Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

CÁC VẤN ĐỀ ĐÔ THỊ HÓA VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.82 MB, 26 trang )

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NHỮNG VẤN ĐỀ CỦA XÃ HỘI
HỌC ĐÔ THỊ
MỞ ĐẦU
Auguste Comte - một trong những nhà xã hội học đầu tiên trên thế giới từng viết: “Xã hội học là
khoa học về các quy luật của tổ chức xã hội”. Herbert Spencer thì lại ví “Xã hội như là cơ thể
sống”. Đến Max Weber lại nhận định rằng: “Xã hội học…là khoa học cố gắng giải nghĩa hành
động xã hội và…tiến tới cách giải thích nhân quả về đường lối và hệ quả của hành động xã
hội”.Vậy xã hội học là gì? Một câu hỏi nhưng lại có quá nhiều câu trả lời. Cuộc tranh luận giữa
các nhà xã hội học dường như vẫn chưa đến hồi kết thúc vì theo từng góc nhìn, từng giai đoạn thì
xã hội lại có sự thay đổi, “đơn giản là không có một xã hội duy nhất được thừa nhận” và “vì
không có kiểu phát triển duy nhất của xã hội cho nên không có quan điểm xã hội học duy nhất”.
Khi vấn đề quan niệm xã hội học tạm lắng dịu thì hàng loạt các vấn đề khác lại được đặt ra. Các
nhà xã hội học đương đại lại đi tìm câu trả lời cho các câu hỏi: “Xã hội học nghiên cứu cái gì?
Nghiên cứu những lĩnh vực nào trong xã hội? Và nghiên cứu nó như thế nào?”
Một số lĩnh vực nghiên cứu của xã hội học có thể đề cập tới đó là: xã hội học nông thôn, xã hội
học đô thị và xã hội học gia đình. Trong ba lĩnh vực trên thì xã hội học đô thị được xem là lĩnh
vực nhiều tuổi nhất và phức tạp nhất. Xã hội học đô thị là một nhánh của xã hội học chuyên biệt
nghiên cứu về nguồn gốc bản chất và các quy luật chung cho sự phát triển và hoạt động của đô
thị như một hệ thống các mối quan hệ xã hội đặc trưng cho một kiểu cư trú tập trung cao trên
một lãnh thổ hạn chế. Cơ sở ra đời môn xã hội học đô thị vào những năm 20 của thế kỷ thứ XX.
Cho đến nay thì việc nghiên cứu về xã hội học đô thị đã và đang được phát triển, phân biệt hóa
cụ thể hơn, rõ ràng hơn. Cũng vì thế mà nhiều thực trạng về những vấn đề của xã hội đô thị được
phơi bày, từ đó đòi hỏi những giải pháp cụ thể và hiệu quả nhất để giải quyết tốt những vấn đề
trên. Thực trạng những vấn đề của xã hôi học đó là gì? Giải pháp cho những vấn đề đó ra sao?
Chúng ta sẽ cùng tìm hiểu thông qua bài tiểu luận: “THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NHỮNG
VẤN ĐỀ CỦA XÃ HỘI HỌC ĐÔ THỊ”.

1


I.



SƠ LƯỢC VỀ XÃ HỘI HỌC ĐÔ THỊ

1. Sự hình thành và phát triển của xã hội học đô thị
a. Giới thiệu chung
Để hiểu xã hội học đô thị như thế nào, thì trước hết cần hiểu đô thị là gì? Từ đô thị này xuất
phát ở đâu? Vào thế kỉ mấy? Và nó phát triển như thế nào?
Cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20, công nghiệp hoá và quá trình đô thị hoá mạnh mẽ đã làm
nảy sinh vô số những vấn đề xã hội tiêu cực và phức tạp tại các đô thị và vì vậy đã thu hút sự chú
ý của các nhà xã hội học của Phương Tây. Tiếp sau đó là sự ra đời của công trình “Thành phố và
cuộc sống tinh thần” (1903), tác phẩm “Đô thị” (1905), các nhà xã hội học đương thời đã xem
xét đô thị là một thiết chế xã hội và dần bắt tay vào việc nghiên cứu. Những năm 20 của thế kỉ
20, Châu Âu và Bắc Mỹ hình thành môn học Xã hội học về đời sống đô thị hay xã hội học đô thị.
Tại các nước phát triển (Anh, Pháp, Đức, Mỹ) có nhiều trường và viện nghiên cứu, khảo sát,
công bố nhiều ấn bản về đề tài xã hội học đô thị. Các hội nghị về xã hội học đô thị cũng liên tiếp
được tổ chức ở Mỹ, Thái Lan với sự tham gia của nhiều nhà xã hội học trên thế giới, đã nói lên
tầm quan trọng của xã hội học đô thị trong quá trình phát triển nhanh chóng của xã hội.
Càng trở về sau, các vấn đề nghiên cứu càng mở rộng chiếm hầu hết các vấn đề xã hội. Điều
này cho thấy khi xã hội phát triển càng cao thì nảy sinh càng nhiều vấn đề phức tạp hay nói xã
hội học đô thị ra đời trong bối cảnh xã hội nông thôn đang thay đổi nhanh chóng, các kiểu quan
hệ truyền thống bị thay đổi trong xã hội hiện đại. Các nhà xã hội học đô thị cố gắng giải thích
bản chất các sự vật hiện tượng, cố gắng đi sâu vào nghiên cứu cấu trúc, quá trình của xã hội đô
thị qua đó lý giải bản chất của đô thị, cộng đồng đô thị, đời sống đô thị. Và cho đến nay thì xã
hội học đô thị lại càng được phát triển với phương pháp hiện đại và quy mô nghiên cứu rộng
hơn, mang lại những kết quả vô cùng hữu ích cho sự phát triển của xã hội đương thời.
b. Đô thị hóa trên thế giới
Chưa bao giờ trong lịch sử người ta lại chứng kiến cảnh một nửa cư dân địa cầu sẽ sống tại
các đô thị thay vì nông thôn như trước, nhất là tại châu Á và châu Phi. Theo báo cáo của Liên
Hiệp Quốc về “Tầm nhìn triển vọng đô thị hóa Thế giới 2007” công bố ngày 26/2/2008, một nửa
dân số toàn cầu sẽ là cư dân của các khu vực thành thị. Với tốc độ đô thị hóa nhanh như hiện nay,

2


đến năm 2050, sẽ có 64 tỷ người trên Thế giới sống ở thành thị. Đến lúc đó, toàn thế giới sẽ xuất
hiện 27 “siêu thành phố”, tăng so với con số 19 hiện nay. Tokyo (Nhật Bản) là thành phố đông
dân nhất với 35,7 triệu người. Các thành phố Bắc Kinh, Thượng Hải (Trung Quốc); Mumbai và
New Delhi (Ấn Độ); Cairo (Ai Cập); London (Anh); Tehran (Iran); Los Angeles, New York
(Mỹ); Rio de Janeiro ( Brazil)... nằm trong số 19 thành phố đông dân nhất. Với tốc độ đô thi hóa
như vậy, các đô thị sẽ phải đối mặt với hàng loạt thách thức mới như nước sạch, không khí, xử lý
nước thải, thực phẩm, nơi cư trú và phương tiện chuyên chở. Đó cũng chính là những vấn xã hội
mà ngành xã hội học đô thị quan tâm nghiên cứu.
c. Đô thị hóa ở nước ta
Ở nước ta quá trình đô thị hóa cũng đang diễn ra với tốc độ khá cao. Trong đó theo tổng cục
thống kê, tỷ lệ dân số thành thị của cả nước ta vào năm 2012 chỉ đạt 32,45% tổng dân cư toàn
quốc và mỗi năm có khoảng 1 triệu dân tiếp tục tham gia vào “ đại gia đình” đô thị này. Năm
2005, dân cư thành thị nước ta đứng thứ 8 trong 11 nước Đông Nam Á, đứng thứ 44 trong 52
nước và vùng lãnh thổ ở Châu Á và đứng thứ 180 trong 207 nước và vùng lãnh thổ trên Thế giới.
Đánh giá chung phát triển đô thị hóa Việt Nam trong giai đoạn vừa qua có nhiều chuyển biến số
lượng. Năm 1999 cả nước có 629 đô thị đến nay có 772 đô thị, trong đó có 2 đô thị đặc biệt, 15
đô thị loại I, 14 đô thị loại II, 47 đô thị loại III, 64 đô thị loại IV và 630 đô thị loại V. Trong 6
tháng đầu năm, có TP. Thanh Hóa nâng lên đô thị loại I, các TP. Rạch Giá, TP. Bạc Liêu, TP.
Ninh Bình, TP. Thái Bình nâng lên loại II, 3 đô thị loại V hình thành mới và 1 đô thị (thị trấn Cầu
Diễn thuộc huyện Từ Liêm cũ sát nhập vào quận mới).

