CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC
TIỄN CỦA VIỆC PHÁT TRIỂN
NĂNG LỰCTHỰC HÀNH PHÁP
LUẬT CHO HỌC SINH TRONG
DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC
CÔNG DÂN LỚP 12
- Cơ sở lý luận.
Các khái niệm cơ bản
Khái niệm về năng lực
Mỗi lĩnh vực khác nhau có một cách hiểu khác nhau về
năng lực. Năng lực, theo nghĩa tiếng Anh là Competence, có
nguồn gốc Latinh "Competentia", tùy vào phạm vi nghiên
cứu, không gian địa lý để các nhà khoa học đưa ra các khái
niệm khác nhau về năng lực.
Theo [36 ] tác giả Trần Trọng Thủy và Nguyễn Quang
Uẩn (1998), khái niệm năng lực được thể hiện như sau: "Năng
lực là tổng hợp những thuộc tính độc đáo của cá nhân phù hợp
với yêu cầu đặc trưng của một hoạt động nhất định, nhằm
đảm bảo việc hình thành có kết quả tốt trong lĩnh vực hoạt
động ấy.
Theo Nguyễn Văn Cường và Bern Meier , “Năng lực là
khả năng thực hiện có trách nhiệm và hiệu quả các hành động
giải quyết các nhiệm vụ, vấn đề trong những tình huống thay
đổi thuộc các lĩnh vực nghề nghiệp, xã hội hay cá nhân trên cơ
sở hiểu biết, kĩ năng, kĩ xảo và kinh nghiệm cũng như sự sẵn
sàng hành động” [ 13].
Theo [25], OECD (Tổ chức các nước kinh tế phát triển)
(2002) đã xác định: “Năng lực là khả năng các cá nhân đáp
ứng các yêu cầu phức hợp và thực hiện thành công nhiệm vụ
trong một bối cảnh cụ thể”.
Howard Gardner (1999) - giáo sư tâm lý học thuộc đại
học Harvard đưa ra khái niệm: "Năng lực phải thể hiện thông
qua hoạt động có kết quả và có thể đánh giá hoặc đo đạc
được".
F. E. Weinert (2001), đưa ra khái niệm: "Năng lực là
những kỹ năng, kỹ xảo học được hoặc sẵn có của cá thể nhằm
giải quyết các tình huống xác định, cũng như vậy sẵn sàng về
động cơ xã hội...và khả năng vận dụng các cách giải quyết
vấn đề một cách có trách nhiệm và hiệu quả trong tình huống
linh hoạt" [ iii, 25 ]
Theo từ điển Tiếng Việt: "Năng lực là điều kiện chủ
quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó"
như năng lực tư duy, năng lực tài chính hoặc là phẩm chất tâm
sinh lý và trình độ chuyên môn tạo cho con người khả năng
hoàn thành một loạt hoạt động nào đó với chất lượng cao như
năng lực chuyên môn, năng lực lãnh đạo hoặc "Là phẩm chất
tâm lý và sinh lý tạo cho con người khả năng hoàn thành một
hoạt động nào đó với chất lượng cao" khi đề cập đến năng lực
cá nhân [35, 639].
Theo [30] tác giả Nguyễn Thị Minh Phương: "Năng lực
cần đạt của HS THPT là tổ hợp nhiều khả năng và giá trị được
cá nhân thể hiện thông qua các hoạt động có kết quả".
Khái niệm năng lực bao hàm khả năng sử dụng các kiến
thức, kỹ năng để đạt được mục đích thực hiện thành công một
công việc trong bối cảnh cụ thể.
Kết quả đầu ra của quá trình dạy học theo định hướng
phát triển năng lực, học sinh phải thể hiện được khả năng
hành động nhằm giải quyết được các vấn đề diễn ra đối với
bản thân và một số mặt đối với xã hội.
