở mức độ chuyên sâu theo đặc thù của ngành.
Theo báo cáo tổng kết tại Hội thảo quốc gia về Giáo dục từ xa (tháng
4/2017): năm 2012, có 17 trường đại học đăng ký chỉ tiêu tuyển sinh ĐTTX với


tổng số là 68.020 chỉ tiêu, quy mô là 161.047 sinh viên theo học 90 chương trình
đào tạo chiếm 6% so với tổng số sinh viên đại học toàn quốc. Quy mô sinh viên
giảm đáng kể, từ 161.047 sinh viên (tháng 10/2012) giảm xuống chỉ còn 70.425
sinh viên (tháng 10/2016).
Tóm lại, ĐTTT hệ từ xa cấp bằng đại học mới được triển khai mạnh ở một
số trường đại học Việt Nam trong những năm gần đây cùng với sự tiến bộ của

CNTT và truyền thông và nỗ lực thực hiện chủ trương tăng cường ứng dụng
CNTT trong đào tạo của ngành giáo dục. Trong bước đầu triển khai, ưu thế của
ĐTTT đã thu hút ngày càng gia tăng lượng người theo học, nhiều người đã lựa
chọn ĐTTT thay vì học từ xa truyền thống vì sự thuận tiện học tập mọi lúc, mọi
nơi. Các trường đại học khi triển khai đã có sự đầu tư đáng kể về các nguồn lực
cho ĐTTT. Năm 2016, 2017, Bộ GD&ĐT đã chính thức ban hành các văn bản
qui định về tổ chức và quản lý ĐTTX và ĐTTT, giúp cho các trường đại học thực
hiện tổ chức quản lý hoạt động ĐTTT của trường mình. Mặc dù vậy, song trong
quá trình bước đầu đẩy mạnh ĐTTT cùng với những yêu cầu nâng cao chất
lượng đào tạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo, nhu cầu học tập của người học, đặc
biệt trong bối cảnh CNTT phát triển mạnh mẽ và yêu cầu đòi hỏi của nền kinh tế
và xã hội về chất lượng nguồn nhân lực ngày càng cao trong xu thế hội nhập; Từ
kết quả khảo sát điều tra cho thấy thực trạng quản lý ĐTTT ở các trường đại học
Việt Nam vẫn còn những hạn chế.
Cụ thể là: Hoạt động lập kế hoạch và kiểm tra đánh giá xây dựng, phát
triển, vận hành hạ tầng công nghệ ĐTTT còn chưa tốt ảnh hưởng đến mức độ đáp
ứng của hạ tầng công nghệ ĐTTT (như hệ thống máy chủ và hạ tầng kết nối
Internet, hệ thống quản lý học tập, hệ thống quản lý nội dung học tập); Việc triển
khai biên soạn, cập nhật, phát triển hệ thống học liệu điện tử còn chưa đáp ứng
được chất lượng học liệu; Đội ngũ giảng viên còn chưa đáp ứng tốt về phương
pháp giảng dạy từ xa, các kỹ năng làm việc trên môi trường công nghệ trực tuyến


và khả năng thích ứng với công nghệ mới. Quản lý đội ngũ nhân lực hỗ trợ
ĐTTT (hoạt động tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra) còn hạn chế dẫn đến mức độ đáp
ứng đối với hoạt động ĐTTT còn thấp. Quản lý quá trình đào tạo còn chưa đáp
ứng so với yêu cầu chất lượng ngày càng cao, hoạt động tương tác giữa giảng
viên và sinh viên còn hạn chế; Kiểm tra, giám sát hoạt động dạy-học cần được
tăng cường; Hoạt động hỗ trợ sinh viên cần được chú trọng hơn để phù hợp với
hình thức học tập trực tuyến; Quản lý thông tin đầu ra về sự hài lòng của người

học, tình hình việc làm sau khi tốt nghiệp, sự hài lòng của đơn vị sử dụng nhân
lực, tỷ lệ bỏ học được triển khai chưa thực sự đồng bộ và toàn diện. Việc thu
nhận và xử lý thông tin đầu ra về sự hài lòng của đơn vị sử dụng nhân lực chưa
được thực hiện. Hệ thống thông tin đầu ra chưa thực sự có chiều sâu; Khả năng
thích ứng với bối cảnh qua quá trình phân tích bối cảnh và đánh giá các yếu tố
tác động đến ĐTTT và quản lý ĐTTT trong nhà trường còn ở mức độ và phạm vi
còn hạn chế, chưa có giải pháp quản lý cụ thể, các trường cần nâng cao hơn nữa
vai trò của nhận thức, phân tích và đánh giá bối cảnh để có giải pháp quản lý có
hiệu quả.



×