3


Đô thị hóa mạnh mẽ tại các đô thị lớn đang tạo hiệu ứng thúc đẩy đô thị hóa nhanh lan toả
diện rộng trên phạm vi các tỉnh, các vùng và cả nước. Nhiều đô thị mới, khu đô thị mới được
hình thành phát triển; nhiều đô thị cũ được cải tạo, nâng cấp hạ tầng cơ sở: đường xá, điện nước,

cơ sở giáo dục, y tế, vệ sinh môi trường…Tuy nhiên hệ thống đô thị Việt Nam đang phát triển
nhanh về số lượng nhưng chất lượng đô thị còn đạt thấp, kết cấu dân cư phức tạp, chất lượng
cuộc sống chưa đảm bảo. Đặc biệt, hệ thống hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội chưa đồng bộ;
trình độ và năng lực quản lý và phát triển đô thị còn thấp so với yêu cầu; tốc độ xây dựng cơ sở
hạ tầng ở phần lớn đô thị Việt Nam đều chậm so với phát triển kinh tế xã hội. Tình trạng phát
triển đô thị hiện nay chưa đáp ứng với sự đổi thay về tư duy đô thị hóa, phát triển đô thị theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

2. Cơ cấu xã hội và sự phân tầng
Như chúng ta đã biết, xã hội học nông thôn và xã hội học đô thị là hai trong ba lĩnh vực
nghiên cứu chính của xã hội học. Giữa hai lĩnh vực nghiên cứu trên có hàng loạt đặc điểm có
tính đối lập nhau. Chính vì vậy mà cơ cấu xã hội và sự phân tầng dân cư cũng có sự khác biệt rõ
rệt. Đô thị và nông thôn được xem xét như các hệ thống xã hội và được phân chia theo ba đặc
trưng cơ bản sau:
Một là, về các nhóm giai cấp, tầng lớp xã hội thì ở đô thị đặc trưng chủ yếu là giai cấp công
nhân, ngoài ra còn có các tầng lớp giai cấp khác như tư sản, thợ thủ công, viên chức, trí thức.
4


Hai là, về lĩnh vực sản xuất chủ yếu ở đô thị có đặc trưng là sản xuất công nghiệp; ngoài ra,
còn có các lĩnh vực khác như dịch vụ, thương nghiệp, sản xuất tinh thần.
Ba là, về lối sống, văn hóa của từng loại cộng đồng, đối với nông thôn thường rất đặc trưng
với lối sống văn hóa của cộng đồng làng xã mà được phân biệt rất rõ ràng với lối sống thị dân
đặc trưng cho khu vực đô thị.
Cơ cấu xã hội được phân chia như trên đã phản ánh một phần sự tác động của đô thị hóa lên
đời sống của dân cư dẫn đến sự thay đổi cơ cấu từ xã hội nông thôn lên xã hội đô thị. Bên cạnh
cơ cấu giai cấp xã hội, thì hiện nay dưới sự phát triển của đô thị đã hình thành nên một sự phân
tầng rõ rệt hơn. Đó là sự phân tầng xã hội hay phân hóa giàu nghèo với khoảng cách chênh lệch
ngày càng lớn.


3. Ý nghĩa của việc nghiên cứu xã hội học đô thị
Việc nghiên cứu về xã hội học đô thị mang những ý nghĩa vô cùng quan trọng. Cung cấp cho
chúng ta những lý luận, những hiểu biết về nhiều vấn đề như: vị trí của đô thị trong xã hội, trong
hệ thống cư trú. Quá trình phát triển đô thị trong các chế độ xã hội đã qua. Những nguyên nhân
cơ bản ảnh hưởng tới sự phát triển của đô thị, quá trình đô thị hóa cũng như bản chất xã hội của
quá trình đô thị hóa, đặc biệt nghiên cứu về đặc điểm cũng như các vấn đề đô thị hóa trong giai
đoạn công nghiệp phát triển mạnh mẽ như ngày nay.
Về cơ cấu xã hội cũng như các vấn đề nảy sinh và sự chuyển biến xã hội ở đô thị. Xem xét
hàng loạt mối quan hệ tạo nên cơ cấu xã hội của đời sống đô thị như mối quan hệ giữa các lĩnh
vực hoạt động cơ bản của đời sống xã hội ở đô thị hoặc mối quan hệ giữa các giai cấp, các tầng
lớp xã hội của đô thị hay mối quan hệ giữa khu vực dân cư trong thành phố.
Về đặc điểm lối sống văn hóa và các vấn đề của cộng đồng dân cư ở đô thị cũng như môi
trường đô thị. Các vấn đề, các hiện tượng xã hội nảy sinh trên cơ sở lối sống, giao tiếp của xã hội
đô thị cũng như trong mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, trong đời sống gia đình đô thị.
Về quá trình quản lý đô thị, các yếu tố xã hội cũng như hậu quả của quá trình di dân, sự hoạt
động của người dân thành phố. Sự phân loại các thành phố cũng như vai trò của các thành phố
lớn trong hệ thống đô thị của xã hội. Sự nhận diện bối cảnh xã hội hiên thời từ nhiều góc độ sẽ

5


giúp hình thành nên các chính sách, giải pháp phù hợp với thực tiễn đang phát triển tại các đô thị
lớn của nước ta hiện nay.

II.

THỰC TRẠNG NHỮNG VẤN ĐỀ CỦA XÃ HỘI HỌC ĐÔ THỊ Ở
NƯỚC TA

1. Thực trạng chung

Trong thế kỷ XX, sự gia tăng dân số quá nhanh và không kiểm soát được xảy ra ở nhiều nơi
trên thế giới. Phần lớn nguyên nhân của đô thị hoá nảy sinh do khát vọng phát triển cấu trúc
không gian của đô thị. Cùng với sự xuất hiện các khu đô thị mới, khu công nghiệp và những
thành phố chính là sự thay đổi của các đô thị có sẵn về lượng một cách rõ ràng nhất. Đó là một
hiện tượng tất yếu trên con đường phát triển của loài người nhưng nếu chúng ta không đi đúng
hướng sẽ rất có hại cho môi trường và cho sức khỏe của con người.
Khi thành phố ngày càng được mở rộng thì những vấn đề liên quan đến đi lại, nghỉ ngơi, tiếp
xúc với thiên nhiên...của cư dân trong các đô thị ngày càng cao. Đô thị càng phát triển và càng
lớn thì cường độ di chuyển của người dân càng nhiều. Đây là một trong những nguyên nhân cơ
bản gây ra những khó khăn trong các đô thị hiện đại (ô nhiễm môi trường do các chất thải từ các
phương tiện giao thông cơ giới, tai nạn giao thông…). Ngoài ra còn có những “kẻ thù” hết sức
nguy hiểm cho xã hội và cho sức khoẻ của con người (cho cả cư dân bản địa và những người di
cư hay vãng lai) do sự tập trung một khối lượng lớn người trên một diện tích có hạn của thành
phố. Đó chính là các loại tệ nạn xã hội (nghiện hút, mại dâm, trộm cắp, lừa đảo…) và những loại
bệnh tật vô phương cứu chữa của nền văn minh hiện đại (ung thư, tâm thần, bệnh nghề
nghiệp...).
Sức “hấp dẫn” của cuộc sống đô thị và của các vùng đã được đô thị hoá là nguyên nhân chính
lôi cuốn một khối lượng khổng lồ cư dân nông thôn đi tìm miền “đất hứa”. Mặt khác những
thành phố lớn ngày càng hấp dẫn và lôi cuốn cư dân từ các đô thị nhỏ hơn cũng như từ các vùng
nông thôn nên càng làm cho tình hình thêm phức tạp (hạ tầng kỹ thuật quá tải, cây xanh, mặt
nước, không gian trống hiếm hoi…).
Sự phát triển không được kiểm soát của các đô thị sẽ dẫn đến những vấn đề không thể sửa
chữa được lợi ích chỉ rơi vào một nhóm rất ít người trong xã hội còn thực tế dành cho đại đa số
6


quần chúng lao động là đô thị hóa phát triển không bền vững: chất lượng nhà ở kém (không có
chỗ ở và nơi cư trú không còn đủ không gian để có thể tự tổ chức các hoạt động văn hoá và đời
sống), cuộc sống bấp bênh do giá cả sinh hoạt ngày một cao, người dân không tiếp cận được đầy
đủ nền giáo dục chung của xã hội…