Ở đề tài này chúng tôi thống nhất nội dung khái niệm
năng lực: Là khả năng sẵn có và trải qua học tập để làm chủ
các yếu tố kiến thức, kỹ năng, thái độ mà cá nhân có được để
đưa ra các giải pháp tối ưu và sẵn sàng ứng phó với các tình
huống diễn ra của cuộc sống nhằm tạo ra các giá trị sống cơ
bản.
Với các khái niệm về năng lực đã nêu trên, học sinh bậc
THPT phải có được các dấu hiệu quan trọng của năng lực
cần hình thành là khả năng vận dụng được các tri thức, kỹ
năng trong bối cảnh phù hợp.
Năng lực tồn tại ở hai hình thức: Năng lực chung và
năng lực chuyên biệt. Năng lực chung đòi hỏi phải có và cần
được hình thành ở mỗi cá nhân, là nguyên tắc tối thiểu để cá
nhân học tập, lao động, gắn kết với cộng đồng và tự thân giải
quyết các vấn đề của cuộc sống. Năng lực chuyên biệt, mang
tính đặc một số cá nhân và lĩnh vực hoạt động nhất định.
Năng lực chuyên biệt cần thiết ở lĩnh vực này nhưng lại
không cần thiết ở lĩnh vực khác, năng lực chuyên biệt không
thay thế được năng lực chung. Sự phận chia hai hình thức
năng lực mang tính tương đối.
Nhà trường được coi là môi trường chủ yếu nhất để hình
thành năng lực cần thiết của mỗi cá nhân - học sinh, nhưng
không phải là nơi duy nhất. Ngoài nhà trường, các yếu tố như
gia đình, cộng đồng, văn hóa cũng là môi trường hình thành
năng lực chung và năng lực chuyên biệt phù hợp với học sinh
bậc học phổ thông.
Nhận thức con người không ngừng được nâng cao và
phát triển, do đó năng lực trở thành yếu tố tiềm năng không
ngừng được hoàn thiện ở mỗi cá nhân nếu như cá nhân luôn
nỗ lực, phấn đấu. Năng lực sẽ trở nên yếu, kém hoặc mất đi
do cá nhân trì trệ, tiêu cực trong hành vi và nhận thức.
Năng lực đối với mỗi quốc gia không đồng nhất do các
yêu cầu về nguồn nhân lực, điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội.
"Trong chương trình dạy học định hướng phát triển
năng lực khái niệm năng lực được sử dụng như sau:
Năng lực liên quan đến bình diện, mục tiêu của dạy học:
mục tiêu dạy học được mô tả thông qua các năng lực cần hình
thành.
Trong chương trình những nội dung học tập và hoạt
động cơ bản được liên kết với nhau nhằm hình thành các năng
lực.
Năng lực là sự kết nối tri thức, khả năng, mong muốn.
Mục tiêu hinh thành năng lực định hướng cho việc lựa
chọn, đánh giá mức độ quan trọng và cấu trúc hóa các nội
dung hoạt động và hành động về mặt phương pháp.
Năng lực mô tả việc giải quyết những đòi hỏi về nội
dung trong các tình huống.
Các năng lực chung cùng với các năng lực chuyên môn
tạo thành nền tảng chung cho công việc giáo dục và dạy học".
Cấu trúc năng lực:
Năng lực được phân loại theo hai nhóm, nhóm tiếp cận
cấu trúc năng lực theo nguồn hợp thành tạo nên năng lực sáng
tạo và nhóm tiếp cận cấu trúc của năng lực theo bộ phận tạo
thành năng lực giải quyết vấn đề. Năng lực có thành phần và
cấu trúc trừu tượng, tính mở, liên kết và hàm chứa "cấu trúc
bề mặt", " cấu trúc bề sâu" của năng lưc. Tùy thuộc vào mức
độ tiếp cận, năng lực thể hiện các cấu trúc, thành phần năng
lực khác nhau.