Chất lượng môi trường và cuộc sống của cư dân đô thị ngày càng xấu đi không phải chỉ vì
hậu quả của đô thị hoá không bài bản mà còn do nhiều lý do khác nữa, trong đó việc quản lý là
nguyên nhân cơ bản và có nhiều bất cập nhất. Nhiều chuyên gia trên thế giới đã nhận xét rằng:
có một số lượng đáng kể quốc gia trên thế giới không thành công do chính quyền các cấp của họ
không đủ khả năng phục vụ nhân dân vì cán bộ không được đào tạo bài bản, kỷ cương lỏng lẻo
và thiếu tinh thần trách nhiệm…Ở nước ta, quản lý xã hội vẫn còn nhiều hạn chế, đặc biệt là
trong lĩnh vực quản lý đô thị.
Trong đô thị còn những nguồn ô nhiễm khác mà con người ít để ý đến. Đó là sự ô nhiễm do
các yếu tố vật lý, cụ thể là do các yếu tố từ trường với tần suất và cường độ khác nhau (các trạm
thu - phát sóng, các đường dây truyền tải điện năng…). Hơn nữa, cho đến bây giờ chúng ta cũng
chưa lường hết được về những tác động của các loại vật liệu xây dựng đến sức khoẻ của con
người, đặc biệt là những loại vật liệu có nguồn gốc từ các hợp chất vô cơ. Đô thị càng phát triển
thì các nguy cơ ô nhiễm từ các yếu tố đó càng lớn.
Thành phố không những bị ô nhiễm mà khí hậu của nó cũng bị thay đổi. Những thành phần
cơ bản của khí hậu như bức xạ, chế độ nhiệt - ẩm, áp suất không khí, chế độ gió…luôn bị tác
động bởi quá trình đô thị hoá. Nhà càng cao thì mặt đất càng bị nhiễm khuẩn vì ánh sáng mặt trời
bị che khuất không đủ khả năng để tiêu diệt các loại vi trùng có hại. Do quá trình đô thị hoá và
phát triển dân số diễn ra quá nhanh và quá hỗn độn nên những quy tắc quy hoạch không được tôn
trọng - ví dụ như vi phạm về mật độ xây dựng, về hướng của các con đường và của các công
trình…sẽ làm tăng mất mát những tia nắng tự nhiên có lợi cho sức khoẻ con người và hơn thế
nữa cần phải tiêu tốn thêm một phần năng lượng đáng kể để duy trì chế độ vi khí hậu trong các
không gian sống của con người.
Tất cả những thực trạng chung vừa nêu trên là mối quan tâm cần được đặt lên hàng đầu, điều
đó khiến chúng ta phải suy ngẫm: “Liệu đô thị hóa có phải là cách tốt nhất để phát triển đất nước
hay không?”
7


4. Một số thực trạng nổi bật đáng quan tâm
a. Bệnh vô cảm

- Vô cảm là gì?
Lời dạy của cha ông ta "Thương người như thể thương thân" từ lâu đã trở thành đạo lý của
người Việt Nam. Tính nhân văn, lòng nhân ái phải là ngọn lửa sưởi ấm, là ánh sáng trong cuộc
đời mỗi con người, mỗi gia đình cũng như toàn xã hội. Thế nhưng ngày nay, bên cạnh nhiều nét
đẹp vẫn luôn hiện hữu trong cuộc sống của chúng ta với những con người luôn biết cống hiến,
đồng cảm, chia sẻ, cưu mang, giúp đỡ người khác, thì cũng có không ít kẻ sống ích kỷ, vô trách
nhiệm, vô cảm, vô đạo đức. Vô cảm chính là sự trơ lì cảm xúc, dửng dưng, thờ ơ, "máu lạnh" với
những hiện tượng đời sống xung quanh, chỉ quan tâm đến quyền lợi của bản thân. Ra đường gặp
cái đẹp không mảy may rung động; gặp cái tốt không ủng hộ; thấy cái xấu, cái ác không dám lên
án, không dám chống lại...
Người ta có thể thản nhiên đứng nhìn cảnh một kẻ mạnh ăn hiếp kẻ yếu; một vụ nữ sinh lột
áo, giật tóc, đánh hội đồng; một vụ làm nhục người khác… như xem một màn kịch, lấy điện
thoại ra quay rồi tung lên mạng. Người ta coi như không nhìn thấy kẻ gian móc túi trên xe buýt
mặc dù việc đó xảy ra sờ sờ trước mắt. Từ những chuyện tranh cãi hay xô xát lặt vặt nhưng
không ai lên tiếng can ngăn và thế là dẫn tới án mạng. Tại sao người ta không can thiệp? Bởi
người ta vô cảm trước nỗi đau của đồng loại. Bởi người ta sợ liên lụy, mang vạ vào thân.
- Các ví dụ của căn bệnh vô cảm
Trong cuộc sống ngày nay, ta có thể bắt gặp vô vàn những biểu hiện của căn bệnh “không
cảm xúc” này, xuất phát từ cả suy nghĩ và hành động. Nếu như trước kia, khi thấy tai nạn xảy ra
ở trên đường, những người xung quanh ngay lập tức sơ cứu và gọi xe cứu thương để đưa nạn
nhân đến bệnh viện kịp thời với mục đích nhân đạo, “cứu giúp một mạng người hơn xây bảy tòa
tháp” thì giờ đây, cũng là tai nạn giao thông đấy, chứng kiến tận mắt cảnh nạn nhân đau đớn vì
gãy tay, gãy chân, thậm chí bất tỉnh, thế nhưng người đi đường chẳng những không cấp cứu kịp
thời mà còn xúm đông xúm đỏ gây ùn tắc giao thông, bàn tán chỉ trỏ chán chê rồi may ra mới có
người gọi điện cho bệnh viện, đến khi xe cứu thương (phải rất khó khăn mới vượt qua được đám
đông gây ách tắc giao thông) đến nơi thì có không ít trường hợp nạn nhân đã tử vong. Thậm chí
có những kẻ xấu còn thản nhiên lợi dụng tình thế tai nạn, cướp giật trên đường phố để hôi của từ
8



nạn nhân. Cụ thể như vụ việc vào ngày 16/10/2011, tại giao lộ Bà Huyện Thanh Quan - Võ Văn
Tần (Q.3, TP.HCM), ông Trường đang đi xe máy thì bị 4 thanh niên áp sát, móc bọc tiền 50 triệu
đồng trong túi của ông.Trong lúc giằng co với bọn cướp, xấp tiền 50 triệu văng ra đường, lợi
dụng tình cảnh lúng túng của người đàn ông, nhiều người dân ào ra giữa đường lượm số tiền bị
rơi ra trước sự thẫn thờ và bất lực của nạn nhân. Đến khi kiểm lại, ông Trường chỉ còn 30,5 triệu
đồng. Hay đáng xấu hổ hơn là vụ việc vào trưa 2/7, xe tải BKS 54Z do tài xế Phạm Viết Sơn cầm
lái chở đầy bia chai nhãn hiệu Saigon đỏ lưu thông trên quốc lộ 1A. Khi đi đến cầu vượt Tân
Thới Nhất (P.Tân Thới Nhất, Q.12, TP.HCM) do tài xế điều khiển xe với tốc độ khá cao đã khiến

nhiều két bia đổ xuống đường. Trong lúc tài xế chưa kịp thu dọn lại hàng hóa thì hàng chục
người đi đường bất chấp những mảnh vỡ thủy tinh mang bao tải lao vào “hôi của” mang bia về
uống. Sau sự việc trên các phương tiện truyền thông lên tiếng phê phán về hành động xấu xí đó
của những người “hôi của”. Sau đó vài tháng, sự việc đáng xấu hổ lặp lại khi xe chở bia của anh
Hồ Minh Mẫu điều khiển xe tải BKS 79N gặp tai nạn tại vòng xoay Tam Hiệp (tỉnh Đồng Nai),
nhiều người đã không giúp đỡ mà còn mang xe tải tới “hôi bia” của anh mang về. Thực tế đó cho
thấy được sự vô cảm không thể tưởng tượng được của con người trong xã hội đặc biệt là xã hội ở
đô thị hiện nay.

Người dân hôi bia sau khi xe bia đổ
9


Một biểu hiện rất rõ của chứng thờ ơ, vô cảm nữa là chuyện đi xe buýt công cộng, thấy kẻ
gian móc túi hoặc bọn côn đồ hành hung người khác, người ta cũng chỉ lờ đi xem như đấy không
phải chuyện của mình. Tại trạm trung chuyển xe buýt Cầu Giấy - một địa bàn hoạt động khét
tiếng của giới “hành nghề hai ngón”, Nguyễn Văn Quân (sinh viên ĐH Giao thông Vận tải Hà
Nội) kể rằng: “Đã vài lần mình ngồi hàng ghế cuối cùng trên xe bus trông thấy bọn móc túi đang
giở trò “thó” điện thoại và ví của mấy bạn nữ sinh, nhưng không dám lên tiếng vì sợ chúng hành
hung, trả thù”. Những người thờ ơ, thấy cái xấu mà bỏ qua như Quân không phải là hiếm vì tâm
lý của đa số người là muốn yên thân, cho rằng tố giác cái xấu là “mua dây buộc mình”, “rước

họa vào thân” nên tốt nhất là coi như “không nghe, không thấy, không biết”.
Vô cảm có mặt khắp mọi nơi, ngay cả trong ngành y tế và giáo dục - hai ngành mà từ trước
tới nay đạo đức nghề nghiệp luôn phải đặt lên hàng đầu. Dư luận gần đây nóng lên về sự vô cảm,
tắc trách của nhân viên y tế dẫn đến những cái chết oan uổng của người dân. Muốn chữa bệnh thì
phải trả tiền trước, có chút lót tay thì tiêm đỡ đau hơn, thay băng nhẹ nhàng hơn...Khi có vụ việc
tắc trách dẫn đến tử vong thì lại vin vào cái cớ công việc áp lực mà không một ai đứng ra nhận
trách nhiệm về mình. Hay những vụ bảo mẫu ngược đãi, hành hạ trẻ em tại một số cơ sở nuôi
dạy trẻ. Cụ thể như vụ việc tại Nhà trẻ Phương Anh. Ngày 13/12/2013, một đoạn video về sự đày
đọa tàn ác của những cô giáo trong nhà trẻ tư Phương Anh (số 18 đường Hiệp Bình, phường
Hiệp Bình Phước, quận Thủ Đức, TP HCM) đã được báo Tuổi Trẻ đăng tải, nhanh chóng nhận
được nhiều sự chú ý. Ngày nào cũng như ngày nào, bà Lê Thị Đông Phương (quản lý của nhà
trẻ), bảo mẫu Nguyễn Lê Thiên Lý mỗi lần cho trẻ ăn đều giở các “ngón nghề” hành hạ dã man
như lấy khăn bịt mũi, bóp cổ, túm đầu các bé lắc như đối với súc vật, rồi dọa dẫm. Nhiều cháu
nhỏ bị sặc, nôn do nuốt cháo không kịp đã bị các cô thẳng tay đánh, tát hoặc bóp mạnh vào đỉnh
đầu, ghì toàn thân bé xuống sát đất, đánh vào sống lưng, đầu và dọa thả vào thùng nước...Sau
màn dọa nạt kinh hoàng, cô lại thản nhiên cho các bé ăn như trước. Một số người dân ở gần
trường cho biết các bé đã bị bà Phương và Lý hành hạ một thời gian dài nhưng phụ huynh không
hề hay biết. Tuy công an phường Hiệp Bình Phước đã có mời các cô giáo tại đây lên làm việc,
nhưng hiện tượng hành hạ học sinh dã man vẫn tiếp diễn. Hai cô giáo này đã bị khởi tố và chịu
hình phạt 3 năm tù giam.
Và bao nhiêu chuyện đau lòng khác trong ngành giáo dục, những tiêu cực trong ngành y tế,
những vụ oan sai nghiêm trọng trong ngành tư pháp cho thấy bệnh vô cảm đang diễn ra cả trong
10


những lĩnh vực cứu người, dạy người, bảo vệ công lý. Bệnh nhân vô tội, trẻ nhỏ cũng không tội
tình gì, vậy tại sao họ lại phải gánh chịu những bi kịch? Chính bàn tay vô hình của sự vô cảm đã
đẩy con người vào những bị kịch đó.

Biểu hiện của căn bệnh vô cảm


11


Biểu hiện của căn bệnh vô cảm
- Hậu quả
Căn bệnh vô cảm là căn bệnh của những người sẵn sàng quay lưng lại với những nỗi đau
khổ, bất hạnh của đồng loại, sẵn sàng làm ngơ trước cái xấu, cái ác, nên làm cho cái xấu, cái ác
có mảnh đất màu mỡ để sinh sôi nảy nở như “cỏ mọc hoang” và đang đầu độc, chế ngự cuộc
sống tốt đẹp của con người trong xã hội mới của chúng ta hôm nay, ngấm ngầm tàn phá các giá
trị đạo đức, nhân văn của cá nhân và xã hội. “Hành vi của con người trong xã hội bây giờ chỉ
nhằm vào lợi ích của chính mình, họ ít quan tâm đến người khác, đến cuộc đời người khác. Nó
làm nghèo đi, là một sự thô thiển, làm tầm thường hóa trong cách ứng xử giữa con người với con
người” - PGS.TS Tâm lý học Nguyễn Hồi Loan cho biết.
Căn bệnh vô cảm đã và đang làm mất đi nét đẹp truyền thống quý giá của dân tộc ta, đó là
tình thương giữa con người với con người “thương người như thể thương thân”. Mà tình thương
theo như nhà văn Nam Cao, nó là tiêu chuẩn quan trọng nhất để xác định tư cách con người.
“Không có tình thương, con người chỉ là một con vật bị sai khiến bởi lòng ích kỷ” (“Đời thừa” Nam Cao). Bệnh vô cảm đang làm “nhiễm mặn”, vẩn đục và xói mòn dần truyền thống đạo lý
12


đẹp nhất của con người Việt Nam: “Thương người như thể thương thân”, “Lá lành đùm lá rách”.
Và khi căn bệnh này ngự trị, thì con người sống với con người trong mối quan hệ hết sức lỏng
lẻo. Ở đó thiếu hơi ấm của tình thương, của niềm cảm thông, của sự cưu mang, đùm bọc, sẻ chia,
giúp đỡ lẫn nhau. Một xã hội vô cảm sẽ là một "xã hội chết" - cái chết trước hết từ trong tâm
hồn.
- Nguyên nhân
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng vô cảm và tha hoá đạo đức của giới trẻ, nhưng
tựu chung, cái gốc chính là cách sống của giới trẻ ngày nay, và cách giáo dục nhân bản từ trong
gia đình cho đến nhà trường và ngoài xã hội còn quá thờ ơ, hời hợt. Nguyên nhân xuất phát từ

bản thân thiếu thốn tình cảm, Hơn nữa, sự vô cảm bắt nguồn từ lối sống ích kỷ, thực dụng,
hưởng thụ là nguyên nhân khiến người ta cảm thấy cuộc sống nhàm chán, đơn điệu, vô nghĩa.
Hậu quả là, những xúc cảm đạo đức bị hạn chế, thậm chí bị triệt tiêu. Nguyên nhân tiếp theo là
do thiếu sự giáo dục từ gia đình và nhà trường. “Gia đình chính là tế bào của xã hội, gia đình mà
tốt đẹp thì xã hội mới tốt đẹp được”. Đây chính là bài học giáo dục công dân của học sinh cấp II.
Thế mà ngày nay, trong nhiều gia đình, cha mẹ rất ít dạy con có sự đồng cảm với người khác, với
những người xung quanh. Nhà trường là nơi đào tạo ra những con người có tài đức, biết quan
tâm đến mọi người và tích cực phục vụ cho xã hội. Thế mà ngày nay, trong một số trường học,
người ta chỉ chú tâm đến việc nhồi nhét tri thức, còn vấn đề đạo đức dường như đang bị bỏ ngỏ,
thậm chí có những trường chỉ dạy môn giáo dục công dân cho qua lần chiếu lệ. Sự phát triển của
xã hội về khoa học kỹ thuật cũng gián tiếp gây nên sự vô cảm của con người: thế giới ảo, game
bạo lực, internet...khiến khoảng cách giữa người với người càng xa cách hơn. Những nguyên
nhân trên dù trực tiếp hay gián tiếp đều tạo nên một thế giới vô cảm, một xã hội thiếu tình người.
d. Tình trạng ùn tắc giao thông
Từ khi nền kinh tế Việt Nam chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế
thị trường thì bức tranh về kinh tế của Việt Nam có nhiều điểm sáng, mức sống của người dân
được cải thiện từng bước, được bạn bè các nước trong khu vực và quốc tế hết lòng ca ngợi về
những thành tựu đổi mới trong quá trình xây dựng đất nước. Tuy mức tăng trưởng kinh tế của
Việt Nam đạt được là khá cao nhưng đi liền với nó là vấn đề về tai nạn giao thông và ùn tắc giao
thông, đặc biệt là giao thông đường bộ, số vụ giao thông không ngừng tăng cả về quy mô và số
lượng. Cho nên nhiều người thường nói rằng giao thông đường bộ ở Việt Nam giống như một
13


quả bong bóng dẹp được chỗ này thì chỗ khác lại ùn ra, có không biết bao nhiêu là chiến dịch,
chỉ thị nhưng chỉ được một thời gian ngắn lại đâu vào đấy.
- Ùn tắc giao thông ở Hà Nội
Hiện nay, Hà Nội có hơn 30 điểm thường xuyên ùn tắc giao thông, một trong các lý do là
đường hẹp, lô cốt, rào chắn các công trình xây dựng, cùng hàng chục “điểm đen” úng ngập khi
có mưa lớn khiến việc đi lại của người dân rất khó khăn, nhất là vào giờ cao điểm.