Về mặt bản chất:
Chủ thể có năng lực biết kết hợp hài hòa, linh hoạt các
mục tiêu về kiến thức, kỹ năng, thái độ nhằm đáp ứng qui
trình của một hoạt động để đạt được mục đích hành động .
Về mặt biểu hiện:
Năng lực được biểu hiện thông qua sự hiểu biết sử dụng
kiến thức, kỹ năng như thế nào cho phù hợp với tình huống
cuộc sống của sự liên kết giữa các thành tố của năng lực.
Thành phần cấu trúc của năng lực hành động:
Có nhiều hình thức thể hiện mô hình cấu trúc năng lực
khác nhau. Theo quan điểm của các nhà sư phạm nghề Đức,
cấu trúc chung của năng lực hành động là sự kết hợp của 4
năng lực thành phần sau:
Năng lực chuyên môn
Năng lực phương pháp
Năng lực xã hội.
Năng lực cá thể.
Theo [30]" năng lực của học sinh phổ thông do tổ OEDC
đưa ra gồm: Năng lực giải quyết vấn đề, Năng lực xã hội,
Năng lực linh hoạt sáng tạo, Năng lực sử dụng thiết bị một
cách thông minh".
- Khái niệm năng lực thực hành:
Có nhiều khái niệm về năng lực thực hành được đưa ra,
các khái niệm đó dều có nội dung liên quan đến hành động,
đến năng lực hành động trong hiện thực.
Khái niệm thực hành
Theo từ điển Tiếng Việt, thực hành: "Vận dụng lý thuyết
vào thực tế"[35, 940], .
Năng lực áp dụng (kỹ năng, kỹ xảo) là một yếu tố trong
năng lực phát triển (sáng tạo) chính làNLTH của cá thể, trên
nền tảng "năng lực cảm" và "năng lực hiểu" trong bối cảnh
thực có ý nghĩa. Khái niệm "Thực hành" được đề cập đến
trong luận văn hướng đến việc HS sử dụng được kiến thức đã
học về pháp luật qua môn GDCD lớp 12 để lựa chọn đưa ra
hành động - hành vi phù hợp với qui tắc ứng xử phù hợp với
XH.
Đặc điểm của năng lực thực hành
Năng lực thực hành thể hiện qua hành động trong thực
tiễn. Nhờ có kiến thức đã được tìm hiểu, học tập được nâng
lên tầm hiểu biết, có sẵn của mỗi cá nhân, khi gặp vấn đề có
tình huống cá nhân biết lựa chọn, sử dụng hành vi ứng xử
(ứng phó) phù hợp để trở thành hành vi hợp pháp. Hành vi
hợp pháp của mỗi cá nhân được lặp lại trở thành phản xạ, một
phản xạ tích cực, nền tảng của năng lực thực hành. Mỗi lĩnh
vực xã hội, nghề nghiệp đòi hỏi có năng lực thực hành chuyên
biệt trên cơ sở có sẵn của lý thuyết kiến thức chuyên môn.
Mỗi cá nhân khi thực hiện hành vi phải nhận thức được
quan hệ biện chứng giữa hành vi và hậu quả. Ở khía cạnh về
nhận thức, bản thân nó đã là năng lực sẽ được chuyển hóa
thông qua hành động trong bối cảnh cụ thể có ý nghĩa. Do đó,
khi nói đến năng lực thực hành cũng đồng thời qua đó nói đến
năng lực hành động.
Từ các viện giải trên có thể hiểu: NLTH là hành vi áp
dụng kiến thức đã học vào thực tiễn có sự tham gia của kỹ
năng, kỹ xảo một cách thuần thục mang lại kết quả cao của
kiến thức cần đạt được.
Từ cách tiếp cận trên tác giả đưa ra khái niệm năng lực
thực hành:
Là năng lực của mỗi cá nhân sử dụng được kiến thức đã
có để áp dụng vào thực tiễn thông qua hành động cụ thể giải
quyết các vấn đề mang tính lý luận và thực tiễn nhằm đạt
được kết quả mong muốn.