Theo Sở GTVT Hà Nội, trên địa bàn Hà Nội hiện có 21 công trường lắp rào chắn thi công đã
gây ùn tắc giao thông nặng nề trong thời gian qua. Có thể kể đến hàng loạt công trường đang gây
ùn tắc giao thông như: Đường sắt đô thị Cát Linh - Hà Đông (Ban Quản lý dự án Đường sắt, Bộ
GTVT làm chủ đầu tư); Đường sắt đô thị Nhổn - ga Hà Nội (Ban Quản lý dự án Đường sắt đô thị
Hà Nội làm chủ đầu tư); hầm chui Thanh Xuân, hầm chui Trung Hòa (Ban Quản lý dự án Thăng
Long, Bộ GTVT làm chủ đầu tư). Còn tuyến đường Xuân Thủy - Cầu Giấy cũng trong tình trạng
tương tự. Việc rào chắn đường xây dựng đường sắt Nhổn - ga Hà Nội và phân luồng giao thông
khiến các tuyến đường xung quanh cũng rơi vào ùn tắc, nhất là khu vực Bưởi, Hoàng Quốc Việt,
Lạc Long Quân.
- Ùn tắc giao thông ở TPHCM
Theo số liệu thống kê của Phòng Cảnh sát giao thông TP Hồ Chí Minh, từ đầu năm 2011 đến
nay đã xảy ra 23 vụ ùn tắc giao thông (UTGT) kéo dài từ 30 phút trở lên, trong đó có chín vụ kéo
dài đến hơn ba giờ. Số liệu này chỉ nói lên một phần nhỏ của tình trạng ùn tắc giao thông tại
thành phố. Thật ra, tình trạng này xảy ra thường xuyên ở mọi lúc, mọi nơi, đến nỗi đã lưu truyền
một câu cửa miệng “Cứ ra đường là bị kẹt xe”. Việc đi lại khó khăn thường diễn ra ở các quận:
Tân Bình, Tân Phú, Phú Nhuận, Bình Thạnh, Gò Vấp hoặc ở những trục đường chính như: Ðiện
Biên Phủ, Trần Hưng Ðạo, Lý Thường Kiệt, Võ Thị Sáu, Hai Bà Trưng, Cách Mạng Tháng Tám,
Trường Chinh, Nguyễn Kiệm, Lê Văn Sĩ, Tân Hóa, Lạc Long Quân... Những vụ ùn tắc giao
thông kéo dài thường tập trung ở những điểm ra vào sân bay, bến xe như: giao lộ Hoàng Văn Thụ
- Nguyễn Văn Trỗi - Phan Ðình Giót, trước cửa bến xe Miền Ðông trên đường Ðinh Bộ Lĩnh,
xung quanh công viên Ðầm Sen hoặc ở những vòng xoay, ngã tư, ngã năm như: Hàng Xanh, Cây
Gõ, Nguyễn Thái Sơn - Phan Văn Trị, Phan Văn Trị - Trần Quốc Tuấn - Lê Quang Ðịnh, Xô Viết
Nghệ Tĩnh - Ðinh Bộ Lĩnh - Nguyễn Xí, Bạch Ðằng - Ðinh Bộ Lĩnh, Tôn Ðức Thắng - Nguyễn
14


Hữu Cảnh...Ðặc biệt, ở những cửa ngõ ra vào thành phố vẫn là những điểm ùn tắc giao thông
nghiêm trọng nhất: Cầu Rạch Chiếc, cầu Sài Gòn, xa lộ Hà Nội, quốc lộ 13, ngã tư Bình Triệu,
ngã ba Cát Lái, quốc lộ 1A...
- Hậu quả

Ùn tắc giao thông gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Lượng khí thải thải ra trong suốt
quá trình ùn tắc lớn hơn nhiều lần so với lúc lưu thông thông thoáng. Hậu quả tiếp theo là làm
tăng chi phí nhiên liệu, giảm hiệu suất làm việc. Theo thống kê sơ bộ thì chi phí tăng thêm do
tiêu hao nhiên liệu và lãng phí công lao động do ùn tắc ở nội thành Hà Nội là khoảng 36,4 tỷ
đồng/ngày (12812 tỷ đồng/năm tương đương 600USD/năm). Ùn tắc giao thông còn gây nên áp
lực tâm lý và ảnh hưởng lớn đến sức khỏe cộng đồng. Người dân luôn có tâm lý hoang mang lo
sợ khi bị kẹt xe. Theo nghiên cứu môi trường của Đức thì những người thường xuyên bị tắc
nghẽn giao thông có nguy cơ bị nhồi máu cơ tim gấp ba lần so với người bình thường. Và còn
nhiều hơn nữa những hậu quả khác mà ùn tắc giao thông mang đến về vật chất lẫn tình thần cho
người dân.
- Nguyên nhân
Nguyên nhân chủ yếu dẫn tới tình trạng này thì có nhiều: Do sự lấn chiếm hành lang an toàn
giao thông, sự gia tăng quá nhanh của các phương tiện giao thông cá nhân, ý thức của người
tham gia giao thông quá kém và chưa được cải thiện nhiều trong những năm gần đây. Bên cạnh
đó cũng phải kể đến đường xá của chúng ta quá nhỏ hẹp, nhiều khúc cua 90 0 trong khi đó có quá
nhiều các biển báo cấm và biển báo hiệu trên một đoạn đường, vỉa hè thì bị lấn chiếm làm nơi
kinh doanh bán hàng, để xe ô tô dẫn tới tình trạng người tham gia giao thông bị khuất tầm nhìn,
nhiều đoạn đường xuống cấp quá nhanh có nguy cơ tiềm ẩn tai nạn giao thông. Có thể nói rằng
cứ ở đâu có đường là ở đó có nhà dân thậm chí các doanh nghiệp, các nhà máy các khu công
nghiệp cũng coi bám mặt đường là một lợi thế. Việc xây dựng các công trình nhà ở, đường xá…
tình trạng ngập úng do mưa kéo dài, hệ thống thoát nước quá tải, số lượng đông vào giờ cao
điểm…cũng là những nguyên nhân gây ùn tắc giao thông đáng được quan tâm và khắc phục.

15


Ùn tắc giao thông

Ùn tắc giao thông
16



III.

KHÍA CẠNH XÃ HỘI HỌC CỦA VẤN ĐỀ NHÀ Ở, QUY HOẠCH VÀ
QUẢN LÝ ĐÔ THỊ HIỆN NAY
Vấn đề nhà ở và đi sau nó là vấn đề quy hoạch, quản lý đô thị luôn luôn là một chủ đề nghiên