Qua khái niệm mà tác giả luận văn đưa ra, NLTH không
chỉ là hoạt động, thao tác cơ học thuần túy mà là sự chuyển
hóa của tất cả các hình thức vận động, trong đó sự vận động
của trí tuệ, tư duy làm nền tảng, định hướng cho hành động có
ý thức. Các thao tác hành động được lặp lại nhiều lần trở
thành phản xạ có điều kiện, có kinh nghiệm khi gặp điều kiện
phù hợp sẽ được chủ thể sử dụng kiến thức đã có để xử lý tình
huống
- Khái niệm năng lực thực hành pháp luật
Khái niệm pháp luật
Pháp luật và nhà nước luôn ra đời và tồn tại cùng nhau,
là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng xã hội. Để đảm bảo
cho XH phát triển và ổn định nhà nước ban hành PL với tư
cách là công cụ bảo vệ nhà nước.
Theo Từ điển tiếng Việt, pháp luật là: "Những qui phạm
hành vi do nước ban hành mà mọi người dân buộc phải tuân
theo, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội và bảo vệ trật tự xã
hội" [ 36,736].
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, "Pháp luật
vốn là sản phẩm của xã hội có giai cấp đối kháng gắn liền với
hoạt động của nhà nước", "Pháp luật XHCN là toàn bộ những
nguyên tắc xử sự do nhà nước chuyên chính vô sản đặt ra, thể
hiện ý chí, nguyện vọng và lợi ích cơ bản của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động, có tính bắt buộc chung, được bảo
đảm chấp hành bàng giáo dục, thuyết phục hoặc bằng cưỡng
chế của nhà nước xã hội chủ nghĩa"[ 36,743].
Theo [10] "Pháp luật là hệ thống các qui tắc xử sự mang
tính bắt buộc chung do nhà nước ban hành và đảm bảo thực
hiện bằng quyền lực nhà nước" .Theo [ 27] "Ở Việt Nam hiện
nay, về mặt thuật ngữ pháp lý, "Pháp luật là toàn bộ các qui
phạm do Nhà nước ban hành để bảo vệ, củng cố và phát triển
xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong chế độ xã hội
chủ nghĩa, pháp luật thể hiện ý chí của toàn thể nhân dân.
Nhiệm vụ của pháp luật trong giai đoạn này là đảm bảo và
không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân
dân, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh. Biện pháp chủ yếu bảo đảm thi hành
là tuyên truyền, phổ biến pháp luật, là thuyết phục và tạo
thành phong trào quần chúng tự nguyện chấp hành pháp luật".
Qua viện dẫn các khái niệm về pháp luật cho thấy pháp
luật là hình thái ý thức xã hội có các đặc trưng, phân biệt được
với các qui phạm xã hội khác.
Đặc trưng của pháp luật
+ Pháp luật, do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận.
Đặc trưng này của pháp luật giúp chúng ta phân biệt
được sự khác nhau giữa qui phạm pháp luật với các qui phạm
do các tổ chức xã hội khác đề ra như qui phạm tôn giáo. Pháp
luật chỉ có một chủ thể duy nhất ban hành là nhà nước, đồng
thời nhà nước còn thừa nhận một số qui phạm xã hội khác
như đạo đức, phong tục tập quán ra đời trước pháp luật,
nhưng lại có lợi cho nhà nước và nâng lên thành luật.
+ Pháp luật, có giá trị bắt buộc đối với mọi cá nhân, tổ
chức trong phạm vi lãnh thổ mà nó có hiệu lực. Sở dĩ pháp
luật có tính bắt buộc chung cả về không gian, thời gian và đối
tượng điều chỉnh vì bản thân pháp luật là các qui tắc xử sự
mang tính khuôn mẫu, mực thước của hành vi cá nhân, tổ
chức trong quan hệ xã hội . Đối với pháp luật không có
trường hợp ngoại lệ, không một ai đứng trên hay ngoài pháp
luật. Các qui phạm xã hội khác cũng có tính bắt buộc như
pháp luật nhưng phạm vi không gian, thời gian, đối tượng
điều chỉnh nhỏ, hẹp, thẩm quyền ban hành không có giá trị
pháp lý.
+ Pháp luật được nhà nước bảo đảm thực hiện bằng biện
pháp cưỡng chế.
Nhà nước là một tổ chức "Thiết lập quyền lực đặc biệt,
không còn hòa nhập với dân cư nữa" [23, 37]. Nhà nước có
đặc trưng riêng biệt, tiêu biểu và điển hình, khác biệt với các
tổ chức khác trong xã hội. Vì những đặc trưng của mình mà
nhà nước vừa làm nhiệm vụ cưỡng chế vừa quản lý xã hội với
các cơ quan chuyên chế bảo vệ nhà nước là cảnh sát, tòa án,
nhà tù. Sức mạnh cưỡng chế thể hiện qua sức mạnh bạo lực
của nhà nước buộc mọi cá nhân, tổ chức trong xã hội phải tự
giác tuân theo PL.
Biện pháp cưỡng chế có hai loại. Loại cưỡng chế trừng
phạt được sử dụng trong trường hợp cá nhân, tổ chức vi
phạm các qui tắc xã hội được pháp luật qui định. Loại cưỡng
chế áp dụng đối với các chủ thể không vi phạm pháp luật
nhưng có căn cứ cho rằng chủ thể đó sẽ xâm hại đến lợi ích
hợp pháp của cộng đồng, hoặc phải cung cấp phương tiện,
thiết bị để cứu giúp người và tài sản đang bị đe dọa bởi yếu tố
khách quan. Trong xã hội, chỉ có nhà nước mới có sức mạnh
cưỡng chế, các qui phạm xã hội cũng được đảm bảo bằng sức
mạnh cưỡng chế nhưng không được phép vượt qua biện pháp
cưỡng chế của nhà nước và pháp luật.
Khái niệm năng lực thực hành pháp luật
Thực hành được hiểu như một động từ được chủ thể thực
hiện thông qua hành vi. Năng lực thực hành pháp luật chính là
khả năng lựa chọn hành vi phù hợp, hợp pháp của mỗi công
dân trong hoàn cảnh cụ thể. Thực hành pháp luật và thực hiện
pháp luật đồng nghĩa với nhau trong hoàn cảnh cụ thể. "Thực
hiện pháp luật là hoạt động có mục đích, làm cho những qui
định của pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi
hợp pháp của các cá nhân, tổ chức"[10,17] Thực hành pháp
luật là chủ thể áp dụng kiến thức pháp luật đã có vào trong
cuộc sống hàng ngày để hành vi của bản thân trở nên hợp
pháp.
Từ sự phân tích trên tác giả đưa ra: Khái niệm năng lực
thực hành pháp luật là khả năng của mỗi công dân vận dụng
được kiến thức pháp luật và những qui định của pháp luật
để sẵn sàng phục tùng, lựa chọn hành vi ứng xử phù hợp.
Cùng một điều kiện, hoàn cảnh như nhau nhưng có sự
vận dụng khác nhau về hành vi pháp luật. Điều tạo ra sự
khác biệt đó chính là năng lực thực hành pháp luật của mỗi
công dân. Năng lực thực hành pháp luật của công dân thể
hiện qua hành vi sử dụng kiến thức đã học được và sử dụng
kỹ năng để thực hành pháp luật trong thực tiễn.