cứu đầy tính thời sự trong xã hội học đô thị. Có rất nhiều khía cạnh để xã hội học đô thị có hể
xâm nhập, nghiên cứu, tìm hiểu và góp phần lý giải. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay vấn đề
về sự biến đổi cơ cấu xã hội, phân tầng xã hội, phân hóa giàu nghèo ở đô thị đang là một vấn đề
cơ bản đặc trưng trong buổi đầu chuyển sang cơ chế thị trường. Nó đóng vai trò chi phối rất
nhiều lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực nhà ở, quy hoạch và quản lý đô thị hiện nay thể hiện như
sau.
Việc khẳng định sự phân tầng xã hội, phân hóa giàu – nghèo càng nổi rõ trong đời sống xã
hội đã cung cấp một bức tranh về bối cảnh xã hội của các đô thị với những đặc điểm khác hẳn
thời bao cấp. Đó là đặc điểm của một đô thị đang ra khỏi cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao
cấp đến với cơ chế thị trường. Trong bối cảnh đó, các nhà quy hoạch và xây dựng đô thị gần đây
không ngồi chờ các nhiệm vụ kế hoạch Nhà nước giao để thiết kế các đồ án xây dựng các khu
nhà tập thể, cửa hàng bách hóa tổng hợp, cơ quan, trường học,…Đã có một bộ phận quan trọng
các khách hàng thuộc các khu vực khác, các tổ chức tư nhân, cá nhân có nhu cầu đến với nhà
quy hoạch và xây dựng đô thị.
Nhân tố xã hội đáng quan tâm nhất lúc này là: Trong các đô thị đã hình thành nên một lớp
người giàu có. Họ có khả năng xây, tậu những công trình lớn, có khả năng hoạt động và chi phối
thị trường nhà đất, bất chấp người nghèo. Họ cũng chi phối cả lực lượng thiết kế, xây dựng theo
ý muốn của họ và vì thế rất dễ vi phạm các nguyên tắc, tiêu chuẩn của công tác quy hoạch đô thị.
Mặt khác, vẫn còn tồn tại một nhóm người nghèo không thể đủ điều kiện để cải thiện cư trú vốn
rất tồi tàn của họ, đối với nhiều gia đình nghèo, nhà ở là thứ xa xỉ, chỉ có trong giấc mơ của họ.
Vì thế, họ sẽ phải đương đầu với nhiều khó khăn hơn do giá đất, giá nhà ngày một tăng vọt và
nhu cầu của cuộc sống cũng ngày một nâng cao. Kết quả là không tránh khỏi tồn tại các khu nhà

ổ chuột bên cạnh các biệt thự, khách sạn sang trọng mà không thể nào dễ dàng giải tỏa, quy
hoạch lại được.

17


Các khu nhà ổ chuột cạnh các tòa nhà cao tầng

IV.

GIẢI PHÁP CHO NHỮNG THỰC TRẠNG XÃ HỘI HIỆN NAY

1. Giải pháp chung
a. Về mặt quản lý
Hạn chế nhập cư vào đô thị. Hoàn thiện bộ máy quản lý và nâng cao hiệu quả quản lý. Cần
xác định rõ chức năng, nhiệm vụ bộ máy quản lý trong nền kinh tế thị trường, từ đó tổ chức bộ
máy, đổi mới cơ cấu bộ máy chính quyền đô thị là một biện pháp quan trọng để quản lý đô thị,
trong đó có việc kiểm soát tệ nạn xã hội. Để thực hiện được các chức năng, nhiệm vụ chính trị
cũng như các kế hoạch kinh tế xã hội, bộ máy quản lý đô thị cần có đủ quyền và lực (Nghĩa là
Nhà nước giao quyền, phân bố hợp lý các nguồn tài chính, còn chính quyền đô thị phải đủ mạnh
để nắm quyền và sử dụng hiệu quả các nguồn tài chính để thực hiện các chức năng của mình và
thực hiện chiến lược phát triển của đô thị). Trong đó, xác định đúng nội dung công tác quản lý,
phân công đúng người đúng việc, nâng cao trình độ chuyên môn của cán bộ là những nội dung
18


cụ thể và quan trọng. Phải khắc phục tính ỳ của tập quán làm việc, quản lý không nghiêm minh
cũng là trở ngại cho việc quản lý có hiệu quả sự phát triển kinh tế - xã hội và ảnh hưởng đến
những lĩnh vực có liên quan trong lối sống. Tăng cường công tác quản lý kinh tế: phát triển kinh
tế luôn là nền tảng của mọi hoạt động xã hội. Để phát triển đô thị không thể xem nhẹ vấn đề phát

triển kinh tế. Nhưng không thể phát triển kinh tế bằng mọi giá. Công tác quy hoạch tổng thể kinh
tế xã hội và quy hoạch các ngành là vấn để cần thiết và cấp bách đối với các đô thị. Mỗi đô thị
cần xác định cho mình phương hướng, tốc độ và các ngành kinh tế chủ lực nhằm khai thác có
hiệu quả cao đối với thế mạnh và các nguồn lực của đô thị. Tăng cường công tác quản lý kinh tế
cần bắt đầu từ việc rà soát, điều chỉnh và thực hiện tốt việc lập và thực thi quy hoạch. Thiết lập
một hành lang pháp lý về quản lý kinh tế của đô thị mình phù hợp với cơ chế thị trường hiện nay
của Việt Nam. Điều tiết hoạt động của các ngành, các doanh ngiệp thông qua hành lang pháp lý
và các chính sách đất đai, chính sách đầu tư, ưu đãi về thuế….
e. Về mặt con người
Các cấp chính quyền cần có sự quan tâm nghiêm túc đến nguồn lực con người, cụ thể quan
tâm đến việc đào tạo nghề, tạo việc làm cũng như các chính sách hỗ trợ vay vốn cho người lao
động, nâng cao chất lượng cuộc sống người dân bằng các ưu đãi về giáo dục, bảo hiểm y tế,…
góp phần thu hẹp khoảng cách giàu nghèo. Đặc biệt cần nhấn mạnh đến các giá trị văn hóa vốn
được nhà xã hội học nổi tiếng người Đức Max Weber rất đề cao như là một nhân tố quyết định sự
phát triển xã hội. Cần phải định hướng giá trị nghề nghiệp - xã hội trong thanh niên, học sinh,
sinh viên. Đề cao và duy trì các giá trị văn hóa truyền thống. Trong hệ thống giáo dục phải dạy
cho học sinh các văn hóa, phong tục cũng như các giá trị đạo đức. Nhà nước cần quan tâm nhiều
hơn đến vấn đề văn hóa đô thị, tổ chức các chương trình, ngày hội văn hóa để cho thế hệ trẻ
trong xã hội biết nhiều hơn về văn hóa Việt Nam…
f. Về mặt môi trường
Giải quyết vấn đề giao thông đô thị: Nâng cấp và hiện đại hóa hệ thống đường nội thành và
hệ thống bãi đỗ xe trong thành phố và tại các công sở, siêu thị, trung tâm thương mại…Nâng cao
hệ thống giao thông công cộng như xe bus, xây dựng các trạm dừng hợp lý…Kết hợp phát triển
giao thông với phát triển các ngành điện lực, bưu chính viễn thông...để tính đến khả năng đào
đường lắp đặt các thiết bị. Tổ chức tốt công tác phân luồng, phân tuyến, nhanh chóng tiếp cận tin
học hiện đại trong quản lý giao thông…Kiên quyết xóa bỏ các hình thức buôn bán vỉa hè, các
19


loại xe thồ cồng kềnh gây ách tắc giao thông. Kiểm soát chặt chẽ các loại giấy phép lái xe, xóa

bỏ nạn giấy phép giả. Tăng cường công tác phổ biến luật giao thông đường bộ cho người dân,
sửa đổi, bổ sung quy định về xử phạt các hành vi vi phạm luật giao thông, xử phạt nghiêm minh,
đúng người - đúng tội. Bảo vệ tốt môi trường, tránh ô nhiễm. Di chuyển các cơ quan ra ngoại ô
thành phố, đặc biệt là các doanh nghiệp gây ô nhiễm môi trường. Đề ra các kế hoạch bảo tồn các
di tích lịch sử văn hóa đô thị cũng như việc tạo các mảng xanh đô thị. Các cơ quan quản lý môi
trường các cấp cần nghiên cứu cách giải quyết chống nạn ngập nước, tổ chức thu gom vận
chuyển rác, đặc biệt là tuyên truyền cho người dân cách phân loại rác thải. Lắp đặt nâng cao các
máy móc, thiết bị để cơ quan quản lý có thể kiểm soát, kịp thời phát hiện và xử lý theo pháp luật
các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp có hành vi gây ô nhiễm môi trường.