Đối tượng thực hành pháp luật:
Cá nhân
Một là, sinh viên luật, những người làm nghề liên quan
đến việc sử dụng và bảo vệ pháp luật, thực hành pháp luật để
nâng cao kỹ năng nghề nghiệp thông qua các hoạt động trải
nghiệm về nghề thông qua các hoạt động như "seminar", trợ
giúp pháp lý miễn phí, tranh tụng... Nhờ có sự chuyên sâu về
nghề nghiệp, những người làm nghề luật áp dụng các kiến
thức đã có của bản thân để hoạt động nghề nghiệp. Trong lĩnh
vực hoạt động chuyên môn người thực hành pháp luật trong
lĩnh vực tư pháp cần phải hội tụ đủ các yếu tố của năng lực
nghề, có khả năng về logic, tổng hợp và phân tích, xâu chuỗi
các dữ liệu, sự kiện để làm rõ bản chất của sự việc. Sự kết hợp
hoạt động và nghiên cứu kiến thức pháp luật giúp họ trưởng
thành, vững vàng trong việc phát triển năng lực nghề của
mình.
Đồng thời qua thực hành nghề luật giúp họ hình thành
năng lực về phương pháp làm việc. Biết sử dụng phương pháp
như một yếu tố quyết định thành công. Từ đó, hình thành
năng lực phẩm chất, đạo đức của người thực hành nghề luật.
Hai là, đối với cá nhân, công dân vận dụng được kiến
thức đã có vào thực tiễn. Tự giác tuân thủ và thực hiện đầy đủ
các qui định của pháp luật. Muốn hành động "Theo Hiến
pháp và Pháp luật" công dân phải có khả năng hiểu biết về các
nội dung, qui phạm pháp luật. Các qui phạm pháp luật thể
hiện trong văn bản qui phạm pháp luật do nhà nước ban hành.
Trước pháp luật, có tập quán pháp có tính bắt buộc mọi
công dân phải tự giác tuân thủ thực hiện cho phù hợp với
phong tục tập quán. Nghiêm cấm mọi hành vi đi ngược lại lợi
ích của cộng đồng.
Tuy nhiên, không phải mọi công dân đều có ý thức tự
giác chấp hành những qui định của pháp luật một cách tự
giác. Cho nên, pháp luật có tính cưỡng chế đối với những
hành vi đi ngược lại với qui định của pháp luật. Tùy theo mức
độ vi phạm và hậu quả của hành vi, cá nhân, cơ quan nhà
nước có thẩm quyền sẽ áp dụng hình phạt phù hợp. Vậy, năng
lực thực hành pháp luật ở mỗi công dân không có sẵn mà phải
trải qua quá trình hình thành từ tình cảm PL, ổn định ý thức
PL, nâng cao ý thức PL và áp dụng kiến thức PL vào thực
tiễn. Người có năng lực PL sẽ thực hành PL một cách dễ
dàng, trong bất kỳ hoàn cảnh, môi trường nào. Ngược lại,
người có năng lực yếu khó thực hiện được năng lực thực hành
PL trong cuộc sống do bản thân công dân đó chưa được giáo
dục, rèn giũa thông qua học tập hoặc không vận dụng được
kiến thức vào cuộc sống. Thực hành PL có các cách thức khác
nhau thể hiện qua hành động hoặc không hành động. Cách
thức thực hành PL qua hành động là công dân phải làm, phải
thực hiện. Cách thức thực hành PL thể hiện ở không được
làm, không được hành động theo qui định của PL. Tùy thuộc
vào thực tế để công dân lựa chọn hành vi giải quyết tình
huống đặt ra.
b. Tổ chức
Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hành pháp
luật theo trình tự, thủ tục do pháp luật qui định theo phạm vi
chức năng. Các tổ chức xã hội hoạt động thực hành pháp luật
theo lĩnh vực nghề nghiệp mà PL qui định.