5. Giải pháp cụ thể cho một số thực trạng điển hình
a. “Thuốc” chữa bệnh vô cảm
Trước thực trạng sống vô cảm ngày càng phổ biến trong xã hội, nhất là những vùng đô thị
hóa, một câu hỏi được đặt ra: Bây giờ đời sống của người Việt Nam mình khấm khá hơn trước
rất nhiều nhưng tại sao bệnh vô cảm lại nặng hơn? Như thế càng thấy rõ, không phải cứ nghèo là
vô cảm, không phải cứ túng là làm liều. Để tiêu diệt tận gốc căn bệnh vô cảm thì có lẽ trước tiên
từng cá nhân, cộng đồng đều phải nhận thức rõ đó là "chuyện không chỉ của riêng ai" để chung
tay hành động. Sự thức tỉnh phải diễn ra trong tất cả chúng ta để thấy tạo ra sự thay đổi không
phải là trách nhiệm của ai đó mà trước tiên là của chính mình.
Thuốc chữa bệnh vô cảm nằm ở sự truyền phổ sâu sắc những giá trị truyền thống của dân tộc,
thẩm thấu vào trong đời sống xã hội. Xã hội càng hiện đại thì những giá trị đó lại càng cần nhân
rộng, không được để cho những làn sóng lai tạp, xô bồ che lấp, lấn át những giá trị truyền thống.
Khi bệnh vô cảm trong xã hội càng lây lan thì sự gắn kết, tình người càng bị mai một. Xã hội cần
có ngọn lửa nhân ái lan tỏa, “thương người như thể thương thân”, những người khó khăn, hoạn
nạn càng cần ngọn lửa nhân ái sưởi ấm họ. Đó chính là tiêu chí của một xã hội văn minh, một xã
hội có đạo đức.
Cuộc chiến chống bệnh vô cảm cần được triển khai trong từng gia đình, trước hết là giáo dục
con cháu bằng các hành vi ứng xử mẫu mực của ông bà, cha mẹ, người lớn tuổi. Tiếp đó là sự

20



uốn nắn ngay từ bé, việc dạy dỗ cho con cái các đức tính: lòng nhân ái, vị tha, bao dung, chia
sẻ...là điều hết sức cần thiết.
Bên cạnh xây dựng nền tảng đạo đức xã hội cốt yếu thì cũng cần có những quy định pháp lý
để chống bệnh vô cảm. Nếu thấy bệnh nhân nguy kịch mà nhân viên y tế từ chối việc cứu chữa
thì dù với bất cứ lý do gì cũng phải bị xử lý nghiêm minh, nếu gặp người bị nạn trên đường mà
không cứu giúp thì sẽ bị truy cứu với những chế tài riêng. Trách nhiệm công vụ thể hiện đạo đức
công vụ, đạo đức xã hội. Đối với hệ thống công quyền, để trị bệnh vô cảm, cần cải cách hành
chính một cách mạnh mẽ hơn, đưa ra những quy định khoa học, cụ thể, rõ ràng về trách nhiệm
của từng người trong guồng máy công vụ để nếu một người không làm đúng chức trách của mình
thì lập tức bị bật ra khỏi hệ thống. Nếu một nền hành chính được thực thi một cách khoa học thì
dần dần sẽ tạo ra một thói quen, buộc những ai ở trong guồng máy cũng phải làm hết chức phận
của mình. Bên cạnh việc xây dựng một nền hành chính khoa học để quản trị tốt thì cần tăng
cường giáo dục để cho những "công bộc" - những người ăn lương của Nhà nước bằng tiền đóng
thuế của dân phải cảm thấy mình có trách nhiệm đạo đức trong việc phục vụ dân; trước những
đòi hỏi, những bức bách, thậm chí những bất hạnh của người dân thì không thể quay mặt làm
ngơ. Và cần tăng cường thanh tra công vụ thường xuyên, bất chợt, đột xuất dưới nhiều hình thức
khác nhau để bắt bệnh thật chính xác, kịp thời, từ đó sẽ thưởng phạt nghiêm minh.
g. Giải pháp cho tình trạng ùn tắc giao thông
Với thực tế như hiện nay, sẽ không thể giải quyết vấn đề giao thông đô thị trong một sớm
một chiều được, và chúng ta càng không thể giải quyết được vấn đền này theo cách "truyền
thống" như chúng ta vẫn áp dụng từ trước đến nay. Bên cạnh những giải pháp tình thế như: tăng
cường lực lượng điều tiết giao thông trong giờ cao điểm, phân luồng giao thông, cấm một số loại
xe di chuyển trong giờ cao điểm, mở rộng các chương trình cảnh báo về giao thông để các
phương tiện hạn chế đi vào nơi đang ùn tắc…thì chúng ta cũng cần có giải pháp đồng bộ nhằm
góp phần khắc phục tình trạng ùn tắc giao thông hiện nay. Chúng ta cần tập trung giải quyết các
vần đề cơ bản sau: Một là, tập trung nâng cao năng lực chuyên môn và năng lực quản lý của
những nhà hoạch định chính sách giao thông đô thị. Hai là, cần có sự phối hợp và điều phối nhịp
nhàng giữa các ban ngành liên quan. Ba là, tăng số lượng và chất lượng của hệ thống giao thông

công cộng song song với việc lập lại trật tự đô thị bằng cách xây dựng và tạo những hành lang đi
bộ an toàn cho khách bộ hành và xe đạp. Bốn là, tiến hành điều chỉnh và thiết lập các lối đi cho
21


người đi bộ băng qua đường. Năm là, phát triển chương trình Truyền thông thông qua các
phương tiện truyền thông đại chúng nhằm nâng cao nhận thức cho người dân và thông tin
chương trình cần phải đa dạng và đến được tai người dân.
Như chúng ta biết rằng vấn đề ách tắc giao thông ở các đô thị lớn không chỉ xảy ra ở Việt
Nam mà nó xảy ra ở hầu hết các nước kém và đang phát triển. Vì sao? Một trong những nguyên
nhân chính được xác định là ở các nước kém và đang phát triển người ta thường tập trung phát
triển bằng mọi giá mà năng lực của những nhà hoạch định chính sách và quản lý không theo kịp
sự phát triển kinh tế và xã hội của đất nước đó. Vì thế cho nên, một khi nền kinh tế phát triển nó
sẽ nảy sinh ra nhiều nhu cầu và kéo theo sự phát triển của hàng loạt các loại hình dịch vụ khác,
lúc bấy giờ sẽ có những tác động tiêu cực từ các loại hình dịch vụ này phát sinh và các nhà quản
lý lúc đó không thể quản lý được những tác động này theo cách bền vững được vì thiếu năng lực.
Bên cạnh đó, chúng ta thiếu hẳn sự phối hợp và điều phối đúng mực giữa các cơ quan hữu quan
với nhau trong một đô thị. Điều này dẫn đến việc mà chúng ta vẫn thường thấy đó là cơ quan này
làm đường, cơ quan kia lại đào lên, cơ quan này nói có trong khi cơn quan kia lại nói không v.v.
Trên thực tế, điều này cũng đã góp phần đáng kể vào việc tạo ra những ùn tắc giao thông ở các
đô thị ở Việt Nam hiện nay. Hơn nữa, số lượng và chất lượng của các dịch vụ giao thông công
cộng quá yếu và không hiệu quả. Song song đó, ý thức của người dân vẫn còn quá yếu. Vì lý do
này mà chúng ta cần xây dựng một chương trình truyền thông phù hợp nhằm giáo dục và tăng
cường nhận thức cho người dân. Cần lưu ý rằng, việc truyền thông cho người dân cần phải đa
dạng và phù hợp về mặt nội dung, hình thức và thời gian. Chúng ta cần hiểu rằng việc nâng cao
nhận thức cho người dân là một quá trình liên tục chứ không phải là một hoạt động phong trào
đơn thuần chỉ tiến hành một lần.
Đi đôi với việc nâng cao ý thức là các biện pháp cứng rắn hơn trong các quy định của pháp
luật, phải có những quy định xử phạt đúng đắn và hợp lý nhất để tăng tính răn đe đối với những
đối tượng ngoan cố không chịu chấp hành đúng luật. Nếu tiếp tục theo cách này, mà chúng ta vẫn

phải liên tục đối đầu với nạn ùn tắc giao thông ngày càng gia tăng trong tương lai. Khi đó đòi
hỏi các nhà hoạch định chính sách giao thông và các nhà quản lý cần được có cơ hội để nâng cao
năng lực chuyên môn và trách nhiệm của mình để từ đó có một tầm nhìn chiến lược hơn nhằm
đưa ra các giải pháp bền vững hơn trong việc quản lý và giải quyết vấn đề giao thông đô thị như
hiện nay, góp phần tạo nên một đô thị văn minh và hiện đại hơn.
22