Hình thức thực hành pháp luật
Các hình thức TH (thực hiện) PL tùy thuộc vào ý chí của
mỗi cá nhân khi tham gia vào hoạt động xã hội. Hình thức
THPL gồm có:
Tuân thủ PL, thi hành PL, sử dụng PL, áp dụng PL
Trong đó các giai đoạn thực hành PL như: Tuân thủ PL, thi
hành Pl, sử dụng PL các đối tượng theo sự điều chỉnh của PL
đều có thể tham gia và lựa chọn hành vi phù hợp. Áp dụng PL
vừa là một hình thức THPL vừa là một giai đoạn hoạt động tư
pháp của cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi ra quyết định
làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật của các
chủ thể PL. Áp dụng PL có đặc điểm riêng, các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền áp dụng PL khi các chủ thể PL không
muốn thực hiện và không có khả năng, điều kiện để thực hiện
PL.
Phát triển năng lực thực hành pháp luật
Kế thừa và phát triển các văn bản Hiến pháp trước đó,
khoản 1 điều 16 Hiến pháp 2013 tiếp tục ghi nhận "Mọi người
đều bình đẳng trước PL". Điều đó cũng có nghĩa mọi công
dân đều bình đẳng trước PL về quyền, nghĩa vụ và trách
nhiệm pháp lý. Thông qua hiểu, biết, HS vận dụng được kiến
thức đã học tự tin trong giao tiếp quan hệ xã hội trong cộng
đồng và trong công việc. Biết tôn trọng quyền và lợi ích hợp
pháp của người khác. Biết bảo vệ quyền lợi của bản thân,thực
hiện tốt nghĩa vụ của một CD.
Năng lực LP của CD thể hiện ở thái độ tôn trọng PL của
CD. Thái độ tôn trọng các qui phạm PL cũng giống các qui
phạm XH khác như phong tục tập quán được hình thành từ
đơn vị nhỏ nhất của XH là gia đình. Thái độ tôn trọng PL ban
đầu của CD thông qua nhận thức, phân biệt các hành vi được
làm và không được làm, nếu cố tình thực hiện sẽ bị PL trừng
phạt. Hình thành nên ranh giới qui định về hành vi của CD.
Khi gặp những tình huống tương tự CD có khả năng phòng
tránh được vi phạm không đáng có. Khi nói đến NLTH PL
của CD là hướng đến nội dung của khả năng thực hiện chứ
không phải ở khả năng hiểu PL.
Đối với HS lớp 12 muốn phát triển đượcNL THPL phải
thông qua con đường học tập. Học tập là con đường ngắn nhất
và chủ yếu nhất để phát triển PL cho bản thân. Trong dạy học
PL nhất thiết phải có sự kết nối giữa tri thức và hành động, lý
luận gắn với thực tiễn. Qua thực tiễn, HS củng cố được kiến
thức về PL đã được học ở chương trình GDCD lớp 12. Từ đó,
các em có niềm tin, động lực để phát triển năng lực THPL của
mình. Hình thành các NL phẩm chất cần có của người CD
trong nhà nước XHCN. Biết tôn trọng lợi ích hợp pháp của cá
nhân và XH.
Đối với GV giảng dạy môn GDCD lớp 12, muốn phát
triển được NL THPL cho HS phải nâng cao chuyên môn,
nghiệp vụ, đổi mới PPDH "theo định hướng phát triển năng
lực" của người học.
Môn Giáo dục công dân với việc phát triển NLTH
- Đặc điểm môn GDCD lớp 12 với việc phát triển
NLTH.
Về thời lượng thực hiện chương trình
Chương trình môn GDCD lớp 12 có thòi lượng 35 tiết,
thực hiện trong 37 tuần của năm học. Thời gian dạy chính khóa
bắt đầu từ ngày 20 tháng 8 hàng năm, trong đó có 2 tuần dự
phòng, kết thúc chương trình khoảng 15 tháng 5.
Với thời lượng 1 tiết tuần, cho nên việc tổ chức thực
hiện về hình thức còn có mặt hạn chế.
Nội dung thực hiện chương trình
Môn GDCD lớp 12 bao gồm toàn bộ kiến thức PL, được
xây dựng theo nguyên tắc phát triển đi từ khái niệm đến nội
dung, đi từ phạm vi hẹp đến phạm vi rộng của khái niệm phù
hợp với mức độ hình thành kiến thức và kỹ năng cần đạt của
HS THPT.
Các chủ đề xuyên suốt trong môn GDCD bao gồm nội
dung PL:
Chủ đề 1: "Pháp luật và đời sống"[10,4 ]
Chủ đề 2: "Thực hiện pháp luật"[10, 16]
Chủ đề 3: "Công dân bình đẳng trước pháp luật"[10,27].
Chủ đề 4: "Quyền bình đẳng của công dân trong một số
lĩnh vực của đời sống xã hội"[10,32].
Chủ đề 5: "Quyền bình đẳng giữa các dân tộc, tôn giáo"[
10,45].
Chủ đề 6: "Công dân với các quyền tự do cơ bản"[10,
54].
Chủ đề 7: "Công dân với các quyền dân chủ"[ 10,68]
Chủ đề 8: "Pháp luật với sự phát triển của công dân"[10,
83].
Chủ đề 9: "Pháp luật với sự phát triển bền vững của đất
nước"[ 10,93].
Chủ đề 10: "Pháp luật với hòa bình và sự phát triển tiến
bộ của nhân loại"[10, 110].
Theo kế hoạch giảm tải của bộ GD và ĐT, toàn bộ chủ
đề 10 "Pháp luật với hòa bình và sự phát triển tiến bộ của
nhân loại", đọc thêm, không dạy.
Các chủ đề GDPL cho học sinh trong nhà trường THPT
chứa đựng nội dung về lý luận chung về NN và PL, những
kiến thức PL cơ sở về quyền và nghĩa vụ cơ bản của CD trong
các lĩnh vực quan trọng của đời sống XH. Nội dung GDPL
lớp 12 cung cấp cho HS những hiểu biết tối thiểu về các giá trị
như: "Công bằng", "Tự do", "Dân chủ", "Bình đẳng", để các
em thực hiện tốt các chuẩn mực PL, trở thành CD có ích cho
XH. Trên nền tảng kiến thức PL đã có PL còn đóng vai trò là
công cụ bảo vệ cuộc sống của HS khi cần.
- Vai trò của phát triển NLTH trong dạy học môn GDCD
lớp 12
Về nội dung
Môn GDCD lớp 12 ở nhà trường THPT là một môn
KHXH, nội dung xuyên suốt của chương trình với chủ đề lớn:
"Công dân với pháp luật". PL phản ánh mọi mặt của đời sống
xã hội đã và đang diễn ra sinh động. Do đó, dạy học môn
GDCD lớp 12 phải gắn liền với thực tiễn XH, gắn với tinh
thần trách nhiệm của mỗi HS và đề cao được tinh thần thái độ
của CD tương lai với PL. Môn học GDCD lớp 12 trực tiếp
hình thành ý thức PL, bồi dưỡng đạo đức tối thiểu nhất cho
HS bậc cuối cấp học THPT. Riêng vấn đề này đã nói lên vị trí
chủ đạo của môn học trong việc hình thành những năng lực
phẩm chất mà người CD cần có trong xu thế hội nhập quốc tế
và thời kỳ CNH - HĐH đất nước. Mỗi bài học chứa đựng
nhiều qui phạm PL. Mỗi qui phạm PL điều chỉnh các mỗi
quan hệ XH thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống. Do
đó, khi tổ chức dạy học GDCD phần kiến thức PL không thể
thoát ly khỏi những bối cảnh thực, điển hình. Qua bối cảnh,
câu chuyện PL phù hợp với nội dung bài học giúp HS vừa
hứng thú vừa khắc sâu được nội dung kiến thức. Qua kiến
thức PL các em biết trân trọng các giá trị của cuộc sống, biết
hướng đến các chuẩn mực đạo đức vàPL.
Vai trò phát triển NLTH
Thông qua việc trang bị kiến thức PL có hệ thống, qua
các câu chuyện PL, tình huống PL giúp cho học sinh biết và