6. Giải pháp cho vấn đề nhà ở, quy hoach và quản lý đô thị
Xã hội học đô thị đã cho thấy được sự phân tầng trong xã hội hiên nay. Đó là sự phân chia
giàu-nghèo. Như chúng ta đã phân tích ở phần thực trạng, người giàu luôn có ưu thế trong vấn đề
nhà ở, quy hoạch và quản lý đô thị, người nghèo luôn ở thế bị động trong vấn đề đất đai. Điều đó
đã làm nên sự mất cân bằng trong quy hoạch, một thực tế không đáng có trong vấn đề quy hoạch
đô thị. Giải pháp nào cho vấn đề trên?
Nguồn gốc sâu xa của vấn đề này là sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội, nhưng để giải
quyết sự phân hóa này lại hết sức nan giải, ngay cả ở những nước phát triển cũng không thể xóa
bỏ đi ranh giới này. Chính vì thế giải pháp cho vấn đề nhà ở, quy hoạch ở đây cần tìm một hướng
giải quyết khôn ngoan hơn. Có thể kể đến một số giải pháp sau đây. Nâng cao trình độ quy hoạch
quản lý đất đai của các cán bộ nhà nước. Công tác quản lý đất đai và nhà ở đô thị cần nhanh
chóng đi vào thế ổn định. Hoàn thiện chính sách đền bù giải phóng mặt bằng là cơ sở để giảm chi
phí cho các dự án nâng cấp, hiện đại hóa cơ sở hạ tầng. Tiến độ giải phóng mặt bằng có ảnh
hưởng trực tiếp đến tiến độ của dự án, nếu giải phóng mặt bằng chậm có thể gây thiệt hại lớn về
tài chính của dự án. Quy hoạch và đô thị hóa phải có tầm nhìn dài hạn và lộ trình thực hiện, phải
có sự tham gia của người dân và các tổ chức xã hội, phải tính đến lợi ích của các bên liên quan.
Trong quy hoạch, nhất thiết phải giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa đặc sắc của mỗi
vùng miền, mỗi địa phương, đặc biệt là chú ý đến các di tích lịch sử, các giá trị văn hóa phi vật
thể, cũng là khoảng đệm tạo sự thông thoáng cho đô thị. Quy hoạch cũng nhằm định hướng và
kích thích đầu tư vào lĩnh vực cơ sở hạ tầng và dịch vụ công cộng. Các chỉ tiêu quy hoạch cần
phản ánh thực tế đời sống và phù hợp hơn với từng quy mô quy hoạch. Tiếp tục rà soát, bổ sung,
hoàn chỉnh quy trình và thủ tục hành chính về quản lý, quy hoạch kiến trúc theo hướng giảm thời

gian thực hiện, góp phần cải thiện chỉ số xếp hạng năng lực cạnh tranh cấp tỉnh.
Đổi mới tư duy, nâng cao chất lượng lập và quản lý quy hoạch xây dựng. Phê duyệt quy
hoạch đến triển khai thực thi. Thực hiện tốt công tác phối hợp giữa các cấp, ngành, địa phương
trong triển khai lập, thẩm định quy hoạch; thường xuyên rà soát, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện
quy hoạch; kịp thời phát hiện các vướng mắc để tổng hợp nghiên cứu điều chỉnh cho phù hợp.
Trong quá trình lập và thực hiện quy hoạch cần coi trọng sự tham gia của cộng đồng dân cư, sự
phản biện của các tổ chức xã hội, nghề nghiệp, đảm bảo tính khả thi của quy hoạch, phù hợp
định hướng phát triển kinh tế xã hội và nhu cầu khách quan của xã hội, của thị trường.
23


Vấn đề nhà ở cho công nhân tại các khu công nghiệp, khu chế xuất phải được coi là một yếu
tố quan trọng gắn liền với sự hình thành và phát triển của các khu công nghiệp, khu chế xuất.
Đơn giản hóa thủ tục hành chính trong thẩm định, phê duyệt dự án đầu tư xây dựng nhà ở công
nhân bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước. Có chính sách hỗ trợ về lãi suất tín dụng, miễn giảm
tiền thuê đất đối với dự án xây dựng nhà ở cho người lao động và người có thu nhập thấp.
Hơn cả, đó chính là sự công minh trong công tác quản lý, mọi thủ tục pháp lý đều phải đúng
theo nguyên tắc minh bạch rõ ràng. Chỉ khi nào những giá trị đạo đức và pháp lý chiến thắng
được uy lực của đồng tiền thì khi đó sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội và trong vấn đề đất đai
mới được giải quyết triệt để. Đó cũng chính là những gì mà chúng ta hằng mong đợi - một xã hội
công bằng.

V.

KẾT LUẬN

Tóm lại, những vấn đề trong xã hội học đô thị nói riêng và xã hội học nói chung là vô hạn.
Mỗi vấn đề là một khía cạnh cuộc sống, việc nghiên cứu về những vấn đề đó là cả một quá trình
dài. Xã hội học đô thị luôn gắn liền với sự hình thành và phát triển của quá trình đô thị hóa. Một
trong số những nhiệm vụ thực tiễn quan trọng của xã hội học đô thị là tiến hành các nghiên cứu

khảo sát để phản ánh một cách cụ thể và xác thực bối cảnh xã hội hiện thời của các đô thị.Với
một số thực trạng và giải pháp vừa được phân tích ở trên đã phần nào thể hiện được xã hội đô thị
hiện nay. Một thực tế đáng buồn là bên cạnh một số ít mặt tích cực mà đô thị hóa mang lại thì
những vấn đề tiêu cực còn tồn tại khá nhiều gây nên những ảnh hưởng to lớn cho xã hội. Đó
không chỉ dừng lại ở tình trạng ùn tắc giao thông xảy ra hàng ngày hàng giờ, ở sự vô cảm của
con người mà còn là hàng loạt sự pha tạp khác, là phân hóa giàu nghèo, là phân biệt đối xử, là
tham ô, là cướp bóc…Liệu một ngày nào đó quá trình đô thị hóa có bị đánh đồng với quá trình
tha hóa về đạo đức và lối sống của con người hay không? Thật đáng suy ngẫm.
Tuy nhiên, chúng ta cũng không thể phủ nhận những điều tích cực mà đô thị hóa mang lại. Vấn
đề quan trọng là cần thực hiện đô thị hóa sao cho thật đúng cách phù hợp với sự phát triển của
đất nước. Trong cuốn Bản năng sinh tồn có một câu rất hay: “Mỗi sáng thức dậy, con linh dương
châu Phi biết rằng: Nó sẽ bị giết nếu không chạy nhanh hơn con sư tử nhanh nhất! Mỗi sáng thức
dậy, con sư tử biết rằng: Nó sẽ chết đói nếu không chạy nhanh hơn con linh dương chậm nhất!
Dù bạn là sư tử hay linh dương, bạn đều phải chạy khi mặt trời ló dạng.” Chúng ta cũng vậy, sinh
24


tồn là điều tất yếu, nhưng điều mà chúng ta quan tâm và hướng tới không dừng lại đó. Chúng ta
cần phải phát triển, phát triển như thế nào? Xã hội học sẽ đưa ra câu trả lời thỏa đáng nhất cho
bạn.

MỤC LỤC
I.

SƠ LƯỢC VỀ XÃ HỘI HỌC ĐÔ THỊ................................................................................2
1.

Sự hình thành và phát triển của xã hội học đô thị.................................................................2
a.


Giới thiệu chung................................................................................................................2

b.

Đô thị hóa trên thế giới.....................................................................................................2

c.

Đô thị hóa ở nước ta..........................................................................................................3

2.

Cơ cấu xã hội và sự phân tầng..............................................................................................4

3.

Ý nghĩa của việc nghiên cứu xã hội học đô thị.....................................................................4

II. THỰC TRẠNG NHỮNG VẤN ĐỀ CỦA XÃ HỘI HỌC ĐÔ THỊ Ở NƯỚC TA.............5
1.

Thực trạng chung..................................................................................................................5

2.

Một số thực trạng nổi bật đáng quan tâm.............................................................................7
a.

Bệnh vô cảm......................................................................................................................7


b.

Tình trạng ùn tắc giao thông...........................................................................................11

III. KHÍA CẠNH XÃ HỘI HỌC CỦA VẤN ĐỀ NHÀ Ở, QUY HOẠCH VÀ QUẢN LÝ
ĐÔ THỊ HIỆN NAY.....................................................................................................................13
IV.

GIẢI PHÁP CHO NHỮNG THỰC TRẠNG XÃ HỘI HIỆN NAY.............................14

1.

Giải pháp chung..................................................................................................................14
a.

Về mặt quản lý................................................................................................................14

b.

Về mặt con người............................................................................................................15

c.

Về mặt môi trường..........................................................................................................15

2.

3.

Giải pháp cụ thể cho một số thực trạng điển hình..............................................................16

a.

“Thuốc” chữa bệnh vô cảm.............................................................................................16

b.

Giải pháp cho tình trạng ùn tắc giao thông.....................................................................17
Giải pháp cho vấn đề nhà ở, quy hoach và quản lý đô thị..................................................18

V. KẾT LUẬN...........................................................................................................................20

25


×